Bệnh tiêu đường ung thư lao phổi thông phong được xem là một trong Tứ chứng nan y của nền Y học cổ

Phải nói ngay rằng đây là những căn bệnh nan y nhưng lại bị hiểu lầm cả về nguồn gốc lẫn nguyên nhân, ảnh hưởng không nhỏ đến người bệnh lẫn hiệu quả chữa trị. chúng Rất đa dạng như: giang mai, ung thư, động kinh, phong cùi và lao.

1. Giang mai

Thế giới cổ đại từng công nhận và xếp dịch hạch và những gì hiện nay chúng ta gọi là giang mai vào nhóm “ôn dịch”, bởi chúng đều có tốc độ lây lan và tỉ lệ tử vong và biến chứng cao. Vào cuối thế kỷ 15, Chistopher Columbus và đoàn thám hiểm của ông đã mang căn bệnh này đến châu Âu, ban đầu được gọi là Syphilis hay The French Disease, bệnh lây truyền qua đường tình dục. Tuy nhiên, các cơ quan lực lúc bấy giờ lại cho rằng phụ nữ chính là nguyên nhân làm lan truyền bệnh, đặc biệt là những người phụ nữ  làm nghề mại dâm hay gái làng chơi.

Bệnh tiêu đường ung thư lao phổi thông phong được xem là một trong Tứ chứng nan y của nền Y học cổ
Bệnh tiêu đường ung thư lao phổi thông phong được xem là một trong Tứ chứng nan y của nền Y học cổ
Bệnh giang mai xưa và nay

Quan niệm sai lầm này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình nghiên cứu tìm ra cách chữa trị bởi giới nghiên cứu gần như mặc định điều này là đúng. Chính vì vậy, sang đến thế kỷ 20, ở Âu-Mỹ, người ta đã khuyên nhóm phụ nữ bán dâm nên giữ gìn cơ thể “sạch sẽ” còn đàn ông thì tuyệt nhiên không. Sự mặc định này còn lan truyền cả sang phòng thí nghiệm, làm cho việc nghiên cứu cũng bị sai lệch, dùng cả thuỷ ngân để chữa bệnh. Bằng chứng, bác sĩ đã thử nghiệm thủy ngân trên gái mại dâm vì cho rằng họ là thủ phạm gây lan truyền bệnh. Những người mang thuyết “giang mai hóa” cho rằng, giang mai giống như đậu mùa. Bởi vậy, trong suốt thế kỷ 19, chính các bác sĩ đã truyền bệnh giang mai cho những phụ nữ làm nghề gái gọi, luôn có quan niệm cơ thể họ có thể tự hình thành  kháng thể để chống lại căn bệnh này.

2. Ung thư

Một trong những căn chết người đến nay y học vẫn chưa tìm ra thuốc đặc trị là ung thư, và từng bị hiểu lầm hoàn toàn. Theo đó, ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, do tôn giáo hà khắc nên việc thí nghiệm trên cơ thể người lẫn thiếu thốn trang thiết bị y tế làm cho hiểu biết của y học về cơ thể con người bị hạn chế. Ngay cả bác sĩ Hy Lạp cổ đại lừng danh Hippocrates, cha đẻ của ngành Y, cũng cho rằng nguyên nhân gây ung thư là do “dịch xấu” trong cơ thể. Hippocrates cho rằng, tiết dịch cơ thể gồm 4 loại cơ bản là máu, đờm, mật vàng và mật đen, nếu nhiều mật đen thì nguy cơ ung thư rất cao. Giả thuyết sai lầm này kéo dài đến tận thế kỷ 18, nó được bổ sung cả bạch huyết và sang thế kỷ 19, khi xuất hiện của kính hiển vi và các thiết bị y tế khác, sự thật mới thực sự được sáng tỏ, khoa học đã bắt đầu hiểu sâu thêm về cơ thể mình, hiểu được phần nào bản chất lẫn cơ chế phát triển của bệnh ung thư.

