Bức ảnh chụp văn cao ngồi bên cây đàn

Thời học trò, ở tuổi 11, 12 tôi đã từng hát rất hồn nhiên, vô tư, một số ca khúc của Văn Cao: Thiên thai, Suối mơ, Trương Chi, Buồn tàn thu…

Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, rồi toàn quốc kháng chiến (1954- 1946), bạn bè trang lứa, lại hân hoan hát những bài ca cách mạng của Văn Cao: Tiến quân ca – Quốc ca, Chiến sỹ Việt Nam, Làng tôi, Ngày mùa, Sông Lô, Bắc Sơn, Đàn chim Việt, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam, Tiến về Hà Nội…Thật sôi nổi hào hứng với lứa tuổi măng non “Ca lô đội lệch/ Trống ếch rền vang/ Đội ngũ sẵn sàng/ Nhi đồng cấp tiến”.

Đến tuổi trưởng thành, tôi mới hiểu rõ ý nghĩa sâu xa, rộng lớn những bài ca của người nhạc sỹ. Với Văn Cao, Nhạc – Họa và Thơ như ba loại hình hợp nhất, hỗ trợ nhau trong tư duy sáng tác của ông. Tôi đã được hát, được xem tranh, được đọc thơ của Văn Cao với cảm xúc hào hứng, say mê và suy tưởng. Về mỹ thuật, ông đã vẽ không ít tranh chân dung, phong cảnh, tĩnh vật, đời sống, thuộc thể bố cục hoàn chỉnh: Chân dung giáo sư Đặng Thai Mai, Chân dung tự họa, Chân dung nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân, Thái Hà ấp đêm mưa, Sám hối nửa đêm, Cây đàn đỏ… nhiều chất liệu khác nhau (sơn dầu, màu bột, màu nước…).

Ngoài số tác phẩm hoàn chỉnh, ông còn đóng góp cho nền nghệ thuật đồ họa – minh họa suốt hai cuộc kháng chiến đến ngày hòa bình. Có nhà sưu tầm mê minh họa của ông đã cắt dán thành bộ “sưu tập minh họa Văn Cao“ để thưởng thức, rồi trưng bày triển lãm. Chưa dừng lại, Văn Cao còn là họa sỹ thiết kế mỹ thuật sân khấu. Vừa soạn nhạc, ông vừa là tác giả mỹ thuật cho không ít các vở diễn nổi tiếng: “Hà Nội năm 1946, Tanhia (của Liên Xô cũ), Nhật ký người địa chất, Đồng mía ở Cuba, Từ Trường Sơn, Hừng đông Thăng Long, Truyện ông Bi và ông Hài, Bài ca sân khấu (chuyển thể tiểu thuyết Liên Xô Thép đã tôi thế đấy). Văn Cao đã đưa vào sân khấu Hà Nội một quan niệm khác về không gian và có lẽ bắt đầu từ vở Hà Nội năm 46. Trang trí của Văn Cao không thích hợp với đạo diễn và khán giả ưa tả thực, nhất là đối với ai lầm tưởng cái mà nhà mỹ thuật trang hoàng trên sân khấu chính là không gian sân khấu vậy. Thực ra, nó còn bao gồm những miền chuyển động sâu kín của hành động kịch… ngoài cả không gian hình thể, màu sắc ta vẫn nhìn thấy nó”. (Thái Bá Vân. Có một Văn Cao sân khấu. Tiếp xúc với nghệ thuật. Viện mỹ thuật, 1997). Dù ở thể loại nào tác phẩm của ông cũng được tinh lọc qua cái nhìn bao quát đến tối giản.

Vì yêu thích văn học – nghệ thuật, tôi đã thi vào Đại học Văn Khoa, rồi học cả mỹ thuật (ở Viện Mỹ nghệ – Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam). Tôi có cơ hội được giao tiếp với Văn Cao. Tôi gần gũi và kính trọng ông như người Anh, người Thầy của nghệ thuật. Nhưng bắc cầu cho mối quan hệ ấm áp, thân tình ấy không thể không biết ơn nhà nghiên cứu phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân, người bạn đồng sự, đồng nghiệp. Triển lãm mỹ thuật của tôi ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam năm 1992, ông và phu nhân đã tới chúc mừng, tặng hoa, ghi cảm tưởng và không quên ký tặng tôi hai tuyển tập quý của ông “Nhạc Văn Cao” và “Thơ Văn Cao”. Tôi lại hân hạnh được chụp ảnh chung với ông và phu nhân. Một kỷ niệm đẹp của tình thân yêu đã động viên tôi đi vào nghệ thuật.

Mười tám năm ông đã đi xa, tôi vẫn tưởng như ông còn hiện diện trên căn phòng ấm cúng ngôi nhà lầu gác 2, số 108 phố Yết Kiêu, Hà Nội. Với thân hình mảnh dẻ, ngày ngày ông ngồi trên chiếc ghế bành mây quen thuộc, trên bàn trước mặt ông một ly rượu trắng “quốc lủi” tinh khiết. Ông uống từng ít , từng ít một như vừa uống vừa lắng nghe chất đắng, chất cay, lại có chút vị ngọt, đang ngấm dần vào cơ thể. Ngồi trầm ngâm suy nghĩ sự đời, hay ông đang nuôi dưỡng những ý nhạc, ý thơ, ý họa lóe sáng trong đầu? Có lẽ cả hai: “Con thuyền đi qua để lại sóng/ Đoàn tàu đi qua để lại tiếng/ Đoàn người đi qua để lại bóng/Tôi đi qua, để lại gì? ”. Ông tự vấn “Giữa sự sống và sự chết/ Tôi chọn sự sống/ Để bảo vệ sự sống, tôi chọn sự chết” (Chọn).

Ông sống thanh bạch, hiền từ, giản dị. Ngoài chiếc đàn dương cầm, những hộp màu, bút vẽ, không còn vật gì đáng giá, nếu còn quên chưa kể một vài chai rượu quê được bạn bè, người thân biếu tặng. Và duy nhất còn có người vợ hiền luôn bên cạnh trợ giúp, an ủi ông trong mọi hoàn cảnh vui buồn, đau ốm… Sức mạnh tinh thần, tình cảm, thời gian, ý tưởng, tư tưởng nghệ thuật với ông mới là tất cả. Trong sinh hoạt giao tiếp, ứng xử đời thường, ông có phần vụng về, ngại ngần đến nhút nhát: “Có lúc/ ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt” “Tôi rơi vào mạng nhện/ mạng nhện cuốn lấy tôi/ Không còn cách gì gỡ được/Muốn phá cái mạng nhện/Tôi không đủ tay” (Ba biến khúc tuổi 65). Thơ của ông thường phá cách. Có ngôn ngữ riêng, không giống ai! Không đi vào nếp cũ đường mòn. Cũng không thuộc trường phái nào theo cách xếp loại thông thường, khép kín của các nhà phê bình.

Ngày ông ra đi, thi hài còn lưu lại ít ngày ở nhà lạnh Đại thể bệnh viện, để có thời gian chuẩn bị tang lễ. Đêm về, buồn thương ông – ngôi sao sáng vừa băng hà – nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân đã bói Kiều, xin cụ Nguyễn Du 4 câu đầu trang tay phải: “Miệt mài trong cuộc truy hoan/ Càng quen thuộc nết, càn dan díu tình/ Lạ cho cái thói khuynh thành/ Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi” Rồi ông tạ từ “anh Văn ạ, cụ Nguyễn Tiên Điền nói thế, chắc là thế” (Thái Bá Vân. Tiếp xúc với nghệ thuật. Sách đã dẫn). Về phần tôi, tôi không bói Kiều. Nhưng tôi có liên tưởng Kiều với Nhạc sỹ – Họa sỹ – Thi sỹ Văn Cao. Tôi thấy Kiều và Văn Cao có số mệnh gần nhau, tuy hoàn cảnh lịch sử hai con người ở hai đầu thời gian khác nhau, nhưng lại giống nhau về tài: “Thông minh vốn sẵn tính trời/ Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm/ Cung thương lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương… “Ngẫm hay muôn sự tại trời/ Trời kia đã bắt làm người có thân/ Bắt phong trần, phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao”… Những cống hiến to lớn của ông có tầm lịch sử. Ông xứng đáng được lịch sử, Tổ quốc và nhân dân ghi công. Xứng đáng với danh hiệu nghệ sỹ nhân dân, người nghệ sỹ công huân của dân tộc.” *

Trần Thức

.

Cuộc Đời Văn Cao “Gian Nan” Như Chính Bản Quốc Ca _________________________________________

PHẠM VŨ

Văn Cao (15/11/1923 – 10/7/1995)

Là một nhạc sĩ huyền thoại của Việt Nam. Ông là tác giả của “Tiến quân ca” – quốc ca của nước Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc. Bên cạnh tư cách là một nhạc sĩ, Văn Cao còn là một họa sĩ, nhà thơ với nhiều tác phẩm giá trị.

Thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong, Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc lãng mạn “Bến xuân”, “Suối mơ”, “Thiên Thai”, “Trương Chi”,… ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Sau khi gia nhập Việt Minh, Văn Cao viết “Tiến quân ca”, “Trường ca Sông Lô”, “Tiến về Hà Nội”,… trở thành nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc kháng chiến.

Sau vụ việc Nhân Văn – Giai Phẩm, Văn Cao phải đi học tập chính trị. Trừ “Tiến quân ca “, tất cả những ca khúc của ông cũng giống như các nhạc phẩm tiền chiến khác không được lưu hành ở miền Bắc. Đến cuối thập niên 1980, những nhạc phẩm này mới được biểu diễn trở lại.

Năm 1996, một năm sau khi mất, Văn Cao được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh trong đợt trao giải đầu tiên.

Tên ông cũng được đặt cho nhiều con phố đẹp ở Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng và Nam Định.

Năm 1942, nghe theo lời khuyên của Phạm Duy (khi sáng tác nhạc thì P.D.Cẩn lấy nghệ danh là Phạm Duy), Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant – nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền – và theo học dự thính tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Văn Cao còn làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy. Năm 1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: “Cô gái dậy thì”, “Sám hối”, “Nửa đêm”. Đặc biệt tác phẩm “Cuộc khiêu vũ những người tự tử” (“Le Bal aux suicidés”) được đánh giá cao và gây chấn động dư luận. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của Văn Cao không bán được. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn. Cùng bạn bè, Văn Cao thường phải đứng bán các tác phẩm của mình trên các đường phố Hà Nội, Hải Phòng.

Tham gia Việt Minh

Cuối năm 1944, Văn Cao gặp lại Vũ Quý mà ông đã quen biết trước đó. Vũ Quý thuyết phục ông tham gia Việt Minh, với nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành khúc. Văn Cao đã sáng tác ca khúc đó trong nhiều ngày tại căn gác số 171 kể trên và đặt tên cho tác phẩm là “Tiến quân ca”. “Tiến quân ca” được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lập tháng 11/1944. Ngày 13/8/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt “Tiến quân ca” làm quốc ca của nước Việt Nam.

Cuối năm 1949, Văn Cao thôi làm báo Văn Nghệ chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam. Thời kỳ này, ông tiếp túc sáng tác các ca khúc nổi tiếng khác như “Làng tôi” (1947), “Ngày mùa” (1948), “Tiến về Hà Nội” (1949)… và đặc biệt là ” Trường ca Sông Lô ” năm 1947.

Năm 1952 , Văn Cao sang Liên Xô nghiên cứu âm nhạc. Theo Hoàng Văn Chí thì chuyến đi này làm Văn Cao “thất vọng về chủ nghĩa cộng sản “. Trần Gia Phụng thì miêu tả một cậu bé thổi sáo bằng hai mồm. Một cái được vẽ từ cách nhìn thẳng, một cái được vẽ bằng cách nhìn nghiêng. Làm nền, phía sau cậu bé là đông nghịt những con người trong một tiết tấu đầy chuyển động của nhịp chiến tranh. Bức tranh này cùng với bức Cây đàn đỏ vẽ một người bộ đội ôm “Cây đàn chủ nghĩa” mà Văn Cao gửi tham gia Triển lãm Hội họa ở Liên khu III, ông bị quy kết: hình thức lai căng, nội dung thì có vấn đề về tư tưởng.

Nhân Văn – Giai Phẩm

Sau hiệp định Genève 1954 , Văn Cao hồi cư về Hà Nội, làm việc cho Đài Phát thanh , nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955, ông cầm bút trở lại, viết bài cho đặc san Giai Phẩm. Tháng 2 năm 1956 , bài thơ Anh có nghe không được đăng trên Giai phẩm mùa Xuân. Bài thơ này bị Xuân Diệu đánh giá là “lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì”. Văn Cao cùng các nghệ sĩ của hai tờ báo Nhân Văn và Giai Phẩm khi đó chủ trương đòi hỏi tự do văn nghệ, sáng tác. Đến tháng 12 năm 1956 thì cả hai tờ báo đều bị đình bản.

-Xuân Diệu đấu tố Văn Cao là trùm phản động, là đầu sỏ chống cộng.

Với tất cả tội trạng tày trời do Xuân Diệu đấu tố Văn Cao công khai trên báo chí, tội của Văn Cao có khi còn to hơn tội của bà nhà văn Thụy An và ông Nguyễn Hữu Đang (cùng bị án 15 năm tù giam, 05 năm quản thúc vì hai người này bị cho là đầu sỏ gây ra vụ án chống đảng “Nhân văn – giai phẩm”). Sở dĩ Văn Cao thoát tù mọt gông vì ông chính là tác giả Quốc ca.

Gian nan với bản Quốc ca như chính cuộc đời của Văn Cao Lửa thử vàng, gian nan thử sứ

Ngay sau vụ “Nhân Văn”, nhà nước tính lấy một bài hát “ Cách mạng tiến quân” của Đỗ Nhuận làm bài quốc ca, thay bài “ Tiến quân ca ” của Văn Cao nhưng việc không thành.

Năm 1981, nhà cầm quyền lại phát động phong trào cả nước thi sáng tác quốc ca – quyết thay bài hát của tên phản động đang bất đắc dĩ dùng làm quốc ca ( Tại Hà Nội mọi người vẫn kể: V.Cao mỗi lần say rượu vẫn hay nói oang oang “ Tớ đếch cần, vì mỗi khi bản Tiến Quân ca cử lên thì mọi người từ lớn đến bé đều đứng nghiêm chỉnh! ); nhưng mấy trăm bài dự thi thay đổi quốc ca, không bài nào được chọn (vì quá tẻ nhạt) để thay thế bài ca lịch sử của Văn Cao. Nhưng sau đó không công bố kết quả, cuộc thi cũng không được nhắc lại (!) . Bài Tiến quân ca vẫn là quốc ca của Việt Nam. Cho đến cuối thập niên 1980, nhờ chính sách Đổi mới của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh , các tác phẩm của Văn Cao cùng những nhạc sĩ tiền chiến khác được biểu diễn trở lại. Bài Tiến quân ca vẫn là quốc ca của Việt Nam.

Văn Cao phải đi học tập chính trị

Như những nghệ sĩ khác của nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm , tuy có muộn hơn, đến tháng 7 năm 1958, Văn Cao phải đi học tập chính trị. Tên tuổi của Văn Cao hầu như không còn xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội. Những năm sau đó, Văn Cao tiếp tục bằng nhiều công việc, như viết nhạc không lời cho các truyện phim và truyện kịch, trang trí sân khấu cho các đoàn kịch, vẽ quảng cáo các báo, vẽ nhãn diêm… Các tác phẩm của ông, cũng như các ca khúc lãng mạn tiền chiến khác, không được trình diễn ở miền Bắc, trừ bài Quốc ca. Giai đoạn này, Văn Cao hầu như không còn sáng tác.

Đến cuối năm 1975, Văn Cao viết Mùa xuân đầu tiên , nhưng ca khúc bị phê bình là không đi đúng đường lối của Đảng, không phục vụ cho Cách mạng, vì thế bản nhạc mới phát hành đã bị tịch thu. Nhưng các chương trình Việt Ngữ tại Moskva vẫn cho trình bày bài hát, và nhờ vậy Mùa xuân đầu tiên đã không bị lãng quên. Văn Thao, người con trai của Văn Cao, tiết lộ tiếp rằng: “Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy Mùa xuân đầu tiên được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: “Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu.”

Năm 1989, tạp chí National Geographic đã đăng một bức ảnh của nhạc sĩ Văn Cao đang ngồi trầm tư bên chiếc đàn dương cầm của ông. Chính tấm hình này sau đó đã tạo cảm hứng để nhà soạn nhạc đương đại người Mỹ Robert Ashley sáng tác nên bản solo cho piano mang tên Van Cao’s Meditation vào năm 1992, dù rằng cho đến tận khi Văn Cao qua đời (1995) thì Robert Ashley vẫn chưa một lần gặp mặt tác giả của Tiến quân ca .

Ngày 10 / 7 / 1995 , sau một thời gian mắc bệnh ung thư phổi , Văn Cao mất tại BV Hữu Nghị, HN.

Van Cao’s Meditation

Là một tác phẩm khí nhạc độc tấu dành cho piano của nhà soạn nhạc đương đại nổi tiếng người Mỹ Robert Ashley (sinh năm 1930 tại Ann Arbor, Michigan), sáng tác vào năm 1992. Bản nhạc này được Robert Ashley lấy cảm hứng sáng tác từ tấm hình chụp Văn Cao nhạc sĩ nổi tiếng người Việt Nam đang ngồi trầm ngâm bên chiếc đại dương cầm, tấm hình sau đó xuất hiện trên tạp chí National Geographic vào năm 1989. Dù bản nhạc được Robert Ashley sáng tác ở thời điểm khi Văn Cao vẫn còn sống nhưng cho đến khi Văn Cao qua đời (1995), Robert Ashley vẫn chưa một lần gặp mặt tác giả của Tiến quân ca, bài quốc ca của Việt Nam.

Bản nhạc Van Cao’s Meditation sau khi ra đời (1992) đã được biểu diễn lần đầu tiên bởi nghệ sĩ piano Lois Svard và được đưa vào album nhạc của cô mang tên là “With and Without Memory”.

Trịnh Công Sơn (1939-2001) – Người Thơ Ca (theo Văn Cao)

Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ. Và bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những nỗi đau của Tổ quốc mẹ hiền.

Mãi hơn một năm sau ngày 30/4/1975, chúng tôi mới thật sự mặt nhìn mặt tay cầm tay lần đầu, nhưng tôi có cảm giác như chúng tôi đã là bạn của nhau tự bao giờ, mặc dù giữa tôi và Sơn còn cả một thế hệ đệm (Văn Cao hơn TC.Sơn 16 tuổi). Nói cách nào đó, tôi đã gặp Sơn từ những ngày đất nước còn chia hai miền và còn chìm trong khói lửa. Tôi muốn nhắc đến ở đây một kỷ niệm không thể quên ở nhà một người bạn trẻ. Đêm ấy lần đầu tiên tôi nghe (cũng có nghĩa là gặp) Trịnh Công Sơn… Những bạn trẻ hát cho tôi nghe gần suốt đêm hàng loạt ca khúc Trịnh Công Sơn (không biết họ học ở đâu?) hát say sưa đến nỗi đứt cả dây của cây đàn ghi-ta duy nhất có trong nhà .

Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, người bạn già của tôi, “Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra“. Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ chính là chỗ đó, ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà cả bên ngoài biên giới nữa. Và nếu không lầm thì dấu ấn của Sơn đã ít nhiều in trên tác phẩm của một số nhạc sĩ thời kỳ sau 1975. Có lẽ cũng không cần nghe lại nữa, dù bây giờ và sau này Sơn có in thêm, một lần là đủ, từ cái đêm chiến tranh ấy, tôi biết mình đã gặp một tâm-hồn-chị-em xẻ chia “Một cõi đi về“. Và tôi viết lời bạt này cho tập nhạc Sơn như giữ một lời hẹn thầm chưa ngỏ, lời hẹn của một tri âm với tri âm …(Văn Cao)

Trịnh Công Sơn và Văn Cao có nhiều nét tương đồng

Cả hai nhạc sĩ đều là thi sĩ và họa sĩ, và nhất là đều là con cháu của thần rượu Lưu Linh.

(Nguyên vào cuối thời Tây Chu, có Đỗ Khang – tương truyền là người phát minh ra cách nấu rượu ở Tầu . Ông được những người nấu rượu, bán rượu thờ là ông tổ của nghề rượu, được nhân dân Tầu tôn xưng là Tửu thần . Lưu Linh tự cho mình có tửu lượng cao, không ngờ mới uống được ba cốc lớn đã say nghiêng say ngả, say liền một mạch ba năm mới tỉnh. Đúng là Đỗ Khang đã có công mang niềm vui đến cho thiên hạ, tạo phúc cho muôn nhà và cho cả hai nhạc sĩ tài hoa nữa).

-Cái tên “Rượu Văn Cao” ra đời

Chuyện kể ra thì rất dài và khá ly kỳ, nhưng có thể tóm lại thế này. Một người có nghề nấu rượu gia truyền ở mạn chùa Thầy, được nghe kể là Nhạc sĩ Văn Cao cũng “hay” rượu. Ông quyết định nấu một loại rượu đặc biệt để biếu Văn Cao. Ông rất ít khi nhận quà nhưng loại rượu này thì ông nhận. Rồi ông mê nó và không giữ uống một mình. Loại rượu này nặng độ (khoảng 55 độ), trong vắt và vẫn còn mùi thơm của hương nếp; nhấp một giọt, thấy ngọt ở đầu lưỡi; uống vào đến đâu, sức nóng lan tới đó, cả người như sắp sửa bay lên… Chắc người biếu rượu cũng được thấy khích lệ khi con người tài hoa và nổi tiếng mê thứ rượu ông nấu. Thế là giữa hai bên có mối liên kết chặt chẽ. Sau khi Văn Cao mất, người con trai trưởng của cụ là Văn Thao thừa hưởng loại rượu này. Chẳng bao lâu trong những người bạn tôi lan truyền cái tên “Rượu Văn Cao”. Ai vừa được uống xong, lập tức khoe với bạn bè: Mình vừa uống “Rượu Văn Cao”.

Tôi cứ nghĩ, tên “Rượu Văn Cao” chỉ những người bạn của tôi biết với nhau mà thôi. Thực tế không phải vậy. (Nghệ Nhân Huyện Quỳnh)

-Nhạc sĩ Văn Cao và Trịnh Công Sơn là những người bạn trân quý của nhau. Trịnh gọi âm nhạc của Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng còn Văn gọi Trịnh là người của thơ ca.

Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng nói “Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư…”.

Còn cố nhạc sĩ Văn Cao thì gọi Trịnh Công Sơn là người của thơ ca (Chantre) “… bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ… Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra“.

Đó chính là những lời chân thành mà hai nghệ sĩ tài hoa dành tặng nhau. Mỗi lần Trịnh Công Sơn ra Hà Nội đều ghé thăm Văn Cao, người ta thấy hai người bạn vong niên ngồi trước ly rượu đàm đạo… Năm 1993 mới có cuộc hội ngộ tại Sài Gòn giữa hai nhạc sĩ tài hoa trong làng nhạc Văn Cao và Trịnh Công Sơn, không ai nghĩ rằng đó là cuộc gặp cuối cùng.

Tiếp nhận bài “Tiến quân ca” của cố nhạc sĩ Văn Cao

Văn phòng Quốc hội chiều 15-7-2016 đã tổ chức lễ tiếp nhận bài “Tiến quân ca” và truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho cố nhạc sĩ Văn Cao. Bà Nghiêm Thúy Băng, phu nhân cố nhạc sĩ, cùng các con – cháu của gia đình đã tham dự buổi lễ.

Phát biểu tại buổi lễ, Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch Vương Duy Biên cho biết cách đây hơn 70 năm, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, hàng vạn quần chúng nhân dân đã hát vang bài “Tiến quân ca” trong lễ chào cờ tại buổi lễ Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Bài “Tiến quân ca” chính thức được Quốc hội khóa 1 chọn làm Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại kỳ họp thứ hai (tháng 3-1945) và được ghi tại điều 3 Hiến pháp năm 1946, theo đề xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó, bài “Tiến quân ca” của nhạc sĩ Văn Cao trở thành Quốc ca của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thể theo tâm nguyện của cố nhạc sĩ Văn Cao cùng gia đình mong muốn hiến tặng bài “Tiến quân ca” cho nhân dân và Tổ quốc, thực hiện chỉ đạo của Quốc hội, Bộ VH-TT-DL đã chủ động phối hợp với Văn phòng Quốc hội và các bộ – ngành ký kết văn bản hiến tặng bài “Tiến quân ca” vào ngày 28-12-2015. Sau lễ tiếp nhận, Bộ VH-TT-DL được giao quản lý, có trách nhiệm gìn giữ và phát huy giá trị bài “Tiến quân ca”.

LỜI KẾT

Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Truyện Kiều trong bài nói chuyện của Tổng thống Mỹ Obama (tại Hà Nội – 24/5/2016)

TT Hoa Kỳ Barack Obama đã có buổi nói chuyện với giới trẻ Hà Nội. Với phong thái gần gũi và sự chuẩn bị kỹ càng, ông đã gây ấn tượng rất lớn đối với khán giả.

Buổi nói chuyện của TT Obama không thể không nhắc đến những vẻ đẹp tự nhiên biểu tượng cho Việt Nam như Vịnh Hạ Long, hang Sơn Đoòng. Ông mong mỏi những vẻ đẹp như vậy cần được bảo vệ cho thế hệ con cháu.

Không ít lần TT Hoa Kỳ nhắc đến những nhân vật nổi tiếng trong văn hóa Việt Nam như Trịnh Công Sơn hay Truyện Kiều của Nguyễn Du, khiến cho bài phải phát biểu của ông trở nên gần gũi hơn nhiều với những người Việt Nam trẻ tuổi.

“Sự tự tin của tôi được đặt nền tảng từ tình cảm bạn bè và cảm hứng chia sẻ với nhân dân các nước, cả người dân Hoa Kỳ hay những người Việt Nam từng vượt biển. Một vài người đã gặp lại gia đình lần đầu tiên sau nhiều thế hệ, hay những người mà như Trịnh Công Sơn đã viết trong bài “Nối vòng tay lớn”, hãy mở trái tim ra và hãy nhìn vào tính nhân đạo – bản chất của con người”. “Nhiều năm sau nữa, khi người Việt Nam và người Mỹ học tập cùng nhau, cùng sáng chế các phát minh và kinh doanh với nhau, cùng đứng với nhau trong các vấn đề an ninh, bảo vệ cho nhân quyền và nhân phẩm. Tôi mong các bạn nhớ lại khoảnh khắc này khi tôi đứng ở đây với các bạn, như Nguyễn Du đã nói trong truyện Kiều:

Rằng: Trăm năm cũng từ đây

Của tin gọi một chút này làm ghi

Để lý giải cho mối quan hệ tốt đẹp giữa nhân dân hai nước, ông đã trích dẫn một câu hát rất nổi tiếng trong bài “Mùa xuân đầu tiên” của cố nhạc sĩ Văn Cao. “Người Việt và người Mỹ đều có thể cùng nói về lời bài hát của cố nhạc sĩ Văn Cao: Từ đây người biết thương người, từ đây người biết yêu người….”.

Bản nhạc bất hủ: “ Mùa xuân đầu tiên ” Văn Cao khởi viết cuối tháng 12-1975, hoàn thành trong dịp tết Bính Thìn năm 1976.

Đây là bài hát có số phận đặc biệt nhất trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát mang nhiều tâm trạng đối lập, hòa trộn nước với lửa: Vui ít, buồn nhiều, mừng ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào nhiều, bâng khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở than nhiều, cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc nhiều, sum họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ vơ nhiều…

Hầu như tất cả các trạng thái tình cảm trái ngược nhau của con người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này: Ai vui hát lên thì nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát lên thấy một trời đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm đang đồng cảm cùng mình…

Nghe đi nghe lại bản nhạc này, ta thấy xuất hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe bản nhạc “Mùa xuân đầu tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng mình.

Riêng lời bài hát đã là một bài thơ hay:

“Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về

Mùa bình thường mùa vui nay đã về…

Rất nhiều chim én, nhiều nắng gió, có nước mắt vui gặp gỡ của đàn con nay đã về, có cuộc đời êm ấm…nhưng sao hình ảnh “khói bay trên sông, gà đang gáy trưa trên sông” lặp lại hai lần làm không gian của “Mùa xuân đầu tiên” xa xôi, bơ thờ thế, xao xác thế, hoang vắng thế, hiu quạnh thế, đơn độc có phần cô đơn thế? Chợt nhớ nỗi buồn thiếu quê hương của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng gà trưa Văn Cao nay, một khói sóng trên sông xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết: “một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông”:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

(Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu? Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!)

Chợt nhớ Lưu Trọng Lư “thời con nai vàng ngơ ngác” với câu thơ tiền chiến xưa sao rất đồng cảm với nỗi vui não nùng Văn Cao nay: “Tiếng gà trưa xao xác não nùng”.

Bài hát như một điệu valse bằng nước mắt; sự thướt tha, quý phái của một giai điệu bi thương; sự sang trọng của ngậm ngùi, day dứt; sự lãng mạn của một phiêu linh, xô dạt; sự mê đắm của một vu vơ; sự đoan trang của cái đẹp lỡ thì; sự liêu trai của ngơ ngác, đìu hiu; sự dịu dàng của nỗi thương đau, xót nhớ….

Chừng như đã mấy chục năm chiến tranh liên miên chưa từng có xuân về? Chừng như gần hết cả đời người bận chuyện đấu tranh giai cấp giành giật miếng ăn chưa từng thấy chim én báo xuân? Chừng như đã rất lâu rồi sự căm thù trùm lên xã hội không còn ai biết thương người? Chừng như đã lâu lắm rồi ta tha hương trên chính quê hương mình? Chừng như suốt mấy cuộc chém giết kinh hoàng mạo danh cách mạng, không còn ai biết yêu con người? Chừng như mấy mươi năm rồi con người đã quên mình còn nước mắt? Chừng như lâu rồi tâm hồn người không được sưởi nắng mùa xuân?

Và chừng như toàn bộ vết thương cuộc đời Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà nhỏ xuống cây đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến những vết thương chợt mở miệng ca hát: “Mùa xuân đầu tiên”

Chừng như nỗi niềm ngày 30 tháng tư năm 1975: “Có một triệu người Việt Nam vui thì cũng có một triệu người Việt Nam buồn” (lời ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi bài hát: “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao? Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi nghe có một nửa nước vui thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn thua trận cũng trào nước mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng xé nhau, cười khóc mếu máo bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh đênh phiêu bạt thế, nức nở nghẹn ngào thế?

Có lẽ, chính vì những điều trên mà kiệt tác “ Mùa xuân đầu tiên ” của Văn Cao sau khi được báo “Sài Gòn giải phóng” in trước tết Bính Thìn: 01- 01 – 1976, được hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy lần liền bị cấm suốt 24 năm (1976-2000). Sinh thời, Văn Cao không được nghe, được nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao này của mình được trình diễn. Sau khi ông mất (1995) 05 năm, “Mùa xuân đầu tiên” mới ra khỏi nhà tù kiểm duyệt.

Xin quý bạn đọc hãy nghe nhà thơ, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự ra đời của bài hát này:

“Sau khi bài TIẾN VỀ HÀ NỘI ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa… Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng…”

Tôi còn lưu giữ được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói. Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hoá” mất 30 năm thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc Việt Nam.

Những ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên những ly rượu tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”.

Văn Thao tiết lộ rằng, bài hát bị cấm ở Việt Nam nhưng bên nước Liên Xô người ta lại dịch sang tiếng Nga, phát trên Đài phát thanh Matxcova ( Trần Mạnh Hảo)

Mùa Xuân Đầu Tiên – Văn Cao

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về/ Mùa bình thường mùa vui nay đã về Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên/ Với khói bay trên sông

Gà đang gáy trưa bên sông/ Một trưa nắng cho bao tâm hồn

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về/ Người mẹ nhìn đàn con nay đã về Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên/ Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh Niềm vui phút giây như đang long lanh. Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên. Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm. Từ đây người biết quê người/ Từ đây người biết thương người Từ đây người biết yêu người/ Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về Mùa bình thường, mùa vui nay đã về/ Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông/ một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.

PHẠM VŨ

@ Cố nhạc sĩ Văn Cao: “Mùa xuân đầu tiên”, tuyệt tác cuối cùng ______________________________________________________

Dương Minh Đức

Có người đã mượn cách chơi chữ để gọi ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” là “tuyệt phẩm cuối cùng của thiên tài âm nhạc Văn Cao”. Quả đúng thế thật. Ca khúc có số phận kỳ lạ. Nó ra đời sau khi Văn Cao ngừng sáng tác ca khúc tới hai chục năm…

Như một tiểu thư đài các, thoạt đầu ca khúc còn dè dặt giữ một khoảng cách với khán giả. Nhưng rồi, cùng với thời gian, như rượu ủ lâu càng ngấm, “Mùa xuân đầu tiên” ngày càng đi vào đời sống. Có lẽ không hề quá lời khi ta khẳng định rằng, đây là bài hát luôn thức dậy trong hồn ta mỗi độ Tết đến xuân về, kèm theo đó là những bâng khuâng, day dứt về một thái độ sống sao cho xứng với những gì mà cả dân tộc đã phải mất bao nước mắt, máu xương mới giành lại được…

Trong một bài viết in báo cách đây khá lâu, họa sĩ, nhà thơ Văn Thao – con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao đã kể lại quá trình phụ thân mình sáng tác nên ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”: Vào một ngày giáp Tết Bính Thìn (1976), từ trung tâm chỉnh hình trên Ba Vì trở về nhà (108 Yết Kiêu, Hà Nội), vừa leo lên thang gác, Văn Thao chợt nghe vọng ra tiếng đàn dương cầm. Đó là một điệu valse với giai điệu mượt mà sâu lắng mà ông chưa bao giờ được nghe.

Ông bước vào nhà. Một cảnh hết sức ấn tượng hiện ra trước mắt ông: “Văn Cao ngồi bên đàn. Đôi bàn tay khô gầy của ông đang lướt trên những phím đàn ố vàng, loang lổ. Tiếng đàn ấm áp, ngọt ngào âm vang đầy ắp căn phòng”.

Sau màn chào hỏi, thăm nom sức khỏe của hai bố con, Văn Thao nêu nhận xét: “Lâu lắm con mới lại được nghe bố đánh đàn một cách say sưa như thế này. Giai điệu đẹp quá. Bài mới sáng tác của bố đấy à?”. “Ừ! Bố sáng tác bài hát này mừng xuân đầu tiên đất nước mình thống nhất”. Văn Thao nghe mà phấn khích.

Vậy là phụ thân ông lại sáng tác ca khúc, điều mà trước đấy hai mươi năm, cụ đã tuyên bố dứt bỏ. Và Văn Thao nhớ lại: Ngày 30/4/1975, nghe tin đất nước hoàn toàn thống nhất, trong khi nhà nhà rộ lên tiếng reo vui thì Văn Cao im lặng. Ông im lặng nhưng đôi mắt sáng lấp lánh.

Cũng theo ông Văn Thao cho biết thì phụ thân của ông đã hoàn tất ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” đúng dịp Tết Bính Thìn. Ca khúc sau đó được in trên Báo Sài Gòn giải phóng. Và, không hiểu bằng cách nào, cũng trong năm ấy, ca khúc được dịch lời và in ở Nga. Tưởng như vậy là nhanh, kỳ thực phải tới nhiều năm sau, “Mùa xuân đầu tiên” mới được dàn dựng và phát sóng.

Theo cách cắt nghĩa của một số nhà nghiên cứu âm nhạc thì sở dĩ có thời kỳ, “Mùa xuân đầu tiên” không được giới quản lý cho phép phổ biến, ngoài những định kiến về Văn Cao trong quá khứ còn vì trong ca khúc, họ lấn cấn bởi những câu sau: “Từ đây người biết quê người/ Từ đây người biết thương người/ Từ đây người biết yêu người“. Nghe mà thấy mơ hồ, rắc rối quá. Thì có một thời người ta cảnh giác, săm soi, bắt bẻ từng câu từng chữ như vậy mà.

Đây là nguyên văn ca từ của bài hát:

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về

Mùa bình thường mùa vui nay đã về

Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên

Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông

Một trưa nắng vui cho bao tâm hồn.

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về

Người mẹ nhìn đàn con nay đã về

Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên

Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh

Niềm vui phút giây như đang long lanh.

Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.

Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.

Từ đây người biết quê người

Từ đây người biết thương người

Từ đây người biết yêu người.

Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về

Mùa bình thường, mùa vui nay đã về

Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu

Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông

Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.

Trở lại với câu chuyện vì mấy câu ca từ kêu gọi tình thương một cách “chung chung, thiếu tính giai cấp” ấy mà mất một thời gian, bài hát không được phổ cập đúng với giá trị đích thực của nó. Thiết nghĩ, đấy chỉ là một lý do.

Điều khiến “Mùa xuân đầu tiên”, dù sau này cũng đã được dàn dựng, biểu diễn trong thời gian tác giả còn sống (như được ca sĩ Minh Hoa thể hiện trong đêm nhạc “Văn Cao – một đồng hành tuổi trẻ”, được ca sĩ trẻ Thanh Thúy, bấy giờ mới 17 tuổi thể hiện trong video ca nhạc “Văn Cao – Giấc mơ một đời người”), nhưng chỉ tới khi Văn Cao tạ thế (năm 1995), mới thực sự đi vào đời sống và ngày càng lan tỏa, chiếm lĩnh tâm hồn khán thính giả, ấy là bởi ở thời điểm đất nước gặp nhiều bộn bề, khó khăn cả về đời sống vật chất và tinh thần, hình như tâm hồn con người cũng chưa đủ độ “lắng” để đón nhận một bài hát sâu sắc, trong trẻo và thánh thiện đến vậy.

Như trên đã nói, ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” được in lần đầu trên Báo Sài Gòn giải phóng. Cụ thể chuyện này thế nào, trên số Báo Sài Gòn giải phóng ra ngày 2/2/2008, nhạc sĩ Trương Quang Lục cho biết: “Ngày 5/5/1975, nhật báo Sài Gòn giải phóng phát hành số đầu tiên.

Vài ba tháng sau đó, Ban Biên tập của báo đã nghĩ đến việc chuẩn bị nội dung cho số báo xuân đầu tiên sau ngày giải phóng, với ý định làm sao để tờ báo xuân này thật hay, thật đẹp, thật hấp dẫn. Do đó, riêng về phần âm nhạc, Ban Biên tập quyết định mời nhạc sĩ Văn Cao, đang ở Hà Nội, viết một ca khúc mới cho số báo Xuân Sài Gòn giải phóng 1976…

Khi nghe ý kiến “đặt hàng” này, nhạc sĩ Văn Cao vui vẻ nhận lời và hứa sẽ sáng tác ngay. Mấy ngày sau đó, ông hoàn thành ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”. Theo nhận định của nhạc sĩ Trương Quang Lục thì “Mùa xuân đầu tiên” chính là “ca khúc đầu tiên được in trên một tờ báo xuân cách mạng tại Sài Gòn sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất”.

Đến nay, đã có rất nhiều khán thính giả yêu âm nhạc lên tiếng phẩm bình, phát biểu cảm xúc của mình khi nghe ca khúc tuyệt vời này. Riêng tôi ấn tượng với hai ý kiến này hơn cả. Một của nhà thơ Thanh Thảo: “Cả một dòng sông vui, nhưng không trào cuộn ồn ào, mà như lắng lại, nghe kỹ thấy những lượn sóng đang run run, những lượn sóng như nhắn nhủ cái gì, báo trước điều gì”. Và một của tác giả Dương Tấn Long: “Nghe loáng thoáng, dễ dãi với các ca từ “mùa xuân”, “chim én”… trong nhịp valse sang trọng, tươi vui dễ cảm nhận đó là tình tự của mùa xuân, của ngày Tết rộn ràng.

Nhưng cặn kẽ, sâu lắng, càng ngẫm nghĩ cứ thấy nặng lòng, vời vợi. Giai điệu và ca từ mới nếm vào thì thấy dịu ngọt, nhưng cái ý, cái hồn cứ ngấm dần, nghe đắng quanh cổ xuống tận tim gan…

Nước nhà thống nhất, không còn chiến tranh – đó là điều kiện thuận lợi, cho phép chúng ta mơ ước, khát vọng. Nhưng Văn Cao đã nghiệm ra rằng, đất nước, con người Việt Nam vừa trải qua đau thương, ly loạn, đã đánh mất nhiều giá trị truyền thống, nhân bản… Dâu bể, tang thương, nghiệt ngã, đã ảnh hưởng sâu rộng đến từng gia đình, từng thân phận. Vết thương đất nước chưa lành, nhân tâm còn bất ổn nên không quá vội vàng, ảo tưởng, hân hoan thái quá. Cần khơi dậy tình người, đánh thức nhân tính…

Mọi thứ chỉ mới bắt đầu, phải làm lại từ gốc… trên những “Mùa bình thường”, “người biết thương người”, “một trưa nắng vui cho bao tâm hồn”… thật bình dị nhưng cần thiết như cơm ăn, nước uống, khí trời… cho lẽ sống Việt Nam. Nếu mọi người ý thức được như thế là một khởi đầu tốt đẹp, đã là một mùa xuân mơ ước!”.

Những năm gần đây, vào mỗi độ xuân, chúng ta lại nghe “Mùa xuân đầu tiên” vút bay lên trong tiếng ca đầy luyến láy, mê hoặc của các ca sĩ trẻ, trong đó đáng chú ý nhất vẫn là giọng ca Thanh Thúy, Tam ca Áo trắng và nhóm 5 dòng kẻ. Tuy nhiên, đâu chỉ các bạn trẻ mới thích thể hiện ca khúc này.

