Ảnh hưởng của việc sử dụng mạng xã hội Facebook đến học tập và đời sống của sinh viên hiện nay

Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, xuất hiện ngày càng nhiều các trang mạng xã hội đã tác động lớn đến mọi lĩnh vực hoạt động và sinh hoạt của con người, nhất là giới trẻ. Bên cạnh nhiều tiện ích, các trang mạng xã hội cũng đã gây ra những hệ lụy không tốt, khó lường. Khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của các trang mạng xã hội là trách nhiệm của cả cộng đồng, chủ yếu là trách nhiệm quản lý, giáo dục, định hướng của gia đình, nhà trường, cơ quan chức năng và quan trọng là trách nhiệm của chính bản thân người sử dụng.

Ảnh hưởng của việc sử dụng mạng xã hội Facebook đến học tập và đời sống của sinh viên hiện nay
 
Giới trẻ bị ảnh hưởng bởi Internet. Ảnh minh họa  

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của xã hội, công nghệ thông tin nói chung, các trang mạng xã hội nói riêng, nhất là Internet phát triển rất mạnh, nó đã và đang ảnh hưởng rất lớn (cả tích cực và tiêu cực) đến mọi hoạt động và sinh hoạt của con người, nhất là giới trẻ. Với đặc điểm nổi trội là tính kết nối nhanh, chia sẻ rộng, chỉ cần một chiếc điện thoại hay một máy tính kết nối Internet, chúng ta có thể truy cập và tham gia vào rất nhiều trang mạng như: Facebook, Zalo, Youtube, Twitter… trong đó, phổ biến nhất là Facebook. Mặc dù mục đích, cách thức, mức độ tham gia các trang mạng xã hội của mỗi người khác nhau nhưng có một điểm chung đó là xem nó như là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người.

Internet và các trang mạng xã hội đem lại rất nhiều tiện ích cho người sử dụng, vì tốc độ thông tin nhanh, nội dung phong phú, đa dạng… nếu biết khai thác, sử dụng hợp lý thì nó mang lại hiệu quả rất lớn cả trong học tập, công tác, sinh hoạt và đời sống xã hội cho thanh niên, ngược lại nó sẽ gây ra nhiều hệ lụy không tốt. Đặc điểm nổi trội của các trang mạng xã hội là thông tin nhanh, nhiều, nhưng bị trộn lẫn giữa những thông tin tốt với thông tin xấu, thiếu tính định hướng thông tin, tư tưởng, không ai phải chịu trách nhiệm, không ai kiểm chứng. 

Điều đáng quan tâm lo ngại nhất hiện nay là nhiều thông tin trên mạng xã hội hàm chứa nội dung xấu độc, dụ dỗ, lôi kéo người tham gia như: phim ảnh khiêu dâm, lối sống trụy lạc, kích động bạo lực, khiêu khích chiến tranh, chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo… Với đặc tính hấp dẫn, lôi cuốn của các trang mạng xã hội rất dễ làm cho người tham gia bị sa đà vào “biển thông tin” hỗn loạn đó lúc nào mà không hay biết, làm cho họ sao nhãng việc học hành, giảm năng suất lao động, tinh thần uể oải, sa sút, đắm chìm vào thế giới ảo trong đời sống thực. Đây chính là tác nhân làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tâm sinh lý và việc hình thành, phát triển nhân cách, lối sống tốt đẹp của con người, nhất là giới trẻ.

Để hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của các trang mạng xã hội đến việc giáo dục, nuôi dưỡng phát triển hoàn thiện nhân cách và lối sống tốt đẹp của con người, nhất là tuổi trẻ hiện nay, mỗi gia đình, nhà trường, cơ quan, đơn vị, địa phương cần làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng cho thanh niên nâng cao nhận thức về vai trò, tác dụng và những bất cập của việc tham gia và sử dụng các trang mạng xã hội.  

Cùng với sự tiến bộ của xã hội, Internet nói chung, các trang mạng xã hội nói riêng ngày càng phát triển, đây là xu thế tất yếu khách quan. Để giúp cho thanh niên tham gia và sử dụng các trang mạng xã hội một cách lành mạnh, tích cực, hữu ích thì điều quan trọng trước hết là các bậc cha mẹ, thầy cô giáo và lãnh đạo, thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải làm tốt công tác giáo dục, hướng dẫn cho họ hiểu rõ về các trang mạng xã hội, thấy được những tiện ích và hạn chế của nó để chủ động tham gia và sử dụng một cách tích cực, hiệu quả, phục vụ tốt nhất cho sinh hoạt, học tập, công tác chuyên môn.

Bên cạnh việc giáo dục cho thanh niên nâng cao hiểu biết về các trang mạng xã hội, thì phải hướng dẫn, tư vấn cho họ những kiến thức, kỹ năng sử dụng các trang mạng xã hội. Điều hết sức quan trọng là phải chỉ cho họ thấy được tính hai mặt của mạng xã hội, đặc biệt là những hậu quả, hệ lụy của việc sử dụng mạng xã hội một cách tùy tiện, thái quá. Chỉ dẫn cho họ biết cách ứng xử và khả năng miễn dịch khi tiếp xúc với những thông tin xấu độc, mời gọi, khiêu khích, lôi kéo, phản động,… đăng tải tràn lan trên các trang mạng xã hội. Đồng thời, giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm xã hội cho thanh niên, làm cho họ biết làm chủ và kiểm soát được các hành vi của bản thân. Các thông tin tung lên mạng phải đúng với quy định của pháp luật, của đơn vị, địa phương, phù hợp với thuần phong mỹ tục và chuẩn mực đạo đức xã hội; phải hết sức thận trọng khi đăng tải những thông tin, hình ảnh của cá nhân và các hoạt động của đơn vị, nhất là đơn vị quân đội, công an lên các trang mạng xã hội. 

Tuy nhiên, các bậc cha mẹ, thầy cô giáo giáo, lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị cần phải có sự hiểu biết cơ bản về các trang mạng xã hội, biết cách sử dụng các trang mạng xã hội với những tiện ích của nó cho công việc, cho giải trí lành mạnh, không nên phê phán bừa bãi hay chỉ lên án những tiêu cực của các trang mạng xã hội mà cấm đoán giới trẻ. 

Thường xuyên giáo dục, định hướng giá trị nhân cách và lối sống tốt đẹp của con người, nâng cao sức đề kháng trước tác động tiêu cực của các trang mạng xã hội. Làm cho giới trẻ thấm sâu những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; giáo dục, rèn luyện cho họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức phẩm chất tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh, luôn biết tự trọng, tự chủ trong suy nghĩ và hành động, từ đó xây dựng lối sống tốt đẹp, sống có tình thương và trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. 

Đặc biệt quan tâm, coi trọng việc bồi dưỡng nâng cao ý thức trách nhiệm xã hội, rèn luyện thói quen, kỹ năng sống cho thanh niên, nhất là kỹ năng điều tiết và kiểm soát bản thân. Làm tốt điều này sẽ giúp cho giới trẻ có đủ tự tin, bản lĩnh và phương pháp phòng tránh với những chiêu bài tiêu cực trên các trang mạng xã hội. Xây dựng cho họ có động cơ, thái độ và tinh thần trách nhiệm xã hội khi tham gia và sử dụng các trang mạng xã hội; xác định mục đích tham gia và sử dụng các trang mạng xã hội đúng đắn, hữu ích, không bị lệ thuộc, chìm đắm vào môi trường cuộc sống ảo trên các trang mạng xã hội, vì điều đó vừa làm mất thời gian vừa ảnh hưởng đến công việc học tập, công tác, đồng thời xâm hại đến giá trị thuần phong mỹ tục, chuẩn mực đạo đức truyền thống, lối sống văn hóa và vi phạm các chế độ quy định của cơ quan, đơn vị, địa phương.

Tổ chức tốt các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh, phù hợp với nhu cầu và đặc điểm tâm sinh lý của tuổi trẻ. Các hoạt động như: văn hóa, văn nghệ, thể thao,…vừa để nâng cao đời sống tinh thần, bồi đắp tâm hồn tươi trẻ của thanh niên vừa là môi trường thuận để họ kết bạn, giao lưu học tập kinh nghiệm lẫn nhau, đồng thời qua đó còn nhằm để giữ gìn, phát huy bản sắc, giá trị văn hóa truyền tốt đẹp của dân tộc, rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật và thể chất cho thanh niên. Thực tiễn cho thấy nếu gia đình, cơ quan, đơn vị, địa phương thiếu tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh thì đa phần thanh niên sẽ dành thời gian rảnh rỗi tham gia vào các trang mạng xã hội. Nhiều trường hợp đã gây nên những hậu quả đáng tiếc, dẫn đến vi phạm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, ảnh hưởng xấu đến bản thân, gia đình và xã hội. Do vậy, tổ chức tốt các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh là biện pháp hiệu quả, thiết thực nhất để vừa quản lý được thanh niên vừa bồi dưỡng, nâng cao hoàn thiện nhân cách và lối sống tốt đẹp cho giới trẻ, đồng thời hạn chế thấp nhất sự tác động tiêu cực, đa chiều của các trang mạng xã hội.

Phát huy tốt vai trò của hệ thống thiết chế văn hóa, các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là hệ thống truyền thanh nội bộ, kết hợp đẩy mạnh hoạt động của các loại hình văn hóa dân gian, sinh hoạt câu lạc bộ, văn nghệ quần chúng… thông qua đó tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương, đơn vị, trên cơ sở đó giáo dục, định hướng chính trị, tạo niềm tin và nhiệt huyết của tuổi trẻ, chống lại các loại sản phẩm văn hóa xấu độc, âm mưu “xâm lăng văn hóa”, tư tưởng “áp đặt lối sống, văn hóa phương Tây”, làm ảnh hưởng xấu đến đời sống tình cảm tốt đẹp, tâm hồn trong sáng vốn có của thanh niên hiện nay.

Nguyễn Văn Chuộng

Ảnh hưởng của việc sử dụng mạng xã hội Facebook đến học tập và đời sống của sinh viên hiện nay

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- ĐOÀN THÙY DƢƠNG SINH VIÊN VÀ MẠNG XÃ HỘI FACEBOOK: MỘT PHÂN TÍCH VỀ SỰ TIẾN TRIỂN VỐN XÃ HỘI (Khảo sát tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông) LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC Hà Nội - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- ĐOÀN THÙY DƢƠNG SINH VIÊN VÀ MẠNG XÃ HỘI FACEBOOK: MỘT PHÂN TÍCH VỀ SỰ TIẾN TRIỂN VỐN XÃ HỘI (Khảo sát tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông) LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC MÃ SỐ: 60 31 03 01 Người hướng dẫn khoa học: TS. Đào Thanh Trƣờng Hà Nội - 2014

LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian làm việc tích cực và nghiêm túc, luận văn Sinh viên và mạng xã hội Facebook: Một phân tích về sự tiến triển vốn xã hội (Khảo sát tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông) đã được hoàn thành. Trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Đào Thanh Trường, người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Xã hội học đã dạy dỗ và truyền đạt những tri thức quý báu trong suốt những năm qua, để tôi có thể hoàn thành tốt khóa học của mình. Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng vì thời gian có hạn, trình độ năng lực của bản thân còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được những góp ý của các thầy cô giáo khoa Xã hội học để tôi được rút kinh nghiệm trong những nghiên cứu sau đạt kết quả tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2014 Học viên Đoàn Thùy Dương

MỤC LỤC MỞ ĐẦU... 1 1. Lý do chọn đề tài... 1 2. Tổng quan nghiên cứu... 3 2.1. Các tài liệu về việc sử dụng Internet của sinh viên... 3 2.2. Các tài liệu về mạng xã hội... 5 2.3. Tình hình nghiên cứu về vốn xã hội... 6 2.4. Tình hình nghiên cứu mối quan hệ giữa internet và vốn xã hội... 10 3. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài... 13 3.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài... 13 3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài... 14 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu... 14 4.1. Mục đích nghiên cứu... 14 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu... 14 5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu... 14 5.1. Đối tượng nghiên cứu... 14 5.2. Khách thể nghiên cứu... 14 5.3. Phạm vi nghiên cứu... 15 6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu... 15 6.1. Câu hỏi nghiên cứu... 15 6.2. Giả thuyết nghiên cứu... 15 7. Phƣơng pháp nghiên cứu... 15 8. Khung lý thuyết... 19 9. Tính mới của đề tài... 20 PHẦN NỘI DUNG... 21 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN... 21 1.1. Các khái niệm... 21 1.1.1. Khái niệm mạng xã hội... 21 1.1.2. Khái niệm mạng xã hội Facebook... 26 1.1.3. Khái niệm Sinh viên... 32 1.1.4. Khái niệm Vốn xã hội... 32

1.1.5. Khái niệm Lối sống... 35 1.1.6. Khái niệm Quan hệ xã hội... 35 1.1.7. Khái niệm Tiến triển... 36 1.2. Lý thuyết áp dụng... 36 1.2.1. Lý thuyết vốn xã hội... 36 1.2.2. Lý thuyết mạng lưới xã hội... 39 1.2.3. Lý thuyết về tương tác xã hội... 43 1.3. Sơ lƣợc về địa bàn nghiên cứu... 48 1.3.1. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn... 48 1.3.2. Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông... 49 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI FACEBOOK CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY... 50 2.1. Tình hình sử dụng mạng xã hội Facebook của sinh viên hiện nay... 50 2.1.1. Thời gian, tần suất sử dụng Facebook của sinh viên... 51 2.1.2. Cách thức chia sẻ thông tin trên Facebook của sinh viên... 58 2.1.3. Số lượng bạn bè trên Facebook của sinh viên... 62 2.2. Mục đích, nguyên nhân sử dụng Facebook của sinh viên... 65 2.2.1. Mục đích sử dụng Facebook của sinh viên... 65 2.2.2. Nguyên nhân sử dụng Facebook của sinh viên... 69 CHƢƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA MẠNG XÃ HỘI FACEBOOK ĐẾN SỰ TIẾN TRIỂN VỐN XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN... 71 3.1. Tác động tích cực của Facebook đến quá trình tiến triển vốn xã hội của sinh viên... 71 3.1.1. Facebook là nhân tố tích cực góp phần thúc đẩy quá trình tương tác xã hội, hỗ trợ tương tác trong việc trao đổi thông tin, cung cấp thông tin đa chiều, phong phú cho sinh viên... 71 3.1.2. Facebook giúp sinh viên mở rộng các mối quan hệ xã hội cả trên mạng và thực tế... 75 3.1.3. Facebook góp phần củng cố và xây dựng nên một cộng đồng ảo với đông đảo những cư dân mạng thường xuyên tương tác với nhau... 82 3.1.4. Mạng lưới xã hội ảo và khả năng tạo ra vốn xã hội thực... 84

3.1.5. Đánh giá về tác động tích cực của Facebook đối với sinh viên... 91 3.2. Tác động tiêu cực của Facebook đối với quá trình tiến triển vốn xã hội của sinh viên... 92 3.2.1. Tương tác trong thế giới ảo ảnh hưởng đến tâm lý khẳng định mình, khả năng hoàn thiện bản thân trong thực tế của sinh viên... 92 3.2.2. Những thói quen tốt bị mất đi và thay vào đó bởi nhiều thói quen không tốt... 93 3.2.3. Lãng phí thời gian, gây nên những tương tác dạng cạnh tranh... 94 3.2.4. Thay đổi cách thức giao tiếp với những người xung quanh... 95 3.2.5. Đánh giá về tác động tiêu cực của Facebook đối với sinh viên... 98 KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ... 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO... 105

DANH MỤC BẢNG Bảng 1: Cơ cấu mẫu nghiên cứu... 17 Bảng 2.1: Tương quan giữa trường học với hành động đầu tiên khi vào Internet... 54 Bảng 2.3: Tương quan giữa trường học với tần suất truy cập Facbook trong 1 ngày... 56 Bảng 2.2: Những mục thông tin bản thân được sinh viên điền chính xác trên Facebook... 59 Bảng 2.3: Quan niệm của sinh viên về việc kết bạn trên Facebook... 62 Bảng 2.4: Tương quan giữa trường học với số lượng bạn bè trên Facebook... 64 Bảng 2.5: Tương quan giữa trường học với mục đích tìm kiếm thông tin phục vụ học tập... 67 Bảng 2.6: Tương quan giữa giới tính và việc sử dụng Facebook để kết bạn với người mới... 67 Bảng 2.7: Tương quan giữa yếu tố năm học và mục đích sử dụng Facebook... 68 Bảng 3.1: Tương quan giữa năm học với mức độ ảnh hưởng của các thông tin trên Facebook... 72 Bảng 3.2: Mức độ tin tưởng của sinh viên với các thông tin trên Facebook... 73 Bảng 3.3: Mức độ chia sẻ các thông tin khi nói chuyện với những người bạn không quen trên Facebook... 80 Bảng 3.4: Tương quan giữa giới tính với sự thay đổi các mối quan hệ xã hội thực của sinh viên sau khi dùng Facebook... 81 Bảng 3.5: Tương quan giữa trường học với sự thay đổi các mối quan hệ xã hội thực của sinh viên sau khi dùng Facebook... 82 Bảng 3.7: Tương quan giữa giới tính với việc tìm được nơi ở qua các mối quan hệ trên Facebook... 86 Bảng 3.8: Tương quan giữa trường học với vai trò của mối quan hệ xã hội trên Facebook đối với đời sống của sinh viên... 87 Bảng 3.9: Tương quan giữa học lực với vai trò của các mối quan hệ xã hội trên Facebook đối với đời sống của sinh viên... 88 Bảng 3.10: Tương quan giữa nơi ở với vai trò của các mối quan hệ xã hội trên Facebook đối với đời sống của sinh viên... 89 Bảng 3.11: Tương quan giữa giới tính với cách thức trao đổi của sinh viên sau khi dùng Facebook... 96 Bảng 3.12: Tương quan giữa trường học với cách thức trao đổi của sinh viên sau khi dùng Facebook... 97 Bảng 3.13: Mức độ gặp gỡ trực tiếp ngoài thực tế sau khi sử dụng Facebook... 97 Biểu 3.8: Đánh giá về mặt tiêu cực khi sử dụng Facebook... 98

DANH MỤC BIỂU Biểu 1: Thống kê lượng người dùng Facebook.... 28 Biểu 2.1: Số người sử dụng mạng xã hội Facebook... 50 Biểu 2.2: Thời gian sử dụng Facebook... 51 Biểu 2.3: Tương quan giữa trường học và thời gian sử dụng Facebook của sinh viên... 52 Biểu 2.4: Một số số liệu thao khảo về thói quen làm việc đa nhiệm đồng thời trên Internet của người dùng Internet việt Nam... 53 Biểu 2.5: Hành động đầu tiên khi vào Internet... 54 Biểu 2.6: Tần suất sinh viên truy cập vào Facebook trong một ngày... 55 Biểu 2.7: Tương quan giữa nơi ở hiện tại của sinh viên với tần suất truy cập vào Facebook trong một ngày... 56 Biểu 2.8: Tương quan giữa năm học của sinh viên với tần suất truy cập vào Facebook trong một ngày... 57 Biểu 2.9: Thời điểm vào Facebook của sinh viên... 57 Biểu 2.10: Tương quan giữa trường học với thời điểm vào Facebook... 58 Biểu 2.11 : Tương quan giữa giới tính với mục thông tin giới tính trên Facebook... 60 Biểu 2.12: Thành phần bạn bè trong danh sách của sinh viên... 63 Biểu 2.13: Số lượng bạn bè trên Facebook của sinh viên... 64 Biểu 2.14: Mục đích sử dụng Facebook của sinh viên... 65 Biểu 2.15: Nguyên nhân sử dụng Facebook của sinh viên... 69 Biểu 3.1: Mức độ ảnh hưởng của các thông tin trên Facebook đến sinh viên... 72 Biểu 3.2: Sự tham gia của sinh viên vào các hội, nhóm trên Facebook... 75 Biểu 3.3: Nguyên nhân sinh viên tham gia vào các hội, nhóm trên Facebook... 76 Biểu 3.4: Tương quan giữa giới tính với mức độ chủ động nói chuyện với những người không quen trên Facebook của sinh viên... 79 Biểu 3.5: Sự thay đổi các mối quan hệ xã hội thực của sinh viên sau khi dùng Facebook... 80 Biểu 3.6: Đánh giá về mặt tích cực khi sử dụng Facebook... 91 Biểu 3.7: Lựa chọn của sinh viên về cách thức trao đổi sau khi dùng Facebook... 95