Bệnh tiêu đường ung thư lao phổi thông phong được xem là một trong Tứ chứng nan y của nền Y học cổ
Bệnh tiêu đường ung thư lao phổi thông phong được xem là một trong Tứ chứng nan y của nền Y học cổ
Bệnh ung thư xưa và nay

3. Động kinh

Giống như ung thư, bệnh động kinh hay rối loạn co giật đã tồn tại trong suốt lịch sử của nhân loại, nó có thể xảy ra với bất kỳ ai, bất cứ nơi nào, từng được lý giải bằng nhiều cách khác nhau. Những người mắc bệnh thường xuất hiện những cơn co giật thường xuyên và đa dạng. Một trong những dạng biến nhất là co giật khủng khiếp kèm  ngất xỉu và thay đổi ý thức của người bệnh.

Bệnh tiêu đường ung thư lao phổi thông phong được xem là một trong Tứ chứng nan y của nền Y học cổ
Bệnh tiêu đường ung thư lao phổi thông phong được xem là một trong Tứ chứng nan y của nền Y học cổ
Bệnh động kinh xưa và nay

Tuy rất nguy hiểm nhưng thời xưa, người ta lại có quan niệm sai cho rằng bệnh là do quỷ ám, thậm chí trước cả khi Kinh Thánh ra đời, những người Babylon, Hy Lạp và La Mã còn có quan niệm cho rằng, động kinh là do quỷ ám, còn những người có niềm tin tôn giáo thì tìn rằn do Chúa trời trừng phạt. Do nhận thức sai nên cách chữa thời xưa cũng quái dị. Ví dụ, người La Mã cổ đại cho rằng bệnh sẽ hết nếu uống máu của những đấu sĩ trong đấu trường bại trận và ăn thịt xác chết. Vì vậy mới xuất hiện những nghi lễ trừ tà rùng rợn do các pháp sư điều hành nhằm xua đuổi ma tà quỷ dữ.

4. Bệnh lao

Nhờ khoa học phát triển, ngày nay con người biết được nguyên nhân gây bệnh về đường hô hấp. Nhưng đầu thế kỷ 19, các nhà khoa học vẫn tin rằng bệnh lao là căn bệnh “tiêu thụ”. Điều này có nghĩa  bệnh lao bùng phát là do công nghiệp hóa diễn ra quá nhanh, đặc biệt là tiến trình đô thị hóa, và nạn ô nhiễm khiến cho con người bị mắc bệnh hô hấp. Sự thật này mãi về sau mới được lý giải, theo đó nguyên nhân gây bệnh là do vi khuẩn Tubercle bacillus. Hiểu lầm này đã khiến  một thời kỳ dài con người phải sống trong nỗi sợ, nhưng người ta lại không biết ở những nơi không khí trong lành nông thôn bệnh lao vẫn phát triển.

Hoặc có những giả thiết do các nhà khoa học Pháp đưa ra, cho rằng các loại bệnh lao như lao phổi lại do con người, nó chỉ xuất hiện ở một số vùng lãnh thổ nhất định. Trên thực tế, chính các nhà khoa học cũng từng thừa nhận, cuộc sống đô thị dễ làm cho con người dễ bị lao phổi, nhưng nó không phải là nguyên nhân chính. Đô thị chỉ làm cho con người tiếp xúc nhiều với vi khuẩn, và vi khuẩn mới chính là tác nhân gây bệnh lao phổi. Ngày nay cùng với sự hiểu biết về bệnh lao và sự ra đời của thuốc kháng sinh penicillin, sự cải thiện vệ sinh môi trường đô thị nên số người mắc bệnh lao giảm  hẳn, thậm chí có nơi đã xóa bỏ hoàn toàn căn bệnh này trước khi nhân loại bước vào thế kỷ 21.

5. Bệnh phong

Bệnh phong (Leprosy) hay còn gọi là bệnh cùi, hủi… là căn bệnh bị hiểu nhầm tai hại nhất trong lịch sử y văn của nhân loại. Và cũng như nhiều căn bệnh đề cập ở trên, nó từng được nhiều người, kể cả trong ngành y hiểu sai, cho rằng đây là bệnh di di truyền hoặc do Chúa trời trừng phạt. Do nhận thức sai lệch nên những người bị bệnh thường bị xa lánh, cô lập và bị đưa về các trại phong, nơi họ phải sống những ngày cuối đời trước sự ghẻ lạnh của cộng đồng, như một số trại phong nổi tiếng thế giới đã từng được báo chí nhắc đến ở đảo Hawai và đảo Molakai. Thậm chí một số vùng ở châu Âu còn lắp chuông cảnh báo mỗi khi có người mắc bệnh phong tới gần.