Tác giả Hà Đình Nguyên từng kể câu chuyện cảm động: Một lần ông được nghe lão nhạc sĩ Hồ Bông hát “Mùa xuân đầu tiên”. Nhạc sĩ Hồ Bông khi ấy đã ở tuổi 80. Và người được ông hát tặng ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” khi ấy cũng ở tuổi 80.

“Mùa xuân đầu tiên hiện diện giữa hai mái đầu trắng như tuyết của buổi tối hôm ấy có lẽ chẳng bao giờ phai trong ký ức tôi” – Tác giả Hà Đình Nguyên đã kết luận như vậy. DƯƠNG MINH

@ khúc cuối cùng của cố nhạc sĩ Văn Cao và số phận kỳ lạ ___________________________________________ TRẦN PHƯƠNG

“Mùa xuân đầu tiên”, ca khúc gợi hình ảnh đất nước Việt Nam yên bình của cố nhạc sỹ Văn Cao đã có một số phận đầy bí ẩn…

Khi thưởng thức ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”, hẳn người thưởng thức đều bay bổng theo giai điệu nhẹ nhàng và tuyệt vời này của nhạc sỹ Văn Cao, một trong những cây đại thụ của nền âm nhạc Việt Nam. Nhưng có lẽ không nhiều người biết được tác phẩm bất hủ này có một số phận kỳ lạ và nhiều bí ẩn.

Thật may mắn khi chúng tôi đã có buổi nói chuyện với họa sỹ Văn Thao, con trai cả của nhạc sỹ Văn Cao và cũng là người đầu tiên tiếp xúc với tác phẩm ngay khi vừa được nhạc sỹ sáng tác xong.

Khi nói về tác phẩm, họa sỹ Văn Thao cho biết, với cha ông ca khúc Mùa xuân đầu tiên được coi là tác phẩm cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác. Để tác phẩm này ra đời, Văn Cao đã “thai nghén” ngay sau khi hiệp định Pari năm 1973 được ký kết, với dự đoán ngày đất nước thống nhất không còn xa. Và đánh dấu cho sự kiện đó, Văn Cao dự định viết một ca khúc nói về mùa xuân đầu tiên đất nước được xum vầy hạnh phúc, mùa xuân của nước Việt Nam thống nhất.

Sau nhiều năm thai nghén, nhạc sỹ Văn Cao đã tìm cho mình những điều bình dị nhất cho ngày sự kiện đất nước được thống nhất, khép lại những ký ức đau thương của đất nước thời binh biến.

Họa sỹ Văn Thao cho biết: Để tác phẩm này chính thức được hình thành, ngay sau khi thống nhất, đoàn công tác của báo Sài Gòn giải phóng đã ra Hà Nội công tác và đặt hàng cha ông một ca khúc. Khi nghe lời đề nghị của đoàn công tác, cụ vui vẻ nhận lời. Cùng với thời gian “thai nghén” trước đó, mùa xuân năm 1976, ca khúc Mùa xuân đầu tiên đã ra đời. Ca khúc đã được đăng trên số báo xuân năm 1976.

Sau đăng trên báo Sài Gòn giải phóng số xuân năm 1976, ca khúc đã có những hiệu ứng nhất định. Tuy nhiên, ngay sau đó nó gần như chìm vào lãng quên bởi nhiều lý do khác nhau. Trong đó, lý do được nhiều người quy kết chính là Văn Cao đã từngcó vướng mắc với Nhân văn Giai phẩm. Và Mùa xuân đầu tiên được xếp vào trong ngăn tủ.

Tưởng chừng như ca khúc sẽ rơi vào quên lãng thì bằng lý do nào đó sức sống mãnh liệt của ca khúc mùa xuân đầu tiên vẫn được cất lên tại đất nước Liên Xô xa xôi lạnh giá. Ca khúc Mùa xuân đầu tiên đã trở thành một bài hát yêu thích của không chỉ khán giả của chương trình Việt ngữ của đài Moskva và cả những người bạn Nga yêu mến Việt Nam.

Đây đã từng là một bí mật không có lời đáp suốt nhiều năm liền. Lý giải cho bí ẩn này, họa sỹ Văn Thao đã tiết lộ lý do rất “đặc biệt”.

Theo đó, trong năm 1976, con gái út của ông là cô Thiên Nga đã mang ca khúc Mùa xuân đầu tiên sang Học viện âm nhạc quốc gia Liên Xô để làm đề tài trong quá trình học. Ngay sau đó, ca khúc đã đặt những dấu ấn trong lòng khán giả Nga. Cũng trong năm đó, chương trình Việt ngữ tại Moska phát bài hát và họ đã liên hệ trả nhuận bút cho Văn Cao. Tuy nhiên, để lấy được nhuận bút này, Văn Cao đã phải viết giấy bảo lãnh gửi qua đại sứ quán. Sau khi viết xong giấy bảo lãnh, Văn Cao đã nói với con gái mình rằng “con cứ giữ lấy mà tiêu vì ở nước ta bố có bao giờ biết đồng nhuận bút là gì đâu.”

Họa sỹ Văn Thao khẳng định nhờ người em gái mà ca khúc Mùa xuân đầu tiên đã không bị rơi vào quên lãng.

Thời gian có phủ bụi trên phím đàn đã lặng câm sau ngày Văn Cao mất nhưng những tác phẩm của ông vẫn có sức sống trường tồn.

Ở Việt Nam, Mùa xuân đầu tiên đã phải trải qua những mùa xuân đợi chờ trước dài đằng đẵng để trở thành một trong những ca khúc phổ biến như hiện nay. Sau khi được sáng tác, Mùa xuân đầu tiên đã nhiều lần được nhắc đến trong các tác phẩm viết về cuộc đời của nhạc sỹ như: Văn Cao của Nguyễn Nhụy Kha, năm 1992. Trong cuốn sách này có hẳn một chương viết về bài Mùa xuân đầu tiên.

Năm 1993, ca khúc Mùa xuân đầu tiên cũng đã được xuất bản trong tuyển tập thơ Văn Cao để kỷ niệm ngày sinh của ông (1923-1993). Trước đó, năm 1988, sau khi được phục hồi là hội viên hội nhà Văn Việt Nam, ca khúc Mùa xuân đầu tiên được công bố trong đêm nhạc “Thiên thai”. Thế nhưng, không hiểu vì sao, ca khúc này không có chút dấu ấn nào trong lòng công chúng. Chỉ đến khi ông mất đi, đứa con tinh thần của ông mới có sức sống rực rỡ đến vậy.

Gần 20 năm sau ngày sáng tác, năm 1995, trong chương trình âm nhạc Văn Cao – Buổi sáng có trong sự thật, một chương trình kỷ niệm ngày Văn Cao mất, đạo diễn Đinh Anh Dũng đã mới ca sỹ Thanh Thúy hát ca khúc Mùa xuân đầu tiên. Ngay lập tức, ca khúc đã để lại dấu ấn trong lòng khán giả và có sức lan tỏa lớn đến công chúng khán giả

Trần Phương

@ MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN ____________________

* ĐẶNG HUY VĂN

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về Mùa bình thường mùa vui nay đã về Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên…

… Từ đây người biết quê người Từ đây người biết thương người Từ đây người biết yêu người…

(Văn Cao)

Nhưng, trên đời nay ai biết yêu ai, ai thương ai? Yêu và tin cả ‘kẻ thù’ của dân tộc à? Vậy là lại sắp đến Tết năm Con Gà, năm Con Khỉ sắp qua, một năm cũng ‘lắm trò khỉ’, biết bao nhiêu biến động trong nước và trên thế giới. Lại nhớ ngày 29 Tết Ất Mùi, ngày mà cách đây tròn 41 năm, ngày mà nhạc sĩ Văn Cao đã viết xong ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”; vì ông nghĩ, sau 1975 – kể từ mùa xuân Bính Thìn 1976, đất nước ta sẽ vĩnh viễn sạch bóng quân xâm lược.

Một bài hát chứa chan sâu lắng tình yêu đất nước vậy mà đã bị nhà nước CHXHCN Việt Nam lúc bấy giờ cấm lưu hành! Cuối cùng ông đã phải ấn hành bài hát đó tại Liên Xô năm 1976 và đã nhận được 100 rúp tiền nhuận bút. Đối với Văn Cao ngày ấy, số tiền này có thể mua được một chiếc xe đạp Sputnik, lớn hơn toàn bộ gia tài mà bấy giờ cả nhà ông đang có!

Và nữa, ngày 21 tháng Giêng mùa xuân Đinh Dậu tới cũng là ngày 17/2, đã 38 năm, ngày 17-2-1979 Kỷ Mùi, gần 60 vạn quân cộng sản Trung Quốc đã ào ạt tràn qua xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta, cướp đi hàng chục ngàn tính mạng của đồng bào vô tội trong đó chủ yếu là người già, phụ nữ và trẻ em!

Năm 2016 đã qua, cũng là năm thứ 21 nhạc sĩ Văn Cao kính yêu của chúng ta đã từ giã cõi đời này mãi mãi.

Tôi không thể cầm được nước mắt khi nghĩ đến bác Văn Cao phải sống một cuộc đời đầy bất trắc và oan trái; nay tưởng như nghệ sĩ tài hoa ấy vừa “lạc bước chốn Đào Nguyên” quay trở về đời thực để cống hiến cho chúng ta những bài hát, bài thơ, bài văn, bức vẽ…bất hủ đầy tính nhân văn. Và tôi cứ băn khoăn, không biết đến bao giờ, “Mùa xuân đầu tiên”– giấc mơ của bác Văn Cao mới được trở thành hiện thực khi vẫn còn đó những “Bí mật Thành Đô 1990” chưa được giải mã?

Bao giờ “MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN”?

(Kính viếng hương hồn bác Văn Cao)

Tròn ba mươi chín năm rồi

“Mùa xuân đầu tiên” đang tới!?

Văn Cao ơi, người gắng đợi!

Một mùa xuân trọn niềm vui

Thuở người hát,

giặc đã ngay cạnh bên

Phải chi người biết?

Nên từ Đào Nguyên tha thiết

Nhớ chàng Lưu Nguyễn xa xôi…

Người biết Mao quân vô đạo

Giết người kháng chiến chín năm

Bằng dùng “Cải cách ruộng đất”

Lại thêm “Giai phẩm Nhân văn”?

Người biết giặc Tàu cộng sản

Tràn sang tàn sát dân lành

Sáu tỉnh biên giới phía Bắc

Nên người căm hận chiến tranh

Người biết giặc Tàu tràn qua

Giết cả phụ nữ người già

Xác con phơi trên bụng mẹ

Núi rừng đầy bãi tha ma!

Thành Đô – phải chăng Người biết

Việt gian bán nước cho Tàu

Nên ra đi người đau đớn

“Chung lòng cứu nước” vì đâu?

Giờ ở Thiên Thai người thấy

Giặc Tàu cộng sản đêm ngày

Đang hủy hoại non sông Việt

Văn Cao ơi, bởi vì ai?

Vì ai Hoàng Sa biển đảo

Bị xâm lăng bởi giặc Tàu?

Vì ai tương tàn huynh đệ

Bao năm trời hận thù nhau?

Vì ai đất rừng nhượng bán

Dâng Tàu cả Mục Nam Quan?

Văn Cao ơi, thương thương lắm!

Còn chăng đất Việt bác nằm?

Nay giặc Tàu đã lộ diện

Là tên cướp biển Trường-Hoàng

Chúng muốn Việt Nam lần nữa

Quay về Bắc thuộc ngàn năm!

“Mùa xuân đầu tiên” năm ấy

Vừa hát lên đã tắt rồi!

Bởi nước nhà còn bóng giặc

Xuân về chưa trọn niềm vui!

Có chăng ‘Mùa xuân Miến Điện’

Hiện hữu trên đất nước này

Việt Nam thực sự Độc Lập

Việt Nam được hưởng Tự do? *

Ước một chiều xuân biên giới

Bên các anh có mẹ hiền

Nắm chặt tay con ca hát

Vui trọn “Mùa xuân đầu tiên”!

Xuân mới đến rồi nhớ bác

Một bài ca, một đời người!

Văn Cao là Tiên hay Phật

Từ Niết Bàn ghé đây chơi?

Đ.H.V (Tác giả gửi BVB)

.

@ HỘI HỌA VĂN CAO ________________________ Nguyễn Nguyệt

Viết về nhạc sĩ Văn Cao thật khó bởi trước đó, đã có nhiều người viết về ông. Được xem một số tranh sơn dầu và minh họa trên sách báo do ông sáng tác những thập kỷ trước, tôi chợt thấy rằng từ trước đến nay, mọi người nhắc đến Văn Cao như “một viên gạch kỳ cựu, nung ở độ lửa già, của nền âm nhạc Việt Nam”(1) mà ít ai để ý ngoài âm nhạc, thi ca, ông cũng rất thành công với nghệ thuật tạo hình. Thái Bá Vân đã nói “Nếu âm nhạc và thơ là một bản thể tươi tốt của anh, thì hội họa là một tri thức sâu sắc”(2). Họa sĩ Tạ Tỵ: “Ở Văn Cao, mỗi lời thơ là một hạt ngọc, mỗi tiếng nhạc là một sợi tơ, mỗi màu sắc là một vùng hào quang diễm lệ”(3).

Văn Cao được học bài bản không phải về âm nhạc mà là về hội họa. Năm 1942, nghe theo lời khuyên của Phạm Duy, một ca sĩ và cũng là người bạn thân, ông lên Hà Nội để theo học dự thính tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam). Tuy chỉ học trong khoảng thời gian 2 năm với tư cách tự do, nhưng theo nhận xét của các họa sĩ cùng thời như Tạ Tỵ, Lương Xuân Nhị, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung,… Văn Cao tỏ ra là một tài năng trong hội họa lập thể. Thời kỳ này, trên thế giới, chủ nghĩa lập thể đã rất phát triển với những đại diện tiêu biểu như Georges Braque, Pablo Picasso, Marcel Duchamp, Fernand Leger… Tuy nhiên, ở Việt Nam, ngoài họa sĩ vẽ lập thể Tạ Tỵ các họa sĩ của trường Mỹ thuật Đông Dương hầu như vẫn theo lối vẽ hiện thực lãng mạn được bắt đầu từ khi thành lập trường.

Tại triển lãm Salon Unique năm 1943 và 1944 ở nhà Khai trí tiến đức, tranh sơn dầu của Văn Cao đã từng được treo ở chỗ tốt nhất của phòng tranh và nhận được rất nhiều lời khen ngợi như Cuộc khiêu vũ của những người tự tử, Cô gái dậy thì, Sám hối nửa đêm… Ngoài ra ông còn sáng tác các bức Thái Hà ấp đêm mưa (bột màu, 1943), Phố Nguyễn Du (sơn dầu, 1945), Lớn lên trong kháng chiến (1952)… Trong một triển lãm hội họa ở Liên khu 3, Văn Cao đã gửi một bức sơn dầu mang tựa đề Cây đàn đỏ, vẽ người bộ đội ôm cây đàn chủ nghĩa. Sau này, ông vẫn theo đuổi phong cách lập thể khi vẽ một cậu bé thổi sáo bằng hai cái mồm, một cái được vẽ từ cách nhìn thẳng, một cái được vẽ nhìn nghiêng. Làm nền phía sau cậu bé là nhiều người trong một tiết tấu chuyển động. Tính đa hướng của tiết tấu và nhịp điệu, cách biểu hiện đối lập giữa các mảng lớn đơn giản và nền phức tạp mang đậm phong cách của hội họa biểu hiện được Văn Cao triển khai trong thời kỳ này dù sau đó, bức tranh đã nhận được những đánh giá chưa xác đáng về ý tưởng mà ông muốn truyền tải.

Sau phong trào Nhân văn Giai phẩm (1955-1958) ông tạm dừng lại sự nghiệp âm nhạc đã rất thành công và tiếp tục đi sâu hơn vào nghệ thuật tạo hình: vẽ minh họa cho thơ, truyện ngắn lẫn truyện dài, vẽ vignette cho báo chí, trình bày sách. Ông cũng sáng tác nhiều tranh sơn dầu như Chợ vùng cao (1970), Thanh niên vùng cao (1978), Chân dung bà Băng, Chân dung nhà văn Đặng Thai Mai (1977)…

Trong các bức sơn dầu của Văn Cao, yếu tố biểu hiện thường được bộc lộ rõ bên cạnh yếu tố lập thể. Ở tác phẩm Chợ vùng cao (1970), họa sĩ đã sử dụng những mảng màu phẳng cam, trắng, đỏ giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh để phân tầng không gian trong tranh. Họa sĩ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà phân chia thành nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau. Đám đông trong chợ được sắp xếp dàn trải và vẽ bằng những nét đen. Ngay cả hình ảnh con ngựa cũng là một mảng màu trắng. Yếu tố mảng nét cùng gam màu nóng đã cho thấy một phiên chợ miền núi đông vui náo nhiệt, đồng thời gợi lên cảm giác về dòng tranh khắc gỗ dân gian đầy màu sắc rực rỡ.

Cùng vẽ về đề tài miền núi, tác phẩm Thanh niên vùng cao (1978) lại thể hiện thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của Văn Cao, cũng như ngôn ngữ hội họa mà ông theo đuổi. Hình thể chính là người thanh niên và con ngựa bạch được khái quát bằng các đường nét và mảng màu lớn, cô đọng, đầy biểu hiện. Phần nền phía sau là những mảng và hình đan cài lô nhô thể hiện bằng bút pháp lập thể, có lẽ tác giả muốn tạo cảm giác về vùng núi Tây Bắc trập trùng. Bức tranh có sự đối lập giữa hình thể trung tâm và mảng nền, tương phản giữa đơn giản và phức tạp, giữa đơn sắc và đa sắc, tạo nên một họa phẩm rành mạch trong ngôn ngữ hình thể và có chiều sâu nội tâm nhất định. Có thể coi đây là một trong những bức tranh rất đẹp về đề tài miền núi của Văn Cao.

Trong tác phẩm sơn dầu vẽ người thày của mình – nhà văn Đặng Thai Mai – yếu tố lập thể biểu hiện càng rõ ràng hơn. Không có quá nhiều chi tiết ngoài những mảng màu đơn sắc nâu, đen, vàng, xanh, trắng. Lối phân chia mảng ở không gian phía sau làm ta liên tưởng đến những sáng tác lập thể của họa sĩ Kandinski. Chỉ có vài đường nét được diễn tả trên khuôn mặt nhân vật và bàn tay chống cằm cho thấy sự suy tư của một nhà trí thức lớn. Nó cũng thể hiện tính đa hướng trong con người nghệ thuật Văn Cao: âm nhạc và ca từ vô cùng diễm lệ, kỳ ảo, bay bổng; hội họa lại đơn giản, khúc triết, thâm trầm mà sâu sắc.

Dùng chữ Văn làm bút danh, trong rất nhiều sáng tác đồ họa mà điển hình là thiết kế bìa sách, ông tập trung đi sâu khai thác những biến thể của dạng chữ, chú trọng đến font chữ, màu chữ, cỡ chữ và bố cục… như trong Bóng nước hồ Gươm (Nxb Văn học 1976), Tội ác và trừng phạt (1982), Hà Nội thời đại đồng và sắt sớm (1982)… Nhiều mẫu chữ, kiểu chữ trên bìa sách do ông sáng tạo, cho đến nay, ta thấy vẫn có nét hiện đại, được các họa sĩ thiết kế tiếp nối và phát triển. Người xem có thể cảm nhận được chút lảng bảng, phiêu phù mà vẫn rõ nét huy hoàng như bìa Bóng nước hồ Gươm (1976), hay cảm giác hùng vĩ, trùng điệp trong bìa Nhớ nguồn (1975)… Đôi khi, riêng minh họa nhỏ trên bìa cuốn sách Tội ác và trừng phạt cũng có thể được coi là một tác phẩm độc lập khi ông tiếp tục khai thác phong cách vẽ lập thể, biểu hiện dùng ba màu đen, trắng, đỏ, Văn Cao đã lột tả sự ân hận về tội lỗi của một con người khi phạm sai lầm. Nhân vật trung tâm hai tay ôm lấy đầu, cúi mặt như đang đứng trước một tòa án vô hình. Tính khái quát cao về hình ảnh, sự cô đọng trong màu sắc đã làm cho tác phẩm mang tiếng nói riêng của ngôn ngữ hội họa. Rất nhiều minh họa khác cũng có lối thể hiện đơn giản nhưng phóng khoáng, chỉ với các nét hay mảng phẳng đen, dẹt như trong các minh họa tuyển tập thơ kháng chiến chống Pháp Đẹp hơn nước mắt (Nxb Văn học, 1983), Victor Hugo (Nxb Văn học, 1986)…

Cuộc đời của Văn Cao là một chuỗi thăng trầm và sâu thẳm trong ông là sự uyên bác, một tâm hồn phong phú, lãng mạn nhưng không kém phần kiêu bạc. Văn Cao là một tài năng hiếm có cả về thơ ca, nhạc, họa. 16 tuổi ông đã sáng tác bản nhạc đầu tay Buồn tàn thu (1939), 18 tuổi ông soạn bản Thiên thai (1941), 19 tuổi soạn Bến xuân (1942), 20 tuổi viết Trương Chi (1943)… Nếu trong những bản hùng ca như Tiến quân ca, Bao chiến sĩ anh hùng, Hải quân hành khúc, Không quân hành khúc, Bắc Sơn, Sông Lô… hình ảnh Văn Cao sử dụng mang đầy tính tượng thanh, tượng hình, nhằm miêu tả không khí hào hùng đánh giặc đối lập hẳn với hình ảnh thơ mộng, lãng mạn, có phần cô đơn, não nùng của những bản tình ca.

Nếu hội họa giá vẽ của Văn Cao là sự khỏe khoắn trong hình khối, sự gọn gàng trong các nét vẽ mà ông chịu ảnh hưởng từ họa phái lập thể- biểu hiện thì ngược lại, yếu tố hội họa trong những bản tình ca cuả ông thường làm người ta liên tưởng đến những bức tranh thủy mặc phương Đông, với gam màu trầm buồn, sâu lắng. Trong các loại hình nghệ thuật, âm nhạc cũng là nghệ thuật đỉnh cao khi nó rung cảm được người thưởng thức, có thể làm cho con người thành ủy mị bằng những bản tình ca, cũng có khi thúc đẩy ta bằng những hành khúc hùng hồn. Trong thời kỳ hình thành và phát triển của tân nhạc, Văn Cao cũng không phải là chàng nhạc sĩ trẻ tuổi độc nhất bị ảnh hưởng bởi thơ Đường. Chỉ dùng nhạc và tứ thơ, Văn Cao đã tạo nên bức tranh phong cảnh hữu tình qua Bến Xuân: Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước. Em đến tôi một lần. Bao lũ chim rừng họp đàn trên khắp bến xuân. Từng đôi rung cánh trắng ríu rít ca u ù u ú. Cành đào hoen nắng chan hòa. Chim ca thương mến, chim ngân xa u ù u ú. Hồn mùa ngây ngất trầm hương… Nhạc phẩm được bắt đầu bằng hình ảnh thơ mộng về cây cầu soi bóng bên dòng nước, với sắc trắng của từng đôi cánh chim, sắc hồng của cành đào hoen nắng… Rồi đến …Sương mênh mông che lấp kín non xanh. Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân. Ai tha hương nghe réo rắt oanh ca. Cánh nhạn vào mây thướt tha, lưu luyến tình vừa qua.

Văn Cao đã phác họa một bức tranh sơn thủy lãng mạn, một phong cảnh nên thơ với làn sương mênh mông che kín non xanh, cánh buồm nâu, những lớp sóng xuân, từng đàn én liệng đầy trời… Toàn bộ bài hát được diễn tả bằng ngôn ngữ của văn học nhưng lại sử dụng thủ pháp phối cảnh trong hội họa. Màu nâu của cánh buồm chính là điểm nhấn trên một nền xanh của núi non, sông nước, trên cái bảng lảng của làn sương mênh mông. Những chi tiết tưởng như rất đơn giản nhưng làm rung động người nghe, gợi lên cảm giác êm dịu về một mối tình câm thanh cao, thi vị mà chính bản thân tác giả không dám bày tỏ cùng người đẹp trong mộng tưởng. Có thể nói đây chính là một trong nhiều tình khúc tả cảnh lãng mạn hay nhất của Văn Cao đối với dòng âm nhạc trữ tình Việt Nam.

Với nhạc phẩm Thiên thai, Văn Cao kể một câu chuyện về thế giới thần thoại chỉ có trong cổ tích. Hoạt cảnh Lưu Nguyễn lạc vào chốn bồng lai với tiếng hát trên bờ đào nguyên, tiếng đàn tiếng nhạc hòa theo bầy tiên nữ ca múa vũ khúc nghê thường khiến người nghe như đang ngất ngây thưởng thức tiếng đàn chơi vơi giữa chốn tiên cảnh: Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng. Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên. Kìa đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên, theo gió tiếng đàn xao xuyến. Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền, mấy cung trìu mến, như nước reo mạn thuyền. Âm ba thoáng rung cánh đào rơi nao nao bầu sương khói phủ quanh trời. Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền nan quê hương dần xa lấp núi ngàn. Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền. Ai hát trên bờ Đào Nguyên… Cảnh sắc được nhạc sĩ vẽ lên bằng những nốt nhạc, lời ca gợi mở một thế giới trong mộng tưởng, một thế giới lung linh không có thực với ánh trăng xanh mơ, nước reo mạn thuyền, với cánh đào biếc cùng tiếng đàn chơi vơi… Dưới đôi mắt hội họa của Văn Cao, màu sắc biến đổi theo từng giây từng phút, theo từng trường đoạn bài hát và tùy thuộc chủ quan người thưởng ngoạn. Điều này làm ta có thể thưởng thức tác phẩm bằng nhiều cách khác nhau.

Nhà thơ Thanh Thảo đã nhận thấy yếu tố hội họa thật rõ nét trong âm nhạc và thi ca của Văn Cao: “…Cái nhìn của Văn Cao trong thơ, nhiều lúc là cái nhìn của một họa sĩ, nó bắt được cái thần của đối tượng chỉ qua vài nét phác. Sự giản lược tối đa, những khoảng trống, những khoảng lặng, tự làm khô lại như một củ huệ, lan chờ lúc bật mầm…” (4).

Có thể thấy sự uyên bác, mẫn cảm của nhạc sĩ Văn Cao với vẻ đẹp và thấu hiểu nó trên nhiều khía cạnh cảm xúc, bộc lộ qua các hình thức nghệ thuật khác nhau như hội họa, âm nhạc, thi ca… Trong âm nhạc, thi ca là ca từ lãng mạn, giàu hình ảnh, âm thanh, gợi liên tưởng mạnh mẽ. Còn trong hội họa là tìm tòi các biểu hiện ngôn ngữ của hình thể, sự khái quát về thị giác, của mảng và nét, với màu sắc tinh giản được học hỏi và kế thừa giữa phong cách tạo hình của nghệ thuật phương Tây và phương Đông. Những điểm tương đồng cũng như khác biệt giữa hội họa và âm nhạc của Văn Cao chính là hiện thân về nhân cách văn hóa phong phú trong con người nghệ sĩ.

_______________

  1. Tạ Tỵ, Mười khuôn mặt văn nghệ, Sài Gòn, 1970, tr.187. 2, 3. Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật, Nxb Mỹ thuật, 2009. 4. Thanh Thảo, Văn Cao, cuộc đời và tác phẩm, Nxb Văn học, 1996.

Nguyễn Nguyệt

.

@ CÓ MỘT HỌA SĨ TÀI BA, VĂN CAO _______________________________________

Trần Khánh Chương

Văn Cao nổi tiếng với nhiều bài hát từ trước Cách mạng Tháng 8, đặc biệt là bài hát “Tiến Quân ca”, sau này được chọn làm Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nhiều bài hát trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và sau thời kỳ thống nhất đất nước đã đưa ông vào vị trí một nhạc sĩ hàng đầu tài danh với Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học, Nghệ thuật đợt I (1996 – ngành Âm nhạc). Văn Cao cũng là một nhà thơ với nhiều tác phẩm đi vào lòng người.

Nhạc và thơ của ông hình như đã làm cho nhiều người quên ông là một hoạ sĩ với nhiều tác phẩm xuất sắc. Được biết, trước Cách mạng Tháng Tám ông cũng đã theo học “bàng thính” tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương một thời gian ngắn, nhưng rồi với làn sóng cách mạng sôi sục, ông đã sáng tác nhiều bản nhạc mang hơi thở của thời đại. Âm nhạc và thơ ca đã cuốn hút ông và đã đưa ông đến vị trí là một nhạc sĩ hàng đầu của nền âm nhạc cách mạng Việt Nam. Vì không am hiểu nhiều về âm nhạc và thơ ca nên tôi không dám “bình” nhiều về hai lĩnh vực này của ông.

Trong bài viết này, tôi chỉ muốn nhắc tới một Văn Cao hoạ sĩ mà những đóng góp của ông cho nghệ thuật hội hoạ Việt Nam rất đáng trân trọng và ghi nhận. Về sáng tác Mỹ thuật, khi ở tuổi 20, ông đã có những sáng tác dự triển lãm Duy nhất, 1943 với phong cách lập thể, được biết đến như một hoạ sĩ tiên phong với các tác phẩm: Cô gái dậy thì, Sám hối, Nửa đêm, Cuộc khiêu vũ. Những năm sau, ông tiếp tục sáng tác các tác phẩm sơn dầu mà đến nay người ta còn nhớ tới như: Thái Hà ấp đêm mưa, chất liệu bột màu, năm 1943, nghĩa là đã cách đây 70 năm. Ngoài ra người ta còn nhớ tới một tác phẩm sơn dầu khác sáng tác sau đó một năm, năm 1944, đó là tác phẩm Sám hối nửa đêm, rồi sau đó là bức Ngõ Nguyễn Du, chất liệu sơn dầu, sáng tác năm 1945. Sau Cách mạng tháng Tám, Văn Cao là phóng viên tham gia trình bày “Báo Lao động” thuộc Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.

Trong kháng chiến chống Pháp, ông lên chiến khu Việt Bắc và tham gia hoạt động trong Hội Văn nghệ Việt Nam. Thời kỳ này, Văn Cao nổi tiếng với âm nhạc. Trong điều kiện thiếu thốn hoạ phẩm nên với hội hoạ, ông có phần xao nhãng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn nhớ tới một số tác phẩm của ông sáng tác trong thời kỳ này, thể hiện tình cảm của ông đối với cuộc kháng chiến chống Pháp như tác phẩm Cây đàn đỏ, chất liệu sơn dầu, sáng tác năm 1949; Lớn lên trong kháng chiến, chất liệu sơn dầu, sáng tác năm 1952;..

Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, Văn Cao đã có nhiều đóng góp cho nghệ thuật tạo hình. Giới văn nghệ Việt Nam, trong đó có Mỹ thuật không thể quên những minh hoạ của Văn Cao trên các báo Văn, Văn Nghệ… với một bút pháp riêng, sử dụng nhiều nét thẳng và đơn giản và có chữ ký là “VĂN” rất đơn giản nhưng giới Mỹ thuật ai cũng biết đó là minh hoạ của Văn Cao. Cũng trong thời kỳ này, ông làm nhiều bìa sách, và cũng tạo được một phong cách riêng rất Văn Cao. Những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước và sau ngày thống nhất đất nước, Văn Cao không chỉ có minh hoạ làm bìa mà còn vẽ nhiều tranh sơn dầu có giá trị nghệ thuật cao. Mọi người đều không thể quên bức tranh sơn dầu có giá trị đuợc trưng bày trong các Triển lãm và lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam như: Chân dung bà Băng, Chân dung nhà văn Đặng Thai Mai, Cô gái và đàn dương cầm, Dân công miền núi… với bố cục chặt chẽ, bút pháp hiện đại, sử dụng kết hợp giữ đường nét và những mảng màu lớn. Các bức tranh này đều thẫm đẫm tình cảm của người hoạ sĩ tài hoa…

Những tác phẩm cho ta thấy bên cạnh là một nhạc sĩ hàng đầu, một nhà thơ nổi danh, ông còn là một hoạ sĩ tài năng thuộc thế hệ đầu xây dựng nền Mỹ thuật hiện đại và cách mạng Việt Nam. Ông không chỉ là hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam mà còn là hội viên lâu năm của Hội Mỹ thuật Việt Nam.

Tôi còn nhớ, trong một lần Nhà xuất bản Mỹ thuật giới thiệu cuốn sách Các hoạ sĩ trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương của hoạ sĩ Quang Phòng, nhiều tác giả thuộc thế hệ của ông đã có mặt cùng vui chung với cuốn sách này. Văn Cao cùng với vợ ông cũng đã đến dự, tôi đã xin được chữ ký của ông cùng các hoạ sĩ thế hệ Mỹ thuật Đông Dương vào dưới các tác phẩm in trong cuốn sách và có dịp để chuyện trò với ông… Tôi cũng không lý giải được vì sao một số hoạ sĩ có tên tuổi của Việt Nam như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Nguyễn Đức Toàn… trước cách mạng đều đã từng học “bàng thính” trường Mỹ thuật Đông Dương một thời sau này đều trở thành những nhạc sĩ tên tuổi của ngành âm nhạc Việt Nam.

Nhạc sĩ, nhà thơ, hoạ sĩ Văn Cao sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray, Hải Phòng. Nguyên quán tại thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông nhiều năm sống và làm việc tại Hà Nội và mất ngày 10 tháng 7 năm 1995 tại Hà Nội.

Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhạc sĩ, nhà thơ, hoạ sĩ Văn Cao, Hội Mỹ thuật Việt Nam và giới Mỹ thuật Việt Nam luôn nhớ đến ông, một hoạ sĩ tài hoa có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam hiện đại.

Trần Khánh Chương

.

@ BA BIẾN KHÚC VĂN CAO ______________________

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Người gọi ông là “ba đỉnh núi sương mù”. Người gọi ông là “Dòng sông ba nhánh”. Người gọi ông là “Nghệ sĩ đa tài”. Người gọi ông là “Bậc tài danh thế kỷ”… Khi tôi gặp ông thì ông đã 57 tuổi, chòm râu dài phất phơ ngả bạc như tiên lão bảy mươi. Ông ngồi một mình trên đi-văng đệm vải cũ càng, mắt nhìn vào chén rượu gạo bình dân như chẳng chờ đợi một điều gì. Có lẽ ông đã ngồi như vậy mấy chục năm liền. Những chai rượu đầy vơi vơi đầy không nhớ đã bao lần.

Cũng không nhớ đã bao lần trên đất nước này và cả những nước khác, người ta đã hát vang bài ca của ông, bài Quốc ca Việt Nam mang hồn thiêng sông núi:Đoàn quân Việt Nam đi chung lòng cứu quốc. Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa.

Khi nghe Phan Lạc Hoa giới thiệu tôi, mắt và miệng ông ánh lên nụ cười gần gũi, bình dị: “À, cái anh Nghệ nhận Quan Họ làm quê đây!”. Ông với tay kệ tủ lấy thêm ly, và Nguyễn Thụy Kha rót rượu. Ông đối với bọn trẻ chúng tôi như với bạn. Khi thân mật rồi, hầu như chẳng còn khoảng cách tuổi tác. Có lẽ vì thế mà ông luôn luôn mới. Chúng tôi rủ ông đến quán lòng lợn tiết canh đầu chợ Đuổi, ông đồng ý ngay, nhưng nhắc là nên mua rượu ở quán cạnh bến xe Kim Liên, loại rượu gạo ông thường uống. Quán đông quá, chúng tôi mượn một cái chiếu trải vào túp lều tranh bỏ trống bên cạnh. Cứ ngồi xếp bằng mà uống rượu và hút thuốc lào như ở làng ở xã. Người ra vào chợ đông đúc, ồn ào, hình như cũng không ai biết ông già ngồi quán bình dân này là tác giả Quốc ca. Còn chúng tôi, lần đầu tiên được biết những bài thơ ông làm để rồi cất lại trong lòng, không đưa in đâu cả, mà dù có đưa in in người ta cũng chẳng in cho. Mấy chục năm nay, ông chỉ làm bìa sách, vẽ hình minh họa cho báo và làm nhạc… không lời. Những bài thơ của ông khiến chúng tôi nổi cả da gà, kinh ngạc vì thán phục. Thơ ông đẹp một cách quyết liệt. Thơ của ông thật đến siêu thực. Thơ của ông mới bất ngờ như mầm cây vừa đội đất trồi lên.

Buổi sáng nay cả phố phường như mở hội.

Mọi con người đeo mạt nạ đi chơi.

Vui lên cành non

Lá bàng trên phố xanh màu ngọc

Những mặt nạ gặp nhau chào hỏi

Ô kìa

Nước mắt mồ hôi

Sao chảy ra trên từng mặt nạ

Đến giờ, tôi vẫn nhớ giọng vang trong của ông đọc thơ trong quán rượu. Bài thơ Năm Buổi sáng không có trong sự thật ông làm năm 1960 mà tôi tưởng ông vừa làm trong quán rượu năm 1980 này. Chúng tôi nghe như nuốt từng lời thơ của ông vào tâm khảm. Khi ngấm rượu, ông nói hay đến nỗi tôi tưởng là đang nghe ông trong giáo đường chứ không phải giữa chợ. Vì thế mà chúng tôi đều thuộc bài thơ ngắn Không đề ông làm năm 1967. Bài thơ như một cuốn phim cực ngắn chứa đầy âm nhạc và treo lơ lửng một câu hỏi trước cuộc đời:

Con thuyền đi qua

Để lại sóng

Đoàn tàu đi qua

Để lại tiếng

Đoàn người đi qua

Để lại bóng

Tôi không đi qua tôi

Để lại gì?

Hơn 20 mươi năm “im lặng” về thơ lại chính là thời gian ông làm thơ nhiều nhất. Những bài thơ chi chít trong cuốn sổ tay nhỏ xíu úa màu thời gian vàng vọt. Những bài thơ viết trên vỏ bao thuốc lá nhặt được trong quán rượu. Có bài thơ được ghi lại không phải chữ của ông mà là chữ của vợ ông, bà sợ ông quên đi mất nên bắt ông đọc lại để bà chép lại. Năm 1987, Nguyễn Thụy Kha đã lần mò chép lại những bài thơ trong tập bản thảo nhòe mờ ấy của ông rồi đưa cho tôi đọc. Giữa quá nhiều bất trắc cuộc đời, tiếng thơ Văn Cao chẳng bao giờ đổi giọng. Chữ nghĩa của ông như được viết ra từ ngòi bút kim cương chứ không phải bút lông bút sắt. Và khi tiến hành chọn bản thảo tập thơ Lá, Văn Cao rất vui lòng ủy thác cho Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo và tôi tuyển chọn. Hầu như ông hoàn toàn yên tâm về việc đó. Ông nói: “Ba thằng mày bảo được là được!”. Dù là trong thời kì “đổi mới” rất mạnh mẽ, chúng tôi vẫn thấy ông có một bài thơ mà nhà xuất bản khó lòng chấp nhận, đấy là bài Đồng chí của tôi viết năm cải cách ruộng đất (1956). Bài thơ tràn đầy lòng tin vào chủ nghĩa xã hội mà cảnh tỉnh những sai lầm của hiện tại, nó là tiếng lòng thống thiết của người cộng sản bị xử bắn oan gửi tới các đồng chí của mình. Không trung thực với Đảng, không có lòng can đảm của một đảng viên, không chan chứa một trái tim nhân đạo… không thể viết được một bài thơ rớm máu như thế. Nhưng 30 năm và hơn thế nữa, nó vẫn chỉ là bài thơ của riêng ông. Chúng tôi biết điều đó, và đề nghị ông “để lại”, ông đồng ý ngay. Đầu năm 1995 này, tôi nhắc lại với ông bài thơ ấy, và thấy đã đến “thời” bài thơ có thể in được rồi, nhưng ông nói sau khi nhấp một ngụm rượu: “Thôi, cứ để sau khi mình chết rồi in cũng chưa muộn”. Ngày ông qua đời, tôi bỗng mở sổ tay xem lại bài thơ ấy, và tôi đã khóc.

Người ta các đồng chí của tôi

Treo tôi lên một cái cây

Đợi một loạt đạn nổ

Tôi sẽ dẫy như một con nai con

Ở đầu sợi dây

Giống như một nữ đồng chí

Một anh hùng của Hà Tĩnh

Tôi sẽ phải kêu lên

Như mọi chiến sĩ bị địch bắn

Đảng Lao động Việt Nam muôn năm

Cho mọi người hiểu khi tôi chết

Vẫn còn là một đảng viên

Cho mọi người hiểu khi tôi chết

Máu của tôi vẫn còn là máu của Việt Nam

Ở dưới gốc cây có các cụ già các bà mẹ

đã nuôi cách mạng

Các em nhỏ từ ba tuổi đứng nhìn tôi

dẫy chết

Có mẹ tôi

Ba lần mang cơm đến nhà tù

Hãy quay mặt đi

Cho các đồng chí bắn tôi

Tôi sợ các cụ già không sống được

Bao năm nữa

Để nhìn thấy xã hội chủ nghĩa

Của chúng ta.