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây, khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của con người. Trong đó, có thể kể đến sự ảnh hưởng của internet trong tất cả các mặt của đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị. Internet đã và đang kết nối mọi người trên thế giới với nhau, nó phá vỡ mọi khoảng cách về biên giới, không gian, thời gian, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc giao tiếp xã hội. Từ khi có internet thì cũng xuất hiện các loại hình tìm kiếm thông tin, giải trí, kết nối xã hội, trong đó không thể thiếu được các mạng xã hội đang được rất nhiều người sử dụng như: Google+, Facebook, Yahoo, Skye, Myspace Mạng xã hội ở đây được hiểu là một loại hình dịch vụ trên internet mới phát triển trong kỷ nguyên số, ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin. Mạng xã hội là dịch vụ kết nối các thành viên cùng sở thích trên internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian, đồng thời nó được tạo nên thông qua các tương tác giữa các thành viên trong cộng đồng mạng. Một trong những đối tượng sử dụng mạng xã hội nhiều nhất chính là sinh viên. Mạng xã hội trở thành một xu hướng không thể thiếu đối với thanh niên nói chung và đối với sinh viên nói riêng. Với đặc thù là những người trẻ tuổi, có tri thức, có tính năng động nên sinh viên là đối tượng rất dễ dàng tiếp cận những cái mới. Vì vậy, việc thường xuyên sử dụng internet và mạng xã hội, trở thành công dân mạng có thể làm thay đổi các hoạt động giao tiếp và một số quan niệm của họ về giá trị của các quan hệ xã hội mà họ tiếp xúc và đối xử với quan hệ đó. Facebook là một mạng xã hội lớn được rất nhiều người sử dụng trên thế giới. Mạng xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến những lối sống, quan hệ xã hội của con người. Những ảnh hưởng đó có tính chất pha trộn, mang tính hai mặt (cả mặt tích cực và tiêu cực). Đặc biệt, việc tìm kiếm và thiết lập mạng lưới bạn bè trên Facebook sẽ giúp cho người sử dụng tạo lập và duy trì một lượng vốn xã hội của mình. Vốn xã hội từ Facebook có thể là cơ sở tạo ra những loại hình vốn xã hội khác như vốn tài chính, vốn con người nhằm giúp cá nhân đạt được mục đích nhất định mà cá nhân đó mong muốn. Có thể nói, trong những năm gần đây mạng xã hội 1

Facebook đã trở thành một hiện tượng xã hội điển hình, thể hiện nhu cầu giao tiếp xã hội và giải trí. Nó tạo ra cho mỗi người một cộng đồng xã hội bao gồm những người quen biết và không quen biết, sự đa dạng về môi trường xã hội trên Facebook, sự tự do trong việc trao đổi thông tin, tâm tư tình cảm hoặc ngay cả các yếu tố công việc, kinh tế cũng được đưa vào Facebook để trao đổi. Nhìn chung, Facebook dần trở thành một công cụ xã hội không thể thiếu đối với nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, nhóm sinh viên. Song bất kỳ một vấn đề, hiện tượng xã hội nào xuất hiện đều mang trong nó hai mặt: tích cực và tiêu cực, vấn đề đặt ra là chủ thể sử dụng công cụ Facebook này như thế nào thì tác động ngược trở lại của nó đối với con người, xã hội sẽ như vậy. Bởi vậy, nghiên cứu mạng xã hội Facebook trở thành một trong những vấn đề được quan tâm hiện nay. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn là ngôi trường với những đặc thù riêng như: Sinh viên được đào tạo, nghiên cứu các ngành khoa học xã hội, văn hóa (lịch sử, văn học, báo chí, xã hội học, công tác xã hội, đông phương học ). Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông là trường chuyên đào tạo, nghiên cứu về công nghệ thông tin, công nghệ điện tử là hai khách thể nghiên cứu được lựa chọn để nghiên cứu trong đề tài. Mỗi một môi trường sẽ tạo nên những đặc thù riêng, điều đó sẽ ảnh hưởng tới các tri thức, hiểu biết, phương pháp tiếp cận các vấn đề của sinh viên ở từng trường là khác nhau, trong đó có phương pháp tiếp cận, mục đích sử dụng Facebook cũng là khác nhau. Đồng thời, nghiên cứu lựa chọn sinh viên của hai trường trên là cơ sở để có sự so sánh giữa sinh viên của hai khối trường có đặc thù khác nhau (giữa khối xã hội và khối kỹ thuật) đồng thời xem xét sự ảnh hưởng của mạng xã hội Facebook đến sinh viên của mỗi trường có những vấn đề nào đặt ra. Với những lý do trên, tôi đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm xã hội học với đề tài Sinh viên và mạng xã hội Facebook: Một phân tích về sự tiến triển vốn xã hội (Khảo sát tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông). Nhằm phân tích và nhìn thấy được hiện trạng sử dụng mạng xã hội Facebook của sinh viên hiện nay. Những tác động của nó đối với mạng lưới quan hệ xã hội của sinh viên hiện nay. Từ đó có cái nhìn khái quát nhất về vấn đề trong một khía cạnh tiếp cận mới, đánh giá và đưa ra được xu 2

hướng sử dụng mạng xã hội Facebook của một bộ phận sinh viên trong một vài năm tiếp theo. Đề tài là sự kết hợp giữa các kiến thức của xã hội học lối sống, xã hội học khoa học và công nghệ. Vì vậy các nghiên cứu, bài viết có liên quan đến đề tài này dựa trên những tài liệu về lối sống của thanh niên, ảnh hưởng của Internet đến sinh viên và đặc biệt là những đề tài liên quan đến mạng xã hội, đánh giá vấn đề dưới góc độ xã hội học khoa học công nghệ. 2. Tổng quan nghiên cứu Là một hiện tượng xã hội, một trào lưu xã hội nảy sinh trong hơn thập kỷ qua không chỉ ở cấp độ lãnh thổ mà là trên toàn thế giới, mạng xã hội Facebook đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới những cách tiếp cận khác nhau. Sự phát triển này đã đánh dấu mạnh mẽ những biến đổi xã hội, sự mở rộng không biên giới các mối quan hệ và sự tự do của con người trong một khía cạnh xã hội nhất định. Mạng xã hội Facebook đã đáp ứng một nhu cầu lớn của con người trong đời sống xã hội hiện đại. Nghiên cứu về mạng xã hội, mạng lưới xã hội là một vấn đề đã được nghiên cứu xuyên suốt trong nhiều thập kỷ qua. Mỗi một thời điểm, mạng lưới xã hội của con người lại có những biến đổi khác nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có sự tác động mạng mẽ của yếu tố khoa học công nghệ. Để làm cơ sở cho đề tài nghiên cứu và phân tích, tác giả xin được đi vào phân tích tổng quan nhất những nghiên cứu xã hội cả ở trong nước và ngoài nước các vấn đề liên quan đến mạng lưới xã hội, khoa học công nghệ trong mối quan hệ mật thiết với sự biến đổi mạng lưới xã hội từ đó có thể thấy được những biến đổi trong nghiên cứu, trong hành vi, lối sống của con người, đặc biệt là nhóm sinh viên trong việc tiếp cận khoa học và công nghệ, sử dụng khoa học và công nghệ như một công cụ gắn kết và mở rộng mạng lưới xã hội của cá nhân, phục vụ một phần nào đó nhu cầu của họ. Hay nói cách khác, đây là phần trả lời cho câu hỏi, thế giới nghiên cứu những gì, Việt Nam nghiên cứu những gì liên quan đến mối quan hệ giữa con người và khoa học công nghệ (mạng Facebook), với tư cách như một công cụ để phát triển vốn xã hội của con người. 2.1. Các tài liệu về việc sử dụng Internet của sinh viên Nghiên cứu Ảnh hưởng của Internet đối với thanh niên Hà Nội của Bùi Hoài Sơn đã đi vào làm rõ hơn lý thuyết về mối quan hệ giữa bối cảnh xã hội và việc 3

sử dụng Internet; lý thuyết về vốn xã hội và việc sử dụng Internet; quan điểm về sự khác biệt trong sử dụng Internet và lý thuyết về sự bắt chước. Nghiên cứu đã chỉ ra những thay đổi văn hóa và xã hội do việc sử dụng Internet mang lại như sự hình thành thế giới ảo, những giá trị xã hội mới hoặc các loại tội phạm mới ra đời như môi giới mại dâm, lừa đảo trên mạng, phá hủy dữ liệu, ăn cắp thông tin Cuối cùng nghiên cứu đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm nâng cao tính tích cực khi sử dụng Internet. Đề tài Tác động của Internet đến lối sống của sinh viên của Nguyễn Quý Thanh đã phân tích như sau: Internet là một phương tiện truyền thông kiểu mới, có tác động đa chiều, thậm chí trái ngược nhau đến hoạt động học tập, giải trí và định hướng giá trị của sinh viên Việt Nam hiện nay. Qua Internet làm cho lối sống của sinh viên trở lên năng động hơn, hướng ngoại nhiều hơn, định hướng giá trị mang tính tự do hơn so với các thế hệ sinh viên trước kia. Cuốn sách Internet - Sinh viên - Lối sống, nghiên cứu xã hội học về phương tiện truyền thông kiểu mới vớí các nội dung về tác động xã hội của Internet tới hoạt động học tập, hoạt động giải trí, những quan điểm về lối sống của sinh viên hiện nay. Nghiên cứu của Huỳnh Văn Thông về Một số vấn đề về lối sống Internet và ảnh hưởng của nó đến hoạt động giao tiếp của người dùng Internet Việt Nam cho thấy những ảnh hưởng của Internet đến thời gian sử dụng Internet và phân tích lối sống di động xã hội Internet. Đề tài nghiên cứu khoa học Bước đầu nghiên cứu về thực trạng nghiện internet của học sinh THCS trên địa bàn Quận Hải Quân và Liên Chiểu - Thành phố Đà Nẵng của Bùi Thị Huệ (Trường ĐH Sư Phạm Đà Nẵng) đã chỉ ra một số tác động tiêu cực của Internet đến giới trẻ hiện nay. Theo nghiên cứu cho thấy thời gian mà giới trẻ dành cho Internet càng nhiều sẽ gây nên tâm lý lo lắng cho phụ huynh càng lớn. Nghiên cứu cũng chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực của việc sử dụng quá nhiều thậm chí là lạm dụng phương tiện internet trong đời sống của giới trẻ như: mạng Internet dễ dần tới sự say mệ, lôi cuốn quá đà, ảnh hưởng đến sức khỏe, học tập và có những cách cư xử lạ, rơi vào chứng bệnh nghiện Internet. Đây là những tác động tiêu cực mà con người phải đối mặt khi có sự xuất hiện của một phương tiện truyền thông mới, đồng thời cho thấy một khía cạnh về lối sống của tầng lớp thanh niên hiện nay trong xã hội hiện đại. 4

Nghiên cứu có tên Tác động của Truyền thông đại chúng đến lối sống của sinh viên hiện nay của Đinh Quang Hùng tại Học viện Cảnh sát Nhân dân cho thấy vai trò của truyền thông đại chúng trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Các thông tin của phương tiện truyền thông đại chúng tác động vào trí thức sinh viên hình thành nên tri thức, thái độ hành vi mới thay thế thái độ hành vi cũ theo hai chiều hướng tiêu cực (xa rời thực tế và các giá trị truyền thống, coi trọng địa vì và tiền bạc ) và tích cực (tìm hiểu nhiều kiến thức, thông tin, mạng lưới quan hệ xã hội được mở rộng). Đây cũng là một thực tế xã hội phải đối mặt trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa như hiện nay. Hay nói cách khác, nó là một mặt khác của quá trình biến đổi xã hội, phát triển xã hội ở Việt Nam thời gian qua. 2.2. Các tài liệu về mạng xã hội Nghiên cứu Ảnh hưởng của mạng xã hội đến thanh niên trong thời đại đa truyền thông của Lê Thị Dung và Mai Thanh Thảo (Viện Nghiên cứu và Phát triển Thanh niên TP. Hồ Chí Minh) đã đưa ra những vấn đề nảy sinh của mạng xã hội trong thời đại hiện nay. Và nghiên cứu cũng đưa ra mặt tích cực khi sử dụng mạng xã hội như: đó là nơi gắn kết cộng đồng, giúp đỡ chia sẻ với những người có hoàn cảnh khó khăn. Mặt tiêu cực như: lợi dụng sự phát tán thông tin của mạng xã hội nhiều người đã sử dụng mạng xã hội để đưa các clip, hình ảnh sex, những thông tin có nội dung lệch lạc. Bên cạnh đó có nhiều thanh thiếu niên nghiên game online, game sex làm giảm thể lực và tinh thần của thanh thiếu niên. Tác phẩm Thế giới phẳng của Thomas Fredman cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và kết nối mọi người với nhau thông qua các phương tiện thông tin (đặc biệt là Internet) và tạo ra một thế giới phẳng, không có sự cản trở về mặt địa lý, không gian, thời gian hay nói cách khác nó giúp con người có những mối quan hệ trên nhiều khía cạnh của đời sống xã hội vượt qua khả năng của con người về vấn đề đại lý, không gian, trình độ xã hội. Hay nói cách khác Tác phẩm Hiệu ứng Facebook và cuộc cách mạng toàn cầu của mạng xã hội của David Kirkpatrick ghi lại thành một câu chuyện chân thực vè cội nguồn, sự ra đời và quá trình hình thành của Facebook, những khó khăn và những thành công của nó. Yếu tố đưa đến sự phát triển của mạng xã hội này không phải ở chỗ đơn thuần chỉ là yếu tố thương mại trực diện mà chính là sự chia sẻ, truyền nhiệt từ 5

tất cả những con người có chung mối quan tâm, niềm đam mê để tạo ra hiệu ứng tích cực trong cộng đồng, tổ chức và doanh nghiệp. Qua những đề tài, nghiên cứu, các bài viết trên đều nêu lên những ảnh hưởng của Internet đối với đời sống của giới trẻ hiện nay. Tuy nhiên để phân tích kỹ hơn về một chiều cạnh đối với một nhóm đối tượng cụ thể và nội dung cụ thể như phân tích việc sử dụng mạng xã hội (Facebook) đến vốn xã hội của sinh viên, đặc biệt là mạng lưới quan hệ xã hội của họ (nghiên cứu tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Học viện Công nghệ Bưu Chính Viễn thông) thì vẫn chưa có nghiên cứu nào đề cập và triển khai. 2.3. Tình hình nghiên cứu về vốn xã hội Khái niệm về vốn xã hội nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khoa học xã hội. Có thể chia các bài viết ra thành hai khuynh hướng: Một là những nghiên cứu thiên về hướng tổng kết giúp cho sự tìm hiểu về mặt lý thuyết một cách vững chắc và hai là các nghiên cứu áp dụng lý thuyết vốn xã hội vào nghiên cứu thực tiễn của mình. Về hướng nghiên cứu các lý thuyết chính về vốn xã hội, đầu tiên là các bài viết được dịch từ những nghiên cứu của thế giới về vốn xã hội. Một số bài viết được dịch sang đó là: Nguồn vốn xã hội và sự phát triển: chương trình nghị sự tương lai (Francis Fukuyama), bài viết đề cập tới mối quan hệ giữa vốn xã hội và thiết chế kinh tế, trong đó tập trung phân tích làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản như: Vốn xã hội là gì? Vai trò, chức năng của vốn xã hội trong thị trường dân chủ, tự do? Làm thế nào để tăng cường vốn xã hội Bài viết đã gợi ra những vấn đề quan trọng về mối quan hệ của vốn xã hội với xã hội dân sự, vai trò, vị trí, chức năng chính trị, kinh tế của vốn xã hội đối với sự phát triển của xã hội dân sự. Một bài viết khác được dịch đó là bài viết Vốn xã hội: Nguồn gốc và những sự áp dụng nó trong xã hội học hiện đại của Alejandro Portes, tác giả đưa ra quan điểm của những người đi trước, so sánh chúng với nhau, sau đó qua phân tích vài nghiên cứu gần đây ông đưa ra những nhận xét sắc sảo và chỉ ra sự vận dụng lý thuyết vốn xã hội trong các nghiên cứu này. Trong bài viết có tên Vốn xã hội và kinh tế của tác giả Trần Hữu Dũng (Trần Hữu Dũng, 2003 đã lược duyệt và đánh giá một số quan niệm khác nhau về 6

vốn xã hội. Tác giả đề cập đến các quan điểm lý thuyết của Pierre Bourdieu, James Coleman, Robert Putnam, Francis Fukuyama, Hernando de Soto. Ông cho rằng cần phải làm rõ hơn đặc điểm của vốn xã hội trong mối quan hệ với các loại vốn khác. Trong một bài viết khác với tên gọi: Vốn xã hội và phát triển kinh tế (Trần Hữu Dũng, 2006), tác giả này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa vốn xã hội và phát triển kinh tế, vốn xã hội và chính sách kinh tế. Bằng cách điểm lại các luận điểm đã có, Trần Hữu Dũng nhấn mạnh rằng vốn xã hội giúp tiết kiệm phí giao dịch, nâng cao mức đầu tư. Ông cũng cho biết vốn xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng và tốc độ tích lũy vốn con người. Những bài viết mang tính tổng hợp lý thuyết, đầu tiên có thể nhắc tới đó là tác giả Trần Hữu Dũng với những bài viết tổng kết các lý thuyết vốn xã hội của nhiều tác giả trên thế giới. Trong bài viết Phát triển bền vững nhìn từ góc độ xã hội và văn hóa (Trần Hữu Dũng, 2004) được đăng trên tạp chí Tia sáng 11/2004, bằng lập luận chặt chẽ của mình, Trần Hữu Dũng đã chứng minh sự phát triển bền vững không thể chỉ là phát triển về kinh tế mà thiếu đi thành tố xã hội và văn hóa. Từ đây, nhà nghiên cứu đưa ra một số quan điểm thế nào là một phát triển xã hội bền vững? Một phát triển văn hóa bền vững? Do đây là bài tập viết đề cập, đan xen quan điểm về những ba khái niệm: phát triển bền vững, vốn xã hội và vốn văn hóa nhằm mục đích chỉ ra mối liên hệ giữa hai yếu tố sau tới phát triển bền vững; Bởi vậy việc phân tích lý thuyết vốn xã hội mới chỉ dừng lại ở mức đưa ra lý thuyết đại diện của Coleman và Fukuyama, những người mà trong các tác phẩm của họ có đề cập tới so sánh vốn xã hội, vốn tài chính/vật thể và vốn con người. Tuy vậy, trong mức độ nào đó, chúng ta cũng có thể coi bài viết trên đây là một sự suy tưởng rộng hơn của tác giả về chức năng của xã hội. Tác giả Trần Hữu Quang với bài viết Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội (Trần Hữu Quang, 2006). Trong bài viết này Trần Hữu Quang bàn về quan điểm vốn xã hội của nhiều tác giả nước ngoài như Bourdieu, Putnam, Fukuyama, qua đó nhấn mạnh rằng vốn xã hội là một hiện thực đặc trưng của những mối dây liên kết giữa con người với nhau trong một cộng đồng hay một xã hội. Theo quan điểm của Trần Hữu Quang thì cần bàn về vốn xã hội trong mối quan hệ với chuẩn mực, sự cố kết, và hợp tác. Ông lưu ý đến việc phân tích vốn xã hội trong bối cảnh văn hóa - xã hội và các định chế xã hội. 7