Bệnh tiêu đường ung thư lao phổi thông phong được xem là một trong Tứ chứng nan y của nền Y học cổ
Bệnh tiêu đường ung thư lao phổi thông phong được xem là một trong Tứ chứng nan y của nền Y học cổ
Bệnh phong xưa và nay

So với những căn bệnh khác, bệnh phong có những đặc thù riêng, ngay cả khi nguyên nhân được làm rõ, những hiểu lầm vẫn tồn tại trong tiềm thức con người, nhất là nỗi sợ bị lây bệnh.  Trong nỗ lực giảm thiểu nhận thức sai lệch về bệnh phong, ngày nay căn bệnh này được gọi bằng cái tên mới, bệnh Hansen (Hansens Disease). Qua nghiên cứu, khoa học phát hiện thấy có trên 95% dân số thế giới hiện nay có khả năng miễn dịch tự nhiên với bệnh phong, và nếu một ai đó chẳng may mắc bệnh thì khả năng lây bệnh là từ con vật có tên tatu (loài thú có vú thuộc họ Dasypodidae ở vùng Bắc và Nam Mỹ) gây ra, chứ không phải lây truyền từ người sang người. Mặc dù khả năng miễn dịch với vi khuẩn thực sự đã tăng, song tỉ lệ người mắc bệnh trên thế giới hiện vẫn ở mức cao, trên 250.000 ca mỗi năm, nặng có thể phát sinh biến dạng, gây cụt chân tay hay mù lòa.


Lao

Ông bà xưa có câu: "Phong Lao Cổ Lại, tứ chứng nan y" để nói lên sự nguy hiểm của bệnh lao. Mọi người cũng biết rằng lao phổi là bệnh rất lây và là bệnh phổ biến. Khi đi khám bệnh, chụp phổi hay rọi kiếng, bệnh nhân bị lao thường nghe Bác sĩ nói là phổi bị nám vì thế người ta thường gọi lao phổi là nám phổi. Lao là cái tên dễ làm người ta sợ hãi và khi nói đến bệnh của phổi thì người ta thường dễ liên tưởng ngay đến bệnh lao.

Bài viết dưới đây sẽ giải đáp các thắc mắc:

1. Nguyên nhân gây bệnh lao

2. Bệnh lao lây như thế nào?

3. "Nhiễm lao" khác với " bệnh lao" ra sao? 

4. Triệu chứng của bệnh lao

5. Ai dễ mắc lao

6. Làm gì khi nghi ngờ mắc lao?

7. Người bệnh lao được điều trị như thế nào?

8. Biến chứng của bệnh lao phổi nếu không được phát hiện điều trị kịp thời?

9. Làm thế nào để trị dứt bệnh lao?

1. Nguyên nhân nào gây bệnh lao?

- Lao là một bệnh do vi trùng, lây chủ yếu bằng đường hô hấp, nghĩa là do hít phải vi trùng lao vào phổi. Bệnh truyền từ người này sang người khác. Vi trùng gây bệnh là trực khuẩn lao có tên khoa học là Mycobacterium  tuberculosis. Bệnh lao không có tính di truyền.

- Trực khuẩn lao không có trong đất; kho chứa vi trùng lao chủ yếu là những bệnh nhân mắc lao phổi. Những bệnh nhân này thường có những "hang lao", tức là những lỗ lủng trong phổi, có chứa rất nhiều vi trùng lao. Một hang lao có đường kính 2 cm chứa khoảng 100 triệu vi trùng.

2. Bệnh lao lây như thế nào?

- Khi bệnh nhân lao phổi nói, nhất là khi ho hoặc hắt hơi, họ sẽ bắn ra chung quanh muôn ngàn những hạt đàm nhỏ, trong các hạt đều có chứa một số vi trùng lao: đó là các hạt nhỏ gây nhiễm. Số lượng các hạt nhỏ bắn ra chung quanh bệnh nhân rất lớn khi bệnh nhân ho (3.500) hoặc hắt hơi (1.000.000). Khi tiếp xúc với không khí, bề mặt những hạt nhỏ này sẽ khô dần đi và trở thành những hạt rất nhẹ luôn chứa vi trùng lao còn sống lơ lửng trong không khí một thời gian. Ở nơi tù hãm, những hạt này còn lơ lửng trong không khí lâu hơn nữa và các vi trùng có thể sống nhiều giờ trong bóng tối.