Chết đi mang theo hình đứa con

Bị bắn

Tôi sợ các em còn nhỏ quá

Sẽ nhớ đến bao giờ

Đến bao giờ các em hết nhớ

Hình ảnh tôi bị treo trên cây

Bị bắn

Hãy quay mặt đi

Cho các đồng chí bắn tôi…

Nước mắt lúc này vì Đảng nhỏ xuống

Dòng máu lúc này vì Đảng nhỏ xuống

Đảng Lao động Việt Nam muôn năm

Đảng Lao động…

(1956)

Tập thơ Lá của ông được in ra không đúng như chúng tôi đã chọn dưới sự ủy thác của ông, 5 bài thơ ông tâm đắc bị bỏ ra, và thay vào mấy bài thơ ông in báo hồi kháng chiến chín năm. Tuy không được hài lòng lắm, nhưng ông cũng mỉm cười sau 30 năm trở lại thi đàn. Ông lại tiếp tục viết những bài thơ mới. Vẫn là Văn Cao tươi ròng, không tuổi.

Tôi đẻ ra trần truồng

được những lót tã

là của cải…

2.

Sao tôi lại nhớ sinh nhật 60 tuổi của ông? 15 -11 -1983. Chiều, trong căn phòng gác hai số nhà 51 Trần Hưng Đạo, nơi Bảo Đại từng ở sau cách mạng tháng Tám, nơi mà một phần tư thế kỷ trước Văn Cao thường xuất hiện cùng bạn bè đồng nghiệp văn nghệ sĩ. Lâu quá rồi ông mới xuất hiện chính thức thức trở lại nơi này, và là nhân vật chính của buổi lễ sinh nhật 60 tuổi do Hội Nhạc sĩ tổ chức. Hoa và rượu. Những lời chúc tụng, những bài hát của ông vang lên mừng tuổi ông. Có cả Thiên Thai, Trương Chi hơn 30 năm vắng bóng trở về, khiến cả hội trường lặng phắc, ân hận và khâm phục. Chiếc dương cầm Đặng Thái Sơn tặng Hội Nhạc sĩ sau lần đăng quang, vang lên những bản nhạc không lời Văn Cao. Những bản nhạc ông viết sau cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn – Giai phẩm kết thúc, sau cái đêm trắng đi cùng với Hữu Loan quanh hồ Ha-le ngột ngạt, u ám, không biết nói gì trước khi chia tay nhau để tác giả Màu tím hoa sim trở về Thanh Hóa làm một “Lão nông tri điền”. Những bản nhạc chứa đầy nỗi đau chia cắt cùng với khát vọng thống nhất cháy bỏng. Đấy là các bản Hàng dừa xa, Sông tuyến và Biển đêm. Rồi đến lượt Văn Cao xuất hiện trước cây dương cầm. Im lặng. Chờ đợi. Ông cứ ngồi im trước cây đàn đến mấy phút liền. Một bàn tay của ông đã bị chấn thương trước đó 10 năm, khi ông đang đi bách bộ trên hè đường và bị một chiếc xe com-măng-ca không số từ dưới đường tạt lên chèn ngã. Ông sẽ chơi đàn thế nào đây? Bỗng bàn tay ông nắm lại thành một nắm đấm. Ông bất ngờ đấm vào những phím đàn, vang lên hợp âm chói gắt như bom nổ. Thêm một nắm đấm nữa. Hai nắm đấm của ông cùng với cả cùi tay trút bão táp vào cây đàn, hết đợt này đến đợt khác. Chuỗi âm thanh ghê gớm ấy bỗng lặng đi đột ngột. Mọi người như nín thở. Ông dùng ngón tay trỏ chầm chậm mổ nhẹ vào một phím đàn, từng tiếng, từng tiếng một vang lên rành rọt, chậm dần, nhỏ dần cho đến khi ông thu bàn tay lại, trong tiếng vỗ tay ào lên không dứt của mọi người.

Trước Văn Cao, chưa thấy ai chơi đàn như thế. Chính vì thế mà ông luôn là ông, không giống ai, và nếu ai muốn giống ông thì cũng khó mà giống được.

Tối hôm đó, ông hẹn mấy người về nhà ông uống rượu. Tôi và Kha tới thì đã thấy Văn Cao đang ngồi cùng Trịnh Công Sơn và Cao Xuân Hạo. Ông nhờ tôi sang gọi Trần Dần bên kia đường Vũ Lợi. Ông bảo: “Có thêm Trần Dần nữa mới vui”. Tôi đến nhà Trần Dần thì ông đang bên nhà hàng xóm. Trong lúc đợi vợ ông đi gọi ông về, tôi nhìn vào bức tường và thấy hiện rõ một hình nhân. Đấy là nơi Trần Dần tựa lưng suốt mấy chục năm qua. Tôi rùng mình hình dung ra cái bóng đang động cựa như một con người thật. Vừa lúc Trần Dần về trong bộ quần áo pirama ngả màu cháo lòng, ông gầy yếu quá, gầy yếu hơn cả cái bóng của chính mình trên tường nhà.

– Anh Văn mời anh sang nhà uống rượu – Tôi nói – Hôm nay sinh nhật anh ấy. Sáu mươi rồi.

– Thế à? Những ai?

Tôi kể tên mấy người. Trần Dần mỉm cười:

– Thế thì sang.

Vợ ông nhắc ông thay quần áo. Nhưng bộ quần áo mới cũng đã cũ lắm rồi. Ông kém Văn Cao ba tuổi, nhưng trông già nua và chậm chạp như một ông lão khổ hạnh. Chỉ có đôi mắt là lúc nào cũng có lửa. Cái ngọn lửa đó đã rực cháy trong nhiều tác phẩm văn thơ của ông dọc các nẻo đường kháng chiến: Cách mạng tháng Tám, Trường ca Việt Bắc, Nhất định thắng, Người người lớp lớp… và hàng loạt tác phẩm còn nằm trong bản thảo như tiểu thuyết Cổng Tỉnh, Mùa sạch, Ngã tư những cột đèn, v. v…

Văn Cao với tay lên kệ tủ lấy thêm một cái ly thủy tinh đặt trước mắt Trần Dần. Trong khi tôi rót rượu, ông dặn tôi: “Dần sức yếu, dễ say đấy”. Nhưng sau khi cụng ly, chỉ riêng Trần Dần là uống cạn.

Chuyện trò, đọc thơ, và hát. Cao Xuân Hạo nhớ nhiều những kỷ niệm thời kháng chiến chống Pháp, về những bài hát thời bấy giờ của Văn Cao mà anh đã hát. Văn Cao cũng nhắc lại vài bài hát của Cao Xuân Hạo mà ông đặt nhiều hy vọng. Cao Xuân Hạo có một giọng hát thật vang trong, bay bổng, đã ở tuổi 53. Chúng tôi ngạc nhiên khi nghe bài hát thuở xưa của anh. Văn Cao nói rằng, ngày ấy nếu Hạo đi hẳn vào nhạc, chắc chắn sẽ thành đạt, dù sau này là một dịch giả nổi tiếng về Lép Tônstôi, Đôxtôiepski, Aitmatốp… Trần Dần chỉ lặng im uống và nghe, dù là nghe chính những câu thơ lấp lánh, táo bạo của ông do Nguyễn Thụy Kha hay Văn Cao đọc lên. Chỉ đến khi nghe Trịnh Công Sơn hát, ông mới nheo mắt cười cười, buột ra mấy tiếng: “Tiểu quỷ! Mày là tiểu quỷ!”, rồi cũng chẳng giải thích gì thêm. Cứ thế mà cuộc rượu kéo dài tới nửa đêm, mặc cho bà Băng nhắc nhở về thời gian, và ép người này người khác ăn các món do chính tay bà nấu.

Khi chúng tôi chia tay vợ chồng Văn Cao bước xuống cầu thang, chuông đồng hồ nhà bên điểm 12 tiếng. Thế là trọn ngày sinh nhật của ông. Tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng, cuộc đời đã bắt đầu bước vào một ngày mới.

3

Hai mươi năm cuối đời, Văn Cao chỉ viết vài ba bài hát, đấy là bài Mùa xuân đầu tiên (1976) và bài Tình ca Trung du (1984). Bài mùa xuân đầu tiên ông viết sau ngày nước nhà thống nhất, khi cảm xúc trào lên ào ạt ở những người khác, thì cảm xúc của ông lắng lại, bình thản sau quá nhiều xáo trộn cuộc đời. Ông nhìn thấy “mùa xuân dặt dìu theo én về”, ông lắng nghe tiếng “gà đang gáy trưa bên sông”, và ông khẳng định rằng cái “mùa bình thường” đã về: “Từ đây người biết quê người – Từ đây người biết thương người – Từ đây người biết yêu người”. Âm nhạc của ông vẫn đẹp, ấm và sang trọng, thoát hẳn ra ngoài những bài hát reo vui đại thắng lúc bấy giờ. Đó là bí mật tài hoa của riêng ông. Bài hát liền sau đó được dịch và in ở Liên Xô. Chỉ tiếc rằng, hầu như nó chẳng được phổ biến trong đất nước của mình. Có lẽ ông ít viết bài hát ở giai đoạn sau là vì thế. Rồi mùa thu 1984, tôi đi cùng ông trong tốp nhạc sĩ lên Vĩnh Phú theo lời mời của bộ tư lệnh Thông tin. Có lẽ lâu lắm rồi, ông mới có dịp “đi sáng tác tập thể” như lần này. Chúng tôi về một nhà máy thông tin dưới chân núi Thắm, tiếp xúc với những người lính thợ, nghe thành tích của họ, xem họ làm việc và nói chuyện, đọc thơ, hát cho họ nghe. Văn Cao kể lại những kỷ niệm xưa bên dòng sông Lô đã giúp ông viết nên bản Trường ca Sông Lô bất hủ. Trên đường về, gặp nhà thơ Bút Tre, hai ông hôn nhau xúc động chảy nước mắt. Nguyễn Thụy Kha gọi Văn Cao và Bút Tre là tiêu biểu cho hai “trường phái thơ hiện đại Việt Nam”. Các ông được xếp “đồng hạng” với nhau, lấy làm thích thú lắm. Sau chuyến đi ấy, chúng tôi đều viết về bộ đội thông tin, chỉ riêng Văn Cao là viết tình ca. Bài Tình ca Trung du giai điệu sáng láng, lời ca đẹp như thơ. Một cánh tay sông Hồng. Một cánh tay sông Lô. Hai cánh tay như ôm trung du. Và ở đoạn kết là lời hẹn hò trở lại thật bâng khuâng: “Hẹn trở về bên núi Thắm, vào một ngày mùa thu sáng láng… nắng trên đồi như trôi trên sông”.

Càng ngày, sức khỏe Văn Cao càng giảm. Huyết áp thường bị tụt. Phổi bị khô. Cột sống bị thoái hóa, có giai đoạn phải mặc “áo giáp” để đỡ cột sống. Nhưng ngồi với ông, lúc nào cũng vui. Tháng tư 1985, Thanh Thảo ra Hà Nội tổ chức cho Văn Cao, Nguyễn Thụy Kha và tôi vào thăm Nghĩa Bình theo lời mời của Tỉnh. Ông mừng lắm, thậm chí còn nói rằng, có thể đây là chuyến đi cuối cùng về phía nam. Đang chuẩn bị thì ông bị đau, may mà qua nhanh được. Thanh Thảo lấy thêm vé máy bay cho vợ ông, vì nếu thiếu bà thì chuyến đi sẽ dễ gặp bất trắc, bà còn là “bác sĩ riêng” của ông. Cả tỉnh Nghĩa Bình mừng vui đón ông, chỉ thiếu dựng cổng chào. Tôi nói vui như thế, vì ở đâu ông cũng được quần chúng hâm mộ và kính trọng như đối với một nhân vật đặc biệt của đất nước. Còn ông thì đối với ai cũng bình dị, gần gũi. Đêm ghé vào khách sạn Sa Huỳnh, cả khách sạn mời ông ở lại trọn đêm. Ông gọi những người ở đây bằng em và bảo họ cứ gọi ông là anh. Và ông tự giới thiệu: “Anh chỉ hai mươi thôi – rồi ông chỉ vào vợ – còn đây là bồ của anh”. Chính tâm hồn trẻ đẹp của ông đã xóa đi sự ngăn cách về tuổi tác, về sự mặc cảm giữa con người.

Trong chuyến đi này, ông “phát hiện” ra rượu Bàu Đá, một loại rượu trắng được nấu từ các lò rượu làng Bàu Đá, cách thành Bình Định tám chín cây số. Văn Cao cho rằng trong đất nước này, chỉ có rượu Bàu Đá mới có thể sánh được với rượu Làng Vân nổi tiếng, ông nhấp rượu Bàu Đá và nhận xét: “Rượu Vân mỏng, rượu Bàu Đá dày”. Xe đi tới đâu cũng chở theo rượu Bàu Đá, vì ông không hợp với bia. Đến huyện Mộ Đức, trong bữa tiệc chiêu đãi, thấy ông mang rượu trắng ra uống, người ta liền mang ra mấy chai Napoléon thật đặc biệt: vỏ chai sần sùi bởi những con sò biển đã bám chặt từ bao giờ. Đấy là rượu huyện vừa vớt được từ dưới đáy biển Ngang. Chả là hồi 1976, một con tàu chở rượu từ Sài Gòn ra Hà Nội phục vụ đại hội Đảng đã bị đắm ở đây. Ôi, rượu Napoléon dưới đáy biển cả chục năm trời, thế gian này đã mấy ai được uống? Thế mà Văn Cao và chúng tôi đã gặp may mắn bất ngờ.

Mấy ngày sau, Văn Cao viết được hai bài thơ Qui Nhơn 2 và Quy Nhơn 3 khép lại chùm thơ Qui Nhơn độc đáo mà bài Qui Nhơn 1 ông đã viết ở Hà Nội. Khuya lắm rồi, ông gõ cửa phòng tôi, gọi tôi sang phòng ông uống rượu, và nghe thơ mới làm. Tôi giật mình khâm phục bài thơ và sức sáng tạo của ông. Chúng tôi, ai mà chẳng nhìn thấy những tháp Chàm đơn côi dọc miền Trung, nhưng cái nhìn của ông thật lạ lùng:

Từ trời xanh

rơi

vài giọt tháp Chàm

Tôi đọc kỹ hai bài thơ mới của ông, và xin ông sửa một chữ trong đoạn kết bài Qui Nhơn 2: “bỗng một ngày bà mẹ Qui Nhơn – nói với tôi một lời – một tiếng – chào con!”. Theo tôi không nên dùng chữ chào, bà mẹ mà chào con thì khách sáo thế nào ấy, nên dùng chữ à con, nó vừa tự nhiên, vừa tình cảm. Văn Cao khoái lắm, ông khen tôi: “Mày đúng là thằng Nghệ”. Và ông nhờ tôi lấy bút sửa vào bản thảo giùm ông. Trong nghệ thuật, Văn Cao là một người biết lắng nghe. Chính vì thế mà ông trở thành tầm cỡ.

Mỗi lần ra Hà Nội, tôi thường cùng Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo hoặc Hoàng Phủ Ngọc Tường ghé thăm ông ở căn nhà 108 Yết Kiêu. Lần nào cũng được ông dành cho chai rượu ngon. Những chai rượu người ta tặng ông. Lần cuối cùng gặp ông ở Đại hội Nhạc sĩ, ông lại bảo: “Tao dành chai rượu, trước khi về, mày đến mà mở”. Nhưng tôi đã lỡ hẹn với ông. Ngày Hà Nội đưa tang ông, tôi ở Huế buồn quá, đến nhà Mai Khắc Ứng uống rượu, cùng nhau tưởng nhớ ông. Tôi uống gần hết bình rượu mà Mai Khắc Ứng không dám ngăn, vì sợ tôi buồn. Mãi ngày sau tôi mới biết, đấy là bình rượu nhung hươu bạc triệu của ông bạn họ Mai. Trong cõi Thiên Thu, giá mà biết chuyện này, chắc Văn Cao sẽ cả cười…

Huế, tháng Bảy, 1995

NGUYỄN TRỌNG TẠO

@ Bóng tối, dao găm và mạng nhện trong “Ba biến khúc ở tuổi 65” của Văn Cao ____________________________

Nguyễn Chính

Văn Cao viết bài thơ này ở tuổi 65, trong một tâm trạng như ông nói là: “Những ngày buồn không nói được – Tôi chỉ tìm ra sự sống của tôi”. Nguyên văn bài thơ như sau: I Một người cho tôi con dao găm Không biết dùng làm gì đêm nhìn qua cửa sổ một khoảng trống đen tôi ném vào khoảng trống con dao găm ấy có phải đấy là sự nghịch ngợm? bỗng nhiên có tiếng người ngã ngoài sân một người trúng tim đã chết tôi không hề biết người ấy tôi là kẻ không muốn giết người chỉ biết bóng tối mà tôi đã ném dao

II Tôi đi trên phố bỗng nhiên mọi người nhìn tôi một ai đó kêu lên: thằng ăn cắp tôi chạy tôi chạy sao tôi lại chạy tôi không hiểu tôi cả phố đuổi theo tôi xe cộ đuổi theo tôi tôi chạy bạt mạng gần hết đời tới chỗ chỉ còn gục xuống tỉnh dậy mồ hôi chảy

III Tôi rơi vào mạng nhện mạng nhện cuốn lấy tôi không cách gì gỡ được tôi như con sâu tằm cuộc đời cứ như thế muốn phá cái mạng nhện tôi không đủ tay.

Những người cầm bút chân chính là những người bị “giời đày”. Tôi phải nhấn mạnh hai chữ “chân chính” để phân biệt họ với đám văn nô, bồi bút, những thằng hề văn chương hướng thượng chốn cung đình. Vâng! Những người cầm bút chân chính, họ tự nguyện và cảm thấy hạnh phúc trong cái sự “giời đày” đó. Với cây bút “trời ban”, thời tuổi trẻ họ hăm hở, xông pha, về già họ vẫn lọ mọ trên trang viết. Thậm chí có người nằm bệt trên giường bệnh, không cầm nổi bút nữa, thì đọc cho người khác ghi giùm. Cả đời họ dấn thân, đam mê, cần mẫn lao động sáng tạo để mong có được những tác phẩm đích thực dâng hiến cho đời, để lại cho hậu thế.

Trớ trêu thay, thời nào cũng vậy, họ thường là đối tượng bị đám cường quyền, tham lam, dốt nát, háo danh hành hạ, đầy đọa, rút “phép thông công”. Sở dĩ tôi phải dài dòng như vậy, vì tác giả bài thơ này cũng phải trải qua một quãng đời khốn đốn vô cùng. Văn Cao (1923 – 1995), trong 72 năm cuộc đời đó, thì từ 1958 đến khi về với cát bụi, hầu như ông viết rất ít và không phổ biến. Ca khúc “Ngày hòa bình đầu tiên” ông viết năm 1975, nhưng ca khúc này cũng ít được nhắc đến trong một thời gian dài. Vậy là người nghệ sỹ tài năng Văn Cao đã bị bứng khỏi mảnh đất lao động sáng tạo của mình tới hơn một nửa cuộc đời của ông (37) năm.

Wikipedia Việt Nam và theo Nhà thơ Văn Thao – người con trưởng của ông, thì ông làm thơ từ năm 12 – 13 tuổi. Ông là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền Tân nhạc Việt Nam với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Văn Cao viết “Tiến quân ca” khi ông 20 tuổi. Gia tài ông để lại về thơ không nhiều, chỉ khoảng mấy chục bài, đáng chú ý nhất là thi phẩm Trường ca những người trên cửa biển. Ông viết “Ba biến khúc ở tuổi 65” vào năm 1988. Theo tôi, bài thơ này là một trong những thi phẩm thể hiện rõ thêm tư duy, tính tư tưởng trong thơ Văn Cao mang đậm dấu ấn riêng có của ông cả về hình thức cấu trúc, nhịp điệu. Ở biến khúc thứ nhất ông kể:

Một người cho tôi con dao găm Không biết dùng làm gì đêm nhìn qua cửa sổ một khoảng trống đen tôi ném vào khoảng trống con dao găm ấy có phải đấy là sự nghịch ngợm? bỗng nhiên có tiếng người ngã ngoài sân một người trúng tim đã chết tôi không hề biết người ấy tôi là kẻ không muốn giết người chỉ biết bóng tối mà tôi đã ném dao

Đó, không phải là con dao hiền lành chỉ dùng vào việc bếp núc của các bà nội trợ, mà là con dao găm, một hung khí có thể giết người. Và, nó đã giết người thật. Bây giờ, ta hãy xem tình tiết cái sự “giết” ấydiễn ra thế nào. Là một nhà thơ, một người cầm bút, sau khi được người ta đưa cho dao găm , hiển nhiên là tác giả đã “không biết dùng đề làm gì”, vì tác giả đã khẳng định rất rõ “tôi là kẻ không muốn giết người”. Theo logic, không muốn giết người, không biết dùng dao để làm gì, thì vứt đi thôi, nhưng thay vì vứt vào sọt rác, thì nhà thơ của chúng ta lại ném qua cửa sổ, mà lại ném vào bóng tối.

Thứ “bóng tối” ấy chắc là phải “tối” lắm. “Tối” đến mức chính tác giả cũng không nhìn thấy gì cả, cứ tưởng mình ném thứ hung khí giết người kia vào “khoảng trống đen” và đặt câu hỏi “có phải đấy là sự nghịch ngợm?”. Đặt câu hỏi như vậy, cũng là trả lời rồi. Rằng, không có sự nghịch ngợm nào ở đây cả. Chỉ là miễn cưỡng thôi, tác giả đã làm theo cái ý của người đưa dao găm. Chính ông cũng đã thừa nhận mình không biết nạn nhân, rằng “tôi không biết người ấy…, chỉ biết bóng tối mà tôi đã ném dao”. Bởi cũng lại rất logic, người ta đưa dao găm để nhà thơ vứt vào sọt rác thì đưa làm gì. Nghiệt ngã thay, nạn nhân lại đang mò mẫm đi trong cái bóng tối mịt mùng kia, đúng vào cái thời điểm khốn nạn đó. Con dao găm ấy quả là rất bén, còn cú ném của nhà thơ cũng lợi hại vô cùng, trúng ngay tim thì chỉ còn có nước chết.

Đọc biến khúc thứ nhất, ai cũng biết Văn Cao dùng hình ảnh trực quan đầy tính ẩn dụ. Bởi, vũ khí của người cầm bút là cây bút, chứ không phải là dao găm, súng lục. Vũ khí ấy của người cầm bút là do “ông Giời” ban và theo sự phân công của “Ông Giời”. Vũ khí ấy mạnh tới mức không một loại vũ khí cổ kim nào có thể sánh được, nó đi thằng vào con tim, làm cho con tim của người ta phải thổn thức,rung động và … phẫn nộ, từ đó mà điều chỉnh hành vi của mình. Nó không trực tiếp làm bất cứ một cuộc cách mạng lật đổ nào, nhưng khả năng khai sáng, sức mạnh tích tụ chuẩn bị lực lượng cho các cuộc cách mạng chống lại cái ác, chống lại cường quyền, bạo lực thì vô biên lắm.

Trong lịch sử nhân loại, các triều đại cường quyền đều nhận thức rất rõ sức mạnh vô biên ấy, nên dùng mọi thủ đoạn đưa /giao/ trang bị cho bằng được những con “dao găm” vô hình là : ý thức hệ, tư tưởng trung quân v.v… cho giới văn nghệ sỹ.

Thế là, khi đã nhiễm phải thứ vũ khí vô hình ấy, tất nhiên có kẻ nhiễm nặng, có người nhiễm nhẹ, tác phẩm họ làm ra không chỉ “giết” một vài người, mà giết chết cả mấy thế hệ người đọc/người xem/người nghe và giết chết luôn cả một nền văn học, nghệ thuật, cả những giá trị nhân văn, hướng thiện vốn là thiên chức của nghệ thuật chân chính.

Và, khá gần gũi với Văn Cao, trong “Ai ? Tôi!”, Chế Lan Viên đã cụ thể hóa tư tưởng này theo cách riêng của ông, thật thấm thía (xin trích nguyên văn):

Ai ? Tôi ! Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng Chỉ một đêm, còn sống có 30 Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó? Tôi! Tôi – người viết những câu thơ cổ võ Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ! Ai chịu trách nhiệm vậy? Lại chính là tôi! Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời Tôi ú ớ Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong Mà tôi xấu hổ Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười./. 1987

Cũng với nguồn mạch mặc cảm như vậy, ở biến khúc thứ hai, Văn Cao viết :

Tôi đi trên phố bỗng nhiên mọi người nhìn tôi một ai đó kêu lên: thằng ăn cắp tôi chạy tôi chạy sao tôi lại chạy tôi không hiểu tôi cả phố đuổi theo tôi xe cộ đuổi theo tôi tôi chạy bạt mạng gần hết đời tới chỗ chỉ còn gục xuống tỉnh dậy mồ hôi chảy tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội

Chúng ta cùng nhớ lại, năm 1988 là thời điểm các nước cộng sản Đông Âu và Liên xô đang tiến dần đến bờ vực sụp đổ tan rã, cũng là lúc cuốn sách “Trại súc vật” của George Orwell (1903–1950) đã được công khai phổ biến rộng rãi ở những quốc gia cộng sản này, sau gần 50 năm bị cấm. Mọi thứ tưởng rằng sẽ bền vững đến “muôn năm” phút chốc tan thành mây khói, phải được nhận thức lại, trong đó có lý luận văn học nghệ thuật kiểu Mác – xít. Thì ra, cái gọi là “hiện thực XHCN” chỉ là mớ lý luận ấu trĩ, phi thực tiễn và phản khoa học. Nó “định hướng” cho người cầm bút viết theo một chiều, phản ánh một chiều, biến họ trở thành thứ nô bộc, giả dối và lưu manh. Và, thật mỉa mai, chính cái thứ định hướng “ văn nghệ phục vụ chính trị trên nền hiện thực XHCN”, mà thực tế là công cụ của chính trị này đã “ăn cắp” niềm tin của người đọc. Hay cụ thể hơn, chính cái thứ văn nghệ giả dối, lưu manh đó đã đánh cắp niềm tin của nhân dân mình.

Những câu thơ tả “chân” của Văn Cao trong biến khúc thứ hai thật sinh động, như một video clip làm người ta phải cười ra nước mắt. Đừng tưởng những “người chân chính sáng tạo lịch sử” lúc nào cũng mê muội, nhẹ dạ, cả tin chỉ biết cầm búa, cầm liềm. Trái lại, rất nhạy bén, họ nhận ra ngay đâu là đồ thật, của giả. Qua thời gian và thực tiễn cuộc đời mình, họ đã cay đắng ngộ ra được, họ đã bị mất cái gì và đâu là “thằng ăn cắp”. Một nền văn học đánh cắp niềm tin của nhân dân mình, là một nền văn học phản động và thất bại.

Thành tựu ư? Xin hãy thật công tâm mang cả cái kho tàng văn học theo định hướng “văn nghệ phục vụ chính trị” ấy ra mà soi xét, thẩm định sẽ thấy ngay giá trị nghệ thuật và giá trị nhân văn của nó ở tầm mức nào. Những người nằm trong chăn biết rõ lắm những con rận hút máu người, gây ra biết bao là ghẻ lở. Ngoại trừ Tố Hữu là “cây đại thụ” của nền văn học cách mạng hiện thực XHCN mà chân dung đã được ông Xuân Sách khắc họa: “Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt – Máu ở chiến trường, hoa ở đây”. Hay Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi mà tôi đã đề cập trong các bài “Xuân Diệu, từ người làm thơ tình đến anh bồi văn chương” và “Nguyễn Đình Thi, cây thánh giá, lưỡi lê và cuộc trường chinh theo đảng” ra, thì vào những năm cuối đời, những người cầm bút được coi là gạo cội của nền văn học đó nói những gì, chắc mọi người đều đã rõ. Lẽ thường, người cầm bút chân chính nào cũng có trách nhiệm với bạn đọc, trách nhiệm với chính mình và qua thời gian, chịu sự phán xét của hậu thế. Tôi thuộc lớp người đọc hậu sinh, thiển nghĩ có đôi dòng mạo muội như vậy về các tiền bối, tưởng cũng chưa đến mức đắc tội.

Ở biến khúc thứ hai, Văn Cao viết như thế, nhưng không có cuộc rượt đuổi nào cả. Chỉ qua ánh mắt, xin nhấn mạnh chỉ cần qua ánh mắt thôi, người đời tinh lắm, khi họ nhìn thẳng vào người cầm bút, để nhận ra anh ta là “cái giống gì” cũng đáng sợ và thảm hại lắm rồi. Kết thúc biến khúc thứ hai, Văn Cao viết:

tôi chạy bạt mạng gần hết đời tới chỗ chỉ còn gục xuống tỉnh dậy mồ hôi chảy tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội…

Trong chuyện phạm tội, khoa học hình sự xác định: đã; đang; chưa và sẽ, để việc xử lý, truy cứu được chính xác. Còn những người cầm bút có tài, có nhân cách như Văn Cao thì luôn truy vấn bản thân, để điều chỉnh hành vi “viết” của mình. Đúng! Văn Cao đã xác định rất đúng, ông “là người chưa phạm tội”. Bởi, ngay từ những năm cuối thập niên 1950 trong trường ca “ Những người cửa biển” ông đã nhận ra và chỉ rõ:

Những con rồng đất khi đỏ khi xanh… Những con bói cá đậu trên những dây buồm Đang đo mực nước Những con bạch tuộc Bao tay chân cố dìm một con người”

Hay:

“Đất nước đang lên da lên thịt Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải Đã thấy loài sâu nằm dài trong cuống…”

Và, đây nữa:

“Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc Những tên muốn cây to che cớm mầm non”. Để rồi cất lên tiếng lòng chua chát: “Không có tiếng vỡ trong không gian Sao có tiếng vỡ trong lòng tiếng vang âm rên rỉ”.

Phải chăng, đó chính là cái barrie để một đời cầm bút của Văn Cao luôn đứng ở phía bên này với NHÂN DÂN của mình. Xin được nói thêm, cùng thế hệ với Văn Cao đã có một số ít người cầm bút (rất ít, chỉ đếm được trên đầu ngón tay thôi) cũng có được cái barrie của riêng mình. Những bậc tiền bối từng được người đời và chắc chắn sẽ mãi còn được hậu thế kính trọng đó, thà chấp nhận đi “hót cứt” (xin lỗi cho tôi được dùng hai chữ khốn khổ, khốn nạn này), thà chấp nhận bị đày đọa, chứ quyết không chịu để ngòi bút của mình phụ họa, đồng hành cùng cái ác. Nếu ở biến khúc thứ nhất và thứ hai, giọng thơ gân guốc, tiết tấu dồn dập, kịch tính, bất ngờ, thì sang biến khúc thứ ba, âm điệu của bài thơ trùng hẳn xuống cho ta thứ cảm giác mệt mỏi và bất lực. Tác giả đã về kết bằng cái bi kịch thế này:

Tôi rơi vào mạng nhện mạng nhện cuốn lấy tôi không cách gì gỡ được tôi như con sâu tằm cuộc đời cứ như thế muốn phá cái mạng nhện tôi không đủ tay.

Vâng! Đích thị là mạng nhện. Chao ôi! Là thứ mạng nhện vô hình đã giăng, mắc ở cái đất nước khốn khổ này suốt mấy thập niên cuối thế kỷ 20 với những con nhện chúa hãnh tiến, bất tài, hiểm ác, cùng lũ nhện “công công” thừa lòng đố kỵ, dẻo mỏ nịnh thần, đầu têu chỉ điểm, hùa vào dèm pha xúc xiểm, xiên xẹo, mong được lòng ông chủ. Để rồi ai đó “như con sâu tằm” kia rơi vào, chỉ có nước mạt vận, chết mòn, chìm nổi một đời văn.

Quỹ thời gian của một đời người không nhiều. Thời gian dành cho lao động sáng tạo của người cầm bút cũng hạn hẹp lắm. Với một kiếp người, thời gian, miếng ăn và tự do rất quan trọng. Tất nhiên, người cầm bút cũng không ngoại lệ, nhưng thứ quan trọng nhất để họ thai nghén những đứa con tinh thần lại là TỰ DO. Bởi: “Hiện hữu của con người là tự do. Kẻ không có tự do không phải là con người” – Jean Paul Sartre. Thế thì bi thảm lắm, khi đã bị “mạng nhện cuốn lấy … không cách gì gỡ ra được” kéo lê suốt “ngày dài lại đêm thâu” , “muốn phá cái mạng nhện” quái đản đó , nhưng lại “không đủ tay” thì chết chắc rồi còn gì. Mà xét cho cùng thì dù có đủ tay, dù có ba đầu, sáu tay cũng gỡ ra làm sao được, vì ngoài những lũ nhện phản phúc kia , còn có cả những “con” mà Văn Cao đã chỉ ra trong “Trường ca những người cửa biển”. Đó là:

Những con rồng đất khi đỏ khi xanh… Những con bói cá đậu trên những dây buồm Đang đo mực nước Những con bạch tuộc Bao tay chân cố dìm một con người”…

Chúng sẽ bu vào rúc rỉa anh, ra đòn hội đồng cho anh sống cũng như chết. Nói đến miếng ăn, đến cái dạ dày, tôi bỗng nhớ đến Vũ Trọng Phụng bụng lép kẹp, thổ ra huyết , vẫn có “Số đỏ” để đời, vì ông không bị rơi vào thứ mạng nhện chết người ấy.

Lại nữa, dự cảm của nhà văn cũng vô cùng quan trọng, phụ thuộc vào nhận thức và tầm nhìn xa của anh ta. Tầm nhìn ấy có khi phải cao hơn, xa hơn thời đại mà anh ta đang sống. Tức là khả năng dự báo của những trang viết. George Orwell cho ra đời tiểu thuyết “Trại súc vật” vào năm 1945, đúng vào thời hoàng kim của ý thức hệ cộng sản. Tác phẩm này lập tức như một hồi còi vang vọng giữa đêm đen, đánh thức toàn nhân loại. Mãi gần nửa thế kỷ sau, với sự tan rã và sụp đổ thê thảm của thứ ý thức hệ phản khoa học, phản nhân văn này, đã chứng tỏ dự báo của George Orwell là chính xác .

Ở ta, trong và ngay sau “Cải cách ruộng đất”, một số văn nghệ sỹ giàu tâm huyết, vừa có tài, vừa có dự cảm và tầm nhìn xa, trong đó có Văn Cao đã nhanh chóng chỉ ra những bất cập, những nguy cơ của một nền văn học, nghệ thuật khô cứng, một chiều, trái với thiên chức người cầm bút. Và, cũng như các nhà thơ, nhà văn lừng danh: Boris Leonidovich Pasternak (1890 – 1960); Joseph Brodsky (1940 – 1996) dưới thời Liên xô (cũ) , những nhà văn, nhà thơ ưu tú đó của đất nước đã bị đày đọa, trừng phạt. Ngoài những tác phẩm nổi tiếng trước đó, cho đến tận cuối đời, họ gần như không có thêm một tác phẩm xuất sắc nào. Tôi đã từng được nghe câu hỏi, rằng gần 100 năm qua, nền văn học nước ta đứng ở tầm mức nào của thế giới? Thiển nghĩ, chúng ta “vô hạng”, nghĩa là không thể xếp vào cái mức hạng nào cả.

Trước 1945, ta có dòng văn học hiện thực phê phán rất đáng tự hào. Dòng văn học này với các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố v.v…, ngoài “chị Dậu”, “anh Pha” còn có hẳn một “Chí Phèo” cũng sống dai dẳng với đời không thua kém gì “AQ” của Tàu. Sau 1945, miền Nam có: Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Hồ Biểu Chánh v.v… Miền Bắc, thời “Nhân văn – giai phẩm” có Phùng Quán; Trần Dần ; Lê Đạt ; Văn Cao; Hoàng Cầm, Hữu Loan, Quang Dũng … Các vị này sau đó cũng như Văn Cao đều bị “rơi vào mạng nhện”. Còn từ 1960 đến nay, trong con mắt rất thiển cận của tôi, thì về thơ có: Lưu Quang Vũ; Xuân Quỳnh; Trần Mạnh Hảo; Bùi Minh Quốc; Trần Vàng Sao; Nguyễn Duy; Đỗ Trung Quân; Hoàng Quý; Trần Chấn Uy. Về văn có: Nguyễn Minh Châu; Nguyên Ngọc; Nguyễn Huy Thiệp; Dạ Ngân; Bùi Ngọc Tấn; Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài; Võ Thị Hảo; Tạ Duy Anh; Phạm Thành; Nguyễn Ngọc Tư… Lý luận phê bình có Hoàng Ngọc Hiến; Lại Nguyên Ân; Đặng Văn Sinh; Nguyễn Hoàng Đức…

Thật là trớ trêu, xét theo tỷ lệ dân số, thì số nhà văn, nhà thơ của nước ta thuộc hàng nhiều nhất hoàn cầu, vậy mà số tác phẩm văn học nghệ thuật được nước ngoài biết đến chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Quá ít đấy, nhưng vẫn xin chớ vội mừng, người ta biết đến chưa chắc đã phải đó là những tuyệt tác văn học, mà có khi chỉ đơn thuần vì cuốn sách đó nói được một vài vấn đề nào đó lâu nay bị cấm kỵ ở Việt Nam. Thế thôi. Nghĩa là, còn xa vời lắm, hay nói theo dân gian là còn “lên bờ xuống ruộng” lắm, còn “bảy bồ cám, tám bồ bèo” nữa, may ra Việt Nam mình mới có được những tác phẩm văn học nghệ thuật đích thực, góp phần kiến giải những vấn đề của con người ở tầm nhân loại. Một nền văn học chỉ cúc cung tận tụy làm công cụ phục vụ chính trị, thì việc có được những tác phẩm đỉnh cao sánh vai với thiên hạ bốn biển, năm châu, còn khó hơn cả lên giời.

Trở lại với biến khúc thứ ba. Có thể nói , những năm, tháng thuộc thập niên 1980 đối với Văn Cao là một trong những khoảng thời gian buồn nản nhất của ông. Trong cảnh bệnh tật hiểm nghèo (ông bị ung thư phổi), ngoài chuyện vẫn phải bươn trải để mưu sinh, lo cho cái bụng đói, Văn Cao còn phải đối mặt với những trò hạ tiện nhố nhăng của lũ “bói cá” “ bạch tuộc” muốn hạ đo ván ông. Không kiểm điểm, đấu tố như thời “nhân văn – giai phẩm”, nhưng trò khủng bố có vẻ “nhẹ nhàng” này còn ghê gớm hơn cả một cực hình, nó ngột ngạt, bức bối hơn gấp nhiều lần. Thay vào những ngôn từ trực diện của Xuân Diệu – một “nhện công công” già – một anh bồi văn chương thời “nhân văn – giai phẩm”, rằng thì là : “Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ…”. Rồi thì là : ““Nhà văn trước tiên phải ôm lấy tư tưởng đúng, phải ôm lấy quần chúng vạn năng, phải ôm lấy Đảng vĩ đại, chứ nếu chỉ ôm lấy một mớ chữ, theo lối Văn Cao tán thưởng, thì chỉ ôm lấy tro tàn thuốc lá hay cặn rượu mà thôi. Huống chi mớ chữ đó lại phản động, thì nhất định tiêu ma sự nghiệp.” (*), là tiếng loa oang oang dai dẳng phát đi, phát lại những quốc ca “khoác áo dự bị” chờ thay thế những giai điệu Quốc ca mang tên Văn Cao, hào hùng, bi tráng trộn máu và nước mắt của nhân dân mình, hy sinh vì mơ ước có một tương lai tươi sáng đích thực.

Chao ôi! Là bóng tối, dao găm và mạng nhện trong “Ba biến khúc ở tuổi 65” của Văn Cao. Chao ôi! là cái sự “mạng nhện” trong biến khúc thứ ba này của ông. Vào những năm, tháng khốn khó đó của Văn Cao, sau khi đến thăm ông, nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã viết: “ Anh Văn ngồi. Ngồi ở sạp gỗ cũ kỹ như đã ngồi hàng trăm năm. Ngồi tóc bạc phơ, râu cũng bạc phơ. Chỗ ngồi đã mòn. Lưng dựa đã mòn. Ngồi như thế có ích gì, anh Văn… Cho đến bây giờ tôi vẫn bị ám ảnh bởi cái không khí ảm đạm, cô đơn của những mùa thu đông ở Hà Nội, với hình ảnh một Văn Cao ngồi một mình với cốc rượu trước mặt ngày này qua ngày khác. Anh ngồi đó mà như một sự vắng mặt trước cuộc sống. Ngồi hơn hai mươi năm như một cái bóng. Ly rượu cũng biến thành cái bóng. Cái bóng của hai người. Người và ly-rượu-người. Thân thiết và chia sẻ cùng nhau những nỗi đời riêng, hiu quạnh, không còn ai khác có thể san sẻ giùm“. (*)

Thế đấy! “Ba biến khúc ở tuổi 65” của Văn Cao đã khép lại, kết bằng nốt nhạc buồn, bằng hình ảnh con sâu tằm và cái mạng nhện. Xót xa lắm. Liệu có đại ngôn không, khi cho rằng “Ba biến khúc ở tuổi 65” chính là thông điệp gửi các thế hệ mai sau về thân phận những người cầm bút tài năng, chân chính trong một nền văn học luôn coi “chính trị là thống soái”, đánh mất thiên chức, tự biến thành công cụ, thành thứ văn nô, bồi bút?

Nha Trang 10/2009 – 2/2015 Nguyễn Chính

@ Ai đã trù dập Nhạc sĩ Văn-Cao _________________________________________

Lê Xuân Quang

Phamvietdao.net: Nhà báo Lê Phú Khải từ Sài Gòn điện ra đề nghị chủ blog chỉnh lại một chi tiết mà nhà văn Lê Xuân Quang viết không chính xác: năm đổi tên Đảng CS Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam là năm 1951. Nhà báo Lê Phú Khải cung cấp thêm thông tin: tham gia trù dập Văn Cao ngoài Tố Hữu còn có Nguyễn Đình Thi và Lưu Hữu Phước ???