Bài viết Vốn xã hội và đo lường vốn xã hội của Lê Minh Tiến (2006), Đại học Mở, Thành phố Hồ Chí Minh đã khái quát một số quan niệm về vốn xã hội, trình bày một số cách vận dụng các nghiên cứu nước ngoài xây dựng các chỉ báo đo lường vốn xã hội. Từ đó, định hướng các chỉ báo đo lường vốn xã hội ở Việt Nam. Bài viết cung cấp những thông tin về vốn xã hội giúp các nhà nghiên cứu tiếp sau trong việc xây dựng các chỉ báo đo lường vốn xã hội ở Việt Nam. Hướng nghiên cứu thứ hai là hướng nghiên cứu thực nghiệm về vốn xã hội. Trong hướng nghiên cứu thực nghiệm về vốn xã hội này, chúng ta có thể thấy các bài viết sử dụng khá linh hoạt những phương pháp điều tra thực nghiệm. Đó có thể là phương pháp phân tích dữ liệu định lượng như bài viết Quan hệ xã hội và nguồn vốn xã hội ở Việt Nam của nhóm tác giả Russell J.Dalton, Phạm Minh Hạc, Phạm Thành Nghị, Thụy Như Ngọc (2002), đề cập đến các mô hình quan hệ xã hội và nguốn vốn xã hội ở Việt Nam dựa trên phân tích kết quả điều tra giá trị thế giới (WVS) ở Việt Nam năm 2001. Số liệu được so sánh giữa các nước như Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Phillipn để xem xét mối tương quan giữa các yếu tố dân số, xã hội và sự tham gia vào các mạng lưới xã hội giữa các nước. Trong bài viết Quan hệ họ hàng với việc dồn điền đổi thửa và sử dụng ruộng đất dưới góc nhìn vốn xã hội ở một lãng Bắc Trung bộ (Nguyễn Tuấn Anh, Fleur Thomése, 2007: 3-7), tác giả sử dụng kết quả nghiên cứu định tính và định lượng, bài viết đã chỉ ra được sự khai thác hiệu quả vốn xã hội (với biểu hiện cụ thể là tinh thần trách nhiệm và sự tin cậy lẫn nhau giữa những người có quan hệ họ hàng) để nhận chung ruộng đất cùng nhau khi dồn điền đổi thửa, hay thuê/mượn ruộng của nhau sau dồn điền đổi thửa. Đồng tác giả TS. Nguyễn Tuấn Anh có một bài viết Vốn xã hội và sự cần thiết nghiên cứu vốn xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay (bài viết trong khuôn khổ đề tài Vốn xã hội và vai trò của nó trong việc thích ứng và phát triển kinh tế ở nông thôn Bắc Trung Bộ trong thời kỳ đổi mới ). Dường như những phát triển ở nông thôn, nơi mà sự cố kết cộng đồng còn diễn ra chặt chẽ, là đề tài nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh trong bài viết Tiếp cận nông thôn Việt Nam từ mạng lưới xã hội và vốn xã hội cho phát triển đã chỉ ra sự biến đổi của mạng lưới xã hội và vốn xã hội ở nông thôn trong khoảng nửa cuối thế kỷ XX và một số vấn đề đặt ra những kiến nghị có cơ sở khoa học cho các chính sách xã hội tại nông thôn. 8

Bàn về vốn xã hội còn có thêm các tác giả khác như Lê Ngọc Hùng, Hoàng Bá Thịnh. Lê Ngọc Hùng (2008) giới thiệu khái quát lí thuyết về vốn xã hội từ tiếp cận kinh tế để bàn sâu về vốn xã hội và mạng lưới xã hội ở Việt Nam. Hoàng Bá Thịnh tập trung phân tích quan niệm về vốn xã hội, mạng lưới xã hội và nhấn mạnh đến chức năng của vốn xã hội. Đồng thời, tác giả này cũng bàn sâu về những phí tổn để duy trì vốn xã hội và mạng lưới xã hội (Hoàng Bá Thịnh, 2009). Khi thực hiện các điều tra xã hội học về vốn xã hội, tác giả Lê Ngọc Hùng khá chú trọng tới việc áp dụng các phương pháp phân tích mạng lưới xã hội, phân tích biến số (variable analysis) được dùng trong các nghiên cứu xã hội học thực nghiệm khác. Trong bài viết Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội ở Việt Nam (Lê Ngọc Hùng, 2008: 45-54), tác giả sau khi đưa ra một số khái niệm lý thuyết chính, đưa ra phần viết Một số phát hiện về vốn xã hội, vốn người và mạng xã hội lưới xã hội ở Việt Nam, là tổng hợp của các nghiên cứu về mạng lưới xã hội của người lao động, của doanh nghiệp; vai trò của các loại vốn trong xóa đói giảm nghèo cũng như vai trò của nó trong việc tìm kiếm việc làm của sinh viên. Lấy ví dụ về phương pháp phân tích của tác giả này trong phần viết về tìm kiếm việc làm của sinh viên - xuất phát từ nghiên cứu Lý thuyết và phương pháp tiếp cận mạng lưới xã hội: trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên (2003). Phần viết tập trung vào: Thứ nhất, trình bày một số vấn đề lý thuyết mạng lưới xã hội; Thứ hai, vận dụng phương pháp tiếp cận mạng lưới xã hội để xem xét trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên. Trong bài viết, tác giả đã chỉ ra rằng: Mạng lưới xã hội có vai trò trực tiếp làm cầu nối và hỗ trợ tìm kiếm việc làm. Về mặt lý thuyết có thể nêu khái quát ba kiểu mạng lưới xã hội (1) Kiểu truyền thống: cá nhân chủ yếu dựa vào các quan hệ gia đình để tìm kiếm việc làm, (2) Kiểu hiện đại: Cá nhân chủ yếu dựa vào mối quan hệ chức năng giữa các cơ quan, tổ chức và các thiết chế của thị trường lao động để tìm kiếm việc làm, và (3) Kiểu hỗn hợp, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Mặc dù kiểu hỗn hợp là phổ biến ngày nay nhưng cùng với sự phát triển của thị trường lao động xã hội với các yếu tố mang tính dịch vụ chuyên nghiệp và chuyên môn hóa ngày càng cao, kiểu mạng lưới hiện đại sẽ chiếm ưu thế trong đời sống xã hội cụ thể và ở đây là trong tìm kiếm việc làm. Đặng Nguyên Anh (1998) cũng ứng dụng quan điểm mạng lưới xã hội và vốn xã hội để xem xét vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di cư. Nghiên 9

cứu đã sử dụng số liệu của cuộc khảo sát Di cư và sức khỏe của Viện xã hội học, với 1864 cá nhân thuộc 4 trung tâm đô thị lớn: Hà Nội, Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột. Tác giả đã lần lượt tìm hiểu vai trò của mạng lưới xã hội đến quyết định di chuyển và lựa chọn nơi chuyển đến, quá trình thích ứng cuộc sống ở thành thị cũng như thu nhập và tiền chuyển về của người di cư. 2.4. Tình hình nghiên cứu mối quan hệ giữa internet và vốn xã hội Internet có liên quan tới cả sự tăng và giảm trong nguồn vốn xã hội. Nie (2001: 420-435) cho rằng việc sử dụng internet lấy mất của chúng ta những khoảng thời gian giao tiếp mặt đối mặt với nhau và điều này làm giảm lượng vốn xã hội của một cá nhân. Hay nói cách khác, sử dụng internet làm cho con người sử dụng ngày càng nhiêu loại hình giao tiếp gián tiếp, làm hạn chế một số hành vi của con người mà chỉ khi giao tiếp trực tiếp mới có thể nhận ra. Tuy nhiên, cũng có những nhà nghiên cứu không đồng quan điểm trên chẳng hạn: một vài nghiên cứu còn chứng minh rằng những tương tác trực tuyến còn làm tăng thêm hoặc thay đổi những mối quan hệ, tương tác giữa các cá nhân và chính điều này khiến cho việc trực tuyến càng hữu ích hơn chứ không phải mất thời gian (Wellman, Haase, Witte & Hampton, 2001: 436). Như vậy, có thể thấy rằng, có rất nhiều cách tiếp cận, góc độ nhìn nhận vấn đề khác nhau cả theo hướng tích cực và tiêu cực. Song dù tiếp cận theo hướng nào thì internet vẫn được coi là một công cụ xã hội được nhiều người sử dụng trong mọi hoạt động xã hội. Tác động làm tăng hay giảm nguồn vốn xã hội của internet nguyên nhân một phần là do mục đích và hành vi sử dụng của con người gây ra. Gần đây, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Internet đã hình thành những liên kết yếu trong mạng lưới xã hội, thuộc loại vốn xã hội vươn ra ngoài (bringing social capital). Các mối quan hệ qua mạng được duy trì bởi các công nghệ, ví dụ như thông qua các nhóm mail, thư viện ảnh, khả năng tìm kiếm (Resnick, 2001: 247-274). Điều này cho thấy khả năng sẽ có những dạng thức mới của vốn xã hội các kiểu quan hệ xã hội mới được xây dựng trên nền tảng các trang web mạng xã hội. Phương thức hoạt động của các trang web mạng xã hội này dường như cũng rất khuyến khích người tham gia tạo các mối liên kết bắc cầu với nhau, cho phép người sử dụng tạo ra và duy trì một mạng lưới xã hội ngày càng 10

rộng lớn của mình, và từ đây họ có thể có được những nguồn vốn xã hội dồi dào tiềm năng (Donath và Boyd 2004: 71; Resnick, 2001: 247-272). Donath và Boyd (2004: 71) đặt ra giả thuyết rằng các trang mạng xã hội có khả năng hình thành và làm gia tăng một cách mạnh mẽ các mối liên kết yếu giữa các cá nhân bởi cách thức, kỹ thuật duy trì thích hợp, vừa dễ dàng lại vừa tiết kiệm chi phí. Song những hình thức liên kết xã hội dựa vào công nghệ như vậy cũng góp phần khiến cho các mối quan hệ giữa con người với nhau ngảy càng trở nên lỏng lẻo, song cũng tạo điều kiện cho sự phát triển các mối quan hệ mới, mở rộng vốn con người, vốn xã hội trong mọi hoạt động sống. Trong bài viết của Putnam (2000), kiểu vốn xã hội co cụm (bonding social capital) phản ánh những nút thắt chặt - mối quan hệ với gia đình và bạn bè thân thiết. Những người này có vị trí quan trọng mang đến sự ủng hộ trên về mặt tinh thần, tình cảm hay giúp cá nhân tiếp cận tới được tới những nguồn lực đặc biệt, khó kiếm. Kiểu vốn xã hội này cho thấy những mối quan hệ thân thiết, thắt chặt không chỉ ở phương diện quan hệ tình cảm mà còn là các mối quan hệ thắt chặt ở phương diện lợi ích giữa con người với con người trong xã hội. Williams (2006) chỉ ra rằng không có nhiều nghiên cứu thực nghiệm kiểm chứng được một cách rõ ràng ảnh hưởng của Internet đến nguồn vốn xã hội co cụm mặc dù cũng có một số nghiên cứu đặt ra câu hỏi: Liệu internet đến làm cho nguồn vốn xã hội thân thiết tăng lên hay bị giảm đi? (Bargh & McKenna, 2004: 537-590). Rõ ràng là internet làm đơn giản hóa cách thức liên lạc, vì thế nó cung cấp một cách thức mới thay thế cách thức cũ, để kết nối mọi người với nhau, giúp họ chia sẻ những lợi ích, mục tiêu (Ellison, Heino & Gibbs, 2006; Horrigan, 2002; Park & Floyd, 1996). Những cách thức liên kết mới này có thể đưa đến kết quả là làm tăng thêm vốn xã hội. Một báo cáo điều tra về internet của tổ chức Pew năm 2006 đã cho biết người có sử dụng internet có khả năng có một mạng lưới xã hội với nhiều nút thắt chặt (close ties) hơn những người không truy cập mạng và những người dùng internet cũng có khả năng nhận được nhiều sự giúp đỡ từ các thành viên chủ chốt trong hệ thống mạng lưới xã hội này hơn những người không truy cập (Boase, Horrigan, Wellman & Rainie, 2006). Nhìn chung, những báo cáo trước đây nghiên cứu về internet thường xem xét đối với những hoạt động mà sự liên hệ trên mạng và trực tiếp giữa các cá nhân thường 11

tương đối tách biệt (như chơi game trực tuyến, tham gia diễn đàn, đọc báo mạng ) chứ không có sự liên hệ chặt chẽ như các mối quan hệ ngoài đời thực và trực tuyến như trên các trang mạng xã hội mà Facebook là một ví dụ. Các công cụ mạng xã hội trực tuyến dường như là phương tiện đặc biệt thiết thực hữu ích cho những cá nhân nào gặp phải khó khăn trong việc tạo ra và duy trì các mối nối (quan hệ) từ chặt chẽ đến lỏng lẻo. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng internet có ý nghĩa tích cực cho những người mà họ ít có thỏa mãn tâm lý từ việc có ít mối nối với bạn bè, hàng xóm (Bargh & McKenna, 2004: 537-590). Kiểu giao tiếp gián tiếp thông qua công cụ máy tính có thể làm giảm sự cản trở trong tương tác và khuyến khích việc bộc lộ bản thân (Bargh, McKenna & Fitzsimons, 2002); Từ đó, những công cụ máy tính này có thể tạo ra khả năng kết nối và tương tác mà nếu thiếu chúng, có thể các cá nhân sẽ không có được. Mạng xã hội thay đổi theo thời gian tùy theo việc các mối liên hệ bị bỏ quên hay mới được hình thành, nó sẽ tạo ra những mối nối bị loại bỏ và những mối nối được thêm vào, những mối quan hệ lỏng lẻo hay chặt chẽ. Hay nói cách khác, mạng xã hội của con người luôn biến đổi tùy vào sự thay đổi của xã hội và chủ thể của mạng xã hội đó. Càng ở những nút thắc lớn gần với chủ thể trung tâm của mạng lưới xã hội thì mối quan hệ với chủ thể càng mật thiết và có ảnh hưởng đến các nút thắt trong mạng lưới ở cấp độ thấp hơn. Đặc biệt, những sự thay đổi quan trọng trong mạng lưới xã hội của một người sẽ làm ảnh hưởng và thay đổi toàn bộ các mối thắt trong mạng lưới xã hội lớn của họ, từ đó nó có thể ảnh hưởng đến vốn xã hội của người đó. Putnam (2000) cho rằng một trong những nguyên nhân khiến cho sự suy giảm vốn xã hội là việc các cá nhân/ gia đình di cư để tìm việc; nhưng những người khác thì tìm hiểu vai trò của Internet đối với sự thay đổi vốn xã hội này. Đề tài khoa học có tên Facebook và sinh viên: Một phân tích xã hội học về vốn xã hội của Đặng Hoàng Lan (Nghiên cứu trường hợp sinh viên trường ĐHKHXH&NV) đã mô tả việc sử dụng Facebook và ảnh hưởng của Facebook tới vốn xã hội của sinh viên hiện nay. Tìm hiểu khả năng phát triển vốn xã hội của Facebook. Tìm hiểu khả năng của những hoạt động phát triển vốn xã hội của Facebook tác động đến sự tự tin, thỏa mãn với cuộc sống ở trường đại học của sinh viên. 12

Qua các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan tới đề tài đã cho thấy những nghiên cứu lý luận và áp dụng lý thuyết vốn xã hội vào phân tích một số vấn đề của đời sống xã hội. Nghiên cứu Sinh viên và mạng xã hội Facebook: Một phân tích về sự tiến triển vốn xã hội đã dựa trên những nghiên cứu trước đây về vốn xã hội, về lối sống của thanh niên, về mối quan hệ giữa internet và vốn xã hội để làm cơ sở cho việc thực hiện nghiên cứu này. Nghiên cứu là sự phối hợp của nhiều góc độ tiếp cận nghiên cứu xã hội học, đó là sự kết hợp giữa nghiên cứu lối sống, nghiên cứu lý thuyết mạng lưới xã hội, mạng xã hội, vốn xã hội với sự ảnh hưởng của một công cụ mạng xã hội nằm trong hệ thống các công cụ truyền thông internet đang được sử dụng nhiều hiện nay. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả sẽ phân tích sâu hơn những tác động của Facebook tới vốn xã hội của sinh viên 2 trường đại học (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông), tìm hiểu những tác động dương tính, âm tính của mạng xã hội Facebook với tư cách như một công cụ phát triển vốn xã hội của sinh viên. 3. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài Đề tài này tiếp cận những kiến thức của xã hội học, trong đó vận dụng những kiến thức của xã hội học lối sống, xã hội học khoa học và công nghệ; giúp bổ sung và làm rõ thêm hệ khái niệm của xã hội học và đặc biệt là xã hội học khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn áp dụng những kiến thức của lý thuyết vốn xã hội, mạng lưới xã hội, tương tác xã hội để lý giải vấn đề nghiên cứu về ảnh hưởng của việc sử dụng mạng xã hội facebook đến vốn xã hội của sinh viên hiện nay. Như vậy, việc vận dụng lý thuyết, phương pháp của xã hội học vào đề tài này đã giúp cho nghiên cứu có hướng tiếp cận phù hợp với nội dung mà vấn đề đặt ra. Đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ, chứng minh thêm cho các lý thuyết phát triển, biến đổi xã hội như: lý thuyết tương tác xã hội, lý thuyết về vốn xã hội, mạng lưới xã hội. Từ đó, góp phần củng cố và làm đa dạng thêm cho hệ thống ứng dụng các lý thuyết xã hộivào nghiên cứu xã hội và giải quyết vấn đề. Đóng góp và bổ sung vào hệ thống các nghiên cứu mới về vấn đề xã hội, không làm mất đi tính mới, và sự biến đổi xã hội thông qua một vấn đề nghiên cứu được lặp đi, lặp lại. 13

3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Đề tài phân tích và chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực của mạng xã hội (facebook) đến vốn xã hội của sinh viên hiện nay. Qua đó đưa ra những kết luận, khuyến nghị hướng tới mục tiêu cao nhất là quản lý việc sử dụng Facebook sao cho hiệu quả. Đề tài còn giúp người nghiên cứu vận dụng được những kiến thức, kỹ năng, phương pháp trong xã hội học để triển khai một vấn đề cụ thể và có thêm kinh nghiệm trong nghiên cứu xã hội học. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài phân tích về sự tiến triển vốn xã hội của sinh viên qua việc sử dụng Facebook. Qua đó đưa ra những đánh giá về ảnh hưởng của Facebook đến sự thay đổi về vốn xã hội của nhóm sinh viên và đưa ra khuyến nghị nhằm nâng cao tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực trong việc sử dụng Facebook. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Thứ nhất, là hệ thống hóa các hệ thống lý luận, về quá trình phát triển vốn xã hội của sinh viên trong sự tác động của khoa học và công nghệ (việc sử dụng Facebook với tư cách là bằng chứng cho sự phân tích này). - Thứ hai, là việc sử dụng Facebook có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống của sinh viên. Đặc biệt là đến vốn xã hội của nhóm đối tượng này. - Thứ ba, là đánh giá hiện trạng sử dụng Facebook của sinh viên, những cơ hội và thách thức của một loại hình mạng xã hội mới đối với đời sống và việc xây dựng các mối quan hệ xã hội của sinh viên. - Thứ tư, là đánh giá tác động của mạng xã hội Facebook đến sự hình thành, tiến triển vốn xã hội của sinh viên. Đồng thời thấy được những tác động tích cực và tiêu cực của Facebook đến sinh viên. 5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Sự tiến triển vốn xã hội của sinh viên khi sử dụng mạng xã hội Facebook. 5.2. Khách thể nghiên cứu - Sinh viên hệ Đại học chính quy là những người sử dụng mạng xã hội Facebook. - Giảng viên là những người sử dụng mạng xã hội Facebook. 14