- Ánh sáng trực tiếp của mặt trời tiêu hủy vi trùng lao nhanh chóng. Do đó làm thông thoáng và phơi sáng nơi bệnh nhân lao sống có thể làm giảm nguy cơ lây nhiễm cho những người sống tiếp xúc với họ.

- Như vậy những người sống gần hay ngủ gần bệnh nhân sẽ có nguy cơ hít phải những hạt nhỏ gây nhiễm. Nguy cơ lây nhiễm càng cao khi sự tiếp xúc càng mật thiết vì liên quan đến mật độ vi trùng trong không khí. Như vậy hai yếu tố chủ yếu xác định nguy cơ lây truyền vi trùng lao cho người lành là: nồng độ những hạt nhỏ gây nhiễm lơ lửng trong không khí, và thời gian mà người đó hít thở không khí này. Ta dễ dàng hiểu rằng một tỷ lệ lớn trẻ em sống gần nguồn lây sẽ bị nhiễm lao. Con nhỏ của một bà mẹ đang ho ra vi trùng có nguy cơ bị lây nhiều nhất.

- Bệnh nhân có vi trùng dương tính qua soi trực tiếp (nhìn thấy được bằng kính hiển vi) thì lây nhiều hơn vì họ khạc ra nhiều vi trùng hơn so với những người có vi trùng chỉ phát hiện bằng nuôi cấy.

3. “Nhiễm lao” khác với “bệnh lao” ra sao?

Khi vi trùng lao xâm nhập vào cơ thể ta gọi là nhiễm lao. Ở những nơi có tình hình mắc lao cao, hầu hết những người trẻ tuổi đều đã bị nhiễm lao nhưng chỉ một tỷ lệ nhỏ trong số đó mắc bệnh lao. Khả năng lao nhiễm trở thành lao bệnh phụ thuộc vào hai yếu tố:

- Mức độ nhiễm, nghĩa là số lượng vi khuẩn hít phải, nhiều hay ít.

- Sức đề kháng của cơ thể.

Sau khi xâm nhập vào phổi, vi trùng lao sẽ sinh sôi nẩy nở và theo máu, bạch huyết phát tán đi khắp cơ thể. Thường thì hệ thống miễn dịch của cơ thể ta sẽ ngăn chận và tiêu diệt chúng, ta chỉ là người nhiễm lao.Trong một số trường hợp, nhiễm lao có thể phát triển nhanh chóng thành bệnh lao. Ở một số trường hợp khác, vi khuẩn sẽ nằm im trong trạng thái ngủ do bị hệ thống bảo vệ của cơ thể ức chế. Khi sức bảo vệ của cơ thể bị suy yếu, thí dụ do suy dinh dưỡng, nhiễm HIV, do tuổi già, vi khuẩn lao ngủ có thể sẽ sinh sản và gây ra bệnh lao. Lúc này người nhiễm lao trở thành người bệnh lao.

4. Triệu chứng của bệnh lao là gì?

Vi trùng lao có thể gây bệnh ở bất kỳ bộ phận nào của cơ thể: lao phổi, lao xương, lao da, lao thận, lao màng não, lao hạch, v.v. Lao phổi là thường gặp nhất, lao ngoài phổi ít gặp hơn. Chỉ có lao phổi mới lây.

Người bị lao phổi thường có những triệu chứng sau đây:

- Ho khạc kéo dài trên 3 tuần

- Gầy sút, kém ăn, mệt mỏi

- Sốt nhẹ về chiều

- Ra mồ hôi đêm

- Đau ngực, khó thở

- Ho ra máu

5. Ai dễ mắc lao?

- Người sống chung với bệnh nhân lao phổi có vi trùng trong đàm, đặc biệt là trẻ em và thanh niên

- Người nhiễm HIV/AIDS

- Người suy dinh dưỡng, đái tháo đường, người nghiện, người dùng các thuốc giảm miễn dịch kéo dài: corticoid

- Người vô gia cư, quản giáo, can phạm sống trong trại giam.