Về vụ án này có 2 thuyết: Một, nói rằng, Văn Cao bị ‘’ông bạn thi sĩ Tố Hữu’’ trả thù. Xuất xứ, nguyên do: Vào hồi hai người – ông Văn Cao và Tố Hữu đi kháng chiến, sống trong rừng Việt Bắc, hai người đều làm thơ, lại cùng trang lứa (TH sinh năm 1920). Một lần, sau chuyến đi công tác vùng địch hậu trở về, Tố Hữu khoe với Văn Cao rằng, mới làm được một chùm thơ rất hay. Văn Cao đọc… hồn nhiên, (tếu), bảo bạn : ”Thơ cậu như ca dao ấy, có gì mà khoe!’.

Vô tâm, nói rồi quên ngay.

Chẳng ngờ, câu nói đó đã theo bạn mãi, và khi có quyền thế đã ‘’tính sổ’’ với người dám chê thơ, coi thường mình, bằng cách gán cho Văn Cao tội ’’đầu têu’’ xúi bẩy Văn Nghệ Sĩ ‘’chống Đảng’’ rồi đầy đọa ông gần 30 năm.

Tấn bi kịch của giới Văn Nghệ Sĩ miền Băc thời kì’’Nhân văn – Giai phẩm’’ thật đau xót, nhiều người tài năng gánh chịu tai họa, Nhạc sĩ – Thi sĩ Văn Cao là một trong những điển hình.

Xuân Sách vẽ bức chân dung thật rõ ràng, chân phương, chỉ đọc, ‘’xem’’ qua, người ta nhận ngay ra đó là chân dungNhạc sĩ – Thi sĩ đa tài VĂN CAO (83):

Thiên Thai từ giã về dương thế Suối Mơ ngày ấy Buồn Tàn Thu Sân đình ngất nghểu ngôi Tiên Chỉ Uống rượu say rồi hát Quốc Ca!

Thiên Thai, Suối Mơ, Buồn Tàn Thu, Quốc Ca là tên những ca khúc âm nhạc nổi tiếng của nhạc sĩ lừng danh, người được làng Văn – Nghệ miền Bắc( trước những năm 60) đặt cho biệt danh: ”Cụ Tiên Chỉ”.

(Thời phong kiến trước 1945, cụ Tiên chỉ là chức to nhất ở Làng. Khi Làng xã có việc hôi họp, tế lễ, cụ Tiên chỉ được mời ngồi chiếu trên, các ý kiến của cụ được chức sắc trong làng tôn trọng, làm theo).

Viết về Văn Cao đầy đủ nhất là từ điển Wikipedia. Ở bài này, tôi chỉ xoay quanh một vài nét đặc trưng nhất của chân dung mà Xuân Sách điểm xuyết.

Văn Cao tên thật Nguyễn Văn Cao, quê cha gốc Huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định, sinh tại Hải Phòng. Tác giả Tiến Quân Ca (được nhà nước lấy làm Quốc ca của chính thể Dân chủ Cộng hòa từ khi chế độ mới khai sinh (CHXHCN Việt Nam ngày nay): Học vẽ ở trường mỹ thuật Đông Dương cùng thời với những Họa sỹ bậc thầy của hội họa Việt Nam nhưng lại nổi tiếng ở lĩnh vực Âm nhạc. ”Cụ” là nhạc sỹ, tác gỉa Quốc Ca còn sống cùng với tác phẩm của mình thuộc loại lâu trên thế giới – 51 năm (1944 – 1995). Ngoài vẽ và sáng tác nhạc, Văn Cao còn nổi tiếng ở lĩnh vực văn thơ… Trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, ông bị xếp vào thành phần ‘’lãnh đạo’’. Biệt danh ”Cụ Tiên Chỉ” là do giới Văn Nghệ đặt cho Văn Cao để chỉ tài năng đa dạng của ông (Cầm, Kỳ, Thi, Hoạ), nhưng khi nổ ra phong trào NVGP, do từng viết bài cho 2 tờ Nhân Văn và Giai Phẩm, có một số ý kiến tán đồng, tâm đắc với bạn văn nhưng hoàn toàn không phải là người khởi xướng, lãnh đạo NVGP, biệt danh Cụ Tiên Chỉ nhân đó bị gán ghép và trở thành lời kết tội ‘’Linh hồn của nhóm NVGP’’. Tại thời điểm đó sự áp đặt này rất nguy hiểm: Bị vô hiệu hoá, treo bút (không được công bố sáng tác bằng tên thật), về làm người minh hoạ cho Báo Văn Nghệ, thiết kế Mỹ thuật cho những vở diễn và viết nhạc cho hãng phim truyện Việt Nam. Án văn chương (không có vân bản) giáng lên đầu Văn Cao kéo dài tớí ba chục năm.

Người xưa đẵ từng khuyên: ‘’Nhất ngôn kí xuất, Tứ Mã nan truy’’, ‘’Uốn lưỡi bẩy làn trước khi nói’’! Phải chăng VC đã mang họa chỉ vì không chịu’’uốn…(cong) lưỡi‘’ trước khi nói, làm mếch lòng bạn nên đã gánh hậu quả?

Một số Văn Nghệ Sĩ có dịp gặp tiếp xúc với Văn Cao (lúc sinh thời) – lại nói khác về nguyên nhân ông gặp tai họa: Văn Cao từng tâm sự rằng, giữa lúc cuộc Cải Cách Ruộng Đất có sai, toàn Đảng Cộng Sản Đông Dương tiến hành sửa sai… để làm giảm sức căng và áp lực dư luận, anh chị em Văn Nghệ Sĩ của nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm bị đưa ra ‘’trám lỗ hổng’’ thành ’’dê tế thần’’ nhằm lái dư luận phản đối của nhân dân – dãn ra, giảm sức căng bề mặt nhằm cứu vãn uy tín của Đản CSĐD (1951 mới đổi tên thành Đảng LĐVN)…

Dù cho thuyết nào đúng, Văn Cao vẫn là người bị trù dập oan uổng. Vì vậy, thật đáng tiếc cho nền Âm nhạc, Thi ca Việt Nam ở nửa sau của thế kỷ 20. Nhạc sĩ tài ba bị treo bút là đã mất đi một tài năng đang độ viên mãn. Mãi cho đến khi đất nước thống nhất (1975), ông sáng tác lại và công bố ca khúc Mùa Xuân Đầu Tiên. Ca khúc được nhân dân đón nhận nồng nhiệt, được những người yêu nhạc cả nước đánh giá cao. Trong bài hát có câu: ‘’…Từ nay người biết yêu người…’’ – đó là niềm trăn trở trong suốt nửa cuộc đời . Cũng như nhiều người, Văn Cao thành tâm nghĩ rằng từ nay – sau ngày đất nước thống nhất – những thảm cảnh mà ông, bạn bè cùng nhân dân đã gánh chịu, sẽ không còn tái diễn:’’Từ nay người biết yêu’’, thương nhau hơn !…

Vào cuối năm 1981, nhận một lần gặp Nguyễn Nghiêm Bằng – con trai thứ của Nhạc sĩ Văn Cao, cùng học ở Đại học xây dựng. Vốn ngưỡng mộ người nhạc sĩ lừng danh, tôi ngỏ ý muốn đến thăm nhà anh với mục đích được gặp tác gỉa Tiến quân ca. Bằng vui vẻ nhận lời, đưa tôi về chơi. Lên hết bậc thang, chơt thấy ông già măc quần đùi áo sơ mi cháo lòng, đi đôi ủng của thợ lò, râu ria, gầy gò, bước ra. Tôi nhận ra ngay ông là Văn Cao. Bằng giới thiệu : Con đưa anh bạn học đến chơi.

– Mời cậu vào, con tiếp anh ấy, mấy phút nữa bố trở lại !

Cửa vào căn hộ nằm lệch một bên. Căn hộ được ngăn thành nhiều buồng để ông bà cùng 3 người con trai và 1 cô con gái sinh sống. Căn phòng lớn 1 buồng của một gia đình 6 người này, không có nhà vệ sinh, không có bếp nấu. Muốn có nhu cầu đó phải nấu ăn ngay tại chỗ ngủ, đi vệ sinh phải ra ngoài trời theo cầu thang đi xuống tầng trệt! Hôm tôi đến, đêm trước mưa rất to, khu vực đặt nhà vệ sinh công cộng của gần mười hộ bị ngập. … Chủ nhân ngăn buồng lớn thành 3. Phòng ngoài cùng là nơi ngủ, tiếp các bạn Văn – Sỹ, và để tác gỉa sáng tác. Cạnh cửa sổ đặt chiếc Dương cầm trông cũ kĩ. Vách ngăn là chiếc tủ gỗ chỉ hai khoang ở phía dưới có cánh cửa dùng để đựng quần áo, chăn màn, còn bên trên để trống, làm gía sách và những thứ linh tinh. Trên tường ở 3 mặt – treo la liệt những bức vẽ của tác gỉa. Tôi nhớ rõ: Một bức vẽ hình người nhưng có hai mặt trên cùng một cái đầu, bức khác vẽ bà Nghiêm Thị Băng – bạn đời của ông lúc còn trẻ trông bà rất đẹp… Sát tủ, song song, kê chiếc giường cá nhân ghép băng gỗ tạp. Cạnh giường đặt một bàn gỗ,4 chiếc ghế. Để tiết kiệm diện tích và không gian, bàn, ghế được thửa vừa nhỏ để chủ nhân có thể ngồi ngay trên giường tiếp khách… rượu.

Lúc này, trên ghế có 2 người khách, trong đó một người là nhà văn Đỗ Chu (Bằng đã cho tôi biết, bố mẹ anh rất qúy Đỗ Chu, Bố thường cùng Đỗ Chu uống rượu). Tôi chào, bà Văn Cao ngẩng lên đáp lời rồi lại hướng vào ‘’thầy tướng’’ Đỗ Chu, nghe ‘’phán’’. Nguyễn Nghiêm Bằng kéo ghế mời tôi ngồi, nói với bố mẹ (ông VC vừa trở lại): Con đưa anh bạn tới chơi, nhân tiện nhờ anh Đỗ Chu bói cho anh ấy một quẻ.

– Ừ, ngồi cùng nghe rồi Chu sẽ xem cho.

Sau ít phút, Đỗ Chu kết thúc quẻ, quay sang tôi bỗ bã, hỏi: Ông muốn xem thế nào?

– Xin ông xem hộ tôi: Có thể xuất ngoại được đợt này không? Tôi nói ngày tháng năm sinh. Đỗ Chu cắm cúi lập bảng… Nhạc sĩ hướng vào tôi, hỏi nơi tôi công tác, gia cảnh… tôi trả lời… lúc này Bằng mới rút từ trong túi ra chai Russkaia Vodka đưa cho bố: Anh Quang biếu bố chai rựơu được cơ quan Cục chuyên gia phân phối nhân thể anh ấy sắp lên đường đi Hợp tác lao động.

Vào thời đó, đối với người thích rượu, chai Vodka Nga là món qùa qúy, ông Văn Cao cầm chai rượu ngắm nghía rồi cười vui…. Vừa đúng lúc ‘’Thầy’’ lập xong bảng, hướng vào tôi nói vắn tắt: Ông tuổi Nhâm Ngọ… sao này chắn… sao kia giaỉ… sẽ phát lộc ở nơi xa. Tuổi ông phải đi mới ổn… rồi cho tôi thêm những lời phán’’có cánh’’.

Chai rươu Vodka được khui ngay khiến không khí gặp mật đầy hào hứng sôi nổi…

Ở những năm đầu của thập niên tám mươi – khi mà chủ trương thay quốc ca đưa ra, Văn Cao thực sự rất buồn. Không buồn sao được khi mà dấu ấn sâu đậm trong lòng người dân Việt, niềm tự hào cao nhất của nhạc sĩ – sắp bị xoá sạch. Ông lui về ‘’cố thủ’’ trong căn phòng nhỏ bé, chật chôi, vui cùng những chai rượu cuốc lủi nấu ở làng Vân – Từ Sơn – Hà Bắc (nút lá chuối khô) nức hương mùi men – nếp. Sinh hoạt của nhạc sĩ thời gian này thường gói gọn trong căn hộ của mình, nhiều bạn hữu đến thăm khiến ông suốt ngày nhận qùa rượu và đãi rượu bạn…Tài uống rươu suông – uống ‘’xếch’’ (không mồi nhắm) – của ông thật ‘’kinh người’’ khiến các đệ tử Lưu Linh của đất Hà Thành phải kính nể. Ông có thể uống rượu liền tục trong ngày với bạn bè mà vẫn tỉnh táo…

Vào năm đầu thập niên tám mươi đó, không hiểu do từ ai, lí do gì lại đề xuất thay bản Quốc Ca đã dùng từ ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – bằng bản Quốc Ca mới. Mọi người đều rõ: Bài Tiến Quân Ca của Văn Cao – được dùng làm Quốc ca của Chính phủ cách mạng lâm thời – ra đời năm 1944, khi ông Trường Chinh làm Quyền Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Đông Dương (tiền thân của Đảng CSVN ngày nay). Như vậy, chắc chắn thay Quốc Ca không phải do ông Trường Chinh chủ xướng. Có thể do ‘’cay cú’’ trước uy tín, tài năng của Văn Cao, người ta đi đến quyết định tai hại ”xóa sạch dấu vết” của ông bằng cách thay Quốc ca chăng?

Nhưng, đây là nghị quyết của Bộ chính trị, cần phải thực hiện nghiêm chỉnh ! Thế là một bộ máy chỉ đạo thi sáng tác Quốc ca được thành lập… tiếp theo đó, hàng chục nhạc sĩ, hàng trăm người có lòng nhiệt huyết với bản quốc thiều của nước Việt Nam – lao vào sáng tác dự thi… Ròng rã nhiều ngày, đài Phát thanh, đài Truyền hình quốc gia, địa phương thi nhau phát các bài dự thi tuyển chọn Quốc Ca để trưng cầu dân ý, chọn lấy một chiếc ”cột cờ trong bó đũa”. Xung quanh việc tuyển chọn quốc ca mới có rất nhiều giai thoại. Một nghệ sĩ danh tiếng của đất Hà Thành kể lại:

‘‘… Một lần tôi vào quán nhậu Thanh Hoa (nằm trong sân trụ sở 5 hội chuyên ngành – 51 Trần Hưng Đạo HN). Chợt nhìn thấy sát tường rào có bàn rượu đang ồn ào, với 6 người mặt mũi đỏ gay… đột nhiên một người cất tiếng hát khe khẽ nhưng rõ tiếng:

Ai đã từng nghe qua quốc ca cu (cũ), quốc ca cu có nhiều thiếu sót Ai đã từng nghe quốc ca cù (cũ) quốc ca cù, quốc quốc ca cú (cũ) Buổi xuất quân Tiểu đoàn năm ấy cả Tiểu đoàn ca quốc ca cù Người chiến sỹ, ca bài quốc ca cú…

Tôi dừng lại chăm chú nhìn và nghe… rồi tai ù đi vì lời bài hát do người hát nhại theo bài Tiểu Đoàn 307, với những câu ”Quốc Ca cu… Quốc Ca cù… Quốc Ca cú”… ép vần cho phù hợp với cung bậc, giai điệu của nốt nhạc, lặp đi lặp lại, làm người nghe lúc đầu ngỡ ngàng rồi sau thì không nén chịu được phải cười hết cỡ… ‘’thợ mộc’’!

Người hát vốn là nghệ sỹ có tên tuổi. Anh hát theo kiểu ép vần của Bút Tre, nhại lại giai điệu bài hát Tiểu đoàn 307, nhạc Nguyễn Hữu Trí, lời thơ Nguyễn Bính, bài tủ của nghệ sỹ Quốc Hương. Lời đặt nhại từ đầu đến cuối, mà đoạn đầu bài hát gốc – nguyên văn :

Ai đã từng đi qua Cửu Long Giang Cửu Long Giang sóng trào nước xoáy. Ai đã từng nghe tiếng tiểu đoàn, tiếng tiểu đoàn Ba trăm lẻ bẩy. Buổi xuất quân tiểu đoàn năm ấy, cả tiểu đoàn thề dưới sao vàng, Người chiến sỹ tiếc gì máu rơi…

Điều làm cho người được chứng kiến phải bật cười. Người hát có cặp mắt hơi trố, cứ long lên, đảo liên hồi, nhìn hết người này đến người kia, trong đó như ngầm bắn ra lời chất vấn ”Tại sao… tại sao?…”. Bài hát dứt, mọi người ngồi xung quanh được dịp đế vào… câu chuyện thay quốc ca cứ thế nổ ran…

Cũng từ ở đây, khi xã hội đang đói kém, kimh tế kiệt quệ… một vè ”Sấm Trạng” từ trong dân gian được phổ biến, lan truyền :

Thứ nhất là loạn Quốc Ca – (thi Quốc Ca) Thứ nhì loạn gạo – (Đói, gạo tăng gía từng ngày…) Thứ ba loạn tiền – (Đổi tiền, đồng tiền mất gía, trượt gía từng ngày…) Tư – Loạn mua chức, bán quyền Thứ Năm buôn lậu, chích, ghiền, xì ke (tệ nạn bắt đầu phát triển) Thứ Sáu loạn hội, loạn bè (lúc này rất nhiều Hội ra đời) Bẩy, Tám loạn Híp (HIV, AIDS), loạn nghề mại dâm Thứ Chín – trộm, cắp tràn lan. Mười Loạn tham nhũng, quan tham lộng hành. Nước nghèo, Dân đói triền miên Bao giờ hết loạn : Nước lên, Dân giầu !

(Giai đoạn này nhà thơ Tố Hữu đang làm Phó thủ tướng thứ nhất – Phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng – theo mô hình tổ chức chính phủ của Liên Xô).

Dư luận xã hội hoàn toàn không tán thành việc thay bài Quốc ca. Theo họ : ”Tiến Quân Ca – Quốc Ca – ra đời trong không khí sục sôi vùng lên của toàn dân tộc đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập. Bài hát đã thúc dục người người lớp lớp… ngã xuống… tiến lên ! Giờ đây, không có một lý do nào chính đáng để thay thế bài Quốc ca”.

Trên thực tế, hàng trăm bài, để chọn ra 10 bài hát, cũng không có bài nào sánh được bài Tiến Quân Ca (1) của Văn Cao – xét thuần túy về nghệ thuật – âm nhạc. Văn Cao có viết một bài đăng trên báo Nhân Dân vẻ ‘’cam chịu’’ về chủ trương thay Quốc ca này… sau đó lặng lẽ lui về ”Uống rượu say rồi hát Quốc ca’’ – (của mình), nhớ về những kỉ niệm khi bài Tiến Quân Ca được Quốc Dân Đại Hội ở Tân Trào chọn làm Quốc Ca của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa…Có thể giới quân sự ngầm không đồng tìnb, dư luận của nhân dân phản đối… cuối cùng chủ trương thay Quốc Ca bị lặng lẽ xóa bỏ. Ai là người đầu tiên khởi xướng cho một việc làm tai hại này ? Cho đến nay, câu hỏi đã không được giải đáp.

Năm 1986 – năm đất nước đổi mới, sau đó Văn Cao được phong tặng những danh hiệu, nhận các giải thưởng, các sáng tác của ông dưới thơi Tố Hữu thống lĩnh đội quân Văn hóa – Văn nghệ , đa số hầu như bị cấm phổ biến, nay dần được phục hồi bằng cách cho tổ chức các đêm nhạc, các nghệ sĩ được công khai hát tất cả những bài hát của Văn Cao. Ông còn được cấp nhà mới – thay cho căn nhà nhỏ bé, chật chội mà ông bà cùng các con sinh sống suốt mấy chục năm. Đây thực sự là một sự đãi ngộ đền bù tuy chậm nhưng còn kịp. Văn Cao chỉ được hưởng những ‘’ân xủng’’ không bao lâu rồi theo quy luật của cuộc sống ông đã về với tổ tiên mình.

Lúc sống – một thời gian dài bị trù dập, bạc đãi, giờ nằm xuống Văn Cao gần như đã được phục vị trong lòng dân Việt, làm dịu đi phần nào ý nghĩa câu ngạn ngữ đã vận vào cuộc đời ông:

”Lúc sống thì chẳng cho ăn Khi chết bày vẽ làm văn tế ruồi‘’

Chỉ tiếc rằng : Giá… nếu như… Văn Cao không bị tù dập, treo bút thì… chắc người yêu thơ, yêu nhạc sẽ được đón nhận nhiều hơn nữa những sáng tác nổi tiếng của ông !

Berlin 5.7.2012 LÊ XUÂN QUANG

@ Nhạc sĩ Văn Cao – Từ khúc tình đắm đuối đến khí thiêng sông núi __________________________________________

Phan Thế Cải

Nhắc đến Văn Cao là nhắc đến một nghệ sĩ tài hoa trên cả 3 lĩnh vực: thơ, nhạc, họa. Riêng về âm nhạc, Văn Cao đã được hàng triệu người dân Việt Nam biết đến với bài Tiến quân ca (Quốc ca). Tài năng âm nhạc Văn Cao nảy nở sớm và cho đến những năm cuối đời, ông vẫn không ngừng sáng tạo những tác phẩm đi cùng năm tháng.

Thiên Thai và Trương Chi là 2 ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Văn Cao từ nửa thế kỷ trước. Dòng chảy của âm nhạc êm như mái chèo lướt sóng trên dòng sông xanh được dựa trên 2 cốt truyện văn học dân gian. Thiên Thai kể về việc Lưu Nguyễn lạc vào “cõi bồng lai”; Trương Chi nhắc tới thân phận tủi buồn, cô liêu của chàng ngư dân có tiếng hát hay nhưng tình yêu không tới bến.

Thiên Thai mở ra êm lướt như cánh én mùa xuân: Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng… Thiên Thai là gì? Là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi. Âm thanh, màu sắc tiên cảnh, ấy là chất bột tinh túy nhất để nghệ sĩ tài hoa Văn Cao nhào nặn nên âm hưởng nghệ thuật sâu lắng…

Trương Chi tái hiện nét chấm phá của người họa sĩ Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ, rồi dẫn dắt con người đến với một thế giới mơ hồ với giai điệu không gian mới rung thành tơ. Cứ tịnh tiến như vậy, con người được đưa tới vẻ đẹp thẩm mỹ, ôi tiếng cầm ca thu tới bao giờ. Tương quan giữa tiếng cầm ca và thu tới bao giờ đó là mối quan hệ biện chứng giữa thẩm mỹ của âm nhạc với thực tại đã tạo dựng sức sáng tạo đến tột đỉnh cái đẹp bức tranh của đất trời.

Những tình khúc đầu mùa của Văn Cao là Thu cô liêu, Buồn tàn thu (1939), Cung đàn xưa, Bến xuân (1942), Suối mơ (1943) đã ghi lại những thành công trong thời kỳ “phôi thai” của nhạc mới, những năm 40 của thế kỷ XX và bây giờ vẫn còn nhiều người yêu thích.

Văn Cao là một người có tầm tư tưởng lớn, cũng là người nhạy cảm với thời đại, thở hơi thở của thời đại một cách hào sảng trong âm nhạc. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, cờ đỏ sao vàng bừng sáng khắp non sông, rồi toàn quốc kháng chiến. Những bài hát Mùa xuân về, Giữa chiến hào xa... rạo rực, phơi phới với 2 mối tình lớn: đất nước và người yêu. Xuân kháng chiến cũng là “Xuân trăng mật”. Bài hát Làng tôi là hồn cốt quê hương, đằng sau sự đằm thắm, giản dị giữa tình quân dân là sức sống bất diệt của một dân tộc, là cuộc sống thanh bình mà ai cũng ước mơ.

Làng tôi là tình khúc thiết tha, dịu mát. Trăng mật của lứa đôi tỏa sáng lung linh vào quê hương yêu dấu:

Làng tôi xanh bóng tre

Từng tiếng chuông ban chiều

Tiếng chuông nhà thờ rung

Đời đang vui đồng quê yêu dấu

Bóng cau với con thuyền, một dòng sông.

Tuy là một ca khúc chiến đấu, Làng tôi theo đoàn quân du kích… nhưng âm hưởng lưu lại như hương lúa mùa gặt, lung linh như ánh mắt thôn nữ, có lúc rộn lên với Ngày mùa náo nức, dồn dập: Ngày mùa vui thôn trang, lúa reo như hát mừng.

Với hình tượng lý tưởng súng tì tay anh đứng, em ngừng liềm trông sang, đưa chúng ta tới miền ký ức những gian lao của những năm chống Pháp.

Với Trường ca Sông Lô, Văn Cao bằng năng lượng dồi dào của người nghệ sĩ đã thâm nhập được từ những hy sinh, gian khổ và quyết liệt của cả dân tộc trong kháng chiến. Ông đã tạo nên một âm thanh đa sắc mà hùng tráng, tự tin đến thắng lợi huy hoàng:

Sông Lô sóng ngàn, Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u

Thu ru bến sóng vàng

Từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu.

Những nét đạm thanh ẩn hiện trên nền màu mờ nhạt, khi nhịp điệu câu ca loang dần ra xa; những hình ảnh liên tục tạo ra không gian mênh mông, huyền ảo và lặng lẽ tưởng như tẻ nhạt và trống vắng, bỗng bừng lên ánh sáng ngọn lửa.

Sông Lô sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa. Âm hưởng mênh mông, ánh sáng ngày mới ấy đã lay thức ý chí con người. Bài hát như chiếu ánh sáng cách mạng vào tâm hồn mỗi con người.

Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô,

để rồi cả Tổ quốc bỗng chan hòa âm thanh, bao la, rộn rã của tiếng sóng réo vi vu… gió lá vi vu:

Sông mênh mông như bát ngát hát

Bao rừng thu như bát ngát cười

Văn Cao vẫn bám vào hiện thực, trong chiến thắng hân hoan, ông nghĩ ngay đến đời sống thường nhật của người dân buông lưới. Phan Lương vui bóng chuyền, lều dựng lên ven sông. Phút vẻ vang, phút hùng tráng không phải là nội tâm của tác giả nữa mà nội tâm của hàng triệu con người.

Dòng sông Lô trôi

Mùa Xuân tới

Nước băng qua ngàn

Nước in ven bờ xanh ôm bóng tre

Trường ca Sông Lô được xem như là đỉnh cao trong sự nghiệp Văn Cao. Ông đã vượt lên khỏi những tiết tấu đơn giản của ca khúc, đi tới một hợp tấu dài hơi, với nhiều tầng lớp, nhịp độ khác nhau, lôi cuốn chúng ta theo điệu nhạc, lời thơ, màu sắc, như một dòng sông lớn.

Dường như dòng thác cách mạng đã giục giã trái tim người nhạc sĩ này nhanh chóng Tiến về Hà Nội:

Năm cửa ô đón mừng đoàn quân trở về

Như đài hoa đón mừng

Nở năm cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh

Ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu

Những bông hoa ngày mai

Đón tương lai vào tay.

Giọng ca đã khác với bóng xưa ngàn năm, hồ phai khi tàn mơ. Nhưng vẫn sắt đá một niềm tin, Ơi! Thăng Long ngày mai, xây đắp dưới vinh quang bằng chí anh hùng.

Nhắc tới Văn Cao, mỗi công dân Việt Nam từ trẻ tới già không thể không nhớ bài Quốc ca mà nguyên mẫu là bài Tiến quân ca: “Đoàn quân Việt Nam đi. Chung lòng cứu quốc, bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…”. Trong hồi ký của ông, nhạc sĩ cũng không ngờ rằng, bài hát này lại linh thiêng tới vậy, lại được Bác Hồ chọn làm Quốc ca. Bài hát ấy khi cất lên khiến ông trào nước mắt và ông đã tâm sự: “Lúc đó, tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát, tôi chưa biết chiến khu. Tôi chưa được gặp các chiến sĩ của chúng ta trong khóa quân chính đầu tiên ấy như thế nào. Tôi đang nghĩ, viết một bài hát thật giản dị cho họ có thể hát được. Thế rồi, giai điệu Tiến quân ca bật lên”.

Từ nhận xét này, chúng ta có thể nới rộng tầm nhìn vào tác phẩm Văn Cao, về nhạc, họa cũng như thơ. Một kho tàng trí tuệ phong phú, đa dạng mà lúc nào cũng đặc sắc, chung thủy với một phong cách riêng. Gắn bó với thời đại, Văn Cao thường gắn nỗi đau của mình với nỗi đau nhân thế, vỡ òa niềm vui của mình với niềm vui bất tận của dân tộc.

Bình thường, Văn Cao là ông già giản dị với “Tuổi già tóc bạc cái râu bạc”, có khi rất trầm tư bên chén rượu nồng. Nhưng đằng sau sự lặng im ấy là Văn Cao của thơ, nhạc, họa, cuồn cuộn trào dâng như con sóng của đại dương vỗ bờ. Khó có thể gọi âm nhạc Văn Cao là lửa hay là hoa, là trăng hay hương đồng thơm ngát của quê hương? Chỉ biết rằng, sự nghiệp và di sản của ông neo đậu mãi cùng hậu thế.

Phan Thế Cải

@ Thời gian cô đặc trong thơ Văn Cao _________________________________ THANH THẢO

Tôi

Một trái cây muộn

còn sót lại cành

(Sự sống thật)

Văn Cao tự nhận mình như vậy, luôn chịu sự câu thúc của thời gian, cái thời gian kéo dài trong một ngày ở một thế ngồi bất động, “một cái bóng”, nhưng lại vô cùng ngắn giữa những chớp mắt của tâm tưởng, những hình ảnh, những ý nghĩ vụt lóe. Sáng tạo là chấp nhận sự mất đi của những thời gian đằng đẵng để đổi lấy cái chớp mắt của những thời gian cô đặc. Thời gian ấy có thể là tiếng kêu của “một khúc thép đỏ- trong chậu nước”, có thể là cái “lặng lẽ lấp lánh” của một con mắt “sau bóng đen”, có thể là một cái bóng chung cho cả hai người: Chúng tôi hai người – Một bóng… Thời gian ấy có thể nghe được từ “những tiếng rạn vỡ”, có thể thấy được từ dòng máu của một nhà văn thân thiết đang đối mặt từng phút giây với cái chết: Và dòng máu nơi anh – Những giọt mực cạn dần. Văn Cao có thể thấy, sau khoảng thời gian cô đặc như sau một tách trà ấy là Một khoảng trống thẳm sâu. Thơ có được từ những chênh vênh, những mấp mé miệng vực ấy của một thoáng chốc thời gian.

Tôi níu lấy mảnh lưới

Lưới là cái cuối cùng

Đang hắt tôi xuống biển

(Đêm phá Tam Giang)

Đó cũng là thời gian để đột ngột hình thành một cái gì:

Từ trời xanh

rơi

vài giọt tháp Chàm

(Quy Nhơn 3)

Đọc thơ Văn Cao đã lâu, tôi cứ nghĩ mãi, vì sao thơ ông cô đặc được đến vậy? Thì ra, mỗi bài thơ của ông được dựng lên từ một lát cắt rất mảnh của thời gian, hoặc từ một sự cô đặc dồn nén cả một khoảng thời gian dài trong một chuyển động bất chợt:

Bất ngờ

một con chim bay qua cửa sổ

tự nhiên

ánh sáng đi

(Mùa xuân, em)

Với bài thơ Trôi, Văn Cao dựng xương sống của nó chỉ bằng ba động từ “thả”, “ôm” và “trôi”. Chỉ ba động từ mà đặt được một vấn đề triết học, một cách nhìn cách nghĩ không cố chấp về cuộc sống: Tôi ôm em trong tay – Em trôi. Người tự do là người nhận thức được quy luật tất yếu. Nhà thơ tự do cũng vậy, anh chọn xả kỷ chứ không phải ích kỷ, anh dám cô độc trên con đường mình đã chọn nhưng bao giờ cũng khát khao sự đồng cảm, sự chia sẻ, tình thân hữu. Tài năng của Văn Cao thăng hoa được tới đỉnh cao là nhờ cái tình sâu đậm của ông với con người, với nhân dân mình, với quê hương mình. Cõi thiên thai trong bản nhạc bất hủ của ông chính là cõi trần gian mà ông muốn thấy, mà ông khao khát chiến đấu để có được. Trong mỗi nhà Cách mạng cũng như mỗi nghệ sĩ chân chính đều có phần không tưởng, phần lý tưởng mà nhờ nó họ có được sự hy sinh tự nguyện và những tác phẩm để đời. Họ không cần và cũng không thể thấy những cõi thiên thai trên mặt đất này, nhưng họ khao khát, họ sống và chết vì sự khao khát. Văn Cao là một nhà cách mạng rất nghệ sĩ, và là nhà nghệ sĩ sống rất cách mạng. Hai con người này, nói như Văn Cao là: “Chúng tôi hai người – một bóng”, cái “bóng” ấy thấm đẫm xuống từng trang tác phẩm của Văn Cao.

Có những nhà nghệ sĩ lớn không Cách mạng, nhưng tự hào biết bao ở cái thế kỷ 20 khốc liệt này chúng ta được thấy hàng loạt những nghệ sĩ lớn, những nghệ sĩ vĩ đại đồng thời là nhà Cách mạng. Cách mạng trong tư tưởng, và Cách mạng trong hành động. Chính Cách mạng đã đặt đôi chân nghệ sĩ của họ cắm chặt trên mảnh đất cần lao, đứng cùng những người bị áp bức, những người đang chiến đấu để làm người, và chính Cách mạng đã làm thăng hoa những tưởng tượng những khát khao của họ về một thế giới mới, về những gì chưa thể nhìn thấy được trong hiện tại nhưng có thể sẽ là giai điệu chủ trong tương lai. Nhưng cũng như những nghệ sĩ Cách mạng khác, Văn Cao không bao giờ chấp nhận sự đánh tráo khái niệm, đánh tráo hình ảnh. Sự trung thực đến cùng với lý tưởng của mình có thể làm khổ ông một thời nhưng sẽ tôn vinh ông mãi mãi.

Bây giờ không còn những tiếng nổ to

Nhưng còn những tiếng rạn vỡ

Anh có nghe thấy không

Chỗ nào cũng có tiếng

Chưa nói lên

(Anh có nghe thấy không)

Văn Cao đã nghe từ ngót 50 năm trước những điều đang xảy ra hôm nay. Ông không phải là nhà tiên tri vu vơ, ông là nhà Cách mạng và là nhà nghệ sĩ, ông nghe được bằng tất cả trái tim mình, bằng sự linh cảm không đánh lừa của mình, bằng tất cả tấm lòng của mình với nhân dân với đất nước mà ông trọn đời yêu thương. Với những người như thế, thời gian trong tâm tưởng họ là thời gian cô đặc, họ có thể nhìn thấy cảm thấy những điều xảy ra trăm năm sau không phải nhờ một năng lực thần bí nào, mà nhờ cậy chính vào sự trong trẻo tuyệt vời của tâm hồn, của lương tâm họ. Đó là những người đã ngộ. Cái “thời gian cô đặc” trong thơ Văn Cao bắt nguồn từ khả năng cô đặc thời gian trong tâm tưởng ông, là sự dịch chuyển đến vô cùng từ một không gian hẹp, từ một thế ngồi bất động.

Tôi đã nhiều lần nhìn ngắm Văn Cao ngồi im lặng: ông có thể ngồi suốt ngày với một tư thế như vậy, với một tâm thế như vậy. Những lúc ấy, tâm tưởng ông liên tục du hành trong thời gian, trong những không gian tưởng tượng. Chính khả năng cô đặc thời gian, khả năng “tích trữ lương thực” cho tinh thần, cho tâm hồn đã đưa tới những bài thơ cô đặc mà Văn Cao từng ủ bao nhiêu năm trong những cuốn sổ tay nhỏ nhít của ông. Ủ như người ta ủ những hạt mầm. Bản thân những hạt mầm cũng là sự cô đặc thời gian, sự kiên nhẫn với thời gian. Đọc thơ Văn Cao giờ đây, tôi như thưởng thức được từng chấm sáng lấp lánh của thời gian qua từng con chữ. Nhiều khi, thơ cũng phải biết tự dè sẻn như thế, tự làm nhỏ mình lại như thế, biết kiên nhẫn như thế. Như những hạt mầm. Những hạt mầm của thời gian.

THANH THẢO

@ Văn Cao Một lòng vì tổ quốc ____________________

Nguyễn Thanh

Văn Cao (1923-1995), tên thật Nguyễn Văn Cao, quê ở Nam Định. Bạn thân gọi là anh Văn, ông là nghệ sĩ tiền phong, tài tình muôn mặt : nhạc sĩ – họa sĩ – nhà thơ. Văn Cao nổi tiếng trước hết với bản”Tiến quân ca” sau làm Quốc ca nước Việt Nam. Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài nhưng phải trải qua thăng trầm trong cuộc đời. Tác phẩm chính: + Nhạc: Trước 1945 : Thiên Thai (1941), Suối mơ (1942), Trương Chi (1943), Tiến quân ca (1944)…; + Sau 1945: Trường ca sông Lô (1947), Tiến về Hà Nội (1948), Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1950)…; + Sau 1975 : Mùa xuân đầu tiên (1976, được in và trình bày ở Moskva ngay trong năm và được Liên Xô trả nhuận bút 100 Rúp) ;

+ Thơ (khoảng 60 bài) : Một đêm Hà Nội, Những ngày báo hiệu mùa xuân, Lá (1988)…; + Họa: tại phòng Triển lãm Duy nhất Salon Unique, tại Hà Nội (1944) với 3 bức: Cô gái dậy thì, Cuộc khiêu vũ của những người tự tử, Thái Hà ấp đêm mưa, …

Tặng thưởng : Huân chương kháng chiến hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng nhất (1993), Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (1996). Tên của Văn Cao được đặt cho nhiều con đường, phố lớn đẹp ở : Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẳng, Nam Định, Lạng Sơn, Đắk Lăk, Lâm Đồng, Kiên Giang.

Văn Cao sinh ra tại Hải Phòng nhưng quê gốc ở Nam Định. Xuất thân trong một gia đình viên chức, cha là Nguyễn Văn Tề làm quản đốc nhà máy nước, Văn Cao học Tiểu học trường Bonnal, trung học Trường Dòng Saint Joseph, Hải Phòng. Tại trường, Văn Cao tham gia làm một tờ báo cùng các bạn trong lớp, tự tay trình bày báo và biên tập bài vở của các bạn gởi đăng. Cũng lúc còn học tại trường, Văn Cao được dạy thêm trước môn âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, gia đình sa sút, Văn Cao phải nghỉ học. Khi cha mất, người chị lấy chồng trong Nam ra chịu tang cha. Có thời kỳ, Văn Cao theo chị vào Sài Gòn kiếm sống nhưng đời sống khó khăn nên lại trở ra Bắc. Văn Cao đi làm điện thoại viên ở Nhà Bưu điện Hải Phòng. Nhưng làm được một tháng, Văn Cao bỏ việc. Giữa thập niên 1930, nền Tân nhạc Việt Nam ra đời với những tên tuổi như Lê Thương (1914-1996), Đặng Thế Phong (1918-1942), Đoàn Chuẩn (1924-1992), Hoàng Quý (1920-1946)…, Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý, cùng Tô Vũ (1923-2014), Đỗ Nhuận (1922-1991),… Năm 16 tuổi (1939), Văn Cao sáng tác bản nhạc đầu tay “Buồn tàn thu”, ảnh hưởng Lê Thương, được Phạm Duy (1921-2013), trong gánh hát Đức Huy của Charlot Miều, mang đi phổ biến các nơi. Văn Cao cũng viết một số ca khúc hướng đạo vui tươi như: Gió núi, Gò Đống Đa, Anh em khá cầm tay… Từ 16 đến 18 tuổi, Văn Cao đã cắm những cái mốc trong âm nhạc với những tác phẩm trữ tình man mác: Suối mơ, Trương Chi, Buồn tàn thu…và khi mới 21 tuổi, Văn Cao viết Tiến quân ca để rồi một năm sau đó trở thành Quốc ca (1944). Nhớ lại, năm 1940, Văn Cao, trong chuyến đi vào Nam. Khi dừng chân ở Huế, Văn Cao sáng tác bài thơ đầu tay : “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế”, còn mang phong cách nghệ thuật của thơ mới, nhưng rất điêu luyện, mượt và không kém các bậc đàn anh trong làng thơ mới trước đó. Và sau này, bài thơ “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc” (sáng tác năm 1945), được coi là đạt đến nghệ thuật đỉnh cao, miêu tả hiện thực đến tận cùng thảm họa khủng khiếp của đồng bào thủ đô Hà Nội trong nạn đói năm đó. Ở bài thơ này, Văn Cao đã hoàn toàn vượt qua khỏi ảnh hưởng của thơ mới và có khuynh hướng về thơ tự do hiện đại. Người ta còn nhớ, năm 1942, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội, thuê căn gác nhỏ số 171 Mongrant (nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền) để theo học dự thính (auditeur libre) 2 năm tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, và làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy. Năm 1943 và 1944, trong hai lần Triển lãm Salon Unique, tổ chức tại nhà Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội, Văn Cao đã gởi các bức tranh sơn dầu: “Cô gái dậy thì”, “Sám hối”, Nửa đêm” và “Cuộc khiêu vũ của những người tự tử” (Le Bal aux Suicidés) – Bức tranh sau cùng được đánh giá cao và gây chấn động dư luận – Dù được báo chí khen ngợi, tranh Văn Cao vẫn không bán được. Họa sĩ, cùng bạn bè, thường phải đứng bán các tác phẩm của mình trên đường phố Hà Nội, Hải Phòng. Văn Cao phải trải qua một thời gian dài sống trong cảnh thiếu thốn ở Hà Nội. Chính những năm lưu lạc, phải sống lăn lộn rất khó khăn trong cuộc đời giông bão đã giúp nghệ sĩ xót xa ngộ ra được không hiếm chuyện thế thái nhân tình. Trong kháng chiến chống Pháp, lên Lào Cai, Văn Cao tiếp tục vẽ tranh, thể hiện sự rung động nhạy bén nghệ sĩ của ông trước cuộc sống kháng chiến, với các bức tranh: Phố lu, Gối mộng, Suối tóc, Lớn lên trong kháng chiến…rất thành công, và trước năm 1945 là bức tranh sơn dầu vẽ chân dung liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến (1901-1941) – theo báo Văn nghệ số 36+37, ngày 3/9/2016.