5.3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi thời gian: Từ ngày 09/3/2013 đến ngày 10/5/2014. - Phạm vi không gian: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Học viện Công nghệ Bưu Chính Viễn thông. - Phạm vi nội dung: Đề tài chủ yếu tập chung nghiên cứu các tác động (dương tính, âm tính, ngoại biên) của việc sử dụng Facebook đến vốn xã hội (các mạng lưới quan hệ xã hội hữu hình, quan hệ xã hội vô hình, quan hệ xã hội ảo) của sinh viên. 6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 6.1. Câu hỏi nghiên cứu - Hiện nay, sinh viên đang sử dụng mạng xã hội Facebook như thế nào? - Việc sử dụng facebook ảnh hưởng như thế nào đến sự tiến triển vốn xã hội của sinh viên? 6.2. Giả thuyết nghiên cứu - Tác động tích cực của Facebook đến quá trình tiến triển vốn xã hội của sinh viên: thúc đẩy quá trình tương tác xã hội, hỗ trợ tương tác trong việc trao đổi thông tin, cung cấp thông tin đa chiều, phong phú cho sinh viên; giúp cho việc trao đổi, nắm bắt thông tin được diễn ra nhanh chóng và thuận lợi, đồng thời giúp mở rộng mạng lưới quan hệ xã hội của sinh viên. - Tác động tiêu cực của Facebook: giảm khả năng giao tiếp thực, dễ bị ảnh hưởng bởi những dư luận trên mạng, giảm khả năng xử lý tình huống, khó chia sẻ các vấn đề của mình trong thực tế; ảnh hưởng đến tâm lý khẳng định mình, khả năng hoàn thiện bản thân trong thực tế; nhiều thói quen tốt bị mất đi và thay vào đó bởi nhiều thói quen không tốt; gây Lãng phí thời gian. - Sinh viên nữ thường sử dụng các mối quan hệ trên Facebook để học tập, tìm kiếm nơi ở, mua sắm nhiều hơn sinh viên nam. - Sinh viên thuộc khối khoa học xã hội sử dụng các mối quan hệ xã hội trên Facebook để phục vụ việc học tập, tìm kiếm nhà ở, kết bạn mới tốt hơn sinh viên Khối kỹ thuật. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp phân tích tài liệu Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích tài liệu trên các sách báo, tạp chí, các đề tài, bài viết đã nghiên cứu có liên quan tới vấn đề tác động của internet và cách 15

thức, mục đích khi sử dụng Internet. Thông qua việc tìm hiểu tác động của Internet để đi vào nghiên cứu sâu hơn một nội dung khi sử dụng Internet, đó là sử dụng mạng xã hội. Các tài liệu sẽ cung cấp cho nghiên cứu những cách tiếp cận, các số liệu có liên quan để giúp cho nghiên cứu có thêm cơ sở thông tin và hoàn thành. 7.2. Phương pháp quan sát Nghiên cứu sử dụng phương pháp quan sát có sự tham gia tức là quan sát hành vi sử dụng mạng xã hội (Facebook) của sinh viên trong đời sống, quan sát và tham gia trực tiếp vào mạng xã hội Facebook để hiểu được những nội dung, cách thức chia sẻ thông tin, và tìm hiểu sâu hơn về những ứng dụng, các thông tin được đưa lên mạng xã hội (Facebook), đồng thời biết được cách mạng xã hội này tìm kiếm, giới thiệu bạn bè như thế nào. Hay nói cách khác, đề tài sử dụng cả phương pháp quan sát tham dự và không tham dự vào để nghiên cứu và phân tích vấn đề. 7.3. Phương pháp trưng cầu ý kiến Phương pháp trưng cầu ý kiến là phương pháp chủ yếu được dùng trong nghiên cứu này, đây là phương pháp định lượng. Nghiên cứu đưa ra bảng hỏi với các phương án cho người trả lời để phục vụ cho việc thu thập thông tin cho đề tài. Tôi sử dụng một bảng hỏi đã được chuẩn hóa bao gồm 36 câu hỏi và các câu thu thập thông tin từ người trả lời. Những thông tin thu được trong bảng hỏi sẽ được tiến hành xử lý qua phần mềm thống kê dành cho khoa học xã hội SPSS 16.0. Các kết quả đưa ra sẽ làm căn cứ chính để nghiên cứu phân tích. Trong nghiên cứu này, tôi phát ra 350 bảng hỏi (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn là 175 bảng hỏi; Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông 175 bảng hỏi) và thu về được 310 bảng hỏi hợp lệ. Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện. Đây là cách chọn mẫu phù hợp với dạng nghiên cứu trường hợp, thuận tiện cho người nghiên cứu về mặt thời gian, chi phí và công tác phát bảng hỏi cũng được diễn ra dễ dàng hơn nhưng vẫn đảm bảo được tính đại diện của mẫu. Thu thập thông tin qua việc hỏi sinh viên đang đi học tại hai trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông. 16

310 phiếu hợp lệ có cơ cấu theo các biến số như sau: Bảng 1: Cơ cấu mẫu nghiên cứu STT Tiêu chí Số lƣợng Tỷ lệ % 1. Trường học 2. Giới tính 3. Khóa học 4. Tình trạng hôn nhân 5. Nơi xuất thân 6. Học lực 7. Thu nhập 8. Nơi ở hiện tại ĐH KHXH&NV 157 50,6 HV CNBCVT 153 49,4 Nam 137 44,2 Nữ 173 55,8 Năm 1 78 25,2 Năm 2 77 24,8 Năm 3 80 25,8 Năm 4 và 5 75 24,2 Chưa kết hôn 301 97,1 Đã kết hôn 9 2,9 Nông thôn 193 62,3 Đô thị 117 37,7 Trung bình 51 16,5 Khá 230 74,2 Giỏi 29 9,4 Dưới 1 triệu 30 9,7 Từ 1 triệu - < 2 triệu 150 48,4 Từ 2 triệu - < 3 triệu 101 32,6 Từ 3 triệu trở lên 29 9,4 Ký túc xá 47 15,2 Nhà trọ 192 61,9 Ở nhà mình/ họ hàng 71 22,9 7.4. Phương pháp phỏng vấn sâu Phỏng vấn sâu để biết được cách thức sinh viên sử dụng mạng xã hội (Facebook) qua thông tin họ chia sẻ và hiểu được những mối quan hệ xã hội của họ trên Facebook. Phỏng vấn sâu sẽ cung cấp những ý kiến, đánh giá sâu hơn của người trả lời về ảnh hưởng của mạng xã hội Facebook đến họ, đến mạng lưới quan hệ xã hội họ đang có. Nghiên cứu phỏng vấn 10 trường hợp trong đó có 4 nữ và 6 17

nam: 4 sinh viên (từ năm thứ nhất đến năm thứ tư) thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 4 sinh viên thuộc Học viện Công nghệ Bưu Chính Viễn thông Việt (từ năm thứ nhất đến năm thứ tư) và 2 giảng viên (1 giảng viên nam thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và 1 giảng viên nam thuộc Học viện Công nghệ Bưu Chính Viễn thông). 8 sinh viên được phỏng vấn đều có sự khác biệt về quê quán, năm học, giới tính, trường học. Qua đó giúp cho việc tìm hiểu sự khác biệt giữa năm học, giới tính, quê quán, trường học trong hành vi sử dụng Facebook. Nội dung phỏng vấn sâu tìm hiểu mức độ sử dụng Facebook của sinh viên, các hoạt động của họ trên Facebook; quan điểm, đánh giá của họ từ khi sử dụng Facebook. 18

8. Khung lý thuyết Điều kiện Kinh tế - Văn hóa - Xã hội Đặc điểm nhân khẩu của sinh viên: - Độ tuổi - Giới tính - Tình trạng hôn nhân - Thu nhập - Năm học - Trường học - Học lực - Nơi ở Sử dụng mạng xã hội Facebook Tác động âm tính Tác động dương tính Tác động ngoại biên Vốn xã hội của sinh viên 19

Ghi chú: - Biến độc lập: độ tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, thu nhập, năm học, trường học, học lực, nơi ở. - Biến phụ thuộc: Vốn xã hội của sinh viên (trong đó có yếu tố mạng lưới quan hệ xã hội, niềm tin). - Biến can thiệp: điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội. 9. Tính mới của đề tài Từ những phân tích và định hướng nghiên cứu ở trên, đề tài hướng đến nghiên cứu và phân tích vấn đề dưới góc độ tiếp cận của xã hội học khoa học và công nghệ, xã hội học lối sống để đánh giá những biến đổi và phát triển của vốn xã hội ở một nhóm xã hội nhất định là sinh viên. Đề tài đi vào phân tích thực trạng và đánh giá những tác động theo cả hai chiều dương tính và âm tích để thấy được những một cách nhìn tổng quan nhất về sự tiến triển của vốn xã hội của sinh viên hiện nay, từ đó chỉ ra một khía cạnh khác về lối sống của sinh viên, khác hẳn với những lý giải trước đó về sự thay đổi lối sống của nhóm này. Một điểm mới khác mà đề tài mang đến là: đã có rất nhiều những nghiên cứu liên quan đến các phương tiện truyền thông đặc biệt là internet, cũng có nhiều nghiên cứu về vốn xã hội, vốn con người, mạng lưới xã hội song hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra những ảnh hưởng, những vấn đề tổng quan, chung cho một xã hội hay một nhóm xã hội nhất định mà thiếu đi sự tiếp cận vi mô, đi vào nghiên cứu và phân tích chi tiết một khía cạnh nhỏ trong cả một hệ thống tiếp cận. Song đề tài này đã đáp ứng được phần nào đó yêu cầu này: với một góc độ nghiên cứu nhỏ là vốn xã hội của sinh viên song được qui chuẩn và khống chế trong những tác động của yếu tố mạng xã hội Facebook, sẽ làm cho đề tài trở nên sâu sắc, chi tiết và rõ ràng hơn về vấn đề nghiên cứu. Đóng góp vào hệ thống nghiên cứu vấn đề những nghiên cứu chi tiết, vi mô lý giải rõ hơn vấn đề khi ở cấp độ vĩ mô thường mờ nhạt và mang tính chung chung, đồng thời thay thế dần và tiếp cận phương pháp nghiên cứu vấn đề ở cấp độ vi mô nhằm giải quyết vấn đề nhanh chóng và khả thi hơn thông qua hệ thống lý thuyết và những kinh nghiệm của các nghiên cứu vĩ mô mang lại. 20

PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Các khái niệm 1.1.1. Khái niệm mạng xã hội Mạng xã hội, theo nghĩa rộng chỉ những tập hợp người cùng sống trong những cộng đồng khác nhau, có liên kết, tương tác với nhau để thực hiện những chức năng nhất định. Theo nghĩa hẹp, chỉ một loại hình dịch vụ trên Internet mới phát triển trong kỷ nguyên số, ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin. Khái niệm mạng xã hội được tác giả đề cập đến trong khóa luận này được hiểu theo nghĩa hẹp với ý nghĩa là một thành tựu của công nghệ thông tin tác động đến con người trong các mối quan hệ xã hội. Và ở đây, các thuật ngữ như mạng xã hội, social network hay social network site đều được hiểu theo cùng một ý nghĩa. Mạng xã hội (social network) là khái niệm phổ biến trong thời đại Internet và được người dùng nhắc đến như một trong những dịch vụ thông dụng nhất hiện nay trong thế giới ảo. Vậy mạng xã hội là gì? Theo từ điển mở Wikipedia, Mạng xã hội, hay gọi là mạng xã hội ảo, (tiếng Anh: social network) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian. Theo đó, có thể hiểu mạng xã hội là một loại hình dịch vụ thực hiện chức năng kết nối cộng đồng. Các đối tượng tham gia mạng xã hội là những người có cùng sở thích và phạm vi tác động của dịch vụ này là rộng lớn, không giới hạn. Khoản 14, Điều 3, Chương I NĐ 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet định nghĩa: Dịch vụ mạng xã hội trực tuyến là dịch vụ cung cấp cho cộng đồng rộng rãi người sử dụng khả năng tương tác, chia sẻ, lưu trữ và trao đổi thông tin với nhau trên môi trường Internet, bao gồm dịch vụ tạo blog, diễn đàn (forum), trò chuyện trực tuyến (chat) và các hình thức tương tự khác. Một số định nghĩa khác nhận định: Social Network site hay mạng xã hội là mạng được tạo ra để tự thân nó lan rộng trong cộng đồng thông qua các tương tác của các thành viên trong chính cộng đồng đó. Mọi thành viên trong mạng xã hội cùng kết nối và mỗi người là một mắt xích để tạo nên một mạng lưới rộng lớn 21

truyền tải thông tin trong đó (nguồn: http://seo.iclick.vn/mang-xahoi/tu-van/mangxa-hoi-la-gi/). Định nghĩa này nhấn mạnh vai trò của chủ thể tham gia mạng lưới xã hội như là nhân tố quyết định sự lan tỏa của mạng xã hội. Ở đó, cộng đồng tham gia tương tác với nhau, tạo thành các mắt xích của một mạng lưới rộng lớn. Đồng thời, định nghĩa này cũng đề cập đến hoạt động truyền tải thông tin trong cộng đồng cũng như chức năng tương tác thông tin của người dùng khi sử dụng mạng xã hội. Như vậy có thể thấy, tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về mạng xã hội. Tuy nhiên trong đề tài này, mạng xã hội được cho là một dịch vụ phát triển trên nền Internet đưa lại nhiều ứng dụng phổ biến cho người dùng với những đặc trưng cơ bản như tính lan tỏa, tính tương tác mạnh mẽ giữa các thành viên. Trong đó, các thành viên được kết nối với nhau trên một phạm vi rộng lớn, ở một môi trường không giới hạn. Trong môi trường đó diễn ra các tương tác đa dạng của các thành viên, đặc biệt trong hoạt động truyền tải thông tin. * Một số đặc điểm, tính năng của mạng xã hội Như đã đề cập ở trên, tuy mới ra đời cách đây gần 20 năm nhưng đến nay mạng xã hội đã trở nên phổ biến với mức độ bao phủ gần như toàn cầu. Vậy do đâu mà loại hình truyền thông này có sức hút mạnh mẽ đến vậy? Ở đó có những đặc điểm, tính năng nào mà có thể làm say mê hàng tỷ người trên thế giới như thế? Tuy mạng xã hội có rất nhiều tính năng nhưng có ba tính năng nổi bật là: Trước tiên, cần phải đề cập đến khả năng kết nối mạnh mẽ của mạng xã hội. Có thể nói mạng xã hội là môi trường mở dành cho tất cả mọi người. Không phân biệt tuổi tác, ngành nghề, giới tính, khu vực, bất kế bạn là ai bạn cũng có thể gia nhập cộng đồng mạng xã hội chỉ với một vài thao tác đơn giản. Ở đó mọi người có thể chia sẻ hình ảnh, cảm xúc, những vấn đề hay trong cuộc sống. Mạng xã hội kết nối những con người xa lạ ở khắp nơi trên thế giới với điều kiện đơn giản: Bạn chỉ cần có tài khoản trên một trang mạng xã hội nào đó. Bạn cũng không cần gặp mặt hay biết quá nhiều về những người bạn xa lạ miễn là bạn có cùng sở thích hay một điểm tương đồng nào đó. Chưa bao giờ con người có thể kết bạn dễ dàng như bây giờ. Chưa bao giờ cộng đồng lại trở nên gói gọn và xích lại gần nhau như trên trang mạng xã hội hiện có. Có thể nói hiện nay mạng xã hội là cầu nối liên kết con người một cách thuận tiện và nhanh chóng nhất. 22

Thứ hai: Khả năng truyền tải và lưu trữ lượng thông tin khống lồ Với sự phổ biến và những tính năng chia sẻ mạnh mẽ, mạng xã hội là công cụ đắc lực để truyền tải và lưu trữ thông tin. Với hàng tỷ thành viên, lượng thông tin được chia sẻ trên mạng xã hội mỗi ngày là cực kỳ lớn. Ở một số quốc gia, lượng người theo dõi thông tin trên các trang báo điện tử đã giảm đáng kể bởi họ đã chuyển hướng sang thu nhận thông tin trên mạng xã hội với lượng thông tin được cập nhật liên tục, rất đa dạng. Nhờ khả năng truyền tải và lưu trữ lượng thông tin khổ lồ như vậy của mạng xã hội, người dùng có thể cập nhật thông tin một cách nhanh chóng, bao quát được toàn cảnh bằng cách ghé thăm một vài trang Facebook hay các link chia sẻ. Thứ ba: Tính tương tác mạnh mẽ Tính tương tác mạnh mẽ là một trong những tính năng nổi bật thu hút lượng lớn người tham gia của các mạng xã hội và tạo nên sự khác biệt của mạng xã hội với những loại hình truyền thông khác. Mạng xã hội khác biệt với cộng đồng web (diễn đàn, web chia sẻ nội dung) ở tính kết nối các thành viên. Các diễn đàn, các web là nơi cung cấp thông tin đơn thuần, tuy có thu hút các thành viên tham gia nhưng sự tham gia, tương tác còn hạn chế. Ở đó, các thành viên chỉ dừng lại ở mức bình luận, đăng ý kiến và khó có thể tùy biến. Tuy nhiên với mạng xã hội, sự tương tác của các thành viên được tạo dựng một cách tối đa. Sự giao tiếp giữa các thành viên của mạng xã hội diễn ra nhiều chiều. Tại đó, các thành viên tạo profile (trang tự thuật thông tin cá nhân) và có thể thường xuyên thay đổi. Những người bạn cũ có thể gặp nhau (trên mạng) để trò chuyện và theo dõi tình trạng của nhau thậm chí cập nhật trạng thái để hiểu được tâm lý đối phương. Người dùng có thể ghé thăm các trang khác gửi lời mời kết bạn và có thể trở thành bạn của bất cứ nhân vật nổi tiếng nào có tài khoản Facebook hoặc dễ dàng tham gia vào một diễn đàn hay một hội nhóm nào đó và cùng bình luận, bày tỏ ý kiến về một vấn đề quan tâm. Ngoài ra người dùng cũng có thể tương tác với chính mình khi xem lại bản thân qua hệ thống thông tin trên trang cá nhân (chẳng hạn như ứng dụng Timeline của Facebook). Gia nhập cộng đồng mạng xã hội là cơ hội để mỗi thành viên tự thể hiện mình, kết bạn, giao lưu với khối lượng bạn bè khổng lồ. Trong Profile cá nhân người dùng có thể tùy chỉnh các thông tin, tự đánh bóng bản thân để thu hút bạn 23