6. Làm gì khi nghi ngờ bị mắc lao?

Khi có những triệu chứng như nêu trên hãy nghĩ đến bệnh lao, và hãy đến ngay các Tổ Lao quận huyện, các cơ sở y-tế khám bệnh, để được bác sĩ chuyên khoa lao khám bệnh, chụp hình phổi và quan trọng nhất là tìm vi trùng lao trong đàm. Tại đó, bệnh nhân sẽ được thử 3 mẫu đàm: mẫu 1 lấy tại chỗ lần khám 1, mẫu 2 lấy tại nhà và mẫu 3 lấy tại chỗ lần khám 2 vào ngày hôm sau. Bệnh nhân cần chú ý khạc đàm sâu đúng kỹ thuật, không lấy nước bọt hoặc nước mũi. Nếu tìm thấy vi trùng lao trong đàm, người có những triệu chứng trên đã mắc lao phổi. Nếu không tìm thấy vi trùng lao, Bác sĩ chuyên khoa lao sẽ hướng dẫn cho bệnh nhân những điều cần thiết tiếp theo.

Bệnh tiêu đường ung thư lao phổi thông phong được xem là một trong Tứ chứng nan y của nền Y học cổ

7. Người bệnh lao sẽ được điều trị như thế nào?

Sau khi được chẩn đoán là mắc lao, bệnh nhân sẽ được thu dung điều trị trong khuôn khổ Chương trình Chống lao Quốc gia (CTCLQG) tại các Tổ lao Quận Huyện nơi bệnh nhân cư trú. Bệnh nhân được điều trị theo phương pháp DOTS. Tất cả thuốc chống lao của CTCLQG được cấp miễn phí cho bệnh nhân.

DOTS là gì?

Từ năm 1994, Tổ chức Y-tế thế giới đã khuyến cáo một chiến lược chống lao có tên gọi là DOTS (Directly Observed Treatment, Short - course) có nghĩa là "Điều trị hóa trị liệu ngắn ngày có kiểm soát trực tiếp". Chiến lược của CTCLQG hiện nay là áp dụng khuyến cáo này.

Mục đích của DOTS là:

- Điều trị khỏi cho bệnh nhân

- Rút ngắn thời gian lan truyền của bệnh

- Tránh kháng thuốc

Nội dung:

- Trực tiếp giám sát việc dùng từng liều thuốc của bệnh nhân, đảm bảo bệnh nhân dùng đúng loại thuốc, đúng liều, đều đặn và đủ thời gian. Việc giám sát sẽ được thực hiện tại các Tổ Lao Quận Huyện, phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế phường xã. Thân nhân bệnh nhân cũng có trách nhiệm tham gia nhắc nhở bệnh nhân.

- Giai đoạn tấn công: ít nhất 4 loại thuốc chính S, H, R, Z với thời gian 2-3 tháng

- Giai đoạn duy trì: ít nhất 2 loại thuốc, thời gian 4-6 tháng.

8. Bệnh lao phổi nếu không được phát hiện điều trị sớm có thể dẫn đến biến chứng nguy hiểm gì?

Bệnh lao phổi có nhiều biến chứng. Biến chứng có thể xuất hiện như bệnh cảnh lâm sàng mở đầu, nghĩa là có biến chứng rồi mới phát hiện ra bệnh, hoặc xảy ra trong quá trình tiến triển của bệnh. Các biến chứng hay gặp là:

1. Ho ra máu: có thể ít, vừa hay nhiều. Ho ra máu sét đánh, do bệnh lao làm hoại tử thành của một động mạch, là biến chứng gây tử vong trong vòng vài phút.

2. Tràn khí màng phổi: do vỡ một hang lao vào khoang màng phổi, là biến chứng nặng. Vi trùng lao từ hang lao nhiễm vào màng phổi và gây ra tràn mủ - tràn khí màng phổi. Điều trị khó khăn, vừa điều trị lao, vừa phải đặt ống dẫn lưu màng phổi.

3. Tràn dịch màng phổi: do tiếp cận với một ổ lao phổi đang tiến triển
Biến chứng có thể xảy ra sau khi bệnh lao đã được chữa khỏi tạo thành các di chứng của bệnh lao phổi:

4. Dãn phế quản: có triệu chứng ho đàm và ho ra máu. Không nên lầm lẫn là bệnh tái phát. Chỉ khi tìm thấy vi trùng lao mới là tái phát.