Vốn là một con người yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm, không ngại gắn liền cuộc đời và sinh mệnh của mình với sự tồn vong của đất nước và quyền lợi của dân tộc, Văn Cao đã hăng hái tham gia vào tổ chức hoạt động chính trị mà không ngại chuyện tử sinh, gian khổ. Năm 1944, được Vũ Quý, một cán bộ đã quen biết từ trước, thuyết phục tham gia Việt Minh, Văn Cao lãnh nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành khúc để cổ vũ cho phong trào cách mạng, và ông đã sáng tác ca khúc ngay tại căn gác số 171 Mongrant (nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền) và đặt tên là “Tiến quân ca”. Bài hát “Tiến quân ca” được in trên trang văn nghệ của báo Độc lập tháng 11 năm 1944. Chưa được một năm, ngày 13 tháng 8 năm 1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt “Tiến quân ca” làm quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cũng vào tháng 12 năm 1944, Văn Cao được phân công thành lập một đội vũ trang với tên gọi là “Đội danh dự Việt Minh” do Văn Cao làm Đội trưởng, có nhiệm vụ tiêu diệt những tên Việt gian phản động và bảo vệ an toàn cho các đội viên tuyên truyền tại các nơi công cộng. Đội viên hoạt động trong đội “Đội danh dự Việt Minh” đều là những người bạn hoạt động với ông ở Hải Phòng. Học võ từ năm 9 tuổi và cũng từng lên võ đài thi đấu và biểu diễn võ thuật, Văn Cao thường xuyên tổ chức những khóa huấn luyện ngắn ngày về võ thuật, sử dụng vũ khí và kỹ năng hóa trang cho đồng đội của mình. “Đội danh dự Việt Minh” của Văn Cao hoạt động tích cực và hiệu quả ở Hà Nội và Hải Phòng. Tuy nhiên do một số người hợp tác với Nhật làm chỉ điểm nên nhiều cơ sở của Việt Minh bị bại lộ và không ít cán bộ Việt Minh bị bắt. Để ngăn chặn tối đa tổn thất cho cách mạng, Văn Cao đã dùng nhiều biện pháp nghiệp vụ: viết thư cảnh cáo, gặp mặt trực tiếp để răn đe…Văn Cao cùng đồng đội đã khống chế, vô hiệu hóa và cảm hóa được nhiều người chỉ điểm. Ngoại trừ hai vụ quan trọng bắt buộc Văn Cao cùng anh em trong đội phải thực hiện. Thứ nhất là vụ Võ Văn Cẩm tại Hà Nội: Võ Văn Cẩm cầm đầu một tổ chức chính trị ngoài mặt trận Việt Minh, có trụ sở đóng tại phố Nhà thờ. Cẩm thường xuyên tập họp cấp dưới cùng hiến binh Nhật vây bắt các cơ sở Việt Minh. Mặc dù đã bị cảnh cáo, Cẩm vẫn ngoan cố, tiếp tục manh động. Đầu tháng 4 /1945, Văn Cao được lệnh ám sát Võ Văn Cẩm. Do tính chất quan trọng của nhiệm vụ, đồng chí Phạm Văn Mẫn – sau này là Đại tá Cục trưởng cục Kỹ thuật Bộ Công an – về hỗ trợ. Lúc bấy giờ, Võ Văn Cẩm có một cô vợ bé ở chợ Mơ. Mỗi lần về thăm vợ bé, hắn ta thường đi xe kéo, còn Ba Mai người bảo vệ hắn đạp xe đạp đi cạnh. Theo kế hoạch, Phạm Văn Mẫn bám theo Cẩm, cùng một đồng đội của Văn Cao là Đ.H.I đón ở góc phố Bà Triệu. Khi Cẩm đi qua, Đ.H.I cùng bám theo, còn Văn Cao sẽ đợi trước cửa hàng thuốc gần chợ Hôm. Khi nhận được mật hiệu của Mẫn, Văn Cao sẽ tiến lên trực tiếp bắn Võ Văn Cẩm. Rồi Mẫn và Đ.H.I có nhiệm vụ hỗ trợ và bảo vệ Văn Cao rút lui. Tuy nhiên, mới vào đội của Văn Cao, vì hấp tấp, Đ.H.I đã tự ý vượt lên trước, bắn Cẩm bằng khẩu Browning, nhưng không trúng đích, khiến Mẫn chưa kịp phản ứng. Cẩm chui xuống gầm xe, Đ.H.I đạp xe chạy. Ba Mai bảo vệ Cẩm, đuổi theo rút súng, định bắn Đ.H.I nhưng bị Mẫn bắn chết. Thứ hai là vụ Đỗ Đức Phin tạị Hả Phòng: Đỗ Đức Phin là giáo viên tiếng Nhật có mở lớp dạy tiếng Nhật tại nhà. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Phin làm thông ngôn cho Nhật. Cuối tháng 6/1945, do Phin chỉ điểm, Nhật ra sức truy quét các cơ sở cách mạng trong thành phố. Hàng loạt cán bộ cách mạng bị bắt. Từ Hà Nội, Văn Cao được lệnh về Hải Phòng để khử tên Đỗ Đức Phin. Văn Cao giao nhiệm vụ cho Trần Liễn, một bạn đồng đội vừa chạy thoát khỏi sự truy lùng của Phin, về Hải Phòng theo dõi quy luật hoạt động của Đỗ Đức Phin. Trong khi đó, trên đường vào Hải Phòng, Văn Cao vào nhà một cơ sở cách mạng ở làng Do Nha, hóa trang thành một ông lão, mượn xe đạp vào thành phố. Tại nhà Doãn Tòng, một người quen ở Hải Phòng, Văn Cao cùng đồng đội đã có mặt đầy đủ và nghe Trần Liễn báo cáo về địa điểm Đỗ Đức Phin thường lui tới mỗi ngày. Đó là một tiệm hút thuốc phiện tại góc phố Phan Bội Châu, gần Vườn hoa đưa người. Văn Cao lên kế hoạch hành động và phân công cụ thể cho từng người. Giờ hành động bắt đầu vào hôm sau. Doãn Tòng đèo Văn Cao trên xe đạp đến hết đường Cát Cụt, Văn Cao xuống xe, bảo Doãn Tòng trở về. Đến địa điểm hành sự, Văn Cao âm thầm lách cửa vào, bình tĩnh chầm chậm đi lên gác. Đứng ở đầu cầu thang nhìn vào phòng, Văn Cao xác định được Đỗ Đức Phin nằm hút sát tường trên sập, mặt hướng ra cửa. Văn Cao rút khẩu súng Colt tiến vào, tuyên bố xử tử Đỗ Đức Phin và bóp cò. Nhưng súng bị hóc đạn. Văn Cao bình tĩnh nhét khẩu Colt vào bụng rồi móc túi áo măng-tô, rút khẩu Browning, bắn hai phát đạn ghim vào ngực Đỗ Đức Phin. Giải quyết xong, Văn Cao bình tĩnh xuống gác, lách cửa ra, nhảy lên xe đạp hòa vào dòng người đỗ ra thành phố. Mấy hôm sau là Ngảy Quốc Khánh năm 1945, theo chỉ thị của cấp trên, Văn Cao bàn giao lại vũ khí. Đội Danh dự Việt Minh giải thể. Văn Cao lại trở về với công việc của một phóng viên và làm báo Lao động.

Tháng 12 năm 1946, Lê Giản- Giám đốc Nha Công an Trung ương tìm gặp Văn Cao tại quán Cà phê Thiên Thai ở phố Hàng Gai và đề nghị: “Mình muốn cậu sang giúp ngành công an. Cậu sẽ phụ trách đội Điều tra Liên khu 10. Với kinh nghiệm hoạt động bí mật trước đây, lại có vỏ bọc là nhạc sĩ, chỉ có cậu mới đủ khả năng trong công việc khó khăn và phức tạp này”. Tháng 3 năm 1947, Văn Cao cùng vợ là Nghiêm Thúy Băng lên Lào Cai. Một địa điểm gần chợ Cốc Lếu được Văn Cao chọn làm cơ sở hoạt động của đội Điều tra. Văn Cao mở quán cà phê nhạc lấy tên là quán Biên Thùy. Bên phía Văn Cao có Trần Huy Liệu (1901-1969) – đại diện chính phủ, cùng toàn bộ các nghệ sĩ của quán Biên Thùy tham dự. Tại đây, Văn Cao đã giác ngộ các thổ ty hiểu thêm chính sách đoàn kết các dân tộc của Hồ Chủ tịch và Chính phủ. Theo lời khuyên của Văn Cao, Hoàng A Tường, Nông Vĩnh Xương, Vương Chí Sinh, Đèo Văn Long có nhiều nhành động thiết thực giúp đỡ và ủng hộ Chính phủ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến. Để động viên tinh thần, Hồ Chủ tịch gởi thư khen, mời họ lên thăm chiến khu và gặp Bác. Hồ Chủ tịch đã tặng mỗi người một thanh kiếm và giao cho Hoàng A Tường giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành chánh tỉnh Lào Cai. Tháng 8 năm 1947, Văn Cao hoàn thành nhiệm vụ. Đội Điều tra giải tán và bàn giao lại công việc cho ông Lê Giản. Lê Giản muốn giữ Văn Cao ở lại công tác cho ngành Công an. Nhưng Văn Cao từ chối và nói : “Công việc này không thích hợp với tôi”. Sau hiệp định Genève 1954, Văn Cao hồi cư về Hà Nội, làm việc cho đài Phát thanh, nhưng ít sáng tác.

Mãi cho tới cuối năm 1975, sau ngày giải phóng, Văn Cao viết ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”. Ở trong nước, bản nhạc chưa có điều kiện để được phổ biến nhưng các chương trình Việt ngữ tại Moskva, nước Nga, đã cho trình bày bài hát. Theo Văn Thao – con trai của Văn Cao : trong năm 1976, “Mùa xuân đều tiên” được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao viết giấy ủy quyền qua sứ quán để cho con gái nhạc sĩ đang học bên đó lĩnh hộ. Và Văn Cao vì lòng thương con, đã cho luôn số tiền nhuận bút ấy cho con gái rất cần để trang trải vì đang du học ở nước ngoài. Năm 1989, tạp chí National Geographic đã đăng một bức ảnh của nhạc sĩ Văn Cao đang ngồi trầm tư bên chiếc đàn dương cầm của ông. Chính tấm hình này đã tạo cảm hứng để nhà soạn nhạc đương đại người Mỹ Robert Ashley sáng tác nên bản solo cho piano mang tên Văn Cao’s Meditation (Sự trầm tư của Văn Cao) vào năm 1992, dù rằng cho đến tận khi nhạc sĩ Văn Cao qua đời (1995), Robert Ashley vẫn chưa được một lần ngặp mặt tác giả của “Tiến quân ca”.

Thực ra trong cuộc đời của một nghệ sĩ lớn như Văn Cao, về âm nhạc, ông sáng tác không nhiều. Nhưng phải công bằng mà nói rằng, những bản nhạc của Văn Cao là những viên ngọc quý hiếm, có lúc còn ẩn trong đá. Nhưng khi được khám phá, những bản nhạc của Văn Cao hiện diện như những hạt kim cương, lấp lánh sắc màu, có giá trị vượt không gian và thời gian trong vườn nhạc dân tộc. Ngoài một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như: Sóng tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa….đại bộ phận ca khúc của Văn Cao là Tình ca và Hùng ca. Những sáng tác đầu tiên của Văn Cao khi chưa tới tuổi hai mươi thường là những nhạc phẩm trữ tình, ít ảnh hưởng bởi dòng nhạc lãng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng giai điệu phương Đông. Với ca khúc đầu lòng Buồn tàn thu, (1939), nhạc sĩ Văn Cao đã sử dụng ngũ cung để vẽ lên một hình ảnh quen thuộc trong nghệ thuật châu Á mà ta thường gặp: người phụ nữ ngồi đan áo trong nỗi đợi chờ. Tiếp đến là hai ca khúc cũng nói về mùa thu: Thu cô liêu (1942) và Suối mơ. Riêng Suối mơ, được coi là một đoạn của bản Trương Chi 1 (1943) sau đó được Văn Cao phát triển nổi tiếng hơn là bản Trương Chi 2 (có sự hợp tác của Phạm Duy). Bên cạnh đề tài mùa thu, Văn Cao cũng viết những ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân: Cung đàn xuân và Bến xuân (1942 (về sau đặt tên lại là Đàn chim Việt). Hai ca khúc Suối mơ và Bến xuân được các nhạc sĩ nổi tiếng đánh giá là cực điểm trong những ca khúc lãng mạn Việt Nam. Nhưng hai tình khúc được người nghe hoan nghênh hơn là: Thiên Thai (1941) và Trương Chi. Riêng với Thiên Thai, mà tác giả Văn Cao đã mượn cái không khí Đường thi lung linh huyền diệu như sương khói trong thơ Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai của Tào Đường . Năm 2001, ca khúc Thiên Thai được dùng làm nhạc nền cho phim Người Mỹ trầm lặng. Bài hát Trương Chi cũng dựa trên sự tích truyện cổ Việt Nam, nên ca khúc mang tính tự sự. Về Hùng ca, người ta nhớ lại, từ khi còn ở trong nhóm Đồng vọng ở Hải Phòng, nhạc sĩ Văn Cao đã viết những ca khúc hướng đạo khỏe khoắn cho tuổi trẻ. Cũng như các nhạc sĩ tiền chiến cách mạng khác, gần gũi nhất là nhạc sĩ Lưu Hữu Phước (1921-1989) ở trong Nam, Văn Cao dựa vào đề tài lịch sử để viết những bản hùng ca, thể hiện lòng ái quốc như: Gò Đống Đa, Hò kéo gỗ, Bạch Đằng giang, Tiến về Hà Nội (1948), Thăng Long hành khúc ca…Tham gia Việt Minh, Văn Cao viết những ca khúc: Chiến sĩ Việt Nam (1945), Không quân Việt Nam (1945), Hải quân Việt Nam (1945), Công nhân Việt Nam,… Năm 1947, sau chiến thắng sông Lô, Văn Cao viết Trường ca Sông Lô – một tác phẩm vĩ đại, chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương… – bản nhạc đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc, là đỉnh cao của nhạc kháng chiến. Sau năm 1954, những ca sĩ hàng đầu của Sài Gòn như: Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thanh, Ánh Tuyết…đã trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao. Đặc biệt, bản nhạc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao viết về sự kiện trọng đại của dân tộc: Mùa xuân mới đầu tiên thực sự của Nam – Bắc cùng đoàn tụ, vui chung một nhà, hòa vào tình cảm yêu thương ruột thịt, cùng nhau đón Tết, thể hiện đúng với lòng mong ước sáng trong của Hồ Chủ tịch : “Bắc-Nam sum họp xuân nào vui hơn !”

Trong lĩnh vực thi ca, độc giả biết đến Văn Cao với những vần thơ tự sự làm theo thể tự do, về chính cuộc đời ông, về quê hương, về cuộc sống tự do với bạn bè, những vần thơ về cuộc sống cùng cực của người dân nghèo nơi xóm ả đào, nẻo nhà ga, lề đường, góc chợ. Với Văn Cao, “Người làm thơ phải đi tìm những tư tưởng, cảm xúc và cảm giác trong thực tế ở những con người đang hàng ngày túi bụi xây dựng”. Những bài thơ : Một đêm đàn lạnh trên sông Huế (bài thơ đầu tiên), và tiếp theo là những bài thơ: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Bến Ngự trên thương cảng, Ngoại ô mùa đông năm 1946, Những người trên cửa biển, Với Nguyễn Huy Tưởng, Với Nguyên Hồng…những vần thơ giàu tính hiện thực, đầy trí tuệ nhưng trĩu nặng nỗi suy tư, đã để lại trong lòng độc giả nhiều thế hệ những xúc cảm sâu lắng khó phai. Ở phạm trù hội họa, Văn Cao là một họa sĩ sử dụng cọ và màu cũng điêu luyện và sắc sảo, không thua gì các họa sĩ chuyên nghiệp. Ngoài tranh minh họa, bìa sách, bìa báo, Văn Cao cũng có những bức sơn dầu nổi tiếng, thể hiện một hình thức và nội dung rất sáng tạo như bức tranh: Cuộc khiêu vũ của những người tự tử, được Văn Cao trưng bày tại phòng Triển lãm Duy nhất Hà Nội (Salon Unique, -1944), đã làm giới mỹ thuật ngạc nhiên về bút pháp và màu sắc của tác giả.

Về cá tính và quan hệ gia đình và xã hội, là một nghệ sĩ tài tình muôn mặt mà nét tài hoa đã thể hiện rất sớm, Văn Cao có những nét rất chung và rất riêng của người nghệ sĩ cách mạng. Văn Cao thương con cái, thủy chung với vợ, yêu đất nước, căm thù, không đội trời chung với bọn thực dân đế quốc và tay sai vọng ngoại, suốt đời một lòng vì dân tộc và Tổ quốc. Chơi thân với Nguyễn Đình Thi (1924-2003), Trịnh Công Sơn (1939-2001), ông được coi là một tài hoa thiên bẩm nẩy nở rất sớm, rất gần gũi với một Nguyễn Đình Thi cũng tài tình muôn mặt. Với Văn Cao, nhiều văn nghệ nổi tiếng đã bày tỏ cảm nghĩ với tấm lòng trân trọng. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng… Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Họa sĩ Tạ Tỵ (1922-2004): Ở Văn Cao, mỗi lời thơ là một hạt ngọc, mỗi tiếng nhạc là mỗi sợi tơ, mỗi màu sắc là một vùng hào quang diễm lệ. Nhà thơ Tố Hữu, lá cờ đầu của thơ ca cách mạng đã có cảm nhận: Văn Cao là một trong những nhạc sĩ lớn nhất về ca khúc trữ tình và ca khúc chiến đấu nước ta. Văn Cao là một trong những ngôi sao thế kỷ 20 trên lĩnh vực ca khúc thế giới”. Với chúng ta, ngoài giá trị nhân văn đích thực của hệ tác phẩm nhạc – họa –thơ của Văn Cao đã được quần chúng công nhận, chân dung phảng phất nét tiên phong đạo cốt của nhà nghệ sĩ đa tài Văn Cao đã ở mãi trong lòng mọi người với niềm tin yêu phấn khởi, trong bất cứ không gian nào, mỗi khi có dịp lắng lòng và nghiêm trang được nghe lại giai điệu hùng tráng thiêng liêng của bản “Tiến quân ca” lịch sử.

NGUYỄN THANH

@ Văn Cao sáng tác ca khúc bất hủ “Làng tôi” từ một giao ước với… vợ! _____________________________________ KIM LINH

Tôi ngồi bên bà Nghiêm Thúy Băng, vợ nhạc sỹ tài hoa Văn Cao để thấy sự lặng lẽ mà chăm chú, tỉ mẩn của bà khi lần giở từng bức ảnh, bài thơ, cuốn sách. Bàn tay bà, cử chỉ, rồi đôi mắt, tất cả đều nhuốm màu kí ức về người chồng thân yêu. ở tuổi 80, bà vẫn gọi cố nhạc sĩ bằng cái tên trìu mến là “Anh”.

Với giọng run run, bà kể lại câu chuyện về sự ra đời của bài “Làng tôi” – một trong những số bài hát bất hủ của âm nhạc Việt Nam. Bài hát được Văn Cao sáng tác trong một thời điểm rất đặc biệt của tâm trạng: Hạnh phúc lứa đôi không thật sự trọn vẹn vì cuộc Kháng chiến toàn quốc bắt đầu.

Vừa chuẩn bị đám cưới vừa di tản

Bà Nghiêm Thúy Băng là một trong những giai nhân nổi tiếng ở Hà Nội thập niên 50-60 của thế kỉ trước. Bà là con gái của ông Nghiêm Xuân Huyến – chủ nhà in Rạng Đông, chủ bút báo Bắc Kỳ thể thao (1939 – 1940), báo Con Ong (1941-1942). Trong kí ức của bà Nghiêm Thúy Băng – nguyên mẫu cho nhiều sáng tác của nhạc sĩ Văn Cao, mùa thu mà tuyệt phẩm “Làng tôi” ra đời là một mùa thu không bao giờ quên được. Mùa thu ấy là mùa của cốm, của hồng, của những buồng chuối trứng cuốc ửng vàng, hoa hoàng lan thơm ngát rụng đầy dưới các gốc cây và gió thu thoang thoảng mát làm xao xuyến những trái tim thiếu nữ.

Nét đài các, kiêu sa, phúc hậu của cô thiếu nữ Hà thành xưa đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong các sáng tác của Văn Cao, không chỉ trong âm nhạc mà còn ở văn thơ, hội họa. Suốt cuộc đời yêu và làm vợ của người nhạc sĩ tài hoa, cho đến hôm nay, kí ức về ông gần như vẫn còn vẹn nguyên trong tâm hồn bà. Cái tên Thúy Băng gợi nhớ sự lãng mạn, thùy mị, trong trẻo, từng lấp lánh trên trang thơ của Văn Cao: “Giữa những ngày dằng dặc / Chỉ còn khuôn mặt em / Sáng trong và bình lặng / Dù hai đứa chúng ta / Chưa lúc nào sung sướng / Những ngày đau khổ ấy / Khuôn mặt em / Như mảnh trăng những đêm rừng cháy/…” (Trích bài thơ “Khuôn mặt em”).

Người phụ nữ ấy nâng niu từng vần thơ, nốt nhạc, lời ca và say mê kể chuyện về cuộc đời, sự nghiệp của ông bằng những yêu thương cảm động nhất. “Năm 1947 mợ tôi quyết định sẽ hiến nhà in Rạng Đông cho Cách mạng để chuyển lên Việt Bắc. Mợ cũng lo sửa soạn cho các con và người nhà đi tản cư. Nhưng lễ ăn hỏi vẫn cứ tiến hành theo tục lệ thường, đủ cả bánh chưng, bánh dầy, chè, cau để chia cho bà con trong họ”, bà Thúy Băng hồi tưởng.

Chú rể Văn Cao tất bật sửa soạn. Anh đến các nhà xuất bản lấy nhuận bút. Anh nhờ gia đình cụ Lễ đặt cho đủ số bánh chưng, bánh dầy, mua chè cau giúp. Lễ ăn hỏi được tổ chức ngay tại làng Cự Đà thuộc huyện Thanh Oai (Hà Tây cũ), quê ngoại nhà gái.

“Anh sẽ làm bài hát cho ngôi làng”

Hà Nội đã nổ súng đêm 16 tháng Chạp năm 1946, Bác Hồ ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Người Hà Nội kéo về Cự Đà ngày một đông hơn, trong đó có cả các cơ quan đoàn thể. Văn Cao bận nhiều việc. Gia tài anh mang theo, ngoài mấy bộ quần áo còn có cây đàn ghi ta. Anh phải locho việc ra báo, lo minh họa bài vở cho trang văn nghệ của báo Độc Lập. Các văn nghệ sĩ cũng đã lên đường kháng chiến như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Huy Tưởng….

Nhạc sĩ Văn Cao (1923 – 1995) là tác giả của Tiến quân ca – bài hát được chọn làm Quốc ca, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc Việt Nam. Văn Cao còn là một nhạc sĩ, nhà thơ với nhiều tác phẩm giá trị. ông thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong. Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc lãng mạn Bến xuân, Suối mơ, Thiên Thai, Trương Chi… ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Sau khi gia nhập Việt Minh, Văn Cao viết Tiến quân ca, Làng tôi, Trường ca sông Lô, Tiến về Hà Nội… trở thành nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc kháng chiến. Năm 1996 Văn Cao được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh trong đợt trao giải đầu tiên.

Đôi ba ngày Văn Cao cũng được đọc tin chiến sự về Hà Nội. Quân ta đã chiến đấu rất dũng cảm ở Nhà hát Lớn, nhà Xô Va, nhà Dây Thép, chợ Đồng Xuân…gây cho địch nhiều tổn thất. ở Cự Đà ít ngày, Thúy Băng cùng với gia đình tản cư về Lưu Xá, huyện Chương Mỹ. Lưu Xá là một làng quê nghèo, yên tĩnh, nằm bên một dòng sông nước trong veo, đầy ắp. Bến sông lúc nào cũng có vài con thuyền neo đậu. Vùng này khi trước cũng là cơ sở cách mạng. Văn Cao rất mê dòng sông này. Anh đã có vài ngày theo gia đình thuyền chài lênh đênh trên sông. Con sông thật thơ mộng, thật êm ả đối với nghệ sĩ. Bên kia sông là ngôi nhà thờ nhỏ xinh xắn, cứ khoảng 5h30′ sáng, tiếng chuông nhà thờ lại thánh thót vang lên. Bên dòng sông hiền hòa, bóng thuyền chài và các giáo dân, nam cũng như nữ, áo dài đen hay áo nâu, vẻ mặt bình thản, nối nhau xuống thuyền qua sông cho kịp buổi lễ sớm.

“Anh Trần Huy Liệu là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền khi đó chọn một góc cách nhà thờ một cây số để làm việc, đó là nơi yên tĩnh nhất. Văn Cao cũng theo anh vào đó làm việc. Cha xứ trông coi nhà thờ là người Italia nhưng thạo tiếng Việt và có tên Việt Nam, người ta hay gọi là cha Minh. Văn Cao, Trần Huy Liệu nói chuyện với cha Minh khi bằng tiếng Việt khi bằng tiếng Pháp. Nhưng để tránh những con mắt tò mò, có khi các anh cũng ăn mặc theo kiểu giáo dân”, bà Thúy Băng kể.

Nhưng ở đây ít lâu, thôn xóm cũng nhuốm màu không khí chiến tranh. Người dân cũng nhộn nhịp lo xây làng kháng chiến. Người ta đào hào, đắp lũy, đào hầm bí mật, thanh niên trai tráng vào đội tự vệ, vào du kích tập tành khuya sớm. Tết năm 1947, bên chiếc đài bán dẫn, Văn Cao nghe Bác Hồ đọc bài thơ chúc Tết: “Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió / Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông…”. Văn Cao suy nghĩ về thơ chúc Tết của Bác và cảm xúc cứ từ từ dâng lên trong anh: “Anh sẽ làm một bài hát gì đó cho ngôi làng thơ mộng, bình dị này”, ông nói với bà Thúy Băng, vợ sắp cưới lúc bấy giờ.

“Có gian nan đến đâu cũng không bỏ sáng tác”

Lễ cưới Văn Cao – Thúy Băng được tổ chức đơn giản tại thôn Lưu Xáỏ. Trước hôm anh Trần Huy Liệu rời lên Việt Bắc theo sự điều động của Trung ương, anh nói với Văn Cao: “Tôi đi, anh chuyển sang nhà tôi mà ở cho tiện việc sáng tác”. Rồi anh Liệu cười vui hóm hỉnh: “Nhưng cậu phải nhớ vui duyên mới không được quên nhiệm vụ đấy”. Văn Cao cũng cười: “Vâng, tôi vẫn nhớ anh ạ”. Anh Liệu không biết, sau ngày cưới, Văn Cao đã cùng vợ giao ước: “Dù kháng chiến có gian nan đến đâu, Văn Cao vẫn phải phấn đấu cho sức khỏe để làm việc, không bỏ sáng tác”. Thúy Băng cũng tạm biệt cuộc sống phồn hoa, nhung lụa để làm vợ một người nghệ sĩ cách mạng. Cô tự hứa sẽ chăm sóc anh để anh có thời gian sáng tác. Cuộc kháng chiến sẽ còn gian khổ nhiều mà sức khỏe của anh lại yếu. Thúy Băng cũng dần dần quen với cuộc sống thôn quê. Cô mua những vuông lụa đen Hà Đông về may quần, cắt những chiếc áo dài, lòa xòa, tha thướt thành áo ngắn.

Khi Trung đoàn Thủ đô đã rút khỏi Hà Nội, giặc Pháp bắt đầu đánh ra vùng ngoại thành. Chúng đi đến các làng quê càn quét, đốt phá. Ngay cả nhà thờ là nơi thiêng liêng nhất, chúng cũng không từ.

Vào ngồi ở một góc tĩnh nhất của nhà thờ, Văn Cao thả hồn cho cảm hứng cứ mỗi lúc một dâng lên yêu thương, chan chứa và những giai điệu đầu tiên của bài “Làng tôi” đã đến với anh: “Làng tôi xanh bóng tre, từng tiếng chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ rung…”. Bài hát vừa làm xong, Văn Cao vui vẻ nói với vợ: “Anh đã làm xong bài hát hôm nào anh đã nói với em rồi đó, để anh đàn và hát cho em nghe nhé”.

Trong căn phòng ấm cúng, những âm thanh, những lời ca tuyệt vời ấy theo tiếng đàn cứ vang lên. Thúy Băng cảm thấy ngập tràn hạnh phúc. Cô là người đầu tiên được thưởng thức bài ca ấy. Cô tựa đầu vào vai chồng, nắm chặt bàn tay anh, âu yếm: “Bài “Làng tôi” hay quá, anh ạ, chắc dân làng thích lắm”.

Dân làng từ các ông bà già đến lớp thanh niên hết thảy đều tự hào vì ca khúc “Làng tôi” được ra đời từ mảnh đất Lưu Xá nghèo khó này. Sau đó, ca khúc này được in trên báo Độc Lập, không lâu sau trở thành bài ca của mọi làng quê. Văn Cao cũng không ngờ “Làng tôi” trở thành bất tử.

KIM LINH

@ Văn Cao, tiếng hát _____________________

Đặng Tiến Thiên Thai và Trương Chi là hai ca khúc nổi tiếng từ nửa thế kỷ trước, cấu trúc trên hai truyền thuyết được lưu hành lâu đời. Thiên Thai là chuyện Lưu Nguyễn lạc vào cõi bồng lai, Trương Chi kể lại niềm đau đớn của chàng ngư dân có tiếng hát hay, tuyệt vọng vì tình: ai cũng hiểu như thế và hiểu đúng. Gần đây, Phạm Duy có phát triển thêm ý nghĩa của hai bài hát, trong một loạt bài rất hay đăng trên Văn Học (California), số 16 và 17 tháng 10, 11 năm 1987, mà Hợp Lưu đăng kèm trong số này.

Nay chúng tôi muốn đưa một lối nhìn khác về hai nhạc phẩm, không phải để đi tìm cái độc đáo, lập dị, mà để đưa Thiên Thai và Trương Chi vào toàn bộ sự nghiệp thơ – nhạc – họa của Văn Cao, như một đồng bộ thống nhất: hai bài hát đó, chúng tôi xem như là tuyên ngôn nghệ thuật của Văn Cao – những nguyên tắc thẩm mỹ được đưa ra từ thuở hai mươi, sẽ chung thủy với Văn Cao đến tuổi xế chiều.

Thiên Thai mở ra bằng một tiếng hát:

Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng…

Bồng lai, ở đây, chỉ là tiếng hát: Thiên Thai là lịch sử một tiếng hát, một tác phẩm nghệ thuật lừng danh và vô danh. Tiếng hát, không à ơi trên võng, không tỉ tê bên gối, không ê a dưới ánh đèm màu, không rè rè qua máy phát thanh, và vang lừng trên sóng, vượt tới vũ trụ và lấn át vũ trụ. Tiếng hát át tiếng sóng là một âm thanh tự thức đè lên một âm thanh vô thức. Tiếng ai hát… ai hát? Ta không biết và không cần biết. Một tác phẩm nghệ thuật, khi lìa tác giả, không còn cần tác giả, như đứa con khi trưởng thành không còn cần mẹ như trước: chúng ta yêu Truyện Kiều mà không cần biết Nguyễn Du. Biết, dĩ nhiên, «thì cũng tốt thôi»nhưng không phải là điều chính yếu trong nghệ thuật. Cái sai lầm của cô Mỵ Nương là đã muốn đồng hóa tiếng hát với người hát: «Anh Trương Chi. Người thì thậm xấu hát thì thậm hay… Hồ nghe tiếng hát thì thương… Hồ trông thấy bóng anh chàng thì chê»như lời ca dao quê Văn Cao mà Nguyên Hồng và sau này Phạm Duy, có kể lại. Mà không cứ gì một cô bé lầu Tây sai lầm, mà cả nền văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa (đã) sai lầm, khi đánh giá những bài hát nói Nguyễn Công Trứ qua Nguyễn Công Trứ, đánh giá tiểu thuyết Nhất Linh qua con người Nhất Linh – mà lại đánh giá sai.

«Thiên Thail à gì? là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi». Sự đối lập, hay song lập giữa vĩnh viễn và mong manh, giữa những định hình và những chơi vơi, là thế giới nghệ thuật. Nụ cười mong manh trở thành miên viễn trong bức họa La Joconde. Cái không gian như cái giây tơ, bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu trong buổi chiều Xuân Diệu – hay buổi chiều Nguyễn Du, bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha, những ánh sáng mong manh ấy, là cả một thiên thu.

Một mặt, nghệ thuật là tiếng « đàn xui ai quên đời dương thế… nhớ quê chiều nào xa khơi… chắc không đường về tiên nữ ơi», tách rời khỏi thực tế: nghệ thuật là một thế giới riêng, với những quy luật riêng, bảo vệ và phát huy bản năng sáng tạo, độc lập với hiện thực. Mặc khác, nghệ thuật cần bám rễ vào thực tại để phát triển, và phả sắc, nhả hương về lại trần gian. Nói giản dị hơn: nghệ thuật cần thực tại để nảy sinh và cần quần chúng để trưởng thành và tồn tại, nghệ thuật là ánh trăng thanh mơ tan thành suối trần gian. Nghệ thuật là một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần, là những cánh hoa trong một bức tranh tuyệt mỹ, không nở không tàn, nhưng chỉ sống thực khi gặp cái nhìn của người xem: sóng mắt con người đánh thức cành hoa trong hội họa, và trong ánh mắt đó, nó sẽ nở sẽ tàn như mọi thứ hoa trần thế ; và chỉ có phút bừng sống đó, cành hoa nghệ thuật mới đạt tới đời sống thực và có khả năng trở thành một cành hoa lý tưởng. Trong khi chờ đợi, cành hoa huệ của Tô Ngọc Vân, cành hoa cúc của Lê Phổ… vẫn là những hoa xuân chưa gặp bướm trần gian.

Người nghệ sĩ khi cầm cây cọ ngòi bút tên tay đều biết rằng ái ân thiên tiên, em ngờ phút mê cuồng có một lần – một lần thôi, nếu có. Và có thể cái phút mê cuồng ấy không đến: phút linh cầu mãi không về như lời thơ Hồ Dzếnh. Hoặc đến không phải nơi phải lúc. Phút mê cuồng ấy linh thiêng, tuyệt đối, là động cơ sâu xa của sáng tạo mà mỗi nghệ sĩ, mỗi xã hội đều có nhiệm vụ bảo vệ, vì nó chỉ có một lần. Và khi khai triển chuyển phút có một lần thành cả một thiên thu, người nghệ sĩ lại phải tỉnh táo: trước cái phút mê cuồng đó để chuẩn bị, và sau đó, để hoàn tất. Lúc tỉnh táo, trước và sau đó, anh là người thợ, phải có dụng cụ, có tay nghề. Anh đừng cả tiếng khinh thường thợ thơ, thợ vẽ: không có người thơ trong tay, anh suốt đời chỉ nghệch ngoạc, hoặc rung đùi đợi vợ con hầu rượu hoặc lạc rang, và chửi đời «không có trình độ».

Thiên Thailà luồng điện hai chiều: người trần thế mê hạnh phúc bồng lai trong khi những tiên cô khao khát «khúc tình duyên»trần thế. Lưu Nguyễn khi ở Thiên Thai đã «quên trần hoàn», khi về trần, muốn tìm lại cõi tiên thì Đào nguyên nơi nao? . Nghệ thuật cũng vậy. Nghệ thuật là cuộc đời muốn hóa thân thành màu sắc, âm thanh; mà cũng là những âm sắc khô cứng muốn trở lại làm hoa làm lá. Nghệ thuật là đóa hoa mong chín mọng thành trái đầu mùa, mà cũng là quả cây chín muộn, nhung nhớ cánh bướm hoang đường từ một mùa xuân xa vắng. Là những lối đi trùng với lối về, nghệ thuật là cõi hẹn hò ngang trái. Mỗi ngang trái là một chung thủy và hạnh phúc của sáng tạo nảy sinh từ sự thủy chung đó. Nghệ sĩ cùng bầy tiên đàn ca bao năm, không còn nhớ đường về; anh sống với nghệ thuật cũng vậy: trước giá vẽ, anh chỉ biết vui với cây cọ và màu sắc, mà không cần nhớ cuộc sống, không nên thêm vào một bó hoa hồng để tranh dễ bán, không nên bớt đi một đóa sen cho hợp với đường lối, lập trường. Anh vẽ cuộc sống, nghĩa là vẽ cuộc sống trong anh; dù là vẽ cái ly trước mặt, anh vẫn vẽ ra hàng ngàn cái ly chứng kiến đời anh, bằng một cái ly trong tâm tưởng. Tĩnh vật trước mặt chỉ là cái cớ, làm trung gian giữa tác giả và người xem tranh. Những mối tình lớn không cần trung gian. Những họa phẩm lớn không cần đề tài. Nhưng ngược lại, khi rời khỏi giá vẽ, trở lại đời sống bình thường của xã hội, thì anh lại phải sống bình thường, đau cái đau của con người, vui cái vui của vợ con, buồn nỗi buồn của dân tộc. Nguyễn Du không lăn lóc suốt đời thì không thốt lên được tiếng đoạn trường. Nguyễn Khuyến không lo sốt vó vì lụt lội mất mùa, phần thuế quan thu, phần trả nợ thì không viết nổi câu nước trong veo. Nói vậy để trả lời những người hỏi Văn Cao: Sao tài hoa xuất chúng mà đi lãnh việc trong ban khủng bố? Sao lại không? Chẳng lẽ là tài hoa, anh lãnh phần làm nhạc quốc ca thôi, còn việc bẩn thỉu thì để người khác làm thay? Hỏi như thế thì khác gì trách Nguyễn Công Trứ cầm quân dẹp loạn, hay trách André Malraux chỉ huy lữ đoàn thép Alsace Lorraine? Văn Cao có câu thơ thật hay:

Cuộc đời ôm tôi như trong một cái bình

Một tiếng vang vang cả lòng cả đáy

Văn Cao là vậy, luôn luôn là vậy, một tiếng vang vang cả lòng cả đáy, dội về biển lớn, vang lừng trên sóng.

Thiên Thailà cõi vô thủy vô chung, không có thời gian. Mà không có thời gian thì không có Âm Nhạc. Lô gíc. Không có khúc nghê thường. Gió hát trầm tiếng ca, tiếng phách ròn lắng xa là nghệ thuật, là trần gian, là ý thức của hủy thể. Âm ba thoáng rung cánh đào rơi trong mộtmùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần. Nghệ thuật đã là rụng chiếc lá đầu tiên xuống Đào Nguyên. Nghệ thuật là cố gắng của con người vượt qua khỏi vật thể, tội lỗi và cái chết trong trần thế và đã đưa những khái niệm ấy vào Thiên Thai qua Đào Nguyên Hành của Vương Duy hay chuyện Lưu Thần, Nguyễn Triệu trong thơ Tào Đường mà Văn Cao có chịu ảnh hưởng như anh đã ghi nhận (1944). Nhưng Lưu Nguyễn chỉ là nhân vật, nên đã thong dong trở về trần. Còn Trương Chi là người hát, có thể là tác giả những bài hát, nên phải trả một cái giá đắt hơn.

TRƯƠNG CHI

Có nhiều huyền thoại Trương Chi. Tình sử Trung Quốc kể chuyện một cô gái mê tiếng hát một người lái buôn rồi chết, tim hóa đá, cho đến khi người đàn ông trở lại, nhỏ một giọt nước mắt, khối tình mới tan. Theo truyền thuyết Việt Nam, người đàn ông là một người thuyền chài, có tiếng hát hay, nhưng bị chê nghèo (hoặc xấu); nhân vật nữ là cô Mỵ Nương. Có thuyết cho là nàng chết, thuyết khác cho chàng chết, tim hóa gỗ bạch đàn hay ngọc đá. Văn Cao nhấn mạnh hai chủ đề nhạc và giai cấp, và chuyện chấm dứt ở cái chết của Trương Chi, chỉ còn lại tiếng hát nức nở bên sông. Không có chuyện trái tim và nước mắt, Phạm Duy, trong Khối Tình Trương Chi (1945) kể lại truyền thuyết từ đầu đến cuối. Hai bản nhạc đồng thời với nhau và Phạm Duy đã có lần giải thích rất hay tác phẩm bạn mình (báo Văn Học, đã dẫn).