bè, thúc đẩy tương tác. Các thông tin đó mang tính tùy biến cao, có thể thay đổi hoàn toàn do ý muốn chủ quan của chủ tài khoản. Nhờ những tương tác mạnh mẽ như vậy nên các mạng xã hội có khả năng mở rộng thành viên cao hơn bất kỳ loại hình mạng nào khác. Việc các thành viên tham gia, kêu gọi bạn bè tham gia như hiệu ứng Domino, dễ dàng tạo thành hiệu ứng rộng lớn. Một khi tham gia mạng xã hội, xây dựng các mối quan hệ (không hoàn toàn là ảo) các thành viên rất khó thay đổi hoặc từ bỏ bởi họ đã tự tạo dựng nên một cộng đồng riêng tuy trên mạng nhưng có đầy đủ các mối quan hệ và ít nhiều ảnh hưởng đến đời thực. Đây cũng chính là lý do các trang mạng xã hội thu hút và giữ chân thành viên. * Các loại mạng xã hội phổ biến và một số mạng xã hội tiêu biểu Theo nhiều nhận định, dựa vào tiêu chí đối tượng là trung tâm, hiện nay các mạng xã hội được chia thành 3 nhóm chính là nhóm lấy cá nhân làm trung tâm (Ego centric); lấy mối quan hệ làm trung tâm (relationship centric); và nhóm lấy nội dung làm trung tâm (content centric). Lấy cá nhân làm trung tâm (Ego centric) Các mạng xã hội lấy cá nhân làm trung tâm thường tập trung vào các ứng dụng hỗ trợ cá nhân thể hiện bản thân một cách tối đa, trong đó người sử dụng có quyền can thiệp vào cấu trúc và giao diện của trang cá nhân. Có thể kể đến một số đại diện như: MySpace, VietSpase, Mash của Yahoo, Yahoo!360. MySpace là đại diện tiêu biểu cho các mạng xã hội thuộc nhóm Ego centric. Ra mắt vào tháng 8 năm 2003 MySpace đã từng là mạng xã hội giữ ngôi vị số 1 trong danh sách các mạng xã hội lớn trên thế giới. Các tính năng của MySpace cho phép người dùng tùy biến giao diện trang cá nhân. Trang mạng này cũng cung cấp nhiều tính năng phong phú như Myspace TV, Myspace Music... giúp cá nhân trải nghiệm các loại hình giải trí đa dạng; khả năng tạo playlist cho các bài hát của người dùng; đặc biệt khả năng tích hợp tốt với các mạng xã hội khác như Twitter, Facebook giúp các thành viên mở rộng tối đa quyền tương tác của mình. Lấy mối quan hệ làm trung tâm (relationship centric) Đặc điểm chung của các mạng xã hội loại này là xây dựng những ứng dụng thu hút thành viên tương tác với nhau, tạo dựng quan hệ, liên kết với nhau. Nó giúp 24

cho các cá nhân biết người có quan hệ với mình đang làm gì và ngược lại ở đó việc thể hiện bản thân nhằm mục đích tạo lập nhiều mối quan hệ. Đặc điểm của loại mạng này là các mối quan hệ càng chặt càng tốt, các tính năng của mạng cũng phải hỗ trợ cho nhu cầu quan hệ này. Đại diện tiêu biểu cho loại mạng xã hội này là hai mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay: Facebook và Twitter. Twitter là mạng xã hội mini cho phép người dùng chia sẻ thông tin bằng nhiều hình thức thông qua web hay qua SMS trên các thiết bị di động cầm tay. Twitter rất đơn giản và dễ sử dụng, được sử dụng phổ biến ở... Mới đây, Twitter đã thay đổi hoàn toàn giao diện và bổ sung một số tính năng như hỗ trợ chia sẻ video, ảnh trực tiếp trong tin nhắn của người dùng. Với các tính năng như: Dễ dàng cập nhật và chia sẻ thông tin; khả năng kết nối rất mạnh; thành viên được quyền tự do follow người mình thích trừ khi bị chặn; tin nhắn sẽ được gửi tới tất cả mọi người; không cần login để đọc cập nhật mới; có thể dùng phần mềm đọc RSS thay thế mà khả năng tương tác, tạo dựng quan hệ trên Twitter vô cùng mạnh mẽ. Lấy nội dung làm trung tâm (content centric) Điểm nhấn của nhóm mạng xã hội này là lấy sản phẩm nội dung tạo ra cho cộng đồng mạng làm trung tâm. Sản phẩm được thể hiện theo một dạng đa phương tiện nào đó như bài viết, ảnh, audio/video Ở Việt Nam dạng này có các mạng như Tamtay, Chacha, Mp3, Zing, LiveSpace, phần MyPage của Yahoo!360... Ngoài ra còn nhiều loại khác là sự tổng hợp của các đặc trưng trên cũng như các mạng chuyên biệt cho từng nội dung, đối tượng, công nghệ. Những nhóm này có sự tổng hợp nội dung, không tách bạch rõ ràng các đặc trưng cụ thể và tùy mục đích, thời điểm lại được xếp vào các nhóm khác nhau. Chẳng hạn các mạng xã hội được xây dựng để phục vụ các cá nhân tạo dựng hình ảnh (cá nhân làm trung tâm), xây dựng nhiều mối quan hệ đa dạng nhưng khi họ tham gia vào các hội nhóm với phần nội dung thông tin được chú trọng thì lại thiên về nội dung làm trung tâm. Do đó, sự phân chia trên đây chỉ mang tính chất tương đối nhằm nâng cao nhận thức về mạng xã hội. Điều quan trọng cần lưu tâm chính là những lợi ích cũng như hiệu quả của việc sử dụng mạng xã hội đến người dùng không chỉ trong thế giới ảo mà còn trong đời thực. 25

Như đã đề cập ở trên, trong nhóm mạng xã hội lấy mối quan hệ làm trung tâm Facebook là một đại diện tiêu biểu. Hiện nay, Facebook đang là mạng xã hội có sức ảnh hưởng lớn đến cộng đồng người dùng Internet trên toàn cầu. Do đó, việc tìm hiểu đặc trưng cũng như các yếu tố làm nên sức hút của mạng xã hội này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn mà tiết 1. 2 dưới đây sẽ làm rõ. 1.1.2. Khái niệm mạng xã hội Facebook Facebook là khái niệm quen thuộc với tất cả mọi người dùng Internet trên khắp thế giới. Đây là mạng xã hội ra đời ngày 4/2/2004 do Mark Zuckerberg sáng lập với chức năng chính là kết nối bạn bè và chia sẻ thông tin. Facebook có những đặc điểm nổi bật như: - Khả năng kết nối phong phú. - Nhiều tính năng hấp dẫn: Kết bạn, tìm bạn, tạo Groups, Fanpage. - Khả năng chia sẻ hình ảnh/ video dễ dàng. - Nhiều ứng dụng, games đa dạng. * Lịch sử ra đời, phát triển Facebook Facebook mở đầu là phiên bản Hot or Not của đại học Harvard với tên gọi Facemash. Ngày 28/10/2003 Mark Zuckerberg ra mắt website Facesmash.com. Ít ngày sau website đã phải đóng cửa do sự phản đối của các sinh viên trong trường bởi Mark đã đánh cắp dữ liệu trong database của trường Harvard. Ngày 13/9/2003 ý tưởng the face book tính năng mới nhất của housesystem- một hệ thống giúp định vị nhanh chóng thông tin của các sinh viên lần đầu tiên được Greespan phát đi rộng rãi tới các sinh viên thông qua email. HouseSYSTEM là một dịch vụ trên web thu hút trên 7000 sinh viên Harvard trong đó có Mark Zuckerberg. Sau đó 2 tháng, theo lời mời của hai anh em sáng lập Greespan, Mark bắt đầu làm việc tại HarvardConnection.com. Tuy nhiên sự hợp tác này không mang lại kết quả như mong muốn bởi trong thời gian hợp tác Mark Zuckerberg đã âm thầm tạo dựng một trang mạng mới của riêng mình dẫn đến vụ kiện cáo đánh cắp ý tưởng sau này với những người thành lập HarvardConnection.com. Ngày 11/1/2004 Mark đăng ký tên miền thefacebook.com và đến 4/2/2004 một website tương tự Friendster ra đời tại phòng trọ của Zuckerberg. Sau đó 26

Eduardo Saverin (kinh doanh), Dustin Moscovitz (lập trình viên), Andrew McCollum (đồ họa) và Chris Hughes nhanh chóng tham gia cùng Zuckerberg để quảng bá website. Trong vòng 24 giờ đã có 1200 sinh viên đăng ký và trong vòng 1 tháng đầu tiên đã có 1 nửa sinh viên Harvard tham gia dịch vụ này. Vào tháng 3/2004 Facebook mở rộng sang Standford, Columbia và Yale. Ngay sau đó mở rộng ra tất cả các trường đại học, cao đẳng tại Mỹ. Đến tháng 6/2004 website thu hút khoảng 30 trường với hơn 15 000 sinh viên đăng ký. Cũng trong tháng đó, Facebook nhận được khoản đầu tư đầu tiên từ Peter Thiel (500 000USD) đổi lại 10,2% cổ phần Facebook. Mặc dù vào tháng 9/2004 những người sáng lập HarvardConnection đệ đơn kiện Facebook vì tội ăn cắp ý tưởng nhưng Facebook vẫn chứng tỏ sức hút của mình khi đến thời điểm 30/12/2004 đã có 1 triệu thành viên tạo profile trên Facebook. Facebook tiếp tục phát triển mạnh mẽ bằng việc mở rộng thêm ở các trường đại học thuộc Úc, New Zealand và nhận thêm nhiều khoản đầu tư. Facebook cũng mở rộng hệ thống với sự tham gia của các nhân viên làm việc tại Apple, Microsoft Cuối năm 2005 hệ thống Facebook bao gồm hơn 2000 trường cao đẳng và 25 000 trường cấp 3 ở Mỹ, Anh, Mexico, Canada, Úc, Ngày 26/9/2006 Facebook chào đón tất cả thành viên trên 13 tuổi và sở hữu 1 email hợp lệ. Đây là cú hích quyết định sự gia tăng thành viên mạnh mẽ của Facebook. Cuối năm 2007 Facebook đã có khoảng 100.000 trang kinh doanh đồng thời tiếp tục nhận thêm hàng trăm triệu USD từ các chủ thể đầu tư, trong đó có Microsoft. Tháng 6/2008 ConnectU, mạng xã hội thành lập năm 2004, đã cáo buộc Mark Zuckerberg ăn cắp ý tưởng và sử dụng mã nguồn, công nghệ của mình để xây dựng Facebook. Vấn đề đã được đưa ra toà nhưng vụ kiện đã không được giải quyết và Facebook vẫn tiếp tục phát triển với những cải tiến, nâng cấp không ngừng. Tháng 5/2009 Facebook lần đầu tiên vượt qua Myspace về lưu lượng truy cập tại Mỹ. Sau đó một thời gian ngắn Facebook mua lại FriendFeed. Tháng 9/2009 là thời điểm Facebook bắt đầu thu được những khoản lời đầu tiên cùng với việc tiếp tục thực hiện nhiều thương vụ mua bán và không ngừng phát triển. Tháng 6/2010 giá trị của Facebook được định giá khoảng 11,5 tỷ USD. 27

Nhờ nhận thêm đầu tư, tháng 1/2011 giá trị của Facebook được nâng lên 50 tỷ USD. Facebook cũng không ngừng mở rộng hợp tác để phát triển các ứng dụng. Tháng 4/2012 mua lại Instalgram với giá 1 tỷ USD. Tháng 5/2012 phát hành hơn 420 triệu cổ phiếu (IPO) đem về cho Facebook hơn 16 triệu USD và nâng giá trị của Facebook lên 104 tỷ USD. Tháng 10/2012 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình đi lên của Facebook khi mạng xã hội này đạt ngưỡng 1 tỷ người dùng (nguồn: Theo Pandora, 10 năm hình thành và phát triển của Facebook, http://techdaily.vn/khoi-nghiep/lich-su-10-nam-hinh-thanh-va-phat-trien-cuafacebook/) chứng tỏ năng lực, sức hút mạnh mẽ của mạng xã hội phổ biến nhất thế giới. Trên đà phát triển, năm 2013 Facebook tiếp tục phát triển ứng dụng, thu hút người dùng thông qua phát triển thêm ứng dụng Graph search tính năng tìm kiếm nội dung với mức độ cá nhân hóa cao. Hiện nay, Facebook đang là mạng xã hội phổ biến nhất thế giới với hơn 1 tỷ người dùng trên thế giới. Biểu 1: Thống kê lƣợng ngƣời dùng Facebook (đơn vị: triệu ngƣời). (Nguồn: [22; tr. 31]) *Một số đặc điểm, tính năng nổi bật của Facebook (1) Đơn giản, dễ sử dụng Đối với người dùng Internet, việc đăng ký và tham gia Facebook không phải là một trở ngại lớn bởi sự tiện dụng và đơn giản của nó. Chỉ cần có một tài khoản mail đang sử dụng và một vài thao tác bạn sẽ nhanh chóng tạo lập được một tài khoản Facebook. Mọi hướng dẫn trên trang Facebook của bạn đã được Việt hóa nên không khó để bạn trải nghiệm những tính năng được khởi tạo. Sau khi đã có tài khoản cá 28

nhân người dùng có thể tùy ý sử dụng các tính năng như kết bạn, đăng ảnh, chia sẻ tin tức nổi bật... và tự hoàn thiện thêm cho homepage (trang cá nhân) của mình. (2) Khả năng kết nối phong phú. Được minh chứng bằng tần suất xuất hiện mọi nơi của Facebook. Các trang báo mạng hầu hết đều có mục chia sẻ trên Facebook giúp người dùng chia sẻ ngay thông tin vừa đọc cho bạn bè. Không chỉ xuất hiện trong thế giới ảo mà trong các cuộc nói chuyện bạn bè các đề tài được nói đến có thể là sự tiếp nối những bình luận trên Facebook. Bây giờ Facebook đã trở thành một trong những công cụ liên lạc chính của nhiều người, đặc biệt là giới trẻ. Ở đó có đầy đủ thông tin của đối tác mà việc tìm hiểu thuận tiện, đơn giản hơn việc trao đổi số điện thoại rất nhiều. Người dùng có thể gửi lời mời kết bạn tới bất kỳ tài khoản Facebook nào và dễ dàng có thêm một người bạn chỉ với một cú nhấp chuột đồng ý. Với Facebook, khoảng cách tuổi tác, nghề nghiệp hay mức độ quen biết không còn là vấn đề quá lớn. Bố mẹ có thể kết bạn với con cái, thầy cô có thể kết bạn với học sinh, nhân viên kết bạn với sếp...ngoài ra người dùng còn có thể tham gia các hội, nhóm (Group) cùng sở thích hay có một điểm tương đồng nào đó. Hiện nay có rất nhiều hội, nhóm trên Facebook cho bạn lựa chọn như: câu lạc bộ tiếng anh, quà tặng cuộc sống, các hội đồng hương, nhóm lớp cũ...hỗ trợ các thành viên tìm được tiếng nói chung tại các cộng đồng của họ. Với Facebook việc kết bạn, trao đổi thông tin trở nên giản tiện và thuận lợi hơn rất nhiều. (3)Nhiều tính năng hấp dẫn như: Kết bạn, tìm bạn, tạo Groups, Fanpage, trả lời bình luận. Để thu hút người dùng, Facebook tung ra nhiều tính năng phổ cập nhằm giúp người dùng có thêm nhiều trải nghiệm khác nhau. Các tính năng như kết bạn, tìm bạn, tạo Groups, fanpage, trả lời bình luận là những điểm hấp dẫn người dùng. Kết bạn là tính năng đầu tiên của Facebook và là một trong những tính năng tiên quyết góp phần quảng bá, phổ biến mạng xã hội này. Một người gia nhập Facebook ngay lập tức có xu hướng tìm bạn bè cũ để nối lại liên lạc, mời bạn bè cùng tham gia các Group của mình. Nhờ tính năng tìm bạn mà nhiều người dùng đã nối lại liên lạc với bạn bè thất lạc nhiều năm một cách đơn giản và nhanh chóng cũng như dễ dàng kết thêm nhiều bạn mới. Chính vì vậy, khi có thêm một người dùng Facebook thì sẽ kéo 29

theo sự tăng lên đáng kể về lượng thành viên. Thêm vào đó, tính năng tạo Groups hay Fanpage giúp người dùng tập hợp những người cùng chung sở thích hay chia sẻ thông tin, tình cảm với nhau hoặc với một đối tượng khác (thần tượng âm nhạc, một người đáng kính...). Trên diễn đàn này họ có thể cập nhật thông tin khá đầy đủ, thường xuyên mà không mất quá nhiều công sức. Họ có thể bày tỏ quan điểm, thái độ, nhận định thoải mái hơn so với gặp mặt trực tiếp. Tính năng trả lời các bình luận (comment) trên một chủ đề nào đó là tính năng mới nhất vừa được người đứng đầu Facebook công bố đầu tháng 5 năm 2013. Thay vì như trước đây để trả lời những nội dung bình luận, người dùng phải đăng một đoạn bình luận mới ngay bên dưới bình luận mới nhất, điều này sẽ gây khó khăn trong việc cùng thảo luận về một chủ đề nào đó trên Facebook nếu chủ đề đó có quá nhiều người tham gia bình luận. Giờ đây, với tính năng trả lời bình luận, người dùng có thể trả lời một bình luận khác ngay bên dưới đoạn nội dung bình luận mà người dùng muốn trả lời. Điều này sẽ giúp các cuộc thảo luận dễ theo dõi hơn và biết rõ được ai đang bàn luận về vấn đề gì. Điều này sẽ giúp dễ dàng hơn trong việc tương tác và giao tiếp với từng cá nhân và tạo nên những cuộc hội thoại có liên quan, kết nối với nhau. Có thể thấy mạng xã hội này giúp người dùng thiết lập các mối quan hệ, thể hiện bản thân và dễ dàng chia sẻ cảm xúc, ý kiến cá nhân từ đó xác lập nên một mạng lưới trao đổi thông tin đa dạng. (4) Khả năng chia sẻ hình ảnh, video dễ dàng Không chỉ chia sẻ thông tin, cảm xúc, Facebook còn hỗ trợ chia sẻ hình ảnh, video một cách dễ dàng. Mỗi ngày hàng nghìn bức ảnh được chia sẻ trên Facebook khiến người dùng có cái nhìn sinh động nhất về cuộc sống của bạn bè và xã hội. Người dùng có thể upload hình ảnh theo từng album (chủ đề) hoặc upload thông thường. Thậm chí, Facebook còn cho phép chụp ảnh từ webcam của mình. Ngoài ra Facebook còn hỗ trợ upload những hình ảnh từ di động lên album trên Facebook để chia sẻ hay tải các hình ảnh đẹp về máy. Nhằm thiết lập sự riêng tư, người dùng có thể tùy chọn để cho phép album được xem bởi những ai (bởi tất cả mọi người, bởi những ai là bạn bè, hay bạn bè của bạn bè ). (5) Nhiều ứng dụng, games đa dạng Với những người thường xuyên dùng Internet, các Games trên Facebook là sự lựa chọn khá tốt. Ở đó có hàng trăm trò chơi miễn phí để lựa chọn với những 30