5. Suy hô hấp mãn: khi có di chứng lan rộng làm phổi mất chức năng.

6. Tràn khí màng phổi: do vỡ một bóng khí. Tràn khí này không đi kèm theo nhiễm trùng màng phổi.

7. U nấm phổi: do vi nấm Aspergillus fumigatus sinh sôi trong một hang lao cũ trong phổi. Điều trị bằng phẫu thuật.

9. Làm thế nào để trị dứt bệnh lao?

- Lao là bệnh có thể điều trị khỏi. Bệnh nhân phải được bắt đầu điều trị càng sớm càng tốt ngay sau khi được chẩn đoán, đặc biệt là những người lao phổi M(+), tức là người có vi trùng nhìn thấy trực tiếp trong đàm. Tuy nhiên, điều trị lao đòi hỏi thời gian dài, bệnh nhân cần phải hiểu và tuân theo những nguyên tắc điều trị: dùng thuốc đúng liều, đều đặn, đủ thời gian.

- Tại sao?

Vì trong cơ thể người mắc bệnh lao có nhiều dân số trực khuẩn lao khác nhau:

·       Nhóm trực khuẩn đang hoạt động và sinh sản: loại này có nhiều trong các hang lao, tức là các lỗ lủng trong phổi theo cách nói thông thường. Nhóm này dễ bị thuốc kháng lao tiêu diệt.

·       Nhóm sinh sản chậm nằm trong các đại thực bào, khó bị tiêu diệt hơn.

·       Nhóm ngủ yên, sinh sản cực kỳ chậm, nằm rải rác trong các mô cơ thể. Các vi khuẩn trong nhóm này không sinh sản nhưng vẫn sống. Khi sức đề kháng của cơ thể suy yếu đi chúng sẽ hoạt động trở lại. Nhóm này rất khó bị tiêu diệt.

Mặt khác vi khuẩn lao có đặc điểm là có một số vi khuẩn tự nhiên có khả năng chống lại được thuốc kháng lao, gọi là kháng thuốc (lờn thuốc). Số vi khuẩn càng đông càng có khả năng có nhiều vi khuẩn kháng thuốc.

- Do đó muốn trị dứt bệnh lao cần phải:

·        Tiêu diệt được tất cả các dân số vi trùng lao

·        Không cho có hiện tượng kháng thuốc xảy ra

- Vì thế, việc điều trị lao được dựa trên các nguyên tắc sau:

·        Phối hợp cùng lúc nhiều thuốc chống lao để tránh xuất hiện các vi khuẩn kháng thuốc. Trong giai đoạn tấn công phải phối hợp 3-4 thứ thuốc, giai đoạn duy trì phối hợp 2-3 thứ thuốc.

·        Dùng thuốc đúng liều: liều thấp sẽ không hiệu quả dễ sinh ra vi trùng kháng thuốc, dùng liều cao dễ gây tai biến

·        Dùng thuốc đều đặn: các thuốc kháng lao phải tiêm và uống cùng lúc và cố định giờ trong ngày để thuốc có thể đạt đỉnh cao trong máu. Thuốc phải uống xa bữa ăn để hấp thụ vào máu tối đa.

·        Dùng thuốc đủ thời gian để tránh tái phát: hiện nay điều trị lao gồm hai giai đoạn:

      Tấn công: kéo dài từ 2-3 tháng, mục đích là làm giảm nhanh số lượng vi trùng kể cả những vi trùng đang ngủ, để ngăn chận đột biến kháng thuốc

      Duy trì: kéo dài 4-6 tháng, mục đích là tiêu diệt toàn bộ các vi trùng còn sót lại để tránh tái phát.

Thực hiện đúng những nguyên tắc trên, bệnh lao sẽ được trị dứt dễ dàng. Không giữ đúng nguyên tắc, uống thuốc không đúng liều, không đều, không đủ thời gian, bệnh không thể chữa khỏi. Bệnh nhân có thể tử vong, bệnh trở thành mạn tính và lây sang cho nhiều người khác và khi đó đúng là một chứng nan y!

Trung tâm điều trị bệnh hô hấp Phổi Việt là phòng khám ngoài công lập duy nhất cả nước tham gia chương trình PPM công tư phối hợp chống lao. Bệnh nhân lao được chẩn đoán phát hiện thu dung điều trị và theo dõi đầy đủ xuyên suốt quá trình điều trị Lao