Bài hát Trương Chi mở đầu cho một thế giới sơ khai: Một chiều mưa trăng nước chưa thành thơ, một thế giới chưa có nghệ thuật, chưa có sáng tạo ; sau đó không gian mới rung thành tơ: con người đã phát triển được bản năng thẩm mỹ, bằng cách tiếp thu một cách tiêu cực vẽ đẹp của vũ trụ, rồi dần dần sáng tạo ra nghệ thuật, ôi tiếng cầm ca thu tới bao giờ. Con người trước tiên tiếp xúc với vũ trụ để tự vệ và sản xuất, nhờ có nghệ thuật, họ đã bằng những rung cảm mới, ngoài phạm vi nhu cầu tồn tại. Tương quan giữa tiếng cầm ca và thu tới bao giờ là tương quan giữa bản năng thẩm mỹ, bản năng sáng tạo và cái đẹp của thiên nhiên. Thiên nhiên thì vẫn vậy thôi, hay chuyển hóa rất chậm và rất ít, theo chu kỳ, nhưng ý thức thẩm mỹ của con người ngày càng phát triển nhanh, càng tiếng bộ, trở thành phức tạp, tinh tế. Cho đến một lúc nào đó, con người bỗng thấy lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang… Buổi chiều. Mùa thu. Niềm bơ vơ: chúng ta đã đến những chủ đề cổ điển của văn thơ thế giới, từ nhiều nguồn văn minh khác nhau. Con người chủng tộc, văn hóa khác nhau có thể cùng rung cảm như nhau, vì cái đẹp khách quan bàng bạc dưới ánh sáng hài hòa của vũ trụ và cái đẹp chủ quan ấp ủ trong bản năng thẩm mỹ của con người, bản chất gần nhau. Từ đó, nghệ thuật là mớ vốn chung cho toàn thể nhân loại, nó phải có tham vọng đáp ứng lại nhu cầu thẩm mỹ của con người – dĩ nhiên là qua lăng kính ngôn ngữ, văn hóa của từng dân tộc một. Sáng tạo nghệ thuật làm vũ trụ và con người càng ngày càng giàu có thêm. Buổi chiều, cũng như buổi sáng, buổi trưa, không đẹp, không xấu: buổi chiều là giờ an nghỉ, phút chia tay, một ánh trầm tư, một thoáng u hoài trước cảnh vật phai màu nhạt sắc. Buổi chiều, một thoáng bơ vơ, trở thành một tình cảm văn nghệ. Có nghĩa gì đâu một buổi chiều (Xuân Diệu).

Nhưng theo đà tiến hóa, nghệ thuật – và con người nữa, cách ly ra khỏi thiên nhiên, độc lập và có khi đối lập thiên nhiên, công phá thiên nhiên. Nghệ thuật ngày một ngày hai trở thành một hoạt động chuyên nghiệp có quy chế trong xã hội. Ngày nay, ai thích lời chim hót ríu rít tiếng oanh ca không nhất thiết phải thích âm nhạc; ai yêu phong cảnh sông Lô bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu, người ấy không nhất thiết phải yêu hội họa.

Nhưng nghệ thuật, cụ thể là âm nhạc, hội họa và văn thơ khơi sâu ý thức về cái đẹp, gọi là mỹ cảm trong con người, giúp con người yêu thêm, yêu sâu sắc hơn ngôn ngữ và những âm sắc thiên nhiên. Không phải tự nhiên mà con người nghe suối hát theo đôi chim quyên hay ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn… còn nghe như ai nức nở và than… trầm vút tiếng gió mưa… cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng… Trong trường ca Những Người Trên Cửa Biển, Văn Cao nói rõ hơn:

Có người không biết trăng là đẹp

Bỗng nhiên chiều đứng ngắm trăng lên

Nghe như ai hát trong lòng…

Có người quên hàng chục năm dĩ vãng

Chợt nhớ ra tất cả những ước mơ

Của những ngày niên thiếu

(Lá, tr. 72)

nhờ một câu thơ, một khúc nhạc. Nghệ thuật là bội số của cuộc đời, nhân cuộc đời thành hàng vạn giấc mơ, từ đó, Văn Cao đã có thể khẳng định những bức tranh tăng dân số chúng ta. Và anh giải thích:

Bao tình yêu khát khao hy vọng

Gửi từng cuộc đời nhỏ bé

Từng thế giới con con

Với tôi tất cả

Đều rộng lớn vô cùng

vì những nhỏ bé con con ấy lớn lên trong nghệ thuật, đều trở thành cái vung tay hùng tráng của người gieo – (le geste auguste du semeur).

Nhưng cái đẹp trong nghệ thuật không phải lúc nào cũng lung linh ánh trăng, long lanh tiếng suối, lóng lánh hơi mưa, nó có thể lem nhem than khói:

Nhạc đang biến thành sự thực quanh ta

Tôi càng yêu hơn

Những cuộc đời sau bức tường xám xa lem nhem than khói

Những lá thuyền chen chúc nép bên nhau

Qua chiếc lưới phới thấp thoáng bóng người

Cả đến cuộc đời những con hà lóng lánh

(Lá, tr. 71)

Tác dụng của nghệ thuật thật lớn lao trong cuộc sống của loài người. Cô Mỵ Nương vốn ở lầu Tây, con quan Thừa Tướng ngày ngày cấm cung trong ca dao làm sao có tầm hiểu biết như thế.

Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân hò khoan

Mơ bóng con đò trôi

Giai nhân cười nép trăng lả lơi

Lả lơi bên trời

Sai lầm của cô gái lầu Tây là đã mơ người hát qua lời hát, mơ tác giả qua tác phẩm, sau đó muốn chiếm hữu tác giả – nghĩa là chiếm hữu toàn bộ tác phẩm lẫn nguồn sáng tạo cho riêng một mình – rồi lại chê nhặt chê khoan. Cô là hiện thân của hệ thống chính trị cưỡng đoạt văn nghệ từ xưa đến nay. Đường Minh Hoàng yêu chuộng Lý Bạch, Louis nâng đỡ Molière, bất quá là để mua vui như Lê Thánh Tông dùng nhạc Lương Đăng; còn chế độ chuyên chính vô sản, từ Staline đến nay, chiếm đoạt nghệ thuật ra sao thì chúng ta không cần dài lời. Trong bài hát, Văn Cao phớt qua hình ảnh Mỵ Nương, chút nhan sắc của cô bé dậy thì này không đáng cho chúng ta dừng mắt lại lâu, như lời chàng Nguyễn Huy Thiệp chịu khó quan sát, những cô gái mới lớn hết sức đức hạnh và trong trắng lại lén lút đi đọc những chuyện nhảm nhí. Người anh hùng của các thiếu nữ hoa niên là một gã Đông Juăng nào đó (Sông Hương, số 42, 1990). Điều này, dĩ nhiên là không làm vinh dự cho anh Trương Chi, anh chỉ trách ai khinh nghèo quên nhau. Quên nhau là thôi, là hơn. Trương Chi dừng chèo là Văn Cao dừng chuyện. Không cần gì mà phải tim hóa đá để đòi nợ nước mắt. Vì không ngọc đá nào quý bằng trái tim con người, trái tim biết yêu, biết nhớ, trái tim ngừng đập là tan với cỏ cây. Trái tim Trương Chi, trái tim Văn Cao không có gì sánh được. Còn món nợ kia? Ở đời, một anh «phủi»nợ, thì hết vấn đề. Hai là anh nhận nợ, thì không bao giờ anh trả hết: chết đi, chết kiểu gì đi nữa, thì anh cũng chỉ mới thoát nợ chứ chưa phải là trả nợ. Lẩn thẩn mà Văn Cao đòi nợ thì phiền lắm: cả nước nợ anh một bản quốc ca, mỗi chúng ta còn nợ anh một vài bản nhạc tình, cả mấy cô tiên trên Thiên Thai cũng còn nợ Văn Cao trái đào thơm. Năm nay bảy mươi tuổi, Văn Cao đã ăn được trái đào thơm nào đâu? Còn quả đắng, thì suốt một đời, anh phải ăn nhiều lắm. Văn Cao là chú đạo đồng dâng mật ngọt cho bữa tiệc trần gian rồi suốt đời phải ăn trái đắng.

Trái tim Trương Chi thì đã tan rã. Nhưng tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung. Đây là định mệnh của tác phẩm nghệ thuật, là ý nghĩa đặc biệt của nhạc phẩm Trương Chi, chứ không phải là chuyện tình lẩn thẩn. Phải hiểu như thế mới bắt được mạch thơ Văn Cao

Đêm nay dòng sông Thương dâng cao

Mà ai hát dưới trăng ngà

Ngồi đây ta gõ ván thuyền

Ta ca trái đất còn riêng ta

Ta ở đây không phải là cá nhân Trương Chi, cũng không phải là Văn Cao, mà là Con Người, Nhân Loại sáng tạo ngôn ngữ, rồi sáng tạo nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, văn minh, văn hóa để làm chủ trái đất còn riêng ta. Con người gõ ván thuyền mà ca, giữa cảnh trăng nước sông Thương đó, đẹp hơn cả hình ảnh Trang Sinh khi vỗ bồn mà hát. Hát rằng: ta có trời đất làm quan quách, nhật nguyệt làm ngọc bích, tinh tú làm ngọc châu, vạn vật làm lễ tống… Mà còn thêm chi cho lắm việc (Liệt Ngự Khấu, Ngoại Thiên). Bối cảnh có khác nhau, nhưng nội dung chính yếu của chuyện gõ thuyền, gõ chậu mà ca không khác nhau: con người tự thức, làm chủ thể của ý thức và ngoại vật. Tự thức ở Trang Tử là tư tưởng lớn lao của ông, tự thức của Văn Cao là nghệ thuật của mình, là tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng, mà cũng là tiếng sóng. Tiếng sóng Kêu khát suốt ngày đêm – Suốt ngày đêm kêu khát. Nghệ thuật phải là những làn môi. Những làn môi nóng bỏng căng mình chờ đợi:

Nước ngọt của dòng sông

Bao giờ đổ đầy lòng biển

(Câu khép trường ca Những Người Trên Cửa Biển)

TỪ SUỐI MƠ ĐẾN BẾN XUÂN

Những tình khúc đầu mùa của Văn Cao là Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu (1939), Cung Đàn Xưa, Bến Xuân (1942), Suối Mơ (1943) đã ghi lại những thành công trong thời kỳ phôi thai của nhạc mới, những năm 1940 và bây giờ vẫn còn nhiều người hát; và nghe lại, ta vẫn thấy hay, trong khi một số ca khúc đồng thời của Thẩm Oánh, Dương Thiệu Phước… đã trở thành những âm hao lạc lõng. Giải thích hiện tượng này, Phạm Duy đã có một loại bài hát hay, và anh là người có nhiều thẩm quyền nhất để phán: anh sống, sáng tác và và ca diễn vào thời điểm đó, anh nắm vững lịch sử tân nhạc và tâm lý quần chúng; về nhạc thuật, Phạm Duy là vua. Vậy chúng tôi tựa cột mà nghe Phạm Duy

Phải đợi cho tới khi tân nhạc ra đời vào những năm cuối 30 và đầu 40 thì chúng ta mới có được một loại nhạc tình lãng mạn do các người tình tiền phong của thời đại như Dương Triệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương, Văn Chung, Dzoãn Mẫn…tung ra (…). Tuy nhiên, loại nhạc tình lãng mạng đó chỉ có thể được gọi là đạt tới độ hoàn mỹ khi nó được phát xuất ra từ một con người tài hoa bật nhất của thế giới nghệ sĩ trẻ lúc bấy giờ. Người đó là Văn Cao.

Cái mới, điểm tiến bộ đầu tiên Văn Cao đưa vào nhạc mới là người đàn bà đẹp, kiều diễm, trang trọng, cao quý, khác với Cô Hái Mơ, Cô Lái Đò, Cô Lái Thuyền, Cô Hàng Bán Hoa, Cô Hàng Cà Phê, Cô Láng Giềng trong những bài hát thịnh hành thời đó. Xã hội Việt Nam ngày xưa không tạo cơ hội cho trai gái gặp nhau, ngoài sinh hoạt công cộng nơi đồng án hay hội hè – vốn hiếm. Nơi công cộng, nếu không gặp cô thôn nữ tát nước bên đàng, thì cùng là cô sơn nữ, cô hái hoa gì đó, vì trai gái không có quy chế (statut) gặp gỡ. Phải đợi đến Văn Cao, cô gái mới đi thẳng đến nhà người yêu bên chiếu cầu soi nước để hát theo đàn rồi hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối. Người con gái, có thể là khuê các, có thể ngồi trong nhà mà nhớ người yêu: Ôi vừa thoáng nghe, em mơ ngay bước chân chàng. Đặt biệt là chữ «ngay»như một phản xạ, một tự do. Phải rồi. Cô gái trong tình khúc Văn Cao là cô gái tự do, báo hiệu cho một nền văn minh mới. Cô lại đẹp tuyệt vời, huyền diệu:

Chiều năm xưa

Gót hài khai hoa

Mắt huyền lưu xuân

Dáng hồng thơm hương

Người đẹp kiêu sa này, đi vào kháng chiến sẽ để lại những lối mòn thơm mãi dấu chân em trong thơ Nguyễn Đình Thi; ra khỏi kháng chiến thì:

Em đài các lòng cũng thoa son phấn

Hai bàn chân kiêu ngạo dẫm lên thơ

trong Mê Hồn Ca của Đinh Hùng. Nhất Linh đã bảo vệ người phụ nữ, Dương Thiệu Tước đã mơn trớn, và Văn Cao đã kính trọng người phụ nữ.

Một đặc điểm khác trong tình khúc Văn Cao là toàn bài hát được cấu trúc như một tác phẩm hài hòa và toàn bích, như một bài thơ độc lập, có giá trị nhất quán và tự tại. Phạm Duy công nhận: Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của thời đó thì bài Suối Mơ với Bến Xuân là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc. Lúc đó các nhạc sĩ còn đang lẩn quẩn trong cách xếp đặt chữ nghĩa trong ca khúc thì Văn Cao đã viết hẳn ra một Bài Thơ Bên Suối.

Cung Đàn Xưakết hợp nhuần nhuyễn những lời thơ thiết tha da diết, xoắn sâu vào nỗi đau thương:

Cung thương là tiếng đàn

Cung Nam là tiếng người

Ai oán khúc ca cầm châu rơi

Tình duyên lãng đãng nhớ thương dần pha phôi

Cung đàn ngân

Buồn xa vắng trong tiếng thầm

Buồn tê tái trong tiếng ngân

Buồn như lúc xuân sắp tàn

(…) Giờ còn mong chi người hát theo đàn.

Trong thơ mới, có lẽ ngoài Hàn Mặc Tử ra, chúng ta cũng ít khi thấy ngôn ngữ thê thiết dồn nén đến mức ấy. Ngôn ngữ Văn Cao thật mới: trong khi các nhạc sĩ khác còn vân vê hình ảnh hoa rụng thuyền trôi, thì Văn Cao đã có những sáng tạo:

Hồn cầm phong hương hình bóng xuân tàn

… Hồn cầm lắng tiếng đời

… Cánh nhạn vào mây thiết tha

… Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần…

Đó là đặc sắc trong lời ca. Về nhạc lý, chúng ta nghe Phạm Duy phê phán nhạc tình thời đó: Về phần nhạc thuật ta thấy rằng tất cả những bài hát đó chỉ được coi như là phó sản của những nhạc phẩm đã được sản xuất trước đây. Tất cả đều nằm trong một khuôn khổ có sẵn (thể nhạc khiêu vũ tango hay rumba) với những âm hình (dessins melodiques) mà ta có thể gọi được là cliches. Những tình cảm trong các bài này cũng đều na ná như nhau, nói chung là tiếng gọi gái của những thanh niên thất tình (Văn Học, tháng 12, 1986).

Theo Phạm Duy, phải đợi đến Cung Đàn Xưa, Văn Cao mới đưa nhạc tình trong năm 1943 này lên tới đỉnh cao nhất của những bài ca ái tình (Văn học, số 15, 1987).

NHỮNG HÀNH KHÚC

Song song với những tình khúc đầu mùa, mà Phạm Duy gọi bằng tiếng Pháp là le temps de l’innocence – thời ngây thơ, vào những năm đầu thập niên 1940, một nhạc trào khác phát triển mạnh là nhạc hùng, những bài hát khỏe, vui của hướng đạo, học sinh, đề cao lịch sử, đất nước, sức khỏe, bắt đầu từ nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý tại Hải Phòng đến Hùng Lân, Lưu Hữu Phước. Những hành khúc này có những động cơ xã hội hay chính trị, hoặc tự nhiên hoặc có lãnh đạo.

Văn Cao là tư tưởng tự do và tiến bộ, trong thể loại nào cũng giữ hai nét đặc biệt ấy.Văn Cao yêu lịch sử dân tộc nhưng không nô lệ: tự hào về quá khứ đất nước anh vẫn xem như là một kỷ niệm đã qua – và tâm thức dân tộc cần phải được vượt qua để tồn tại và tiến hóa.

Trận Đống Đa là chiến thắng thần tốc oanh liệt nhất của chiến thuật Việt Nam, của chiến tranh nhân dân và phong kiến, của bạo lực và chính nghĩa, của chiến lược thuần túy. Nhưng Văn Cao không hề bị choáng ngợp trước đỉnh cao lịch sử đó, ngược lại, trong Gò Đống Đa, anh khẳng định:

Thề quyết phấn đấu

Đồng tâm hy sinh

Làm sao cho hơn thời xưa

Rồi cất sức sống ngày mai…

Thăng Long Hành Khúc Ca, cũng nhắc lại chiến công Tây Sơn, Văn Cao nhìn về toàn bộ lịch sử dân tộc qua hình ảnh cố đô:

Thăng Long thành xưa

Thăng Long ngày nao

Cờ khoe sắc phất phới

Nhưng hiện tại thì khác. Việt Nam, lúc đó, là một nước nô lệ lầm than, lạc hậu. Hà Nội là một thủ phủ thuộc địa: bao năm qua khắp chốn cũ cũng đã mất hết tinh anh. Dù cho bao người bao nhiêu luyến tiếc… này phường phố cũ, này đường về ô xưa… bóng xưa ngàn năm, thì giờ đây chỉ còn lại một u hoài xa vắng, hồ phai khi tàn mơ. Muốn dân chúng sống yên vui, thậm chí sống oai hùng, tiếp nối với truyền thống thì phải biết đổi mới, tiếp thu khoa học và dân chủ – những giá trị phương Tây mà Nguyễn Trường Tộ đã trình bày – phải mở tim mở óc chờ gió mới bay về… bao ánh sáng phương tây từ khắp chốn bay về.

Lấy một ví dụ khác: chủ đề sông Bạch Đằng. Chiến công hiển hách này được nhiều người đưa ra như một tiêu chuẩn, một giá trị miên viễn. Hoàng Quy, đồng hương, bạn và thầy nhạc Văn Cao viết:

Đến bây giờ mỗi khi đi trên sông Bạch Đằng…

Thì anh em ta vui ca rằng:

Trên sông Bạch Đằng dân Nam hò reo

Lưu Hữu Phước cũng cho rằng Đằng Giang vẫn sáng để cho nòi giống soi chung, trong khi đó Văn Cao, trên con sông quê hương thì buồn thiu:

Bạch Đằng giang sầu mơ bên lau xanh

Với bến nước xa xôi

… Buồn ai đứng nhìn con sông xanh biếc ngày xưa

Mà nước mắt mờ rơi…

Đã đành, ở đây lãng đãng nét u buồn lãng mạn vẫn cố hữu trong nhạc Văn Cao, nhưng không thể phủ nhận tư tưởng cầu tiến và duy tân của anh. Lưu Hữu Phước thường nói đến nòi giống. Có khi rất hào hùng. Hào hùng lắm thì kỳ thị:

Đây Bạc Đằng giang sông hùng dũng

Của nòi giống anh hùng, giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng. v.v.. .

Thì, trong một đề tài khác, Văn Cao thực tế và thắm thiết và thân thiết mong:

Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than

Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới…

Thời đó, Văn Cao đã có cái nhìn rất thoáng, rất rộng về dân tộc trong một cộng đồng nhân loại lớn lao: Trong Công Nhân Việt Nam (1944), bài hát chính thức của Tổng Công Đoàn Việt Nam hiện nay, anh viết:

Ngoài kia lời non nước đang nhắc ta

Mau nhấc cao giống nòi

Yêu mến muôn giống người

Tranh đấu cuối cùng

Là đời sống mới dâng xa

Một tình cảm tiến bộ, lành mạnh. Nói rằng những tư tưởng kia có lãnh đạo, cũng không giảm giá cá nhân Văn Cao. Tố Hữu cũng được lãnh đạo – và lãnh đạo kẻ khác – tuổi đời và tuổi đảng cao hơn Văn Cao, mà tư duy chính trị, ở thời điểm đó, còn hạn chế. Tư tưởng tiến bộ của Văn Cao đã từng lưu hương yêu dấu với suối xưa trôi nơi đâu trong những phím tơ lưu luyến mấy cung u huyền trong tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung – buồn xa vắng trong tiếng thầm buồn tê tái trong tiếng ngân – như mùa thu chết rơi theo lá vàng, tâm hồn hoài cổ ấy lao vào những kỷ niệm vang vang hùng khí: Bừng nghe dư âm mênh mông khúc anh hùng ca ra nơi biên cương. Bao chiến mã lên đường… nhưng cái bất ngờ là Văn Cao không dừng lại ở những «dư âm mênh mông»ấy, anh còn đòi:

Lập quyền dân tiến lên Việt Nam

Đòi hạnh phúc đắp xây tự do

Những yêu cầu thiết yếu mà ngày nay, sau nửa thế kỷ xương máu và lầm than dân tộc ra vẫn chưa đạt tới. Và vẫn còn có thể hát đắng cay: Tiếng than nơi nơi… Tháng năm dần trôi. Về nhạc thuật, Phạm Duy đánh giá cao bài Chiến Sĩ Việt Nam: Với tài năng tuyệt vời của một họa sĩ, Văn Cao vẽ ra hình ảnh chiến sĩ Việt Nam phi ngựa trên đường xa (…) Tài soạn nhạc của anh tới lúc này đã bỏ xa những nhạc sĩ chuyên nghiệp khác, đừng nói gì tới những tay soạn nhạc tài tử như Nguyễn Đình Thi hay Đỗ Nhuận. Trong khi nhạc hùng của Hoàng Quý, Lưu Hữu Phước dù hay đến mấy cũng không vượt ra ngoài khuôn khổ của những ca khúc rất chân phương, rất cân đối, rất sách vở… thì Văn Cao trổ tài soạn nhạc hành khúc như bài Chiến Sĩ Việt Nam này. Câu nhạc thứ hai dài dằng dặc, với nhịp điệu dồn dập, thay đổi hơi thở luôn luôn khiến cho câu ca có sức sống mãnh liệt: « Ngựa phi nơi xa xa kìa nghe súng vang bên trời điệu kèn rộn ràng ». Tiếp tới là sự nhắc lại đề (…) Cái hay của tác giả là đã chuẩn bị để vào cuối câu nhạc sẽ chuyển qua một nhạc đề khác, để chứng tỏ sự phong phú của bàn tay sáng tác(Văn Học, số tháng 10, 1986).

(Tư liệu: 1944, Văn Cao làm xong Tiến Quân Ca thì Nguyễn Đình Thi là người xướng âm đầu tiên. Sau đó, cao hứng Thi rủ Văn Cao làm một bài khác, và làm xong Diệt Phát Xít trước bài Chiến Sĩ Việt Nam của Văn Cao).

*

* *

Dân quân du kích cách mạng bùng mùa thu

Sao vương bóng cờ bay trên chiến khu…

Đây là hình ảnh đẹp đầu tiên của cách mạng Việt Nam, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Con người sống thực tại như một giấc mơ, sống lịch sử như một nghệ thuật, sống đất nước như một bích họa: ôi còn đâu đây sắc chàm pha màu gió… Ai về châu xưa nhớ hồi máu thắm cây rừng. Bài hát Bắc Sơn, nguyên thủy là sáng tạo cho vở kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng, nhưng vượt khỏi đề tài, trở thành bài hát của người du kích. Cũng như Tiến Quân Ca, lúc đầu là bài hát làm cho một khóa quân sự kháng Nhật, sau trở thành quốc ca. Văn Cao năm 1977 đã viết một đoạn hồi ký dài hai ngàn chữ về bài này ; quốc ca là sở hữu của dân tộc và lịch sử, chúng tôi không bàn tới trong bài này – vì không phải nơi, không phải phép.

Cách mạng tháng Tám 1945 đã đưa dân tộc vào một khúc quanh. Văn Cao làm bài thơ Chiếc Xe Xác Qua Phường Dạ Lạc đăng trên báo Tiền Phong, bài thơ quan trọng đầu tiên của anh, sau đó là Ngoại Ô Mùa Đông 1946 đăng trên báo Văn Nghệ thời kháng chiến, 1948. Bài thơ mới mẻ, mạnh bạo đã có nhiều nét báo hiệu phong cách thơ Văn Cao về sau.

Toàn quốc kháng chiến. Hà Nội chiến đấu. Mùa Xuân về, giữa chiến hào xa. Văn Cao ra đi, rạo rực phơi phới với hai mối tình lớn: đất nước và người yêu. Xuân kháng chiến cũng là Xuân trăng mật. Bài hát Làng Tôi mang những âm hưởng đằm thắm, dịu dàng, phấn khởi chưa từng thấy trong những ca khúc trước đó. Văn Cao vốn tiết kiệm tâm sự, kín đáo về đời tư, nên mãi đến năm 1974, anh mới có bài thơ về chị ấy, Khuôn Mặt Em, nhưng cũng không lấy gì làm rõ nét. Chúng tôi chỉ phỏng đoán vì hai câu cuối:

Ôi khuôn mặt sáng trong và bình lặng

Tôi được đầu tiên và còn lại cuối cùng

Làng Tôilà tình khúc thiết tha dịu mát. Trăng mật của lứa đôi soi óng ánh vào quê hương yêu dấu:

Làng tôi xanh bóng tre

Từng tiếng chuông ban chiều

Tiếng chuông nhà thờ rung

Đời đang vui đồng quê yêu dấu

Bóng cau với con thuyền một dòng sông

Tuy là một ca khúc chiến đấu, Làng tôi theo đoàn quân du kích… nhưng âm hưởng lưu lại một nguồn sáng lung linh dịu mát trong niềm nhớ mông mênh, như rừng chiều nhớ cánh đồng chiều xưa… Có lúc rộn lên với Ngày Mùa nhanh nhẹn tươi vui:

Ngày màu vui thôn trang, lúa reo như hát mừng

Với hình tượng lý tưởng súng tì tay anh đứng, em ngừng liềm trông sang, có thể không phản ánh lại những gian lao của những năm chống Pháp nhưng nói lên những ước mơ của người nghệ sĩ trong kháng chiến.

Nhưng phải đợi đến trường ca Sông Lô, Văn Cao mới nói lên được trọn vẹn vẻ đẹp của quê hương, hoang sơ nhưng thân mật, đơn giản mà hùng tráng, đẹp như một bức tranh. Sông Lô là một bức tranh:

Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u

Thu reo bến sóng vàng

Từng nhà mờ biếc chìm trong một màu khói thu

Những nét đạm thanh ẩn hiện trên nền màu mờ nhạt, khi nhịp điệu câu ca loang dần ra xa; những hình ảnh liên tục tạo ra không gian mênh mông, hoang dại và huyền bí. Khí hậu lặng lẽ và lạnh lẻo bỗng bừng lên ánh sáng ngọn lửa chiến đấu

Sông Lô sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa

Tiếp theo là ánh sáng của bình minh: thiên nhiên như hồi quang ý chí con người. Bài hát trở thành lời đối đáp giữa ánh sáng và ánh sáng

Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô

Rồi vũ trụ bỗng chan hòa âm thanh, bao la, rộn rã, của tiếng sóng reo vi vu… gió lá vi vu

Sông mênh mông như bát ngát hát

Bao rừng thu như bát ngát cười

Lời hát say sưa ngợi ca đất nước và con người nhắc chúng ta khí thế lúc đó, như trong thơ Nguyễn Đình Thi gió thổi rừng tre phất phới. Trong biếc nói cười thiết tha, hay trong tùy bút kháng chiến của Nguyễn Tuân chúng tôi đang mơ chung một cơn hỏa mộng…

Văn Cao vẫn bám vào hiện thực, trong chiến thắng hân hoan, anh nghĩ ngay đến đời sống thường nhật của người dân buông lưới. Phạm Lương vui bóng chuyền, lều dựng lên ven sông. Phút vẻ vang, phút hùng tráng là chuyện cực chẳng đã phải làm, để bảo vệ cuộc sống tầm thường, trong trần gian êm ả

Dòng sông Lô trôi

Mùa Xuân tới

Nước băng qua ngàn

Nước in ven bờ xanh ôm bóng tre

Trận sông Lô, 1947 là chiến công đầu tiên của quân đội Việt Nam non trẻ, đặc biệt của ngành pháo binh mới phôi thai: thời đó, khi sử dụng đại bác bắn vào tàu địch trên sông, ta chưa biết tính đạn đạo vòng cung, phải kê ngang nòng súng mà bắn như súng trường. Nhưng chiến công, ngoài tầm quan trọng quân sự, đã có tác dụng tâm lý lớn lao và gợi cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ.

Về nhạc thuật, Sông Lô được xem như là đỉnh cao trong sự nghiệp Văn Cao. Anh đã vượt lên khỏi những tiết tấu đơn giản của ca khúc, đi tới một hợp tấu dài hơi, với nhiều tầng lớp nhịp độ khác nhau lôi cuốn chúng ta theo điệu nhạc, lời thơ, màu sắc, như một dòng sông lớn.

Niềm hăng say có lúc chủ quan và lạc quan quá mức; như Nguyễn Tuân mơ những khải hoàn môn kết toàn bằng bích đào, Văn Cao trong giai đoạn kháng chiến gian lao, 1949 đã đòi Tiến Về Hà Nội

Năm cửa ô đón mừng đoàn quân trở về

Như đài hoa đón mừng

Nở năm cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh

Ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu

Những bông hoa ngày mai

Đón tương lai vào tay.

Giọng ca đã khác với bóng xưa ngàn năm, hồ phải khi tàn mơ. Nhưng vẫn sắc đá một niềm tin ôi Thăng Long ngày mai, xây đắp dưới vinh quang bằng chí anh hùng.

Từ nhận xét này, chúng ta có thể nới rộng tầm nhìn vào tác phẩm Văn Cao, về nhạc, họa cũng như thơ. Một toàn bộ phong phú, đa dạng mà lúc nào cũng đặc sắc, chung thủy với vài ba ý chính và một phong cách riêng. Gắn bó với thời đại, Văn Cao thường xuyên tra vấn thân phận làm người trong và ngoài lịch sử.

Thơ, nhạc, họa Văn Cao là những triều sóng triền miên lớp lớp xô buồn vui của đại dương vào với đất liền. Tác phẩm Văn Cao là hơi thở cuộc sống, ngất ngây giông bão và đằm thắm trăng sao. Nó chắt lọc nhân phẩm con người để dựng lên tinh hoa của thời đại.

Tác phẩm Văn Cao, còn lại là đóm lửa Văn Cao. Đóm lửa đâu đây: trong bếp nghèo bến Cảng, trong núi rừng Việt Bắc hay trong cõi biển rộng trời xa. Một ngọn lửa không quay đầu theo gió.

Văn Cao, đóm lửa bập bùng trong ý thức chúng ta.

15.11.1992 ĐẶNG TIẾN

Ngôn ngữ nghệ thuật thơ Văn Cao ___________________________________________ Hà Thị Hoài Phương

Văn Cao là một thi sĩ đích thực từ quan niệm đến tác phẩm. Trong tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ đăng trên tập san Văn nghệ tháng 7 năm 1957, Văn Cao đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tư tưởng trong thơ, đồng thời ông cũng cho rằng: “Tư tưởng, cảm xúc và cảm giác của nhà thơ phải thể hiện tinh vi. Câu thơ như vào trong óc để gợi sự suy nghĩ và trong tình cảm để xúc động và như vào trong da thịt để khêu gợi!” [1]. Có nghĩa, ngôn ngữ thơ phải giàu sức gợi, dồn nén, chắt lọc và dư ba. Ngôn ngữ thơ Văn Cao vì thế không nghiêng về trau chuốt cầu kì mà giản dị, gọn sắc và sâu nặng tình ý – một kiểu ngôn ngữ thơ đọc để thấm, không phải đọc cho vang.

1. Ngôn ngữ thơ giản dị, hàm súc

Trước hết, ngôn từ trong thơ Văn Cao ít hoặc không có cái mỹ lệ thường thấy trong thi ca cổ điển. Văn Cao chủ yếu sử dụng lớp từ ngữ thuần Việt mộc mạc, giàu sức gợi. Đặc biệt là hệ thống từ láy tượng hình, tượng thanh, từ láy miêu tả cảm giác, tâm trạng giàu tính biểu cảm. Trong bài Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, ông sử dụng rất nhiều từ láy: “Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa”, “Chập chờn ảo hóa tà ma”, “Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường”, “Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây”, “Đảo điên…mê say…Thể phách chia lìa”, “Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch”, “Đầm đìa rả rích phương Đông”, “Mang mang thở dài hồn đất trích”, “Lưỡi thép trùng trùng khép cố đô”, “Đêm đêm đài canh tan tác”, “Run rảy giao duyên khối nhạc trầm trầm”, “Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc”… Mật độ từ láy xuất hiện rất dày đan xen với những thi ảnh siêu thực gây ấn tượng mạnh về một cõi người sống chết mong manh, gợi ám ảnh khôn nguôi về nạn đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945. Trong nhiều bài thơ tiêu biểu khác, Văn Cao cũng tận dụng tối đa sức biểu đạt của từ láy nhằm gia tăng sức gợi và tính biểu cảm cho thơ. Chẳng hạn: Ngoại ô mùa đông năm 1946 (28 từ), Bến Ngự trên thương cảng (21 từ), Những người trên cửa biển (75 từ). Việc sử dụng nhiều từ láy vừa tạo nên tính nhạc, tính họa cho thơ, vừa có sức truyền cảm lớn thấm sâu vào hồn.

Càng về sau, ngôn ngữ thơ Văn Cao càng giản dị, gần với lời nói bình thường. Lối diễn đạt có thành phần trạng ngữ chỉ nơi chốn thường chỉ xuất hiện trong văn xuôi lại được Văn Cao sử dụng trong thơ hết sức nhuần nhuyễn. Rất nhiều câu thơ, bài thơ của ông được viết ra tự nhiên như lời nói: “Những tư tưởng sâu như lòng mỏ/ Những khát vọng mênh mông không đáy mong manh/ Trong mỗi con người nhỏ bé những hạt bụi/ Trong lòng vũ trụ không đáy rộng mênh mông…” (Trên đường); “Tiếng kêu ở trong tôi/ Có xót xa có cả vui mừng/ Tiếng kêu của một khúc thép đỏ/ Trong chậu nước” (Cạn); “Kỉ niệm trong tôi. Rơi/ như tiếng sỏi/ trong lòng giếng cạn” (Thời gian); “nắng chuyển dần/ trên thềm đá cũ/ mùa thu năm nay/ không mưa ngâu” (Mùa thu); “Tôi ở/ Một căn nhà bên đầu ngọn suối” (Tôi ở)… Sự giản dị của ngôn từ không đồng nghĩa với sự giản đơn về ngữ nghĩa. Những không gian được gợi ra qua các từ ngữ trên vừa cụ thể vừa không cụ thể, vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng, vừa là không gian đời thường vừa là không gian tâm tưởng, chất chứa những tư tưởng sâu xa, không phải thoáng đọc, thoáng nghe mà hiểu được. Đó cũng chính là vẻ đẹp trí tuệ, là sức hấp dẫn của thơ Văn Cao.

Nhiều bài thơ của Văn Cao đạt đến đỉnh cao của sự giản dị như: Không nhớ, Thức dậy, Đôi bạn, Đêm quán, Không đề… Ở đó, ngôn ngữ thơ Văn Cao đã khước từ tất cả sự lấp lánh, chỉ như những lời tự thuật có sao kể vậy, tưởng là dễ hiểu đến mức không cần phải suy nghĩ. Nhưng đó lại chính là những bài thơ thăm thẳm chiều sâu ý nghĩa, khơi gợi những suy cảm không cùng. Chẳng hạn như bài Không nhớ: “Tôi không còn đủ nhớ/ Tuổi của tôi hay năm tháng bao nhiêu/ Bao nhiêu tỉnh thành bao nhiêu chỗ ở/ Bạn bè vui buồn/ Mù mịt như sương mờ/ Tôi chỉ còn thoảng nhớ… Bài thơ là lời bộc bạch vừa chân thành vừa giản dị về những năm tháng cuộc đời mà nhân vật trữ tình từng trải qua. Ẩn chứa sau những câu thơ bình dị là cả một thế giới tâm hồn trĩu nặng bao kí ức, hằn sâu những nỗi đau và tình người. Lời thơ như lời tâm sự nhưng dồn nén bao cảm xúc, đọc lên thấy rưng rưng, nghèn nghẹn… Ở Văn Cao, thơ tỏa sáng nhất là lúc ngôn từ đạt đến mức cực đại về sự giản dị.

Cùng với sự giản dị, ngôn ngữ thơ Văn Cao còn mang tính hàm súc, biểu hiện ở sự đa nghĩa, lời ít ý nhiều. Ngay từ những nhan đề cô đọng, súc tích: Quên, Chọn, Cạn, Trôi, Mẹ, Thời gian, Cuộc sống, Cánh cửa, Lòng núi, Những bó hoa, Nguyệt thực…, Văn Cao đã gợi nhiều liên tưởng và suy ngẫm sâu sắc về lẽ sống, về cuộc đời, về thế giới tâm hồn sâu kín phức tạp, cả những phù phiếm cám dỗ con người… Tính đa nghĩa của ngôn từ, hình ảnh thơ Văn Cao khiến độc giả phải miệt mài tư duy để đọc ra tầng tầng lớp lớp ý nghĩa bên trong nó. Những hình ảnh: “một hồ nước – trên họng một ngọn núi cạn lửa” (Cạn), một người bạn “im lìm như một bức tranh” (Về một người bạn), “Cái bức tường lê từng bước một” (Với Nguyễn Huy Tưởng), “Những mặt nạ giấy bồi” (Năm buổi sáng không có trong sự thật), “Những vết roi còn nằm trong da thịt nhiều năm” (Không nhớ)… đều là những ẩn ngữ đòi được giải mã. Đọc thấu những ẩn ngữ đó mới thấy hết độ nén và sự phong phú về ngữ nghĩa trong thơ Văn Cao.

Tính hàm súc còn được tạo ra bởi những khoảng trống giữa ngôn từ. Khi ý thơ bị dồn nén, đứt đoạn, nhảy cấp thì bài thơ càng có nhiều khoảng trống, khoảng lặng. Đó là khoảnh khắc “thử thời vô thanh thắng hữu thanh” (Bạch Cư Dị). Bài thơ Có lúc của Văn Cao cũng là một bài thơ có nhiều khoảng trống, khoảng lặng như thế:

Có lúc/ một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ Có lúc/ ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt Có lúc / nước mắt không thể chảy ra ngoài được

Bài thơ gồm 3 khổ, mỗi khổ thực chất chỉ là một câu nhưng được ngắt thành 2 dòng. Khoảng trống, quãng lặng không chỉ nằm giữa các khổ thơ mà còn ngay sau từ: “Có lúc”. Đó là khoảnh khắc nghẹn lại khi cái tôi thành thực đối diện với chính mình, thấm thía nỗi cô đơn và nỗi đau chạm đáy. Cái tôi ấy mang tính lưỡng phân – vừa can trường vừa yếu đuối – phản chiếu một thế giới tâm hồn nhiều uẩn khúc không dễ tỏ bày của Văn Cao. Nhiều bài thơ khác của ông như Không đề, Quán bia, Thức dậy, Phố Phái, Nguyệt thực, Sự sống thật… đều là những file nén như thế, đòi hỏi người đọc giải mã bằng cả tâm cảm và trí tuệ.

  1. Ngôn ngữ thơ giàu chất nhạc, chất họa

Theo các nhà nghiên cứu, nhạc tính trong thơ được thể hiện ở ba mặt cơ bản. Đó là sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng điệp. Cân đối là có sự tương xứng, hài hòa giữa các dòng thơ, khổ thơ, đoạn thơ, giữa các âm thanh hay hình ảnh. Trầm bổng là cách hòa âm bằng sự hiệp vần, cách phối thanh giữa các nhóm thanh điệu cao thấp. Trùng điệp là lối điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc trong từng dòng, từng khổ, từng đoạn của bài thơ.

Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài. Âm nhạc, hội họa và thơ của ông đều là những dòng chảy nghệ thuật đầy màu sắc nhưng chúng không tách rời mà xuyên thấm vào nhau trong tư duy mĩ cảm. Đặc biệt, thơ là lĩnh vực tích hợp tài năng của Văn Cao. Chất nhạc, chất họa cùng tồn tại trong thơ tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho những thi phẩm của người nghệ sĩ tài hoa này.