games phổ biến như: Top Eleven, Dragon City, Poker Texas Hold s em Việt Nam...thuộc các thể loại: hành động, phiêu lưu, nhập vai, sòng bạc, đánh bài, Gia đình, tìm vật, câu đố, mô phỏng, thể thao, chiến lược, kiến thức và từ vựng Đồng thời người dùng còn có thể đưa ra yêu cầu cho bạn bè cùng chơi. Đây là kênh giải trí tiện lợi cho người dùng nhưng cũng là lý do khiến chủ tài khoản lãng phí nhiều thời gian hơn vào các hoạt động. (6) Thiết lập quyền riêng tư Mặc dù với Facebook người dùng có thể theo dõi khá sát sao tình hình của nhau nhưng với những thông tin không muốn công khai, người dùng có thể dễ dàng thiết lập quyền riêng tư. Đây là một trong những tính năng hỗ trợ bảo mật thông tin người dùng của Facebook, giúp chọn lọc thông tin trước khi công khai. Chủ tài khoản có thể lựa chọn các chế độ bảo mật như công khai, bạn bè, chỉ mình tôi, tùy chỉnh tùy theo mức độ muốn công khai thông tin của mình. Nhờ tính năng này người dùng vẫn có thể tương tác với người khác đồng thời vẫn đảm bảo được quyền riêng tư của mình. Tuy nhiên tính năng bảo mật này chỉ mang tính tạm thời và không thực sự an toàn nếu người dùng không thận trọng. Đây cũng là vấn đề nhiều người dùng lo ngại nhất khi sử dụng Facebook. Với nhiều tính năng đa dạng và tiện dụng như vậy không quá ngạc nhiên khi Facebook trở nên phổ biến trên phạm vi toàn thế giới và cả ở Việt Nam. Facebook du nhập vào Việt Nam trải qua một quá trình không phải chỉ có những thuận lợi nhưng nay mạng xã hội này đã có chỗ đứng khá vững chắc trong cộng đồng người dùng Việt Nam với tốc độ tăng trưởng người dùng nhanh nhất thế giới. * Sự du nhập của Facebook vào Việt Nam Facebook du nhập vào Việt Nam (VN) từ những năm 2008-2009. Tuy nhiên Facebook được cho là tình cờ chiếm được ưu thế ở VN kể từ sau khi Blog 360 của Yahoo ngừng hoạt động vào tháng 7/2009. Tuy du nhập khá muộn và phải cạnh tranh với nhiều trang mạng khác nhưng lượng người truy cập của Facebook đã nhanh chóng tăng đáng kể, từ 1,8 triệu người vào cuối năm 2009 lên đến 2,9 triệu người vào tháng 10/2010. Theo số liệu từ các công ty nghiên cứu thị trường, VN được ghi nhận là nước có lượng người dùng Facebook tăng nhanh nhất thế giới với 146% chỉ trong sáu 31

tháng. Cụ thể hơn, có thời điểm lượng người dùng Facebook ở VN tăng thêm 500.000 người chỉ trong hai tuần. Vào tháng 10/2012, Facebook vượt qua Zing Me trở thành mạng xã hội số một tại VN (tại thời điểm này Facebook có 8,5 triệu người dùng, trong khi Zing Me có 8,2 triệu). Hiện giờ Facebook vẫn tiếp tục có thêm thành viên nhưng Zing Me lại có vẻ đang chững lại. (nguồn: http://www.tienphong.vn/ Gioi-Tre/619993/Mang-xa-hoi-Cuoc-choi- khong-don-gian-tpol.htm) Không thể phủ nhận sức lan tỏa mạnh của mạng xã hội Facebook là nhờ những tiện ích và các tính năng vượt trội của nó. Một trong những tính năng vượt trội của Facebook chính là tính lan tỏa và khả năng tương tác mạnh mẽ đến người dùng. Hiện nay Facebook đang đóng vai trò quan trọng trong đời sống người Việt, đặc biệt là trong giới học sinh- sinhviên và có ảnh hưởng đáng kể đến những tương tác xã hội của người dùng. Những tương tác xã hội nói chung và những tương tác xã hội ảnh hưởng bởi việc sử dụng mạng xã hội Facebook nói riêng sẽ được làm rõ trong tiết 1.3 dưới đây. 1.1.3. Khái niệm Sinh viên Thuật ngữ Sinh viên có nguồn gốc từ tiếng La tinh Student có nghĩa là người làm việc, học tập nhiệt tình, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. Nó được dùng cùng nghĩa tương đương với từ Student trong tiếng Anh. Sinh viên là để chỉ những người theo học ở bậc đại học và phân biệt với học sinh đang theo học ở bậc phổ thông. Theo quy chế công tác Học sinh Sinh viên trong các trường đào tạo của Bộ giáo dục và Đào tạo thì: sinh viên là người đang theo học hệ đại học và cao đẳng. Sinh viên là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng hay trung cấp chuyên nghiệp. Ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá trình học. (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/sinhviên) Từ đó ta có thể hiểu khái niệm sinh viên là những người đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng - nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của xã hội. 1.1.4. Khái niệm Vốn xã hội Có nhiều khái niệm về Vốn xã hội, tuy nhiên trong bài chỉ xét đến một số khái niệm cơ bản của các nhà nhà nghiên cứu đã nêu ra về Vốn xã hội như sau: 32

- Bourdier định nghĩa: Vốn xã hội là một mạng lưới lâu bền bao gồm các mối liên hệ quen biết nhau và nhận ra nhau, những mối liên hệ này ít nhiều đã được định chế hóa. [24, tr. 74] - James Coleman định nghĩa: Vốn xã hội bao gồm: các mạng lưới xã hội (social networks), các chuẩn mực (norms), sự tin cậy trong xã hội (social trust) - là những cái giúp cho các thành viên có những hành động chung với nhau một cách có hiệu quả nhằm đạt tới những mục tiêu chung. [24, tr. 74] - Robert Putnam định nghĩa: Vốn xã hội nói tới những khía cạnh đặc trưng của tổ chức xã hội như các mạng lưới xã hội, các chuẩn mực, và sự tin cậy trong xã hội, vốn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phối hợp và sự hợp tác nhằm đến lợi ích hỗ tương. [24, tr.75] - Cohen và Prusak (năm 2001) định nghĩa: Vốn xã hội bao gồm phần lớn sự hợp tác xây dựng giữa những con người với nhau: sự tin tưởng, sự hiểu biết lẫn nhau, sự chia sẻ những giá trị đạo đức, phong cách nối kết những thành viên trong các tập đoàn, các cộng đồng lại với nhau làm cho việc phối hợp hành động có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên trong nghiên cứu này muốn tập trung vào nghiên cứu vốn xã hội dựa vào nội dung nhỏ trong nội hàm của các yếu tố cấu thành nên vốn xã hội đó chính là mạng lưới xã hội và các quan hệ xã hội của chủ thể. Vốn xã hội trong nghiên cứu ở đây là phân tích dựa trên các yếu tố: mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội và sự tin tưởng. * Khái niệm mạng lƣới xã hội: Có một số định nghĩa về mạng lưới xã hội như sau: Mạng lưới xã hội là một cấu trúc xã hội hình thành bởi những cá nhân (hay những tổ chức), các cá nhân được gắn kết bởi sự phụ thuộc lẫn nhau thông những nút thắt như tình bạn, quan hệ họ hàng, sở thích chung, trao đổi tài chính, quan hệ tình dục, những mối quan hệ về niềm tin, kiến thức và uy tín. Đơn giản hơn, mạng lưới xã hội là đồ thị những mối quan hệ xác định, ví dụ như tình bạn. Các nút thắt gắn kết cá nhân với xã hội chính là những mối liên hệ xã hội của cá nhân đó. Mạng lưới xã hội có thể dùng để kiểm tra vốn xã hội - giá trị mà cá nhân có được từ mạng lưới xã hội. Những khái niệm này thường 33

được biểu thị trong biểu đồ mạng xã hội, trong đó các nút thắt chính là các điểm và các mối quan hệ. Theo định nghĩa của Fitchter (1957), mạng lưới xã hội (social network) bao gồm nhiều mối quan hệ đôi. Mỗi người trong mạng lưới có liên hệ với ít nhất 2 người khác nhưng không ai có liên hệ với tất cả những thành viên khác. Theo Đặng Nguyên Anh thì: trên bình diện xã hội học, khái niệm mạng lưới xã hội dựa trên cơ sở lý thuyết hệ thống và tương tác xã hội. Mạng lưới xã hội là tập hợp liên kết giữa các cá nhân hay giữa các nhóm dân cư nhất định. Thông qua sự tiềm ẩn trong những mối liên hệ cũng như quyền lợi và trách nhiệm chi phối các mối quan hệ đó, mạng lưới xã hội được sử dụng nhằm đạt được mục đích nhất định. [3] Một quan niệm xã hội học khác cho rằng: mạng lưới xã hội dùng để chỉ phức thể các mối quan hệ xã hội do con người xây dựng, duy trì và phát triển trong cuộc sống thực của họ với tư cách là thành viên xã hội. [19, tr. 67] Trong xã hội học, các quan điểm và tính chất của mạng lưới xã hội được nghiên cứu từ nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Lý thuyết tương tác xã hội của Georg Simmel tập trung vào phân tích các kiểu, hình thức của mạng lưới xã hội gồm các mối quan hệ của các cá nhân đang tác đọng lẫn nhau. Theo thuyết cấu trúc - chức năng, Emile Durkhiem phân biệt hai kiểu đoàn kết xã hội hữu cơ và máy móc trên cơ sở hai hình thwucs phân công lao động phức tạp và đơn giản tạp nên những kiểu quan hệ và liên hệ tương ứng giữa các cá nhân và nhóm người. Mạng lưới quan hệ chức năng đặc trưng cho kiểu đoàn kết hữu cơ của xã hội hiện đại và mạng lưới quan hệ phi chức năng đặc trưng cho kiểu đoàn kết máy móc của xã hội truyền thống. Theo lý thuyết hệ thống xã hội, một số tác giải tập trung vào giải quyết một nhiệm vụ trung tâm của xã hội học là nghiên cứu cốt lõi bên trong của xã hội. Với tư cách là kiểu mối liên hệ và quan hệ giữa các thành tố xã hội, mạng lưới xã hội là biểu hiện cụ thể, trực tiếp và rõ rệt nhất của cấu trúc xã hội. Phân tích mạng lưới xã hội trờ thành một phương pháp tiếp cận cấu trúc xã hội. [19] Nếu như các nhà tâm lý học xã hội như: Jacob Moreno, Alex Bavelas, Fritz Heider chủ yếu nghiên cứu nhu cầu, động cơ, tình cảm của mạng lưới xã hội; thì các nhà xã hội học lại tập trung nghiên cứu hình thù, khuôn mẫu, kiểu loại, quy mô, đặc điểm và tính chất của sự hình thành, vận động và biến đổi của mạng lưới xã hội. 34

Có hai cách tiếp cạn chủ yếu ở đây là: (1) nghiên cứu định lượng (tần suất tiếp xúc, mật độ quan hệ, độ bền vừng về mặt thời gian và quy mô, phạm vi phân bố trong không gian của mạng lưới. (2) nghiên cứu định tính như chiều, hướng, vị trí, kiểu, dạng, tính chất và độ tin cậy của mối quan hệ tạo thành mạng lưới xã hội. 1.1.5. Khái niệm Lối sống - Lối sống là một phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa. [13, tr. 10] - Dưới góc độ xã hội học khái niệm lối sống được hiểu như là những khuôn mẫu, hành vi, ứng xử tương đối ổn định trong tổ chức đời sống xã hội của mỗi cá nhân, nhóm xã hội tương ứng với vị trí, vai trò trong một cấu trúc xã hội. Ở đây lối sống quy định tư duy, giao tiếp, ứng xử của con người trong các lĩnh vực lao động sản xuất, văn hóa xã hội, chính trị, tư tưởng và đời sống sinh hoạt hàng ngày. 1.1.6. Khái niệm Quan hệ xã hội - Khái niệm quan hệ xã hội vốn được dùng trong triết học, nó chỉ mối quan hệ giữa người và người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cũng có thể hiểu quan hệ xã hội là quan hệ bền vững ổn định của các chủ thể hành động. Các quan hệ này được hình thành trên những tương tác xã hội ổn định, lặp đi lặp lại Quan hệ xã hội không tách rời khỏi hành động xã hội và tương tác xã hội. Hành động xã hội tạo ra tương tác xã hội, tương tác xã hội lặp đi lặp lại tạo ra quan hệ xã hội. Hành động xã hội và tương tác xã hội tạo ra mức độ nông, sâu, bền vững, kém bền vững của các mối quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội được xác lập sẽ chi phối hành động xã hội và tương tác xã hội. Các mối quan hệ xã hội chằng chịt tạo ra một mạng lưới tương đối ổn định, mạng lưới quan hệ xã hội tạo ra cơ cấu xã hội. Các loại hình quan hệ xã hội + Quan hệ xã hội sơ cấp (mang ít tính xã hội hơn, chủ yếu là quan hệ tình cảm) và quan hệ xã hội thứ cấp (quan hệ mang tính xã hội). + Dựa vào những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, người ta phân chia thành các loại hình: quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ văn hoá xã hội. 35

+ Dựa vào vị thế xã hội của các cá nhân, người ta chia thành quan hệ người cùng vị thế và quan hệ của những người khác vị thế (quan cấp trên và cấp dưới, trung ương với địa phương). + Dựa vào tính chất của các kiểu quan hệ, người ta có thể chia thành quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần. Các yếu tố tác động đến quan hệ xã hội - Yếu tố lợi ích (chi phối mạnh mẽ đến quan hệ xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường) -Yếu tố tâm lý - Yếu tố phong tục, tập quán thói quen - Yếu tố vị thế xã hội 1.1.7. Khái niệm Tiến triển Theo tác giả tiến triển trong luận văn được hiểu là sự thay đổi, sự chuyển biến cả tích cực lẫn tiêu cực về một vấn đề nào đó. Trong đề tài nghiên cứu sự tiến triển vốn xã hội của sinh viên khi dùng Facebook được phân tích và hiểu là sự thay đổi về các mối quan hệ xã hội, mạng lưới xã hội của sinh viên sau khi sử dụng Facebook. 1.2. Lý thuyết áp dụng 1.2.1. Lý thuyết vốn xã hội Vốn xã hội (social capital) được quan niệm là một loại vốn, bên cạnh các loại vốn khác như vốn kinh tế, vốn văn hóa, vốn con người. Lyda Judson Hanifan được coi là người đầu tiên đưa ra khái niệm vốn xã hội vào năm 1916. Ông dùng khái niệm vốn xã hội để chỉ tình thân hữu, sự thông cảm lẫn nhau, cũng như tương tác giữa các cá nhân hay gia đình. Tuy nhiên, khái niệm vốn xã hội thực sự trở thành khái niệm khoa học quan trọng trong tác phẩm Các hình thức của vốn của Bourdier năm 1986. Đến nay, đã có nhiều tác giả đưa ra định nghĩa và cách giải thích khác nhau về vốn xã hội như Bourdieu (1986); Coleman (1988); Fukuyama (2001, 2002); Putnam (1995, 2000). Phân tích một cách khái quát các định nghĩa cũng như các cách giải thích này đã cho thấy giữa các tác giả vừa có sự thống nhất lại vừa có cách hiểu khác nhau về vốn xã hội. Trước hết, các tác giả đều thống nhất với nhau ở chỗ 36

cho rằng vốn xã hội gắn liền với mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội, chẳng hạn, vốn xã hội kết nối với mạng lưới xã hội tương đối bền vững (Boudieu); Vốn xã hội nằm trong quan hệ xã hội (Coleman); Vốn xã hội ở trong mạng lưới xã hội (Lin); mạng lưới xã hội là một thành tố của vốn xã hội (Putnam); cần quan sát vốn xã hội thông qua mạng lưới xã hội (Portes). Thứ hai, khi bàn về vốn xã hội, các tác giả dùng khái niệm nguồn lực để định nghĩa vốn xã hội. Bourdieu quan niệm vốn xã hội là nguồn lực dựa trên mạng lưới được thừa nhận hoặc quen biết; Lin định nghĩa vốn xã hội là nguồn lực nằm trong mạng lưới xã hội. Portes dùng khái niệm nguồn lực để biểu thị vốn xã hội. Thứ ba, các tác giả đều quan niệm vốn xã hội được tạo ra thông qua việc đầu tư vào các quan hệ xã hội hoặc mạng lưới xã hội, và các cá nhân có thể sử dụng vốn xã hội để tìm kiếm lợi ích. Với Bourdieu vốn xã hội là kết quả của sự đầu tư. Trong thời gian ngắn hạn hoặc dài hạn, kết quả đó có thể được sử dụng chuyển thành các loại vốn khác, chẳng hạn vốn kinh tế. Coleman cho rằng vốn xã hội là sản phẩm tái sinh của các hoạt động khác, thông qua các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Người ta thiết lập và duy trì những quan hệ như thế để tìm kiếm và duy trì lợi ích. Theo Fukuyama, cá nhân có thể tạo ra và sử dụng vốn xã hội để phục vụ mục đích của mình. Trong khi đó Putman cho biết vốn xã hội được dùng để tìm kiếm sự thịnh vượng về kinh tế, hay thành công trong học hành. Lin cho rằng vốn xã hội phản ánh khả năng đầu tư và lợi ích thu về. Còn Portes cho rằng cá nhân sử dụng vốn xã hội có thể thu được lợi ích. Thứ tư giữa các tác giả khi đề cập đến vốn xã hội là vấn đề sự tin cậy và quan hệ qua lại/sự có đi có lại. Bourdieu định nghĩa vốn xã hội là nguồn lực dựa trên mạng lưới được thừa nhận hoặc quen biết, trong khí đó các thành viên tương tác qua lại với nhau. Coleman khẳng định trách nhiệm, sự mong đợi và lòng tin là các hình thức của vốn xã hội. Trách nhiệm và mong đợi lẫn nhau đã tạo nên sự tin cẩn giữa các cá nhân. Fukuyama quan niệm vốn xã hội gồm có chuẩn mực của sự có đi có lại và vốn xã hội biểu thị sự tin cậy. Portes nói rằng sự trao đổi qua lại và lòng tin là nguồn gốc của vốn xã hội. Bên cạnh những điểm thống nhất, các nhà nghiên cứu cũng có các quan niệm khác nhau khi định nghĩa vốn xã hội. Trong khi Bourdieu phát biểu rằng vốn xã hội 37

là nguồn lực liên kết với các mạng lưới xã hội thì Coleman khẳng định vốn xã hội là các khía cạnh của cấu trúc xã hội mà những khía cạnh này tạo thuận lợi cho hành động của các cá nhân; còn Putnam quan niệm vốn xã hội bao gồm các mạng lưới xã hội, các chuẩn mực của quan hệ trao đổi quan lại và sự tin cẩn. Nếu Lin định nghĩa vốn xã hội là nguồn lực nằm trong mạng lưới xã hội thì Fukuyama coi vốn xã hội là các chuẩn mực không chính thức. Đối với Portes, vốn xã hội là khả năng của cá nhân tìm kiếm lợi ích thông qua tư cách thành viên trong các mạng lưới xã hội, hoặc cấu trúc xã hội. Tóm lại, cho đến nay vẫn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về vốn xã hội: đó là nguồn lực, các khía cạnh của cấu trúc xã hội, chuẩn mực không chính thức, mạng lưới xã hội, sự trao đổi qua lại, sự tin cậy, vv... Cho đến nay, khái niệm vốn xã hội vẫn đang được tiếp tục thảo luận, phát triển với nhiều định nghĩa, cách giải thích khác nhau, và cả những phê phán đi kèm. Đánh giá một cách tổng thể thì sự khác nhau đó tạo ra cả khó khăn lẫn thuận lợi cho việc áp dụng khái niệm này vào các nghiên cứu cụ thể. Về mặt thuận lợi, sự đang dạng và phong phú về định nghĩa và cách giải thích cho thấy vốn xã hội có thể được áp dụng vào nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Chẳng hạn, Coleman sử dụng định nghĩa và cách giải thích của mình về vốn xã hội để nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục. Trong khi đó Fukuyama đưa ra quan niệm của ông về vốn xã hội để tìm hiểu sự phát triển kinh tế. Về mặt khó khăn, sự khác nhau trong quan niệm về vốn xã hội dẫn đến những hỗn loạn và mâu thuẫn. Ví dụ, đối với Putnam, vốn xã hội bao gồm các mạng lưới xã hội; ngược lại Lin tuyên bố rằng vốn xã hội nằm trong/thuộc về các mạng lưới xã hội chứ không phải là các mạng lưới xã hội. Nếu Fukuyama xem vốn xã hội như là hàng hóa tư (private good), thì Bourdieu và Coleman lại coi đó là hàng hóa công (public good). Với những khác biệt như vậy tôi cho rằng mỗi nghiên cứu nên định nghĩa về vốn xã hội như là khái niệm làm việc trong một lĩnh vực cụ thể, phù hợp với mục đích của nghiên cứu đang được tiến hành, dựa trên việc khảo cứu quan điểm của các tác giả đi trước. Trong đề tài này sẽ phân tích sự hình thành, tiến triển vốn xã hội của sinh viên trong quá trình họ sử dụng Facebook, đặc biệt nghiên cứu chú trọng tới phân tích về mạng lưới xã hội và quan hệ xã hội của đối tượng sinh viên. 38