Thơ Văn Cao chủ yếu là thơ tự do không vần nên nhạc tính ít bộc lộ ở khía cạnh cân đối, hài hòa dòng, khổ hay sự hiệp vần du dương mà nghiêng về lối trùng điệp. Văn Cao sử dụng nhiều thủ pháp trùng điệp: Điệp âm, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc. Bài thơ Thu cô liêu có thể xem là một trong những bài tiêu biểu cho lối trùng điệp ngữ âm và cấu trúc cú pháp của Văn Cao: “Thu cô liêu/ Tịch tiêu/ Cô thôn chiều/ Ta yêu thu/ yêu thu/ yêu mùa thu/ Vàng hoen đáy nước/ Son rỏ đường đi/ Một mùa thi/ Một mùa thi/…Một chiều êm/ Một chiều êm”. Ngoài sự hiệp vần, nhạc tính của bài thơ còn được tạo nên bởi sự trùng điệp các âm tiết mang thanh bằng. Cả bài thơ có 46/66 âm tiết mang thanh bằng, trong đó có những dòng thơ liên tiếp những âm tiết mang thanh bằng không dấu (thanh ngang): “Cô thôn chiều/ Ta yêu thu/ yêu thu/ yêu mùa thu”, và những dòng thơ được lặp lại hoàn toàn: “Một mùa thi/ Một mùa thi/…Một chiều êm/ Một chiều êm”. Nhịp thơ đã thành nhịp lòng bồi hồi, tha thiết với mùa thi, với mùa thu. Nhạc điệu chơi vơi, dìu dặt kết hợp với những hình ảnh “vàng hoen đáy nước/ son rỏ đường đi…lá rơi rơi rụng…trăng ấp lạnh non…” gợi một vẻ đẹp buồn lãng mạn rất đặc trưng của mùa thu và tâm hồn cô đơn giàu xúc cảm của thi sĩ.

Ở những bài thơ dài, Văn Cao đã sử dụng thủ pháp trùng điệp như một hình thức kết cấu đặc biệt nhằm liên kết các ý thơ, đoạn thơ.

Trong bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, các câu thơ bắt đầu với cụm từ “Ngã tư nghiêng nghiêng…” được lặp lại 3 lần ở 3 đoạn thơ, xoáy vào tâm trí người đọc hình ảnh ngả đường chết chóc cùng hành trình lặp lại từng đêm, từng đêm của chiếc xe chở thi hài người đói. Những câu hỏi tu từ với chủ thể phiếm định cũng được láy lại như một niềm trăn trở nhức nhối: “Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ”, “Ai hủy đời trên tang trống nhỉ?”, “Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe”. Trong bài Bến Ngự trên thương cảng, Văn Cao cũng dùng thủ pháp trùng điệp để kiến tạo bài thơ, làm nên tính nhạc độc đáo: “Nhà ta hờ ơ trên bến Ngự”, “Nhà ta hờ ơ không đỏ lửa”, “Nhà ta hờ ơi trên thương cảng”, “Nhà ta hờ ơi không củi lửa”. Những câu thơ thất ngôn với 5/7 tiếng thanh bằng gợi nỗi buồn lê thê về một mái nhà hoang lạnh với những kiếp sống bấp bênh, mỏi mòn trên bến Ngự. Sự lặp lại câu thơ ở đầu mỗi đoạn như một điệp khúc – một kí ức không phai về những năm tháng đói nghèo, buồn thảm.

Xuất phát từ cái gốc tâm trạng nhiều suy tư, trăn trở nên Văn Cao đã sử dụng thủ pháp trùng điệp như một sự láy đi láy lại những day dứt trong lòng. Có khi là điệp từ bộc lộ niềm mong mỏi thiết tha, cháy bỏng: “Bao giờ nghe được bản tình ca/ Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật/ Bao giờ/ Bao giờ xóa đi tất cả/ Những con người không phải của chúng ta” (Anh có nghe không); có khi là điệp ngữ, điệp cấu trúc thể hiện những trăn trở khôn nguôi về sự sống: “Con thuyền đi qua/ để lại sóng/ đoàn tàu đi qua/ để lại tiếng/ đoàn người đi qua/ để lại bóng/ tôi không đi qua tôi/ để lại gì?” (Không đề); có khi bộc lộ những suy tư sâu thẳm về cuộc đời: “Tôi thả con thuyền giấy/ con thuyền giấy trôi/ Tôi thả một bông hoa/ bông hoa trôi/ Tôi thả một chiếc lá/ chiếc lá trôi/ Tôi giữ chặt em/ em vẫn trôi…” (Trôi). Sự trùng điệp trong những câu thơ trên là sự trùng điệp ngữ nghĩa, gợi những suy tư thuận nghịch, mở rộng trường liên tưởng trong óc người tiếp nhận. Chất nhạc trong thơ Văn Cao vì thế không đơn thuần là sự nhịp nhàng, trầm bổng du dương giữa những dòng thơ mà còn lắng sâu chất nghĩ. Nói cách khác, đó là sự ngân rung của nhịp trí tuệ, nhịp tâm hồn – những điều mà âm nhạc và hội họa không thể nói hết được. Chất nhạc đó một mặt thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ thơ sinh động, đầy biến hóa, mặt khác phản chiếu thế giới tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, giàu suy tư và ước vọng của Văn Cao.

Thơ Văn Cao không chỉ giàu chất nhạc mà còn đậm chất họa. Là một họa sĩ nên Văn Cao có sự dẫn đường của con mắt hội họa và điều đó chi phối cả những sáng tác thơ của ông. Nghệ sĩ Thái Bá Vân cho rằng, trong thơ Văn Cao, “đời sống chữ nghĩa được sử dụng theo quy luật hội họa khá nhiều. Ta dễ dàng nhận ra những sáng tối tương phản, những đậm nhạt thầm lặng, những đường viền nặng nề rồi bỏ quãng trôi chìm vào bóng tối, những chữ sắc nét như dao trổ, những hình tượng đẩy dồn về phía trước, những không gian tượng trưng…” (2). Nhận định trên đã nói lên được nét riêng trong sự thâm nhập, giao thoa giữa thơ và họa của Văn Cao.

“Thi trung hữu họa” vốn xuất hiện từ xa xưa – thuở thơ ca Đường Tống. Tuy nhiên, chất họa trong thơ xưa thường bộc lộ ở việc tả cảnh, qua cảnh mà gửi gắm tâm tình của thi sĩ. Đó thường là những nét bút màu sắc, giàu tính tạo hình, có khả năng tái hiện sống động hình tượng thiên nhiên, hình tượng con người. Thơ Văn Cao cũng không ngoại lệ nhưng điều khác biệt là ở Văn Cao có cả chất hội họa cổ điển (nghiêng về màu sắc, đường nét) và cả chất hội họa ấn tượng hiện đại (nghiêng về bố cục, tạo hình và sự tương phản). Những bài thơ được sáng tác ở giai đoạn đầu nghiêng về chất hội họa cổ điển với màu sắc, đường nét sinh động. Có khi đó là bức tranh mùa thu với sắc vàng quen thuộc: “Trông qua song cửa: trời vàng úa/ Mấy lá bàng rơi nhắc nhở thu! Chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống/ Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa” (Ai về Kinh Bắc); có khi là hình ảnh dòng sông – con thuyền – vầng trăng với nét vẽ thanh đạm mờ ảo: “Thuyền vào nằm ngủ trong mưa/ Trên con sông vắng lập lờ bóng trăng”, có khi là khung cảnh mộng mơ đầy lãng mạn như ở cõi thiên thai của chốn sơn thủy hữu tình: “Suối mơ bên rừng vắng/ Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng/…Bờ xanh ngát bóng đôi cây thùy dương/…Hoa lừng hương gió ngát/ Đàn ai đùa trong khóm lá vàng tươi” (Bài thơ bên suối). Những câu thơ vẽ nên dáng nét mềm mại của con suối, “bờ xanh”, “lá vàng” quyện trong hương hoa, chìm đắm trong tiếng đàn du dương, trong trẻo… Chất nhạc, chất họa in đậm trong những dòng thơ, gợi một vẻ đẹp thanh tao, thoát tục gần như tiên cảnh.

Từ bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, ngôn ngữ thơ Văn Cao có sự chuyển hướng nghiêng về chất hội họa ấn tượng. Ông ít tả cảnh thiên nhiên mà chủ yếu miêu tả bức tranh đời sống con người với những khoảng sáng tối đan xen, vừa cụ thể, vừa trừu tượng: “Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa/ Chập chờn ảo hóa tà ma/ Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa/ Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục”. Nhà thơ đã dùng từ ngữ để chớp lấy cái thần của cảnh, gợi nhiều hơn tả, gây ấn tượng về một không gian ma quái, chết chóc với ánh sáng mờ ảo, với những hình người không rõ nét, siêu thực và đầy ám ảnh.

Đặc biệt, ngôn ngữ thơ Văn Cao có khả năng chạm khắc được thế giới tâm hồn con người vốn sâu kín, vô hình với nhiều cung bậc cảm xúc, tâm trạng. Có khi là nỗi đau nhỏ máu của cuộc đời nô lệ lầm than: “Ôi Hải Phòng vết thương miền Bắc/ Cổ họng chúng ta ngày đêm rỏ máu/ Hải Phòng những đêm tối đen như hầm than đá”, có khi là những tình yêu khát khao hi vọng đọng thành hình, thành khối: “Tất cả tình yêu khát khao hi vọng/ Bốc lên trong lòng/ Rơi xuống những giọt nước mắt”, có khi là những ước vọng lớn lao, bộn bề: “Có người mang rất nhiều mộng lớn/…Quanh quẩn suốt nửa đời/ Óc hôm nay thành một xưởng đóng tàu buôn” (Những người trên cửa biển). Những suy tư, trăn trở, giằng xé giữa tốt – xấu, sống – còn, được – mất bên trong con người vốn không dễ nói thành thơ cũng được Văn Cao vẽ lại bằng ngôn ngữ: “Trở về mây đen và bóng tối/ Lãng đãng qua trong mỗi tâm hồn người” (Những người trên cửa biển), “Những tư tưởng sâu như lòng mỏ/ Những khát vọng mông mênh không đáy mong manh” (Trên đường), “Tiếng kêu ở trong tôi/ Tiếng kêu của một khúc thép đỏ/ Trong chậu nước” (Cạn). Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh đã cụ thể hóa cái trừu tượng khiến thế giới tâm hồn hiện lên sống động như thể nhìn thấy, chạm đến được. Sự u tối của tâm hồn được phủ bóng mây đen; chiều sâu của tư tưởng, của khát vọng được đo bằng lòng mỏ, đại dương; những xung đột bên trong con người được diễn tả bằng hình ảnh và tiếng kêu của khúc thép đỏ trong chậu nước. Đó là những ngôn từ sắc nét, ấn tượng, có sức khơi gợi mãnh liệt.

Văn Cao còn có biệt tài vẽ chân dung bè bạn bằng thơ. Ông viết về các nghệ sĩ Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Tường, mỗi người một vẻ, một tạng riêng. Dù có chung một tình bằng hữu trìu mến thân thương nhưng cái thần của mỗi chân dung thì không lẫn vào đâu được. Với Nguyễn Huy Tưởng, Văn Cao đã phác thảo một đời văn nghiệp bằng những nét vẽ tỉ mỉ: “Ngày ngày anh viết lên Hà Nội/ Tôi nhớ những ngón tay anh/ Đang nhặt một hạt cát/ Sờ soạng từng căn nhà/ Từng con người anh biết/ Chắt chiu lại cho tác phẩm cuối cùng…/ Những giọt mực của anh/ Chấm vào những năm chiến đấu/ Nhỏ từng giọt máu” (Với Nguyễn Huy Tưởng). Với những chi tiết nghệ thuật giàu chất hội họa, Văn Cao đã khái quát được chân dung tâm hồn của Nguyễn Huy Tưởng – một nhà văn chuyên tâm, cần mẫn với nghề, gắn bó với nhân dân và lịch sử bằng một tình yêu máu thịt. Văn Cao cũng đặc tả thế giới tinh thần của Nguyễn Tuân – tác giả tùy bút Sông Đà – qua không gian sống cũ kĩ, đầy bụi, đặc biệt là qua đôi mắt: “một lớp tro đang dòng dòng kéo sợi/ Như tơ nhện trong không gian đầy nước…” (Đôi bạn). Đôi mắt ấy phủ đầy sương, đôi mắt ẩn chứa nỗi buồn sâu kín, nói lên bao tâm sự không thổ lộ thành lời. Đọc thấu tâm sự qua đôi mắt ấy chứng tỏ Văn Cao hiểu bạn như hiểu chính mình. Những tình cảm ấy vừa mang tính chất riêng tư, vừa thấm đẫm nỗi ưu tư thời thế. Văn Cao cũng đã tóm được cái thần của sự nghiệp hội họa của họa sĩ Bùi Xuân Phái để hạ bút viết những câu thơ để đời: “Không người ở/ Không số nhà/ Không tên phố/ Tôi gửi bài thơ về/ Phố Phái/ Người đưa thư sẽ tìm đến phố anh” (Phố Phái). Phố Phái không phải là một trong ba mươi sáu phố phường Hà Nội cổ, nhưng tranh của Bùi Xuân Phái về phố cổ Hà Nội lại làm nên một thế giới nghệ thuật riêng, “tồn tại vĩnh viễn”, xứng danh được gọi là Phố Phái. Bùi Xuân Phái vẽ Hà Nội cổ, Văn Cao vẽ lại Bùi Xuân Phái bằng thơ. Ông phát hiện ra một Phố Phái. Với câu hỏi chơi vơi cuối bài: “Đến lúc nào phố anh có người thêm”, Văn Cao đã khẳng định tài hoa có một của Bùi Xuân Phái trong việc gợi lại vẻ đẹp của ba mươi sáu phố phường Hà Nội cổ. Bằng ngôn ngữ chạm khắc, Văn Cao đã dựng nên chân dung những văn nghệ sĩ tài hoa bậc nhất của nền nghệ thuật Việt Nam thế kỉ XX với tất cả sự đồng cảm, thấu hiểu và trân trọng .

Ngôn ngữ thơ Văn Cao không chỉ nói lên sự xuyên thấm của nhạc và họa trong thơ ông, mà còn phản ánh tài năng sáng tạo và cá tính của người nghệ sĩ trong hành trình lao động nghệ thuật vinh quang và khổ hạnh. Dẫu còn những chỗ ngôn từ được mã hóa mang tính siêu thực, có phần khó hiểu nhưng xét một cách toàn diện, ngôn ngữ thơ Văn Cao đã bộc lộ tư duy đa chiều cùng những trăn trở nhân sinh, trăn trở của người nghệ sĩ giàu ý thức trách nhiệm với đời sống và nghệ thuật./.

HÀ THỊ HOÀI PHƯƠNG

.

@ Đôi dòng suy nghĩ khi đọc bài thơ “Những Bó Hoa” của Văn Cao __________________________________________________ VŨ CHÍ THÀNH

Cảm giác được tán dương thật dễ chịu. Thế nên tâm lý con người không ai lại không thích được khen ngợi. Tuy nhiên, có phải lúc nào lời chúc tụng cũng là những bó hoa tươi thắm và vô hại? Nhà thơ Văn Cao gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ khi ông thể hiện sự ý thức của mình về những tác động không tốt của lời khen qua bài thơ “Những Bó Hoa.”

“Những bó hoa mang tới

Chúc tụng

Thành công một con người

Hàng ngày hàng ngày

Xây thành cái mồ chôn

Con người thành công ấy

Người ta đôi khi bị giết

Bằng những bó hoa”

Trong đời sống thường nhật, những bó hoa có tác dụng là một quà tặng nói lên tâm tư, tình cảm của người trao dành cho người nhận hoa. Trong bài thơ trên, Văn Cao mượn hình ảnh những bó hoa để nói đến những lời khen ngợi dành cho “thành công một con người.” Những bó hoa ấy mỗi ngày được trao tặng một cách đều đặn, thường xuyên, “hàng ngày hàng ngày.” Tuy nhiên, tác giả cũng đề cập rằng những bó hoa hay lời khen ấy cũng có thể là tác nhân gây nên cái “chết” của người thành công đó. Cái chết ở đây không hẳn là cái chết về mặt thể lý, nhưng hơn hết, nó mang ý nghĩa của sự suy tàn, sụp đổ.

Theo thói quen ở đời, người ta thích được khen ngợi vì những tác động tích cực mà lời khen có thể mang lại. Khi ta khen một người tức là ta đã động viên, khích lệ người ấy. Đó hẳn là “Những bó hoa mang tới chúc tụng thành công một con người.” Lời khen ấy biểu lộ sự đồng tình, ca ngợi. Không phải ai cũng có đủ can đảm để khen ngợi người khác vì khi ấy, họ phải bỏ đi cái tôi của mình để thừa nhận thành công của người khác.

Mặc dù lời khen có những giá trị tích cực như vừa nêu, “những bó hoa” ấy lại thể hiện tác động không mong muốn khi bị lạm dụng. Tuân Tử có nói: “người khen ta mà khen phải là bạn ta, người nịnh bợ là kẻ thù của ta.” Câu nói ấy ám chỉ rằng nếu ta lặp lại thường xuyên những lời khen ngợi mà không có chủ ý tốt thì ta đang nịnh bợ hơn là khen tặng. Đó là sự thổi phồng thực tế để mưu cầu lợi tư, làm vừa lòng người khác. Bên cạnh đó, chính người được khen cũng chịu ảnh hưởng xấu từ việc khen ngợi không đúng mực của người khác. Nếu “những bó hoa” lời khen “hàng ngày hàng ngày” được sử dụng bất chấp thực tế không tương xứng thì chúng sẽ ru ngủ người nhận trên những thành công nhất thời của họ. Thực vậy, người bị nịnh hót dễ có cám dỗ ảo tưởng về bản thân, tưởng mình là tài giỏi nhất. Nếu để mình bị cuốn vào tư duy quy kỷ ấy, người tiếp nhận lời khen thái quá sẽ lầm đường, thôi nỗ lực phấn đấu, sinh ra kiêu căng ngạo mạn. Đương nhiên, kết quả là người ấy sẽ nhanh chạy đến với sự thất bại, cô đơn, lạc lõng. Như vậy là họ “bị giết chết,” bị “bị xây mồ chôn” bởi chính “những bó hoa” không chân thành được dâng tặng “hàng ngày hàng ngày” kia.

Bên cạnh đó, ta cũng cần suy xét rằng lời khen tác động tích cực hay tiêu cực cho ta thế nào thì chúng cũng có tác động tương tự trên người khác. Vậy nên trong cuộc sống, ta cần giữ chừng mực trong lời nói, tránh dễ dãi đưa ra lời khen tặng kẻo gây ra điều không mong muốn cho mình và người xung quanh.

Việc khen ngợi là để nâng đỡ người khác, nhóm lên tia sáng trong họ khi họ gặp khó khăn, hay khích lệ họ khi họ đạt được thành công. Lời khen ngợi còn nhờ đó mà giúp thắt chặt những mối quan hệ. Tuy nhiên, nếu khen không đúng cách sẽ gây nên những hệ quả tiêu cực cho cả người trao lẫn người tiếp nhận chúng. Cho nên, như Mạnh Tử có nói “danh dự vượt quá thực tình là điều quân tử lấy làm hổ thẹn” thì ta cũng cần suy xét về chính mình và về lời khen để đưa ra thái độ sống tích cực, tránh được việc bị ru ngủ bởi những lời khen thái quá cho bản thân và cho cả người khác. Đây cũng là điều nhà thơ Văn Cao gửi gắm trong bài “Những Bó Hoa,” điều mà mỗi người trong chúng ta cần ý thức mỗi ngày.

Vũ Chí Thành, S.J.

@ trăng vàng vỡ nửa hay là chất bi tráng ở Văn Cao ____________________________________ VƯƠNG TRÍ NHÀN

Văn Cao là một tài năng đa dạng. Không chỉ viết nhạc, vẽ tranh, sáng tác kịch, mà ông còn làm thơ. Và nếu như có một tuyển tập thơ Việt Nam sau Thơ mới, ghi nhận những tìm tòi mang tính cách thi pháp của thơ Việt Nam sau cái model chuẩn, mode tối ưu một thời là Thơ mới, thì bên cạnh những Trần Mai Ninh, Nguyễn Đình Thi, Trần Dần, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng…, người ta phải dành một vị trí cho Văn Cao, với những tìm tòi đã trở nên thuần thực trong Những người trên cửa biển (1956) hoặc trong chừng mực nào đó, không chín bằng, nhưng vẫn khá độc đáo, trường hợp tập Lá về sau. Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu, Văn Cao đã đi tới ngay được những thành tựu xuất sắc đó. Trước khi làm cái hành động về mặt thi pháp tạm gọi là phá cách, ông cũng có những bước xuất phát như mọi người. Bài thơ Anh hùng ca, in trên Tiểu thuyết thứ bảy số ra 3-10-1942 (số 433) minh chứng cho điều đó. Hoài Thanh từng viết trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941: giữa lúc thơ Pháp đang gây ảnh hưởng rộng rãi thì một số nhà thơ trong phong trào Thơ mới lại quay về với thơ Đường. Ngoài Quách Tấn, Đông Hồ, Thái Can, và trong chừng mực nào đó, cả Huy Cận nữa…, phải lưu ý riêng hai trường hợp Trần Huyền Trân và Thâm Tâm. Đây là thơ

Trần Huyền Trân trong bài Hết cố nhân: Ta trở về đây không gối chăn Một mình ly rượu rét căm căm Không là lính thú sầu lên ải Cũng thấy lòng chia dưới cát lầm Và bài Phạm Ngũ Lão: Mặt trận đêm nay mừng đắc thắng Rượu nồng sôi máu đỏ – ô hay Men buồn nhẹ bốc trong lòng vắng Thoáng Đầy kinh sương muộn mang tang tóc bóng ai trong cốc rượu đầy Đâynữa, thơ Thâm Tâm trong bài Vạn lý trường thành: Trăng thấm nghìn đêm lệ chửa khô Nghìn muôn vợ trẻ nhớ trai phu

Chia khắp lòng dân oán toả mờ Mưa rửa nghìn đêm máu chửa phai Nghìn muôn trai tráng sống còn ai Trăm thân già héo trăm chiều xế Lặng kiếm hồn con xuất ải dài. Thơ Văn Cao trong Anh hùng ca là đi vào cái mạch ấy. Cũng những chi tiết thường thấy trong thơ biên tái đời Đường: lính thú, quan ải, thê nhi, đá vàng, máu, rượu. Cũng những chữ Hán đã quá quen thuộc: thiên bôi đối ẩm, quan san, trùng dương hận, khuê nữ… Cũng những đau đớn, bất lực, tạo nên những kìm nén, những bi phẫn toát ra trong cách ngắt câu, cách tạo giọng điệu. Và sau hết là cái cảm giác chung về một đời sống bức bách, khi mà giữa cái sống cái chết chỉ còn một khoảng cách vô nghĩa lý; và người ta chỉ còn cách tìm quên lãng trong chén rượu, mà cũng không quên nổi! Chúng ta nhớ bài thơ in ra tháng 10-1942. Chỉ vài năm sau là nổ ra cuộc Cách mạng tháng Tám lịch sử, trong đó, sự có mặt của Văn Cao là sự có mặt của một chiến sĩ với nghĩa đích thực của chữ ấy. Cũng nên chú ý tới mối liên hệ giữa Anh hùng ca với lời ca bài Tiến quân ca Văn Cao viết trong cao trào Việt Minh – Thề phanh thây uống máu quân thù … Từ baolâu ta nuốt căm hờn … Tiến lên cùng thét lên Hoặc lời ca trong các bài Bắc Sơn, Không quân Việt Nam… Là ca sĩ của những Suối mơ, Thiên Thai, đồng thời Văn Cao lại còn là ca sĩ của những hành động anh hùng, hành động siêu việt nữa. Anh hùng ca Mắt sáng ngời lên như ánh dương, Rượu hồ, da đỏ, khách ly hương. Thiên bôi đối ẩm nhìn quan ải: Quằn quại cờ bay trong gió sương. Lắng nhe dòng máu ta đang sôi! Say nữa! Say lên tráng sĩ ôi! Lòng thép vang rền: xương gẫy rạn, Sa trường: than ôi là tơi bời! Chuyện thê nhi: Bẻ trâm vàng đi! Khăn lụa người cho lau máu đi! ảnh tặng giấu vào trong ngực áo! Trở về? – Không! Chỉ có ra đi! Quan san xa cách trùng dương hận. Cười ré lên nào! Rú nữa lên! Da đỏ trời ơi là máu! Máu! Bên ngoài quan ải lính thay phiên. Đập vỡ cho ta hồ rượu này! Chén thù uống cạn nhớ đêm nay; Trăng vàng vỡ nửa, gương tình lỗi Khuê nữ đâu say hơn rượu đầy? Anh em! Anh em! Hãy cố say! Mai gặp nhau chăng hay gặp thây? Da cổ ví dầy đầu đỡ rụng, Thây anh rồi lấp với thây này. Xót đời lính thú không tên tuổi, Cả một nghìn thây đổi lấy thành, Nói đến cuộc đời còn chẳng tiếc, Tiếc gì nước mắt đón đưa, anh? Văn Cao . VUONG TRÍ NHÀN

@ VĂN CAO, DÒNG SUỐI MƠ KHÔNG VƠI CẠN … ________________________________________

ĐỖ NGỌC THẠCH

Với Thi nhân, nỗi ám ảnh thời gian là điều hệ trọng. Hàn Mặc Tử đã từng viết những câu thơ nặng trĩu : “Van lạy không gian xóa những ngày”. Xuân Diệu đã viết những câu thơ hốt hoảng : “Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn”…Với Văn Cao, khi tuổi đã cao, sức đã yếu, ngẫm lại sự đời với tâm trạng :

“Kỷ niệm trong tôi Rơi Như tiếng sỏi Trong lòng giếng cạn”

Vậy mà cảm hứng thi ca vẫn còn xanh nguyên :

“Riêng những câu thơ Còn xanh Riêng những câu hát Còn xanh Và đôi mắt em Như hai giếng nước”. (Thời gian – 1987)

Cho đến hôm nay, đọc lại thơ Văn Cao, ta càng cảm nhận một cách sâu xa điều đó. Và trong ta lại ngân lên những lời ca đầy chất thơ của nhạc phẩm đầu đời của Văn Cao :

“Thiên Thai chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn phai một lần” (Thiên Thai)

Văn Cao sáng tác Buồn tàn thu năm 1939, lúc mới có 16 tuổi, Thiên Thai (năm l940) , Trương Chi, Thu cô liêu, Bến xuân, Suối mơ (năm l941)…Thiên tài âm nhạc Văn Cao đã phát lộ vào tuổi đôi mươi mơ mộng. Và đến những bản hùng ca chứa đựng hào khí dân tộc trong những ngày đầu độc lập và toàn quốc kháng chiến : Bắc Sơn, Làng tôi, Ngày mùa, Trường ca Sông Lô…và đỉnh cao là Tiến quân ca, sau này trở thành Quốc ca. Những thành công lớn đó của Văn Cao trong âm nhạc đã nhanh chóng đưa Văn Cao đến đỉnh vinh quang và trong ý niệm của công chúng ông là một thiên tài âm nhạc. Điều đó phần nào đã che lấp đi một Văn Cao khác – Văn Cao thi sĩ và Văn Cao họa sĩ. Và cho đến nay, công chúng vẫn chỉ biết đến Văn Cao nhạc sĩ và Văn Cao họa sĩ, còn Văn Cao thi sĩ thì chỉ những người quen thân và trong làng văn biết rõ mà thôi !

Thực ra, Văn Cao đồng thời sáng tác cả nhạc, thơ và hội họa. Người đời còn ít biết đến thơ của Văn Cao vì nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân chủ yếu là trong nhiều năm (có đến gần 30 năm, từ khoảng 1957 đến 1985), thơ Văn Cao không được xếp vào “dòng chảy chính thống” của thơ ca Việt Nam hiện đại. Phải chờ đến thời kỳ “đổi mới tư duy”, những giá trị lớn lao của thơ Văn Cao (cũng như nhạc Văn Cao) mới được “hợp pháp hóa” ! Riêng về chuyện này, có thể nói Văn Cao là một điển hình của một mẫu người nghệ thuật đa tài, đa năng và đa nạn. Nhưng chính qua sự “thử lửa” đó của cuộc đời, cốt cách thi nhân của Văn Cao đã trở thành vàng nguyên khối, bản lĩnh thi nhân của Văn Cao càng lớn, sức sống của thơ Văn Cao càng mạnh mẽ…

Nhiều người nghĩ rằng gần ba chục năm gặp “nạn”, Văn Cao đã thu mình, im lặng và thậm chí có không ít người cho rằng thiên tài Văn Cao đã chết. Song, không phải như vậy, mạch thơ, suối thơ của cảm hứng sáng tạo trong Văn Cao không bao giờ ngưng nghỉ và vơi cạn như chính Văn Cao đã khẳng định : “Cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng” (Sổ ghi chép, 12-7-1957). Trong bài thơ Những bó hoa (ngày 17-3-1974), Văn Cao đã viết :

“Những bó hoa mang tới Chúc tụng Thành công một con người Hằng ngày hằng ngày Xây thành cái mồ chôn Con người thành công ấy

Người ta đôi khi bị giết Bằng những bó hoa.”

Chính vì vậy mà Văn Cao ít đăng thơ và có thể nói ông không muốn “bị giết” bởi những bó hoa chúc tụng như bao “thi sĩ” khác, lại rất khát khao chuyện đó !…Thơ của Văn Cao mới chỉ được công bố rất ít (Bài Ngoại ô mùa đông 46 trên báo Văn Nghệ số 2 năm 1948, trường ca Những người trên cửa biển – 1956, chùm thơ về Quy Nhơn -1985, và được tuyển chọn trong tập Lá – NXB Tác phẩm mới, 1988, v.v…), nhưng cũng đủ để chúng ta thấy rõ một phong cách nghệ thuật độc đáo, một cốt cách thi nhân lớn, một dòng sông thơ chở nặng phù sa không hề ngưng nghỉ !…

Trở lên trên là bài viết của tôi về thơ Văn Cao qua tập thơ Lá (bài viết vào năm 1993, nhân Văn Cao tròn 70 tuổi)- quả là tập thơ mỏng mảnh như lá cây!… Đến năm 2005, nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của Văn Cao, Nhà xuất bản Đồng Nai in tập Thơ Văn Cao, cũng chỉ tập hợp 50 bài thơ ngắn và việc PR cho tập thơ này cũng không được chú ý, như việc xuất bản tập thơ Lá trước đây? Đó là dấu hỏi lớn cần được các nhà nghiên cứu văn học tìm hiểu thấu đáo, bởi số lượng thơ của Văn Cao đã sáng tác không thể chỉ ít ỏi như vậy, bởi trong tập thơ này, ta thấy trong từng câu chữ đều chất chứa những “tịch nhiên vô thanh” (tiếng lặng lẽ không tiếng), những suy tư của một thiên tài không được giải tỏa!…Ta khó có thể lĩnh hội được ngay những câu thơ có sức nặng vô hình như thế này:

“Con thuyền đi qua Để lại sóng Đoàn tàu đi qua Để lại tiếng Đoàn người đi qua Để lại bóng Tôi không đi qua tôi Để lại gì? (Không đề)

Hoặc:

“Có lúc Một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ Có lúc Ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt Có lúc, nước mắt không chảy ra ngoài được” (Có lúc) ______________________________

TP.HCM , 1993 – 2009

ĐỖ NGỌC THẠCH

@ Mùa xuân với siêu phẩm và tuyệt tác của Văn Cao

_______________________________

Khánh Toàn

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhận xét về nhạc Văn Cao: “Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư….”. Tố Hữu thì từ một góc nhìn khác: “Lời ca của Văn Cao lấp lánh ánh sáng tư duy cao sâu của một nghệ sĩ bậc thầy về sử dụng tiếng Việt hiện đại”…

Những bài hát đầu tiên của Văn Cao ra đời tại Hải Phòng, và như một lẽ tự nhiên, ca từ, giai điệu thường có bóng dáng của con người, cảnh vật thành phố quê hương nơi ông sinh ra, lớn lên. Trong gia tài âm nhạc đồ sộ của Văn Cao có hai bài hát hay về mùa xuân, đó là: “Bến xuân” sáng tác năm 1942 được đánh giá là “siêu phẩm” của Tân nhạc và “Mùa xuân đầu tiên”, sáng tác năm 1976, được gọi là “tuyệt tác cuối cùng”.

“Bến xuân” phải chăng ra đời ở Bến Ngự Hải Phòng?

Nhạc sĩ Văn Cao, quê gốc ở Vụ Bản, Nam Định, sinh năm 1923 tại Hải Phòng, mất năm 1995 tại Hà Nội. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật, hiện ông đang được đề nghị truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh. Văn Cao là cây đại thụ của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại, bài hát “Bến xuân” của ông ra đời năm 1942 được đánh giá là một trong những “siêu phẩm” của tân nhạc. Trong bài hát ấy ông có nói về nhà mình ở một bến sông mùa xuân: “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em đến tôi một lần…”, bến sông ấy có chim rừng bay về ca hót, có cành đào hoen nắng, cánh buồm nâu lướt sóng, liễu dương hơ tóc vàng trong nắng…

Trang web du lịch Việt Nam vietnamtourism.com.vn cho biết bến sông nơi Văn Cao sinh sống cùng gia đình chính là Bến Ngự Hải Phòng: “Bến Ngự là điểm nút của phố Hoàng Văn Thụ và Bưu điện Hải Phòng. Đây chính là nơi nhạc sĩ tài hoa Văn Cao đã sinh ra và lớn lên”. Còn lý do tại sao gọi là Bến Ngự, nghe giống một địa danh ở cố đô Huế (“ngự” là những gì dành cho vua, thuộc về vua) thì trang web này cho biết như sau: “Tại đây có cầu tàu xây dựng vào năm 1896. Người ta kể rằng tháng 5-1918, vua Khải Định đi kinh lý Bắc Kỳ qua Hải Phòng đã dừng chân ở đây nên gọi là cầu Ngự”.

Bài hát “Bến xuân” được Văn Cao – lúc đó là chàng thanh niên 19 tuổi – sáng tác gắn với một kỷ niệm yêu đương đầu đời khi còn ở Hải Phòng. Trong tác phẩm video ca nhạc nghệ thuật “Văn Cao, giấc mơ một đời người” của đạo diễn Đinh Anh Dũng, Hãng phim Trẻ sản xuất năm 1995, trong phần giới thiệu ca khúc “Bến xuân”, nhạc sĩ Văn Cao tâm sự: “Ngày xưa tôi có thầm yêu một người con gái mà không dám nói ra. Nhưng người ấy hiểu lòng tôi và đến với tôi. Vì thế nên mới có câu hát “Em đến tôi một lần” và có bài hát này”…

Tác giả Hà Đình Nguyên trong bài viết “Từ Bến xuân đến Cô láng giềng” trên Báo Thanh niên ngày 14-4-2012 cho biết: “Người con gái ấy chính là Hoàng Oanh, nữ ca sĩ ở Hải Phòng” và: “Rồi một hôm, Văn Cao đang ở Bến Ngự (Hải Phòng) thì nàng tìm đến. Không chỉ thăm suông mà nàng còn ngồi làm mẫu cho chàng vẽ (Văn Cao là một nhà thơ kiêm họa sĩ), rồi ân cần ngồi quạt cho chàng sáng tác nhạc… Có thể nói ca khúc Bến xuân không chỉ là một bài hát làm xuyến xao lòng người mà còn là một bức tranh sống động, một bài thơ với những ca từ đầy biểu cảm. Tóm lại cả ba năng khiếu (thơ, nhạc, họa) tài hoa của Văn Cao đều dồn vào Bến xuân: “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em đến tôi một lần, bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân”.

Sau hai năm, bài hát này lại có một phiên bản mới, đó là vào năm 1944, khi đã tham gia Việt Minh, Văn Cao đặt lời mới cho bài hát và trở thành ca khúc “Đàn chim Việt” trên nền nhạc cũ và được đánh giá: “Phần lời này thoát khỏi tình cảm lãng mạn của đôi lứa như ở Bến xuân, mà nó mang những hình ảnh tượng trưng và gợi những tâm trạng của đoàn quân kháng chiến”.

Trong lời ca khúc mới, “đàn chim Việt” không chỉ bay quanh khu vực “nhà tôi” ở Bến Ngự nữa mà đã bay khắp đất nước: Thái Nguyên, Bắc Sơn, Yên Thế, rồi “qua Bắc sang Trung”, tuy vậy ông vẫn nhắc tới bến nước nơi chôn nhau cắt rốn của mình ven sông Cấm – Hải Phòng:

“Kìa nước xa xa sông Cấm còn mịt mùng ngoài bến xuân”

Cùng với một bài hát khác của Văn Cao là “Suối mơ”, “Bến xuân” được nhạc sỹ Phạm Duy đánh giá là cực điểm của “lãng mạn tính” trong ca nhạc Việt Nam.

Lời bài hát có nói đến “nhà tôi”, “sông Cấm”, “chiếc cầu soi nước”, rồi nghe những tâm sự của Văn Cao khi còn sống… cho ta liên tưởng đến Bến Ngự Hải Phòng, nơi có cầu tàu Cảng, có chim rừng từ đồi núi bên Quảng Yên, Đông Triều bay sang, có những cánh buồm nâu trên sông, có nhà dây thép (nay là Bưu điện thành phố) nơi Văn Cao đã từng làm việc thời gian ngắn với chức danh “điện thoại viên”…

Và cũng cần nói thêm rằng, Bến Ngự Hải Phòng những năm sau đó đã thành một địa điểm lịch sử: “Nơi đây chính là chỗ chiếc tàu Đuy Mông Đuyếc Vin đưa Hồ Chủ tịch sang thăm Pháp về nước, đã cập bến ngày 20-10-1946. Lễ đón được tổ chức trọng thể tại đây. Trong kháng chiến chống Pháp, phố này là nơi diễn ra những trận đánh ác liệt” (theo Vietnamtourism.com.vn). Được biết, năm nay nhân kỷ niệm 70 năm ngày Bác Hồ từ Pháp trở về nước qua bến Ngự, cũng là lần đầu Người thăm Hải Phòng (20-10-1946 * 20-10-2016), Bộ phận giúp việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị “về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của thành phố Hải Phòng dự kiến phối hợp với Đảng bộ Công ty cổ phần Cảng Hải Phòng sẽ tham mưu với Ban Thường vụ Thành ủy chỉ đạo có hình thức phù hợp kỷ niệm sự kiện này.

Vậy đó, một bến nước gần Bưu điện Hải Phòng ngày ngày chúng ta vẫn đi qua thấy thật quen thuộc mà đầy ắp sự kiện lịch sử, gắn với nhiều kỷ niệm về Hải Phòng xưa, về Văn Cao và Tân nhạc Việt Nam.

40 năm “Mùa xuân đầu tiên” ra đời (1976-2016): Mùa xuân yêu thương, thống nhất

Những mùa xuân trước đây trong nhạc Văn Cao rất đẹp nhưng buồn: buồn vì tha hương, vì chia cắt, vì thân phận nô lệ, vì tình yêu không trọn vẹn… Nhưng sau khi đất nước thống nhất, đúng cách đây 40 năm, vào mùa xuân năm Bính Thìn 1976, ông sáng tác bài hát “Mùa xuân đầu tiên” trong đó có câu:

“Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu”, mùa xuân thống nhất, hòa bình, đoàn tụ, êm ấm trước đây chỉ có trong mơ, sau mấy chục năm gian khổ, chiến chinh nay người Việt Nam mới giành được.

Ca từ bài hát rất thánh thiện, bình dị nhưng thiết tha, tình cảm: “Từ đây người biết quê người. Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu người… “, cùng nhiều hình ảnh dung dị nhưng đối với hoàn cảnh thời đó vô cùng quý giá: mùa xuân theo én về, gà gáy trưa bên sông, mẹ gặp con, người yêu gặp lại người yêu…, giờ phút xúc động ấy ông lại thấy “yêu quê hương làm sao”.

Nhà thơ Thanh Thảo so sánh giai điệu bài hát như: “Cả một dòng sông vui, nhưng không trào cuộn ồn ào, mà như lắng lại, nghe kỹ thấy những lượn sóng đang run run, những lượn sóng như nhắn nhủ cái gì, báo trước điều gì”.

Riêng tôi rất ấn tượng với nhận xét của tác giả Dương Minh Đức trên tạp chí Văn nghệ Công an vnca.cand.com.vn ngày 20-02-2012: “Như một tiểu thư đài các, thoạt đầu ca khúc còn dè dặt giữ một khoảng cách với khán giả. Nhưng rồi, cùng với thời gian, như rượu ủ lâu càng ngấm, “Mùa xuân đầu tiên” ngày càng đi vào đời sống. Có lẽ không hề quá lời khi ta khẳng định rằng, đây là bài hát luôn thức dậy trong hồn ta mỗi độ Tết đến xuân về, kèm theo đó là những bâng khuâng, day dứt về một thái độ sống sao cho xứng với những gì mà cả dân tộc đã phải mất bao nước mắt, máu xương mới giành lại được… ” (trích bài “Cố nhạc sĩ Văn Cao: “Mùa xuân đầu tiên”, tuyệt tác cuối cùng”).

Đây là bài hát cuối cùng Văn Cao, cũng như một lời gửi gắm của người nhạc sỹ tài danh với quê hương, với đồng bào mình. 40 năm qua, bài hát này đã trở thành một phần không thể thiếu của mùa xuân đất nước. Người Việt khắp nơi trên thế giới nghe “Mùa xuân đầu tiên” không chỉ để thưởng thức, thư giãn, mà còn nghe để thấm thía, để hồi tưởng, để sống dành cho nhau nhiều hơn, “từ đây người biết thương người, từ đây người biết yêu người”… Một bài hát giai điệu đẹp, ca từ hay, hát lên lay động lòng người, hướng thiện nhân tâm, quả là một “tuyệt tác”!