1.2.2. Lý thuyết mạng lưới xã hội Theo quan điểm của các nhà lý thuyết gia mạng lưới, các tiếp cận chuẩn mực tập trung vào văn hóa và quá trình xã hội hóa thông tin, qua đó các tiêu chí và giá trị được chủ quan hóa trong các chủ thể hành động. Họ lý luân rằng người ta nên tập trung vào khuôn mẫu khách quan của các mối dây liên kết các thành biên trong xã hội. Điều này được thể hiện rất rõ trong xã hội học lối sống. Theo như thuyết mạng lưới xã hội thì xã hội học lối sống nên nghiên cứu những mối liên hệ, sợi dây liên kết giữa các cá nhân, các nhóm xã hội với nhau. Đó có thể là mối quan hệ mang tính bền chặt hoặt là các mối quan hệ bình thường và không bền chặt. Trong cuộc sống của mỗi người đều tồn tại mạng lưới các quan hệ tương đối chằng chịt với nhiều cấp độ khác nhau. Nhà nghiên cứu về mạng lưới xã hội Wellman phát biểu quan điểm này như sau: Các nhà phân tích mạng lưới muốn nghiên cứu tính quy tắc trong cách thức mọi người và tập thể cư sử hơn là các tính quy tắc trong những niềm tin về cách thức mọi người nên cư xử. Từ đó các nhà phân tích mạng lưới có tránh né các lý giải mang tính chuẩn mực về hành vi xã hội. Họ loại trừ bất kỳ lý giải phi cấu trúc nào coi quá trình xã hội là tổng số quy kết cá nhân và các tiêu chí chủ quan của cá thể hành động [3, tr.68] Đồng thời, từ quan điểm trên Wellman cũng chỉ ra rằng: công việc cơ bản của các nhà xã hội học là nghiên cứu cấu trúc xã hội Mà cách thức trực tiếp để nghiên cứu một cấu trúc xã hội là phân tích khuôn mẫu của các liên hệ nối kết các thành viên của nó [3, tr.68] Nhìn chung, quan điểm này của các nhà nghiên cứu thuyết mạng lưới có thể được coi là phát biểu về đối tượng nghiên cứu xã hội học chính là các cấu trúc xã hội mà theo họ cho rằng: cách tốt nhất để nghiên cứu cấu trúc xã hội chính là nghiên cứu mạng lưới các liên kết giữa các thành viên trong xã hội, các nhóm Tuy nhiên, dưới cách tiếp cận của thuyết mạng lưới xã hội, xã hội học lối sống sẽ nghiên cứu các mối quan hệ giữa các cá nhân, nhóm theo quy tắc liên kết nhất định; tùy thuộc vào các chủ thể của mối quan hệ đó họ là ai, thuộc phân tầng xã hội nào, nông thôn hay thành thị Điều này sẽ giúp cho các nhà xã hội học lối sống có cách nhìn rộng hơn về các mối quan hệ giữa các cá nhân, nhóm trong xã 39

hội. Đặc biệt cách tiếp cận lý thuyết mạng lưới giúp cho xã hội học lối sống nhìn nhận và lý giải các hành vi sống, cách thức các cá nhân, nhóm thể hiện hành vi, lối sống của ban thân khác nhau trong những mối liên kết, quan hệ khác nhau. Tức là, nhờ có mạng lưới xã hội mà bản thân các chủ thể tạo ra cho mình mà các nhà nghiên cứu, xã hội học về lối sống biết được phạm vi sống, cách sống, lối sống của chủ thể đó được tạo ra từ đâu. Hay nói cách khác, nhờ vào các mạng lưới xã hội có sẵn và đạt được thông qua quá trình hoạt động xã hôi của các chủ thể mà chúng ta thấy được một phần lối sống của họ; đồng thời ở những mối liên kết khác nhau, chủ thể hiện các vai trò và lối sống khác nhau tùy thuộc vào mức độ thân thiết, cấp độ quan trọng, mục đích hướng tới trong các nút thắt của sợi dây liên kết trong một mạng xã hội rộng lớn. Không chỉ vậy, các nhà nghiên cứu của thuyết mạng lưới cũng chỉ ra rằng: các nhà phân tích mạng lưới tìm kiếm các cấu trúc sâu các khuôn mẫu mạng lưới có tính quy tắc nằm phía sau bề mặt thường là phức tạp của các hệ thống xã hội. Các chủ thể và các hành vi của họ được xem là bị kìm hãm bởi các cấu trúc đó. Do vậy, tiêu điểm không phải là hướng vào các chủ thể chủ động mà là sự kìm hãm về mặt cấu trúc Quan điểm này cũng đã phân biệt rõ đối tượng và khách thể của các nghiên cứu theo cách tiếp cân của thuyết mạng lưới. Chủ thể của các nghiên cứu xã hội học chính là các chủ thể, còn đối tượng nghiên cứu của xã hội học được nói rõ hơn chính là nghiên cứu sự kìm hàm về mặt cấu trúc mà các chủ thể thực hiện hành vi đều bị kìm hãm bởi cấu trúc đó. Đối với các nghiên cứu xã hội học lối sống thì việc tìm hiểu được những sự kìm hãm bên trong các hành vi của chủ thể sẽ lý giải được một phần lối sống, các hành vi biểu hiện bên ngoài của các cá nhân, nhóm dựa trên mạng lưới xã hội mà chủ thể đó có được. Sự kìm hãm hành vi trong cấu trúc xã hội được thể hiện rõ ràng thông qua mối liên kết giữa các cá nhân và các nhóm xã hội. Ở mỗi một nhóm xã hội khác nhau, các chủ thể có những hành vi khác nhau. Một mạng lưới xã hội của một chủ thể sẽ bao gồm rất nhiều nhóm với mức độ mật thiết, quan trọng, tính chất khác nhau. Xã hội học lối sống nghiên cứu các hành vi lối sống của các cá nhân, nhóm trong cộng đồng dưới cách tiếp cận mạng lưới xã hội sẽ giúp cho việc lý 40

giải một phần lớn thực chất bên trong lối sống của một nhóm, những nguyên nhân tác động đến lối sống của cá nhân, nhóm đó. Đồng thời cũng nhìn nhân sâu sắc hơn về mối liên kết giữa cá nhân với các các nhân, nhóm khác nhau trong xã hội. Nhìn vào cái sơ đồ mạng xã hội mà một cá nhân đạt được ta có thể nhìn thấy mối quan hệ của cá nhân rộng hay không, các mối quan hệ, nút liên kết quan trọng có tác động đến hành vi ứng xử hay lối sống của cá nhân. Hay nói cách khác chính là quá trình xã hội hóa cá nhân dưới sự tác động của các nhóm xã hội trong mạng lưới liên kết mà một cá nhân nắm giữ. Từ đó các nhà xã hội học lối sống sẽ có những cách lý giải về hành vi, cách ứng xử của một cá nhân, một nhóm hay một cộng đồng một cách logic nhờ vào quá trình phân tích về mạng lưới liên kết xã hội của cá nhân chủ thể. Cách tiếp cận mạng lưới xã hội sẽ giúp cho các nhà xã hội học nói chung và các nhà xã hội nghiên cứu lối sống nói riêng có xu hướng rời bỏ việc nghiên cứu các nhóm xã hội và phạm trù xã hội để đi tới việc nghiên cứu các liên kết giữa các chủ thể mà không được dàng buộc đầy đủ và không đan bện chặt chẽ giữa cá nhóm. Trong tác phẩm của Granovetter về sức mạng của các liên kết yếu, ông đã phân biệt những liên kết bền vững và những liên kết yếu. Chẳng hạn: là mối liên kết giữa bạn bè, người thân được gọi là mối liên kết bền vững, còn mối liên hệ giữa những người bình thường được gọi là mối liên kết yếu. Trong xã hội học nói chung chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các mối liên kết bền vững mà cá nhân tạo ra. Tuy nhiên nghiên cứu của Granovetter đã đóng góp thêm cho các nghiên cứu xã hội học nói chung khi ông chỉ ra rằng: một liên kết yếu cũng có thể trở nên quan trọng. Chẳng hạn, mối liên kết giữa hai chủ thể có thể trở thành cầu nói giữa hai nhóm có cấu trúc nội bộ bền vững. Đặt trong các nghiên cứu của xã hội học lối sống có thể thấy rằng, xã hội học lối sống không chỉ nghiên cứu những cái mà chúng ta gọi là những liên kết vững mà còn phải nghiên cứu những liên kết yếu. Mà theo Mark Granovetter thì: mật độ và cường độ của các mối liên hệ xã hội có tác dụng khác nhau đối với giao tiếp và sự hội nhập xã hội. Việc một cá nhân có mạng lưới xã hội dày đặc và khép kín trong đó mọi người đều quen biết và thân thiết với nhau có thể tạo ra sự hạn chế trong việc trao đổi thông tin và cản trở sự liên hệ với thế giới bên ngoài.ngược lại, một 41

mạng lưới xã hội gồm các mối liên hệ yếu ớt, lỏng lẻo, thưa thớt, luôn luôn mở lại tỏ ra có lợi cho sự trao đổi thông tin và tạo ra sự hội nhập với xã hội cũng như tạo cơ hội cho cá nhân theo đuổi mục đích của họ. [19] Từ việc nghiên cứu các liên kết yếu này, khi nghiên cứu về lối sống chúng ta sẽ lý giải được cuộc sống của các cá nhân, chủ thể trong xã hội. Việc một cá nhân hoạt động xã hội có mạng lưới các liên kết phong phú giữa các nhóm khác nhau thậm chí khi bản thân chủ thể chỉ có liên kết với một chủ thể khác trong nhóm kia. Điều này nó tạo ra sự phong phú trong các mối liên kết cũng tạo ra sự phân tán các mối quan hệ. Việc các chủ thể có mối quan hệ phong phú sẽ đem lại nhiều lợi ích cho bản thân chủ thể đó trong các hoạt động sống của họ. Trong khi đó, sự phân tán và thiếu các liên kết xã hội yếu sẽ khiến cho các chủ thể cảm thấy cuộc sống bị biệt lập, và có thể thiếu thông tin về các nhóm khác cũng như trong một xã hội rộng lớn. Điều này chúng ta thấy rõ nhất khi phân tích lối sống của người dân thành thị và nông thôn, lối sống của người giàu và người nghèo, giữa nhóm doanh nhân, nhóm làm công ăn lương, nhóm lao động tự do...thuyết mạng lưới xã hội đã giúp cho việc phân tích lối sống các nhóm xã hội trở nên hợp lý hơn, các nhà xã hội học lối sống nhìn nhận vấn đề rộng hơn và lý giải vấn đề liên quan đến lối sống theo một cách tiếp cận mới hơn ngoài các cách tiếp cận đã có sẵn như cách tiếp cận của các lý thuyết: cấu trúc - chức năng, hành vi lựa chọn hợp lý, hệ thống xã hội, kiểm soát xã hội Đồng thời, trong nghiên cứu lối sống theo cách tiếp cận mạng lưới xã hội, các nhà nghiên cứu có thấy rõ mạng lưới xã hội của khác thể nghiên cứu theo các hướng tiếp cận định lượng và định tính. Như vậy, khi áp dụng lý thuyết mạng lưới xã hội để phân tích ảnh hưởng của mạng xã hội Facebook đối với mạng lưới quan hệ xã hội của sinh viên tức là xem xét sự liên kết của người đang sử dụng Facebook với các mối quan hệ xã hội (gia đình, bạn bè, các nhóm xã hội khác) của họ có những biến chuyển, thay đổi không và thay đổi theo chiều hướng thân thiết hơn, thắt chặt hơn hay lỏng lẻo hơn, đời sống tình cảm của sinh viên phong phú hơn, tự do hơn hay bị bó hẹp hơn, các mối quan hệ được mở rộng hơn hay hẹp đi, đồng thời đánh giá tác động của mạng lưới xã hội thông qua Facebook đối với một số hoạt động sống của sinh viên trong đó không chỉ còn là vấn đề trao đổi tình cảm, học vấn mà còn là mạng xã hội cho các hoạt động khác như tìm kiếm cơ hội việc làm, cơ hội mở rộng mối quan hệ Phân tích và so 42

sánh mối quan hệ hay mạng lưới các quan hệ xã hội của sinh viên trước và sau khi tham gia vào mạng xã hội Facebook, từ đó đi vào đánh giá tác động hai mặt của sự biến đổi thông qua hai loại hình mạng lưới xã hội của sinh viên, đánh giá xu hướng tiến triển của mạng lưới xã hội nói riêng và vốn xã hội nói chung của sinh viên dưới góc độ tiếp cận của một lĩnh vực khoa học và công nghệ: mạng xã hội Facebook. 1.2.3. Lý thuyết về tương tác xã hội * Lý thuyết tương tác biểu trưng Lý thuyết tương tác biểu trưng (còn được gọi là tương tác tượng trưng) có thể được coi là một trong những lý thuyết về tương tác xã hội quan trọng nhất của xã hội học với các đại diện như Charles Horton Cooley, W.I.Thomas, Herbert Blumer... Đặc biệt, lý thuyết này gắn với tên tuổi của chủ thể xã hội học người Mỹ G.Mead- người chịu ảnh hưởng của trường phái lý thuyết hành vi luận trong khoa học xã hội ở Mỹ. Vì vậy lý luận của Mead còn được gọi là: lý thuyết hành vi xã hội (social behaviorism). Mead quan điểm rằng mọi người chỉ sở hữu một năng lực tư duy như nhau và điều làm nên sự khác biệt chính là quá trình tương tác xã hội. Năng lực tư duy chỉ được phát triển và hoàn thiện trong quá trình tương tác xã hội. Quan điểm này dẫn các học giả của thuyết tới chỗ tập trung vào một hình thái đặc thù của tương tác xã hội- Quá trình xã hội hóa. Tuy nhiên không phải mọi tương tác đều liên quan đến tư duy. Blumer phân biệt sự tương tác phi biểu tượng- đối thoại bằng điệu bộ của Mead, không liên quan đến tư duy và sự tương tác biểu tượng, đòi hỏi các quá trình tư duy. Blumer cũng phân biệt ba loại đối tượng: Các đối tượng vật chất (chẳng hạn cái chủ thể, cái ghế...); các đối tượng xã hội (như người giáo viên, người mẹ...); các đối tượng trừu tượng (là một ý tưởng hay một nguyên tắc đạo đức). Một trong những luận điểm trung tâm của lý thuyết tương tác biểu trưng là quan điểm cho rằng các cá nhân trong quá trình tương tác qua lại với nhau không phản ứng đối với các hành động trực tiếp của người khác mà đọc và lý giải chúng. Chúng ta luôn tìm những ý nghĩa được gán cho cho mỗi hành động, cử chỉ...đó (các biểu tượng). Mọi người học học các biểu tượng cũng như học các ý nghĩa tương tác xã hội. Để có thể hiểu được các hành động, cử chỉ- các biểu tượng chúng ta cần nhập vai (trò) của người đó, nói cách khác đặt mình vào vị trí của người đó. Chỉ khi chúng ta đặt mình vào vị trí của đối tượng tương tác, chúng ta mới có thể hiểu hết ý 43

nghĩa của những phát ngôn, cử chỉ, những hành động của họ. Đây cũng chính là quá trình quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách cá nhân. Lý thuyết này rất xem trọng các biểu tượng, ký hiệu trong quá trình đọc và giải thích về các hành động, phát ngôn, cử chỉ... của người khác, tức là trong quá trình tương tác giữa các cá nhân. Theo lý thuyết này con người như một thực thể sống trong thế giới của các biểu tượng và môi trường của ký hiệu. Xã hội thực hiện sự điều chỉnh hành động của các cá nhân qua các biểu tượng. Nhờ có biểu tượng, loài người: Không phản ứng một cách thụ động với một thực tế bao gồm nó mà sáng tạo và tái tạo một cách chủ động thế giới. [21; tr.276] Mead coi khả năng của con người đặt mình vào vị trí, vai trò của đối tác và nhìn nhận mình như một đối tác hành động là cơ chế quan trọng bậc nhất trong sự tương tác của họ với môi trường xã hội xung quanh. Chính cơ chế này giúp con người tạo ra biểu tượng. Trong quá trình tương tác xã hội, con người thông tin bằng biểu tượng các ý nghĩa cho những người khác có liên quan. Những người khác mã hóa các biểu tượng này và định hướng hành động phản ứng của họ trên cơ sở các diễn dịch đó. Nói cách khác, trong tương tác xã hội, hành động của các đối tượng thực hiện một quá trình ảnh hưởng đa phương. Đây là lý thuyết quan trọng của xã hội học về tương tác xã hội. Tuy nhiên lý thuyết này cũng có những điểm yếu như quy tất cả các tương tác xã hội về tương tác cá nhân dẫn đến việc xem nhẹ các tương tác ở cấp độ vĩ mô. Lý thuyết này cũng chưa phân tích kỹ về những rắc rối, khó khăn trong tương tác khi các cá nhân xuất phát từ hai nền văn hóa có những hệ thống biểu tượng tương đối khác nhau. * Lý thuyết trao đổi xã hội về tương tác xã hội Lý thuyết trao đổi xã hội của George Homans và nhiều chủ thể xã hội học khác như Peter Blau, Richard Emerson... đã có những đóng góp quan trọng trong việc xem xét các tương tác xã hội. Nhận thức của G.Homans được đề cập đến trong bài báo có tựa đề: Hành vi xã hội như một sự trao đổi (1958) và tác phẩm hoàn chỉnh về quan điểm lý thuyết của ông: Hành vi xã hội- Các hình thái nguyên sơ của nó (1960). Theo đó, các cá nhân hành động tuân theo nguyên tắc trao đổi các giá trị vật chất và tinh thần như sự ủng hộ, tán thưởng hay danh dự...những người trao nhiều 44

cho người khác có xu hướng để nhận lại nhiều lần, những người nhận nhiều từ người khác sẽ cảm thấy có áp lực, tác động (thường là vô hình) từ phía họ. Chính tác động, áp lực này giúp cho những người cho nhiều có thể được nhận lại nhiều từ phía những người mà họ đã trao nhiều. Đó là xu hướng cân bằng giữa trao và nhận của các cá nhân trong quá trình tương tác mà theo Homans là cân bằng giữa chi phí (cost) và phần thưởng (rewards). Xu hướng cân bằng này thể hiện ở chỗ các cá nhân mong muốn đạt được những phần thưởng lớn nhất so với những chi phí đã bỏ ra. Homans đưa ra bốn nguyên tắc tương tác giữa các cá nhân như sau: - Nếu một dạng hành vi được thưởng, hay có lợi thì hành vi đó có xu hướng lặp lại. - Hành vi được thưởng, được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ có xu hướng lặp lại hành vi đó trong hoàn cảnh như vậy. - Nếu như phần thưởng, mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ sẵn sàng bỏ ra nhiều chi phí vật chất và tinh thần để đạt được nó. - Mức độ hài lòng, thỏa mãn với những phần thưởng, mối lợi cá nhân giành được cao nhất ở lần đầu và có xu hướng giảm dần. Đây là mô hình đơn giản nhất của tương tác giữa các cá nhân nhưng ngay cả những tương tác xã hội phức tạp như quan hệ quyền lực,.. cũng tuân theo nguyên tắc nêu trên. Nói cách khác, thuyết này không chỉ quan tâm đến hành vi cá thể mà cả tương tác giữa nhiều người có liên quan trong việc trao đổi sự đền bù và giá phải trả. Trong thực tế cuộc sống, quá trình tương tác theo mô hình trao đổi rất phổ biến. Theo Homans, toàn bộ các tương tác xã hội là một tập hợp phức tạp của những trao đổi, trong đó cần phải hiểu khái niệm chi phí và mối lợi có nội hàm rất rộng, không chỉ có ý nghĩa vật chất mà cả những giá trị thuộc tinh thần. Những tương tác trong những môi trường khác nhau sẽ tạo nên những mối quan hệ, những hệ giá trị khác nhau. Có thể phân biệt rõ nhất ảnh hưởng này thông qua so sánh hai hình thức tương tác xã hội trong xã hội thực và xã hội ảo (trên nền Internet). Mặc dù giữa hai môi trường này không phải không có những mối liên hệ, thậm chí liên quan mật thiết nhưng sự phân biệt ở đây dựa trên sự khác biệt của những nét đặc trưng cơ bản của hai môi trường. [7; tr.175] 45

Trong xã hội thực, con người tương tác với nhau bởi những hành động trực tiếp và gián tiếp. Những hoạt động của họ tuân theo một hệ giá trị, chuẩn mực chung được toàn thể xã hội quy định và bị kiểm soát chặt chẽ bởi các quy phạm. Các tương tác xã hội diễn ra với mục đích xây dựng quan hệ xã hội và xác suất hình thành quan hệ xã hội cũng lớn hơn, ổn định hơn. Trái lại tương tác trong xã hội ảo lại có cơ chế thông thoáng hơn rất nhiều. Mặc dù ít nhiều chịu ảnh hưởng của các quy phạm nhưng các hoạt động trong đó vẫn ít bị chi phối bởi các quy định hay quy phạm chặt chẽ. Tương tác trong môi trường ảo có thể tạo nên mối quan hệ đa chiều hơn, phạm vi tương tác cũng rộng hơn so với hình thức tương tự trong đời thực nhờ ứng dụng được những thành tựu của công nghệ, được công nghệ hỗ trợ. Trong các không gian tương tác khác nhau, mỗi cá nhân đảm nhiệm những vai trò không giống nhau. Đặc biệt trong không gian ảo thì vai trò, vị trí của mỗi cá nhân thường linh hoạt và không bị chi phối nhiều bởi các quy phạm xã hội. Từ những tương tác, quan hệ xã hội có thể được hình thành hoặc có thể không bởi tính liên kết giữa các chủ thể không cao và đa phần kém tính ổn định hơn so với các mối quan hệ được xây dựng trong thế giới thực. Các tương tác xã hội, các mối quan hệ được hình thành và các hoạt động của chủ thể trong không gian ảo dần dần hé mở xu hướng tiếp cận không gian mới - không gian xibe hay là cyberspace và được xem như không gian thứ năm bên cạnh các không gian đã được nhận biết. Hai không gian này cũng tương tác với nhau và có mối liên hệ hai chiều. Mặc dù thuật ngữ xã hội ảo, thế giới ảo được dùng với hàm ý chỉ một không gian khác biệt nhằm phân biệt với không gian thực (cuộc sống đang diễn ra xung quanh) nhưng hoạt động của con người trong hai không gian này luôn có mối liên hệ, đôi khi khó phân biệt rạch ròi. Các cá nhân sống trong cả hai thế giới thực và ảo nhưng hoạt động lại có sự đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau. Những sự kiện trong thế giới thực là tư liệu, chất liệu cho các hiện tượng, sự kiện trong cộng đồng ảo, được đưa lên không gian mới này mổ xẻ. Đồng thời những hoạt động diễn ra trong thế giới ảo lại tác động thực đến xã hội thực gây ra những hậu quả khác nhau. Như vậy, con người đang đồng thời tồn tại và thực hiện các mối tương tác xã hội trong những môi trường khác nhau. Những tương tác xã hội được thực hiện sẽ dẫn đến những 46

mối quan hệ đa dạng cùng nhiều ảnh hưởng khác nhau. Dù là trong thế giới thực hay ảo thì những tương tác này đều ảnh hưởng trực tiếp đến người dùng và tạo nên những xu hướng mới. Tiểu kết chƣơng 1: Như vậy có thể thấy tương tác xã hội là một trong những vấn đề quan trọng của xã hội học và được quan tâm từ rất sớm bởi các chủ thể xã hội học kỳ cựu. Hành động xã hội - tương tác xã hội - quan hệ xã hội là ba trong những vấn đề xã hội then chốt quyết định đến sự tồn tại xã hội. Vì vậy tìm hiểu về tương tác xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc nắm bắt sự vận động, bản chất xã hội từ đó có cơ sở đi sâu hơn vào những khía cạnh khác của sự phát triển xã hội. Ba lý thuyết tiếp cận đề tài nghiên cứu trên chính là ba hướng nghiên cứu và góc độ nghiên cứu vấn đề: tiến triển vốn xã hội của sinh viên dưới ảnh hưởng của mạng xã hội Facebook. Cách tiếp cận nghiên cứu theo thuyết vốn xã hội sẽ giúp cho đề tài lý giải những mối quan hệ xã hội của sinh viên ở khía cạnh chung nhất, dù là tác động tích cực hay tiêu cực của mạng xã hội Facebook thì sinh viên cũng sẽ tích lũy cho mình hệ thống vốn xã hội làm nguồn lực giải quyết và phục vụ cho các hoạt động sống. Có thể vốn xã hội này phục vụ cho nhu cầu giải trí, thể hiện tâm tư, tình cảm song cũng có thể nó là nguồn lực phát triển các mối quan hệ liên quan đến lợi ích. Điều này tùy thuộc vào dụng ý sử dụng và phương thức sử dụng mạng xã hội Facebook trong việc xây dựng vốn xã hội cho bản thân. Mạng lưới xã hội là một hệ thống các lý thuyết ở cấp độ vi mô hơn so với vốn xã hội, nó đi vào phân tích chi tiết vấn đề bằng cách chỉ ra những những mối nối từ gần chủ thể mạng lưới xã hội nhất đến xã nhất hay từ những mối quan hệ chặt chẽ nhất đến những mối quan hệ lỏng lẻo nhất. Từ đó chỉ ra những biến đổi cả phát triển lẫn đi xuống của một mạng lưới xã hội, mối quan hệ xã hội giữ con người với con người ở một nhóm xã hội nhất định là sinh viên. Từ đó phân tích và chỉ ra những thay đổi trong lối sống của sinh viên theo hai hướng tích cức và hạn chế. Cũng giống như vốn xã hội, mạng lưới xã hội được áp dụng vào nghiên cứu này nhằm làm rõ hơn sự tiến triển của vốn xã hội ở một nhóm khách thể dưới sự tác động ở một yếu tố, từ đó, đánh giá và chỉ ra những đặc trưng riêng của một mạng lưới xã dưới góc độ tiếp cận khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, phân tích và lý giải 47

vấn đề theo lý thuyết mạng lưới xã hội là một phần để làm rõ hơn cho nghiên cứu vấn đề ở góc độ lý thuyết vốn xã hội. Lý thuyết tương tác xã hội được đưa vào để phân tích trong đề tài nhằm hướng đến làm rõ hơn sự thay đổi của mạng lưới xã hội của sinh viên thông qua các hành vi, tương tác giữa các nhóm sinh viên với nhay, giữa cá nhân với cá nhân, sinh viên với gia đình, bạn bè và một số những đối tác tương tác khác nhằm tạo nên một mạng lưới xã hội cụ thể và rõ ràng. Tức là, lý thuyết tương tác xã hội đươc vận dụng cho sự lý giải tính chất của các mối quan hệ trong một mạng lưới xã hội, thể hiện rõ hơn bản chất của các nút thắt từ chặt chẽ đến lỏng lẻo của các mối quan hệ nhỏ. Hay nói cách khác, việc vận dụng lý thuyết tương tác xã hội vào phân tích sự tiến triển vốn xã hội của sinh viên thông qua mạng xã hội Facebook chính là một công cụ làm rõ hơn cho mạng lưới xã hội nói riêng và cho vốn xã hội của sinh viên nói chung. 1.3. Sơ lƣợc về địa bàn nghiên cứu 1.3.1. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tổ chức tiền thân của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội là Trường Đại học Văn khoa Hà Nội (thành lập theo sắc lệnh số 45 do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ngày 10/10/1945), tiếp đó là Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (thành lập ngày 05.06.1956). Ngày 10/12/1993, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 97/CP thành lập Đại học Quốc gia Hà Nội, trong đó có Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, được thành lập trên cơ sở các khoa xã hội của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Trong hơn sáu mươi năm xây dựng và phát triển, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn luôn được nhà nước Việt Nam coi là một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn lớn nhất của đất nước, có nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học cơ bản trình độ cao, phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn có 3 chương trình đào tạo: đại học (27 chương trình/18 ngành); thạc sỹ (29 chuyên ngành); tiến sỹ (31 chuyên ngành); 3 loại hình đào tạo là chính quy (18/18 ngành), không chính quy (11/18 ngành), liên kết quốc tế (06 ngành). Trường có tổng số cán bộ là 488 người, trong đó đội ngũ giảng viên là tiến sỹ và tiến sỹ khoa học là 133 người, thạc sỹ là 147 người, giáo sư là 05 người, 48

phó giáo sư là 70 người. Tổng số sinh viên của trường là 13.959 người, trong đó sinh viên Đại học hệ chính quy là 5.472 người, sinh viên Đại học hệ không chính quy là 4.571 người, học viên cao học là 3.057 người, nghiên cứu sinh là 297 người, sinh viên nước ngoài là 562 người. (nguồn: http://www.ussh.vnu.edu.vn/c3/daotao/gioi-thieu-tong-quan-2-520.aspx) 1.3.2. Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông Tiền thân của Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông là Đại học Bưu điện - Vô tuyến điện vào ngày 07/9/1953. Đến ngày 11/7/1997 thành lập Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông trên cơ sở sắp xếp lại 4 đơn vị thành viên của Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (nay là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam). Học viên Công nghệ Bưu chính Viễn thông là đơn vị dẫn đầu trong gắn kết Nghiên cứu - Đào tạo - Sản xuất Kinh doanh trong lĩnh vực Công nghệ thông tin và Truyền thông, sứ mạng của Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông là: Kết hợp các hoạt động nghiên cứu khoa học với giáo dục - đào tạo để đáp ứng nhanh các yêu cầu thực tiễn của hoạt động sản xuất kinh doanh; Góp phần quan trọng đẩy nhanh tiến độ thực hiện các mục tiêu chiến lược của Ngành thông qua việc đáp ứng nhanh chóng các nhu cầu về khoa học công nghệ và nguồn nhân lực đồng bộ, lành nghề cho Ngành và xã hội; Tạo ra một mô hình mới để triển khai tổ chức đào tạo và nghiên cứu khoa học hợp lý, có hiệu quả cao, bám sát chiến lược phát triển của ngành; Tạo ra một mô hình mới trong việc huy động nguồn lực (cả kinh tế và môi trường thực tiễn ) từ các doanh nghiệp mạnh của Nhà nước cho nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo đáp ứng nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp và của xã hội trong điều kiện ngân sách Nhà nước. Tổng số cán bộ của học viện là 1100 người trong đó cử nhân là 550 người, tiến sỹ là 8 người, thạc sỹ là 33 người. Học viên có 15.000 sinh viên, trong đó sinh viên Đại học chính quy là hơn 5.000 người. (nguồn: http://www.ptit.edu.vn/wps/portal/!ut/p/c5/04_sb8k8xllm9msszpy8xbz9cp0os_ hqlz9lt68aywp_menza08fmxnzp4bgq0dhy_1wka5ckjycty0g8gy4gkob vp9hfm6qfkf2dpqjo6iiahpu5ri!/dl3/d3/l2dbisevz0fbis9nqseh/) 49

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI FACEBOOK CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY 2.1. Tình hình sử dụng mạng xã hội Facebook của sinh viên hiện nay Mạng xã hội Facebook đang được rất nhiều người sử dụng, đặc biệt là đối với giới trẻ. Vì vậy, để biết được hiện nay trong sinh viên có bao nhiêu người sử dụng Facebook, tác giả đã phát 350 bảng hỏi cho các sinh viên của 2 trường. Trong đó có 310 sinh viên đã trả lời là họ có sử dụng Facebook chiếm 88,6%, 40 sinh viên không sử dụng Facebook chiếm 11,4% tổng số người được hỏi. Biểu 2.1: Số ngƣời sử dụng mạng xã hội Facebook (đơn vị: %) 11.4 Có Không 88.6 (Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả) Khi được hỏi bạn có sử dụng Facebook không thì đa số sinh viên đều trả lời rằng họ có sử dụng Facebook: Em có sử dụng Facebook chị ạ. Bây giờ phải sử dụng Facebook chứ, nếu không thì lạc hậu so với mọi người quá, ai cũng dùng mà mình không dùng thì hơi lạ. (PVS 1, nữ, 19 tuổi, sinh viên năm 1, Hà Nội) Hầu như bây giờ ai cũng có Facebook và mình không nằm trong trường hợp ngoại lệ. (PVS 3, nam, 21 tuổi, sinh viên năm 3, Nghệ An) Tất nhiên là mình có tài khoản Facebook rồi. Từ ngày dùng Facebook đến giờ mình quên cả sử dụng nick Yahoo vì bạn bè bây giờ cũng chỉ toàn chat trên Facebook hoặc Skype. (PVS 8, nam, 22 tuổi, sinh viên năm 4, Vĩnh Phúc) 50

Từ những số liệu trên cho thấy, sinh viên nói chung và sinh viên ở hai trường đại học điều nghiên cứu nói riêng hiện nay có xu thế sử dụng mạng xã hội Facebook rất cao. Sự tham gia ngày càng nhiều của sinh viên vào mạng xã hội Facebook cho thấy sức hút mạnh mẽ cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu của mạng xã hội Facebook với sinh viên là rất cao. Đó là nhu cầu về tương tác xã hội, trong một sự phát triển nhất định, con người thường tìm mọi cách thỏa mãn nhu cầu của mình trong đó có nhu cầu tương tác xã hội. Sự tương tác xã hội của nhóm sinh viên thông qua mạng xã hội Facebook đã vượt qua sự tương tác xã hội trực tiếp giữ con người với con người để tạo ra một mạng lưới xã hội gắn kết hoặc không gắn kết, mà nó đã thể hiện một phương diện khác, một cách thức tương tác xã hội khác giúp cho sinh viên mở rộng mối quan hệ xã hội. Mối quan hệ này dường như lỏng lẻo hơn so với quan hệ trực tiếp giữa cá nhân với nhau song lại tạo thành một mạng lưới xã hội rộng hơn, sự kiên kết phức tạp hơn; đồng thời thông tin thu về cũng nhiều hơn, nhanh hơn so với các mạng xã hội hội mà con người tạo ra bằng các tương tác xã hội trực tiếp. 2.1.1. Thời gian, tần suất sử dụng Facebook của sinh viên Như chúng ta đã biết, Facebook được thành lập vào ngày 4/2/2004 do Zuckerberg sáng lập ra. Từ những năm 2009, Facebook được cả thế giới biết tới và sử dụng nó. Trong đó bộ phận giới trẻ là những người sử dụng Facebook nhiều nhất, họ có khả năng tiếp thu nhanh những cái mới, đặc biệt là sinh viên. Vì vậy, đã có rất nhiều người sử dụng Facebook trong một thời gian dài. Biểu 2.2: Thời gian sử dụng Facebook (đơn vị: %) 5.8 14.5 Dưới 6 tháng 79.7 Từ 6 tháng đến dưới 1 năm Từ 1 năm trở lên (Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả) Qua kết quả điều tra của tác giả cho thấy, khi được hỏi về thời gian sử dụng Facebook thì có đến 79.7% trong tổng số người được hỏi trả lời là họ đã sử dụng 51

Facebook trên 1 năm; chỉ có 14,5% người sử dụng Facebook từ 6 tháng đến dưới 1 năm và 5,8% là họ mới sử dụng Facebook dưới 6 tháng. Khi được hỏi Thời gian bạn sử dụng Facebook lâu chưa? thì phần lớn các sinh viên đều trả lời là họ đã sử dụng Facebook được hơn 1 năm. Điều này chứng tỏ sức hút và sự ảnh hưởng của Facebook đối với sinh viên là rất lớn. Biểu 2.3: Tƣơng quan giữa trƣờng học và thời gian sử dụng Facebook của sinh viên (đơn vị: %) 100 80 60 40 20 0 75.8 17.2 7 4.6 ĐH KHXH & NV 11.8 HV CN BCVT 83.7 Từ 3 - < 6 tháng Từ 6 - < 1 năm Từ 1 năm trở lên (Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả) Với hệ số tương quan giữa trường học và thời gian sử dụng Facebook (Phi = 0,98; Cramer s V = 0,98; Sig = 0,227) ta thấy rằng sinh viên của cả hai trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Học viện Công nghệ Bưu Chính Viễn thông đều có thời gian sử dụng Facebook từ 1 năm trở lên chiếm tỷ lệ cao (Trường Nhân văn là 75,8%; Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông là 83,7%), chứng tỏ không có sự khác biệt về thời gian sử dụng Facebook của sinh viên hai trường và đây là hiện tượng chung cho toàn bộ sinh viên tại hai trường đại học được nghiên cứu. Mình sử dụng Facebook từ khi còn là học sinh cấp 3 cho đến bây giờ. Tính ra cũng được hơn 3 năm rồi. Dùng lâu mà vẫn chưa chán. (PVS 03, Nam, 21 tuổi, sinh viên năm 3, Nghệ An) Từ khi có Internet đến giờ mình thường xuyên vào các trang web để giải trí. Nhưng hiện giờ đang có rất nhiều mạng xã hội được mở ra. Vì vậy, mình cũng muốn vào xem thử xem mạng xã hội như thế nào và mình đã dùng Facebook. Thời gian từ khi mình dùng Facebook đến giờ cũng phải khoảng 2 năm rồi đấy. (PVS 04, Nữ, 22 tuổi, sinh viên năm 4, Thái Nguyên) 52

*Thời lượng, tần suất truy cập vào Facebook Như chúng ta đã biết, Internet là một kho dữ liệu phong phú và đa dạng. Các cá nhân có thể tìm kiếm bất kỳ các thông tin khác nhau và thực hiện nhiều mục đích. Hơn nữa họ không chỉ nhận được thông tin mà họ còn có thể kết bạn với rất nhiều người. Trong một nghiên cứu của của Huỳnh Văn Thông Một số vấn đề về lối sống Internet và ảnh hưởng của nó đến hoạt động giao tiếp của người dùng Internet Việt Nam đã chỉ ra thói quen làm việc đa nhiệm đồng thời trên Internet của người dùng Internet Việt Nam qua biểu sau: Biểu 2.4: Một số số liệu thao khảo về thói quen làm việc đa nhiệm đồng thời trên Internet của ngƣời dùng Internet việt Nam (Nguồn: Huỳnh Văn Thông, Một số vấn đề về lối sống Internet và ảnh hưởng của nó đến hoạt động giao tiếp của người dùng Internet VN ) Biểu đồ đã thể hiện số lượng người truy cập vào mạng xã hội chiếm 81%. Qua biểu đồ trên cho ta thấy lượt vào sử dụng mạng xã hội và các hoạt động khi vào Internet (nghe nhạc, đọc báo, chat) có số lượt người vào khá cao. Như vậy, mạng xã hội trở thành một công cụ để kết nối ngày càng phổ biến và trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với những người dùng Internet. Nhằm tìm hiểu về thói quen của sinh viên khi sử dụng Internet để thấy được những mục đích khi dùng Internet, trong đó có việc sử dụng Facebook. Qua đó, thấy 53