Khánh Toàn

.

Một bài thơ về cải cách ruộng đất của Văn Cao ________________________________

Bảo Nam

Năm 1956, đang thời kỳ cải cách ruộng đất (CCRĐ) nhà thơ- nhạc sỹ Văn Cao đã viết bài thơ “Đồng chí của tôi”. Suốt 40 năm (đến đầu năm 1995) bài thơ xót xa nằm im trong quyển sổ tay mà chỉ có nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, nhà thơ Thụy Kha biết đến. Năm 1995 thời kỳ đổi mới, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo hỏi Văn Cao “Đã đến thời cho in bài thơ” nhưng Văn Cao vẫn nơm nớp. Ông bảo “Hãy để tôi chết hẳn đã rồi hãy đăng vẫn chưa muộn”. Nghe lời thi nhân đàn anh, Nguyễn Trọng Tạo đành khép bài thơ “Đồng chí của tôi” lại.

Thời gian khắc khoải đi qua, tháng 9 năm 2015 Hà Nội tổ chức “cuộc triển lãm CCRĐ, khẳng định sự đúng đắn của đường lối, mang lại dân nghèo có ruộng”. Trên trang mạng của Nguyễn Trọng Tạo xuất hiện một bài viết ngắn “Anh nào bày ra cái trò “Triển lãm cải cách ruộng đất” thật là dại dột, giống như vết thương lâu ngày đã thành sẹo thì bỗng dưng đưa dao rạch vào cái vết sẹo khổng lồ đó cho đất nước thêm một lần đau đớn…Tại sao lại có tối kiến đó? Phải chăng đã có anh nào đó chơi đểu để lấy tiền dự án từ đảng, từ hệ thống tuyên tuyền của nhà nước”…Rồi những nhân văn, độ lượng trong lời lẽ kín đáo nói về CCRĐ của Nguyễn Trọng Tạo xem ra vẫn còn thiếu. Phủi bụi thời gian anh cho đăng bài “Đồng chí của tôi” của nhà thơ Văn Cao.

“Đồng chí của tôi

Người ta các đồng chí của tôi

Treo tôi lên một cái cây

Đợi một loạt đạn nổ

Tôi sẽ giẫy như một con nai con

Ở đầu sợi dây

Giống như một nữ đồng chí

Một anh hùng của Hà Tĩnh”…

Danh từ “Tôi” trong bài thơ rõ ràng là một đảng viên, một đảng viên kiên trung chấp nhận cái chết oan uổng, để “đồng chí của tôi” “Treo tôi lên” “đợi một loạt đạn nổ”. Những cụm từ chống đối nhau tóe máu khi đồng chí bắn giết đồng chí nói lên sự cay đắng, bất công như tác giả là “tôi” vậy chứ không phải lời nói hộ cho “đồng chí” để gửi lại mai sau. Và mạch thơ cứ thế như máu chảy trào uất nghẹn:

“Tôi sẽ phải kêu lên

Như một chiến sỹ bị địch bắn

Đảng lao động Việt Nam muôn năm

Cho mọi người hiểu khi tôi chết

Máu của tôi vẫn là máu Việt Nam’…

Nguyễn Trọng Tạo đã phải khóc vì bài thơ này và tôi dám chắc cả triệu người cũng khóc khi đọc và hiểu nhà thơ Văn Cao nói gì với hậu thế khi “Đồng chí của tôi…Treo tôi lên…bắn tôi, tôi sẽ phải kêu lên, như một chiến sỹ bị địch bắn, đảng lao động Việt Nam muôn năm”. Cái nghịch cảnh của khổ thơ đầu thật hãi hùng, đau xót, nhưng khổ thơ tiếp theo lại bi thương như xát muối, làm lòng ta quặn thắt:

“ở dưới gốc cây có các cụ già các bà mẹ

Đã nuôi cách mạng

Các em nhỏ từ 3 tuổi đứng nhìn tôi

Giẫy chết

Có mẹ tôi

Ba lần mang cơm đến nhà tù

Hãy quay mặt đi

Cho các đồng chí bắn tôi”…

Trong những năm hoạt động cách mạng nhiều đảng viên trung kiên đã được các nhà tư sản, gọi là địa chủ kháng chiến, địa chủ quy sai đã mang cơm nuôi họ. Như bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh) đã nhường nhà cho đội Việt minh, cho các nhà hoạt động hàng trăm lạng vàng, cách mạng cần gì bà đều không đắn đo, con cái bà cũng là sỹ quan quân đội, vậy mà bà “Người đàn bà bị bắn đầu tiên trong CCRĐ”. Cái “tôi” trong bài thơ “Đồng chí của tôi” của Văn Cao là danh từ chung, không chỉ một, hy hữu mà bao hàm một sự lớn lao. Cả nước trong 10 năm CCRĐ (từ 1946 – 1956) có bao nhiêu “tôi” bị bắn? Họ bị bắn cho công bằng xã hội (không có người giàu kẻ nghèo), không có kẻ bóc lột, để tiến tới xã hội chủ nghĩa, làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Chẳng lẽ chỉ có hành động như thế (tiệt tiêu địa chủ, cường hào) là có ngay được thiên đường…mù chăng? Điều này lịch sử sẽ phán xét. Đây cũng là điều mà bài thơ “Đồng chí của tôi” bắt đầu đề cập đến như một cảnh tỉnh muộn màng

“Tôi sợ các cụ già không sống được

Bao năm nữa

Để nhìn thấy xã hội chủ nghĩa

Của chúng ta

Chết đi mang theo hình đứa con

Bị Bắn

Hãy quay mặt đi

Cho các đồng chí bắn tôi

Nước mắt lúc này vì đảng nhỏ xuống

Dòng máu lúc này vì đảng nhỏ xuống

Đảng lao động Việt Nam muôn năm

Đảng lao động”…

Thương thay cho một đảng viên đã bị chính “đồng chí” của mình xử bắn nhưng vẫn kiên trung “Đảng lao động Việt Nam muôn năm”. Đây là bi kịch của một đảng viên CS mà gần 60 mùa thu lá rụng xao xác đã được nhà thơ Văn Cao cảnh tỉnh. Nói như Nguyễn Trọng Tạo “Đó là tiếng lòng thống thiết của người công sản bị xử bắn oan… Không chan chứa một trái tim nhân đạo… không thể viết được một bài thơ rớm máu như thế”.

Nỗi đau nào rồi cũng nguôi ngoai, nhiều vết thương sẽ lên sẹo, nhưng nỗi đau từ CCRĐ thì khó lành, khó quên vì nó quá lớn. Đừng dại dột, chơi đểu mà thổi bùng ngọn lửa đang âm ỉ lên như “Triển lãm CCRĐ” và các trò tương tự.

Bảo Nam

@ Bản nhạc Xuân chưa công bố của Văn Cao

_________________________ Hữu Trịnh

Sáng 15/11/2010 tại TP.HCM, nhạc sĩ – nhà báo Thụy Kha đã có buổi giới thiệu Tuyển tập 1.000 ca khúc Thăng Long – Hà Nội, đến dự có nhạc sĩ Phạm Duy cùng một số nhà thơ, nhà văn… Trong 1.000 ca khúc của tuyển tập, lần đầu tiên công chúng biết đến một sáng tác rất đặc biệt mới được tìm thấy của nhạc sĩ Văn Cao.

  1. Đây được xem như một công trình sưu tầm, biên soạn ca khúc viết về Hà Nội hoặc Hà Nội là ngữ cảnh để viết nên ca khúc. Tuyển tập gồm 1.000 ca khúc, là tác phẩm của 400 nhạc sĩ và 300 nhà văn, nhà thơ được chia ra làm 6 phần: Sử ca, Hùng ca, Hoan ca, Mùa ca, Tình ca và Nhi ca. Trong đó phần Tình ca được xem là “đậm đặc” nhất. Phần này được chia ra làm 4 giai đoạn: Tiền chiến, chống Pháp, chống Mỹ và thanh bình. Theo nhà báo Nguyễn Thụy Kha: Với các nhạc sĩ có tác phẩm được nhiều người biết đến, thì nhóm biên soạn chủ yếu phải sưu tầm bản nhạc, còn với các nhạc sĩ trẻ, chủ yếu là họ gửi bài đến. Trong tuyển tập có trường hợp nhạc sĩ chỉ có 1 ca khúc, nhưng cũng có một số người có nhiều ca khúc. Tình yêu mà các nhạc sĩ dành cho Hà Nội được trân trọng như nhau. Tuy nhiên, “tiêu chí” là ưu tiên cho các bài nổi tiếng được nhiều người biết đến. Tuyển tập này với sự góp mặt của rất nhiều thế hệ nhạc sĩ viết ca khúc của Việt Nam, từ những người thuộc thế hệ đầu tiên của tân nhạc Việt Nam như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, cho đến nhạc sĩ trẻ của… Bài hát Việt như Nguyễn Đức Cường… 2. Trong tuyển tập có một số ca khúc lần đầu tiên được phát hiện, trong đó có ca khúc Serenade của nhạc sĩ Văn Cao. Đây là một bản nhạc chiều, nhưng là một chiều Xuân trong bối cảnh nhạc sĩ Văn Cao nhận được tin vui: sự chào đời của người con trai đầu lòng vào năm 1948 – sau này là nhà thơ, họa sĩ Văn Thao. Có thể nói đây là một bản nhạc Xuân với nhịp 3 dìu dặt, giai điệu đẹp, khoan thai, trữ tình. Tuy nhiên vào đầu ca khúc, lời ca lại đầy hào khí chiến đấu, có lẽ nó còn ảnh hưởng của tác phẩm Trường ca sông Lô mà ông vừa hoàn thành trước đó: Lòng mùa Xuân như nước dâng pha hòa với máu về/ Dòng sông xanh nước mát trôi trên triền sông Hồng/ Lắng nghe mùa Xuân/ Tiếng chim nào vui…/ Bao mùa Xuân đã qua/ Nay mùa Xuân tới đây…

Nhạc sĩ Văn Cao lúc còn sống và Bản Serenade của ông do Châu Diên ký âm

Nhà báo Nguyễn Thụy Kha cho biết: “Hôm nay (15/11) cũng là ngày sinh nhật của nhạc sĩ Văn Cao, nói về một bài hát khá đặc biệt của Văn Cao cũng là một cách… mừng sinh nhật của ông – Nguyễn Thụy Kha kể tiếp: Vào khoảng năm 2001-2002, trong một lần trò chuyện với nhà văn, nhà tâm lý giáo dục Châu Diên về Văn Cao, ông Châu Diên đã hát cho tôi nghe một bài hát của Văn Cao mà ông cho rằng rất ít người biết đến. Sau khi nghe bài hát tôi thấy quá hay, hỏi bài gì thì anh Châu Diên cho biết là bài Serenade. Tôi có liên lạc với gia đình Văn Cao để xin bản nhạc này, nhưng không có bút tích nào của Văn Cao. Tuy nhiên, bà Thúy Băng, vợ của nhạc sĩ Văn Cao xác nhận là chồng mình có ca khúc này.

Ca khúc Serenade được in trong Tuyển tập 1.000 ca khúc Thăng Long – Hà Nội là bản ký âm của anh Châu Diên. Trong ca khúc cũng có “năm Cửa Ô, tiếng chim hót mùa Xuân… Có thể nói, đó cũng là “tiền đề” mà sau này Văn Cao viết những ca khúc như Tiến về Hà Nội, Mùa Xuân đều tiên…”.

Hữu Trịnh

.

@ Văn Cao sáng tác ca khúc bất hủ “Làng tôi” từ một giao ước với… vợ! ___________________________________

KIM LINH

Tôi ngồi bên bà Nghiêm Thúy Băng, vợ nhạc sỹ tài hoa Văn Cao để thấy sự lặng lẽ mà chăm chú, tỉ mẩn của bà khi lần giở từng bức ảnh, bài thơ, cuốn sách. Bàn tay bà, cử chỉ, rồi đôi mắt, tất cả đều nhuốm màu kí ức về người chồng thân yêu. ở tuổi 80, bà vẫn gọi cố nhạc sĩ bằng cái tên trìu mến là “Anh”.

Với giọng run run, bà kể lại câu chuyện về sự ra đời của bài “Làng tôi” – một trong những số bài hát bất hủ của âm nhạc Việt Nam. Bài hát được Văn Cao sáng tác trong một thời điểm rất đặc biệt của tâm trạng: Hạnh phúc lứa đôi không thật sự trọn vẹn vì cuộc Kháng chiến toàn quốc bắt đầu.

Vừa chuẩn bị đám cưới vừa di tản

Bà Nghiêm Thúy Băng là một trong những giai nhân nổi tiếng ở Hà Nội thập niên 50-60 của thế kỉ trước. Bà là con gái của ông Nghiêm Xuân Huyến – chủ nhà in Rạng Đông, chủ bút báo Bắc Kỳ thể thao (1939 – 1940), báo Con Ong (1941-1942). Trong kí ức của bà Nghiêm Thúy Băng – nguyên mẫu cho nhiều sáng tác của nhạc sĩ Văn Cao, mùa thu mà tuyệt phẩm “Làng tôi” ra đời là một mùa thu không bao giờ quên được. Mùa thu ấy là mùa của cốm, của hồng, của những buồng chuối trứng cuốc ửng vàng, hoa hoàng lan thơm ngát rụng đầy dưới các gốc cây và gió thu thoang thoảng mát làm xao xuyến những trái tim thiếu nữ.

Nét đài các, kiêu sa, phúc hậu của cô thiếu nữ Hà thành xưa đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong các sáng tác của Văn Cao, không chỉ trong âm nhạc mà còn ở văn thơ, hội họa. Suốt cuộc đời yêu và làm vợ của người nhạc sĩ tài hoa, cho đến hôm nay, kí ức về ông gần như vẫn còn vẹn nguyên trong tâm hồn bà. Cái tên Thúy Băng gợi nhớ sự lãng mạn, thùy mị, trong trẻo, từng lấp lánh trên trang thơ của Văn Cao: “Giữa những ngày dằng dặc / Chỉ còn khuôn mặt em / Sáng trong và bình lặng / Dù hai đứa chúng ta / Chưa lúc nào sung sướng / Những ngày đau khổ ấy / Khuôn mặt em / Như mảnh trăng những đêm rừng cháy/…” (Trích bài thơ “Khuôn mặt em”).

Người phụ nữ ấy nâng niu từng vần thơ, nốt nhạc, lời ca và say mê kể chuyện về cuộc đời, sự nghiệp của ông bằng những yêu thương cảm động nhất. “Năm 1947 mợ tôi quyết định sẽ hiến nhà in Rạng Đông cho Cách mạng để chuyển lên Việt Bắc. Mợ cũng lo sửa soạn cho các con và người nhà đi tản cư. Nhưng lễ ăn hỏi vẫn cứ tiến hành theo tục lệ thường, đủ cả bánh chưng, bánh dầy, chè, cau để chia cho bà con trong họ”, bà Thúy Băng hồi tưởng.

Chú rể Văn Cao tất bật sửa soạn. Anh đến các nhà xuất bản lấy nhuận bút. Anh nhờ gia đình cụ Lễ đặt cho đủ số bánh chưng, bánh dầy, mua chè cau giúp. Lễ ăn hỏi được tổ chức ngay tại làng Cự Đà thuộc huyện Thanh Oai (Hà Tây cũ), quê ngoại nhà gái.

“Anh sẽ làm bài hát cho ngôi làng”

Hà Nội đã nổ súng đêm 16 tháng Chạp năm 1946, Bác Hồ ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Người Hà Nội kéo về Cự Đà ngày một đông hơn, trong đó có cả các cơ quan đoàn thể. Văn Cao bận nhiều việc. Gia tài anh mang theo, ngoài mấy bộ quần áo còn có cây đàn ghi ta. Anh phải locho việc ra báo, lo minh họa bài vở cho trang văn nghệ của báo Độc Lập. Các văn nghệ sĩ cũng đã lên đường kháng chiến như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Huy Tưởng….

Nhạc sĩ Văn Cao (1923 – 1995) là tác giả của Tiến quân ca – bài hát được chọn làm Quốc ca, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc Việt Nam. Văn Cao còn là một nhạc sĩ, nhà thơ với nhiều tác phẩm giá trị. ông thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong. Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc lãng mạn Bến xuân, Suối mơ, Thiên Thai, Trương Chi… ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Sau khi gia nhập Việt Minh, Văn Cao viết Tiến quân ca, Làng tôi, Trường ca sông Lô, Tiến về Hà Nội… trở thành nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc kháng chiến. Năm 1996 Văn Cao được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh trong đợt trao giải đầu tiên.

Đôi ba ngày Văn Cao cũng được đọc tin chiến sự về Hà Nội. Quân ta đã chiến đấu rất dũng cảm ở Nhà hát Lớn, nhà Xô Va, nhà Dây Thép, chợ Đồng Xuân…gây cho địch nhiều tổn thất. ở Cự Đà ít ngày, Thúy Băng cùng với gia đình tản cư về Lưu Xá, huyện Chương Mỹ. Lưu Xá là một làng quê nghèo, yên tĩnh, nằm bên một dòng sông nước trong veo, đầy ắp. Bến sông lúc nào cũng có vài con thuyền neo đậu. Vùng này khi trước cũng là cơ sở cách mạng. Văn Cao rất mê dòng sông này. Anh đã có vài ngày theo gia đình thuyền chài lênh đênh trên sông. Con sông thật thơ mộng, thật êm ả đối với nghệ sĩ. Bên kia sông là ngôi nhà thờ nhỏ xinh xắn, cứ khoảng 5h30′ sáng, tiếng chuông nhà thờ lại thánh thót vang lên. Bên dòng sông hiền hòa, bóng thuyền chài và các giáo dân, nam cũng như nữ, áo dài đen hay áo nâu, vẻ mặt bình thản, nối nhau xuống thuyền qua sông cho kịp buổi lễ sớm.

“Anh Trần Huy Liệu là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền khi đó chọn một góc cách nhà thờ một cây số để làm việc, đó là nơi yên tĩnh nhất. Văn Cao cũng theo anh vào đó làm việc. Cha xứ trông coi nhà thờ là người Italia nhưng thạo tiếng Việt và có tên Việt Nam, người ta hay gọi là cha Minh. Văn Cao, Trần Huy Liệu nói chuyện với cha Minh khi bằng tiếng Việt khi bằng tiếng Pháp. Nhưng để tránh những con mắt tò mò, có khi các anh cũng ăn mặc theo kiểu giáo dân”, bà Thúy Băng kể.

Nhưng ở đây ít lâu, thôn xóm cũng nhuốm màu không khí chiến tranh. Người dân cũng nhộn nhịp lo xây làng kháng chiến. Người ta đào hào, đắp lũy, đào hầm bí mật, thanh niên trai tráng vào đội tự vệ, vào du kích tập tành khuya sớm. Tết năm 1947, bên chiếc đài bán dẫn, Văn Cao nghe Bác Hồ đọc bài thơ chúc Tết: “Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió / Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông…”. Văn Cao suy nghĩ về thơ chúc Tết của Bác và cảm xúc cứ từ từ dâng lên trong anh: “Anh sẽ làm một bài hát gì đó cho ngôi làng thơ mộng, bình dị này”, ông nói với bà Thúy Băng, vợ sắp cưới lúc bấy giờ.

“Có gian nan đến đâu cũng không bỏ sáng tác”

Lễ cưới Văn Cao – Thúy Băng được tổ chức đơn giản tại thôn Lưu Xáỏ. Trước hôm anh Trần Huy Liệu rời lên Việt Bắc theo sự điều động của Trung ương, anh nói với Văn Cao: “Tôi đi, anh chuyển sang nhà tôi mà ở cho tiện việc sáng tác”. Rồi anh Liệu cười vui hóm hỉnh: “Nhưng cậu phải nhớ vui duyên mới không được quên nhiệm vụ đấy”. Văn Cao cũng cười: “Vâng, tôi vẫn nhớ anh ạ”. Anh Liệu không biết, sau ngày cưới, Văn Cao đã cùng vợ giao ước: “Dù kháng chiến có gian nan đến đâu, Văn Cao vẫn phải phấn đấu cho sức khỏe để làm việc, không bỏ sáng tác”. Thúy Băng cũng tạm biệt cuộc sống phồn hoa, nhung lụa để làm vợ một người nghệ sĩ cách mạng. Cô tự hứa sẽ chăm sóc anh để anh có thời gian sáng tác. Cuộc kháng chiến sẽ còn gian khổ nhiều mà sức khỏe của anh lại yếu. Thúy Băng cũng dần dần quen với cuộc sống thôn quê. Cô mua những vuông lụa đen Hà Đông về may quần, cắt những chiếc áo dài, lòa xòa, tha thướt thành áo ngắn.

Khi Trung đoàn Thủ đô đã rút khỏi Hà Nội, giặc Pháp bắt đầu đánh ra vùng ngoại thành. Chúng đi đến các làng quê càn quét, đốt phá. Ngay cả nhà thờ là nơi thiêng liêng nhất, chúng cũng không từ.

Vào ngồi ở một góc tĩnh nhất của nhà thờ, Văn Cao thả hồn cho cảm hứng cứ mỗi lúc một dâng lên yêu thương, chan chứa và những giai điệu đầu tiên của bài “Làng tôi” đã đến với anh: “Làng tôi xanh bóng tre, từng tiếng chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ rung…”. Bài hát vừa làm xong, Văn Cao vui vẻ nói với vợ: “Anh đã làm xong bài hát hôm nào anh đã nói với em rồi đó, để anh đàn và hát cho em nghe nhé”.

Trong căn phòng ấm cúng, những âm thanh, những lời ca tuyệt vời ấy theo tiếng đàn cứ vang lên. Thúy Băng cảm thấy ngập tràn hạnh phúc. Cô là người đầu tiên được thưởng thức bài ca ấy. Cô tựa đầu vào vai chồng, nắm chặt bàn tay anh, âu yếm: “Bài “Làng tôi” hay quá, anh ạ, chắc dân làng thích lắm”.

Dân làng từ các ông bà già đến lớp thanh niên hết thảy đều tự hào vì ca khúc “Làng tôi” được ra đời từ mảnh đất Lưu Xá nghèo khó này. Sau đó, ca khúc này được in trên báo Độc Lập, không lâu sau trở thành bài ca của mọi làng quê. Văn Cao cũng không ngờ “Làng tôi” trở thành bất tử.

KIM LINH

Văn Cao và con đò Huế _____________________ Ngô Minh

Huế , Sông Hương là “nàng thơ”, là người đẹp muôn thuở của thi ca, của Mùa Xuân vĩnh cửu. Có biết bao nhiêu văn nhân thi sĩ đã đi tìm thi tứ trên con đò Sông Hương. Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Văn Cao, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Bùi Giáng….vô Huế đều xuống đò Sông Hương. Nhà thơ Lưu Trọng Lư, từng gửi cả thời trai đam mê của mình trong con đò và tiếng đàn tranh Huế. Những câu thơ đẹp nhất của Tố Hữu là thơ về dòng sông quê ông : Trên dòng Hương Giang / Em buông mâi chèo / Trời trong veo/ Nước trong veo.. Nhà thơ chính khâch lớn như Phan Bội Châu có lúc cũng chợt thốt lên lãng đãng : Hương ơi , e phải mày không / Sông ấy hóa ra mình có.. Chỉ riêng hình ảnh cô kỹ nữ ca Huế trên sông Hương cũng đã có không biết bao nhiêu bài thơ hay. Thế Lữ có “ Nghe đàn nguyệt”; Mộng Tuyết có “Làm cô gái Huế”; Nam Trân có “Huế đẹp và thơ : Biết không ? Cô hỡi, biết không ? / Chèo cô còn quẫy sóng lòng còn xao!; Xuân Diệu có “ Nguyệt Cầm” , “ Lời kỹ nữ”: Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa/ Vội vàng chi trăng sáng quá khách ơi .

Nhạc sĩ- nhà thơ tài danh Văn Cao cũng đã bao đêm gắn bó với con đò xứ Huế với cô kỹ nữ Sông Hương. Bài thơ “ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” là một trong những bài thơ đặc sắc viết về Huế và ca Huế trên sông Hương. Bài thơ đưa ta lạc vào thế giới của vẻ đẹp thanh tao nơi bồng lai tiên cảnh . Trên con đò như tình yêu bồng bềnh trôi trên dòng sông thời gian vĩnh hằng, có đôi trai gái say sưa đàn hát bên nhau. Chàng trai dạo đàn cô gái hát , tiếng đàn hát như tiếng tơ đồng tri âm tri kỷ của Bá Nha – Tử Kỳ .

Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi

Lòng dâng ngòn ngọt lại đầu môi

Này em hát khúc tương tư nhé

Ngân khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời …

Đây là lúc cảm xúc đang ngập hồn chàng nhạc sĩ . Anh nghe hồn mình cũng đang “ nẩy nẩy .. nhịp đôi” . Một tình cảm mới đang nẩy chồi ,bén lửa, đang âm ỉ : Này em hát khúc tương tư nhé ! . Đề nghị hát nhưng lại sợ tiếng hát làm xao động , làm bay mất, tan biến mất cái cảm giác tình yêu ngọt ngào đang dâng lên ngòn ngọt đầu môi, nên chàng phải vội vàng đề nghị “ ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời..”. Đoạn thơ đã nói rất tinh tế, rất hay tâm trạng của chàng nhạc sĩ si tình xứ Bắc trước người ca nữ xinh đẹp và phong cảnh êthơ xứ Huế. Xin kể đôi điều tôi biết về nhạc sĩ Văn Cao,con đò và người kỹ nữ Huế.

Nhạc sỹ Văn Cao, tác giả của Quốc Ca Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa XHCN Việt Nam, sinh năm 1923 ở Hải Phòng, mất ngày 10/7/1995. Tuổi trẻ của ông theo học Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, tự học âm nhạc, sáng tác nhạc và viết văn làm thơ từ rất sớm . Năm 1940, lúc chưa tới tuổi hai mươi ông có chuyến đi vào Huế. Và chàng trai si tình ấy đã bị Sông Hương hút hồn. Chuyến đi đã để lại dấu vết sâu đậm trong các sâng tác quan trọng của đời ông .Bài thơ “ Một đím đàn lạnh trín sông Huế” ông sáng tác vào dịp này. Ngoài bài thơ ông còn viết bản nhạc “ Sông Hương”.Cả những bài hát nổi tiếng, đỉnh cao trong dòng nhạc lãng mạn Việt Nam như Thiên Thai, Suối mơ, Trương Chi.. viết trong những năm từ 1941 đến 1943 của ông cũng có nguồn gốc cảm hứng từ thành quách , sông nước con đò và người ca nữ xứ Huế trong đợt đi quan trọng ấy .Sinh thời vào năm 1986, trong một lá thư gửi cho Tạp chí Sông Hương ở Huế ông tâm sự :” Huế là nguồn sáng tạo của tôi trong những năm 40. Thơ và nhạc là điều tôi tìm nguồn từ ấy. Có lẽ lịch sử và cảnh vật của Cố Đô có những điều gây cảm xúc cho sáng tạo. Đối với nơi đó người ta phải suy nghĩ nhiều không về lịch sử mà về một nền văn hóa. Những người Huế sống tự hào và đầy sáng tạo. Có lẽ sự sáng tạo của người dân Huế đã giúp tôi làm được âm nhạc và thơ”. Mùa xuđn 1987 , Huế lại được đón Văn Cao. Ông được các nhà thơ Huế như Võ Quê, Nguyễn Trọng Tạo ( hồi còn ở Huế) , Nguyễn Quang Hà mời xuống đò nghe lại các em ca nữ ngâm lại bài thơ “ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế”, về làng Chuồn uống rượu đêm trên thuyền đánh cá với ngư dân Phá Tam Giang . Và ông đã có thơ, vẫn một thứ thi pháp Văn Cao ám ảnh, diệu nghệ :

Tôi níu lấy mảnh lưới

Lưới là cái cuối cùng

Đang hắt tôi xuống biển

Thơ Văn Cao xuất hiện sau nhạc, nhưng thơ cũng mang lại cho ông những thành công không kém nhạc và họa. Thơ Văn Cao, cũng như lời ca trong các bản nhạc của ông thường rất lạ về chữ, về tứ . Cảm về Quy Nhơn, ông viết :” Trời xanh rơi vài giọt Thâp Chăm”! Viết về cái còn lại của Thời gian, ông kết rất ấn tượng bằng chất liệu của hội họa :” Riêng những câu thơ / còn xanh / Riêng những bài hát / còn xanh / Và đôi mắt em / như hai giếng nước.” . Trong bài thơ “ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế ”, ngay cả cách chọn vị trí chủ thể thẩm mỹ trong bài thơ của ông cũng khác các nhà thơ đương thời. Tất cả các bài thơ viết về con đò trên sông Hương về ca Huế, đàn Huế , tác giả đều ở vị trí người quan sát, nhìn và cảm về Huế như Người kỹ nữ, Nguyệt cầm của Xuân Diệu, Tiếng hât Sông Hương của Tố Hữu.v.v… Với Đêm đàn lạnh trên sông Huế , vị trí chủ thể thẩm mỹ là nhà thơ chính là người trong cuộc, người tham gia làm nên tiếng đàn Huế, cái đẹp Huế: Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha / Em nghe anh dạo khúc thu xa .. cùng với Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi / Từng canh trời điểm một sao rơi / Trăng tà trăng lặn hiu hiu gió / Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi.. Cuộc đàn hát quên thời gian cho đến lúc Tay nhấn tơ chùng đã ngấm sương.. Dòng Tiêu Kim thủy gà xao xác..(Tiêu Kim thủy là một tên gọi khác của Sông Hương , chứng tỏ Văn Cao rất thạo lịch sử)

Tức là đàn hát cho đến khi trời sắp sáng , cho đến lúc Em cạn lời thôi anh dứt nhạc . Là người trong cuộc mới thốt lên một nhịp thơ lạ với câu thơ gợi hỏi hai lần : Sao đàn u hoài gì mùa thu ? Sao đàn u hoài gì mùa thu ? Ở đây chính tác giả đã nhận ra tiếng đàn của mình đã khác đi, mềm đi nhưng không lý giải được điều sâu kín gì đã biến tiếng đàn thành nỗi u hoài mùa thu day dứt!

Khi lòng đã mềm đi, tiếng đàn đã mềm đi, khi hai tâm hồn đã tri âm ,đồng vọng thì đêm vàng cũng trở nên lạc lõng. Để đến lúc chia tay, mới biết đau nhói nỗi biệt ly : Em cạn lời thôi anh dứt nhạc / Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh / Một đêm đàn lạnh trên sông Huế / Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh .Đây là cao trào của bài thơ. Thì ra bài thơ không chủ ý tả tiếng đàn, đêm đàn mà sâu xa hơn là nói về một tình yêu ngấm sương với đủ các cung bậc của nó , mà cuối cùng là nỗi nhớ mang theo suốt đời: Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh

Tại sao lại là “ một đêm đàn lạnh” mà không phải là ” một đêm đàn “trên sông Huế? Chữ “ lạnh” nói lên điều gì ? Chữ lạnh là tâm trạng của nhà thơ sau đêm đàn. Một đêm đàn đầy xúc động và giao cảm, đầy tri âm và đồng vọng. Đêm đàn đã thấm vào nhau Nhưng rồi phải chia ly, mỗi người đều mang lạnh trong lòng.” Lạnh” đây là sự trống trải của nhớ nhung cao độ , là cái lạnh của tình yêu nồng cháy. Đó cũng chính là cái tứ mạnh và bền vững của bài thơ. Văn Cao là người Hải Phòng mới vào Huế lần đầu, nhưng thơ ông đê nồng nàn từ ngữ, âm điệu Huế, hồn Huế !

Chuyến đi văo Huế năm 1986 ấy, sau những chuyến “xuống đò”, về làng Chuồn, nhạc sĩ Văn Cao bị cảm. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và tôi đưa anh vào Bệnh Viện Trung ương Huế. Vừa mới lấy chỗ nằm điều trị xong, ông ghé tai nói nhỏ điều gì đó với Nguyễn Trọng Tạo. Anh Tạo bảo tôi:” Ngô Minh ngồi đấy với anh Văn Cao, để mình ra đây tí, sẽ về ngay”. Khi Tạo về, tôi thấy anh lôi ra khỏi túi xách nậm ruợư và cái chén hạt mít, nói nhỏ với Văn Cao :” Chuồn đấy, một chén thôi nhé !”. Nhạc sĩ vừa run run bưng chén rượu lên môi, thì ông Giám đốc bệnh viên bước vào dẫn theo ông phó bí thư thường trực tỉnh uỷ tín là Thái Bá Nhiệm :” Thưa nhạc sĩ Văn Cao, nghe tin anh ốm, lãnh đạo tỉnh đến thăm”. Thế là lộ tẩy. Nhạc sĩ Văn Cao cười bẽn lẽn như đứa trẻ:” Tôi mê thứ Chuồn này lắm. uống dưới đò mới ngon. Bệnh nằm viện nhưng nhớ nhớ…”. Nghe câu nói tất cả cùng cười , thông cảm với đam mê của nhạc sĩ.

Nhìn Văn Cao nhấp chén rượu Chuồn, tôi lại nhớ đến bài thơ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế. Đã hơn 70 năm kể từ khi ra nó được viết ra, bài thơ “ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” vẫn mang hơi ấm của cuộc sống hôm nay. Bài thơ gợi lên nhiều điều trong cảm xúc , cấu tứ và kỹ thuật ngôn từ. Con đò Huế, cô gái Huế ,ngón đàn ca Huế vẫn còn đó , đêm đêm lại cất lên bồng bềnh luyến láy làm say lòng du khâch Những đêm thấm đẫm văn hóa Huế ấy người yêu thơ lại nhớ đến nhà thơ , nhạc sĩ tài danh Văn Cao, trong hồn lại vang lên những câu thơ tha thiết :

Em cạn lời thôi anh dứt nhạc

Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh

Một đêm đàn lạnh trên sông Huế

Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh…

Theo Tác giả Ngô Minh

@ Vai trò của nhạc sĩ Văn Cao trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm ____________________________

Nguyễn An,

Kỳ trước, chúng tôi đã điểm qua tình hình một số văn nghệ sĩ từng tham gia Nhân Văn Giai Phẩm sau khi nhóm này bị đánh. Không chỉ những người chủ chốt bị đầy đoạ và đặt ra ngoài lề xã hội, mà cả những văn nghệ sĩ không tham gia nhiều, nhưng có khuynh hướng sáng tác theo chiều hướng của Nhân Văn Giai Phẩm cũng bị đánh.

Người bị nhẹ nhất có lẽ là nhạc sĩ Văn Cao, một người viết nhạc được yêu mến bởi những ca khúc trữ tình, nhưng đồng thời cũng là tác giả của bài quốc ca. Chúng tôi dành riêng bài hôm nay để nói về người nhạc sĩ tài hoa này.

Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh tại Hải Phòng ngày 15 tháng 11 năm 1923, nhưng quê quán gốc ở Nam Định. Sinh trưởng trong một gia đình viên chức nghèo, lại mồ côi cha từ sớm, ông phải ra đời tự lực mưu sinh sau khi học hết năm thứ hai bậc thành chung.

Cuộc đời sáng tác của nhạc sĩ Văn Cao bắt đầu thăng hoa khi ông từ giã Hải phòng lên Hà nội vào năm 1941, 42. Trước đó, ông đã sáng tác ca khúc Buồn tàn thu. Trong hai năm 41, 42, ông sáng tác Thiên Thai, Bến Xuân và sau đó là một số hùng ca.

Nhạc sĩ Phạm Duy đã vinh danh Văn Cao là “người đẻ ra thể loại Hùng Ca và trường ca Việt Nam” sau khi là “người viết tình ca số một”, còn giáo sư Đặng Thái Mai thì khen ngợi Văn Cao là “một viên ngọc trên bức khảm Văn hoá nghệ thuật của dân tộc Việt Nam”.

Chúng tôi mong mỏi nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung từ quý vị và các bạn nghe đài, nhất là những người mà Nhân Văn là một cơn ác mộng. Mọi email xin gửi về Vietweb@rfa.org

Ông liên quan vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm tại Hà nội trong năm 1956, nhưng đến tháng bẩy năm 1958, ông mới phải chịu đựng đợt kỷ luật đầu tiên, là “cho rút khỏi ban chấp hành hội nhạc sĩ” và sau đó đi thực tế lao động, như lời nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý kể lại: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)

Từ đó cho đến khi qua đời tại Hà nội vào năm 1995, ông không còn sáng tác được gì nữa. Mời quý thính giả theo dõi cụôc trao đổi giữa phái viên Việt Hùng của ban Việt ngữ với ông Văn Thao, con trai nhạc sĩ Văn Cao sau đây: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)

Nỗi u sầu của Văn Cao được nhạc sĩ Tô Vũ tả lại như sau: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)

Và để kết thúc bài này, xin gửi đến quý thính giả lời nhà thơ Hoàng Cầm, bạn thân của Văn Cao nói về bạn mình, mà cũng là tâm sự của chính ông khi nhìn lại mấy chục năm trời bị xã hội ruồng bỏ.

Trong chín kỳ vừa qua, chúng tôi đã điểm qua những nét chính trong phong trào cũng như vụ án Nhân Văn Giai Phẩm xẩy ra 50 năm trước đây tại miền bắc Việt Nam, lúc đó là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Kỳ tới, cũng là kỳ chót của loạt bài này được dành để tìm hiểu những hậu quả của vụ án đầy oan khuất này. Mong quý thính giả đón nghe.

Theo dòng câu chuyện:

– Nhận định của những nhà nghiên cứu về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 10) – Hình thức kỷ luật trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm (phần 8) – Những nhân vật trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm (phần 7) – Sắc lệnh Báo chí bóp chết các tờ Trăm Hoa, Giai Phẩm, và Đất Mới không kèn không trống (phần 6) – Giai Phẩm Mùa Thu ra đời với những bài vở nặng về chính trị hơn (phần 5) – Ông Nguyễn Minh Cần kể tiếp về diễn tiến của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (phần 4) – Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 3) – Phỏng vấn ông Trần Gia Phụng về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 2) – Mở lại bộ hồ sơ vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 1)

@ Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao __________________________ XUÂN DIỆU

Mặt trận tư tưởng, tinh thần, mặt trận văn hoá văn nghệ quả thật là xung yếu, tinh tế! Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. Cũng là một thứ văn thơ “giật gân”, giật gân đến một độ rất nguy hiểm; thà cứ như cái thùng sắt tây Lê Đạt, thà cứ ngổ ngáo cao bồi như Trần Dần: dễ thấy; đằng này cứ như triết gia ban phát đạo lý nghìn đời; người nào đã biết thế nào là chân lý chân chính, đọc một số thơ và những bài văn, tựa của Văn Cao, có thể tức tối đến đau óc, bởi cái giả dối ở đây nó chằng chịt thật là khó gỡ, nó đã thành máu thịt của Văn Cao, nó nói cứ như thánh, và còn biết nhoẻn miệng cười duyên nữa!

Người ta lấy làm lạ rằng: những tư tưởng văn nghệ của Văn Cao, bóc trần ra, chỉ là một mớ bùng nhùng bèo nhèo quan điểm nghệ thuật tư sản, tại sao nó không phát ngôn ra ngay cuối thời Pháp thuộc, mà Văn Cao để dành ấp úng mãi, vừa rồi, đã mười mấy năm sau cách mạng, mới níu lấy “thời cơ” mà phất nó lên thành cờ, thổi nó ra thành kèn, hòng tập hợp văn nghệ sĩ sau lưng mình? Những thứ quan điểm đó, nếu mà đưa ra trong thời Pháp thuộc, cũng đã bị lạc lõng chẳng ai muốn nghe. Cũng như bọn xét lại hiện nay tái bản chủ nghĩa xét lại cũ rích hàng năm, sáu chục năm trước, trên cái đà của Nhân văn-Giai phẩm, Văn Cao lôi những cặn bã tư tưởng nằm giấu trong mình, chưa có dịp tuyên ngôn trong thời Pháp thuộc, nhảy vào hòng làm chủ trường phái trong văn học hiện nay. Nhiều nhà văn lớp trước vào với cách mạng, đã và đang tiếp tục tẩy gột những cái sai lầm tiền kiếp, mà vẫn thấy hãy còn chưa sạch; thì Văn Cao từ trong làng nhạc sang làng văn, vội lặn hụp vào vũng nước tống ra kia, và cho thế là thơm, là mới! Văn Cao đã nhầm thời gian, nhầm lịch sử rồi!

Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. Bây giờ mà vạch những cái vẩn vơ, buồn bã, sầu thảm trong thơ trong nhạc thời thuộc Pháp, thì dễ quá; trừ những người được giác ngộ cách mạng, còn thì hoang mang tiêu cực là “thường tình” của những người văn nghệ thời cũ. Ở đây ta chỉ nhắc lại về Văn Cao, là vì ở Văn Cao thời trước, cái chủ nghĩa cá nhân nó không “thường thường bậc trung” nữa, mà nó đã đi vào sa đoạ, đi vào giai đoạn cô quạnh; cái óng ánh ngời lên của nó chính là màu của sự tan rã. Cái điều đã thành ra bi kịch, là Văn Cao vào với cách mạng, mà không chịu tự kiểm tra, tự phân tách vào đúng huyệt của tư tưởng cũ của mình, để mà cải tạo nó, lại tự xoa vuốt mình với quan niệm dân tộc giải phóng chung chung, ôm giấu và nuôi nấng những tư tưởng cũ như một cái vốn ngầm tưởng là quý lắm; đến lúc cách mạng tiến lên chủ nghĩa xã hội, thiết lập nền chuyên chính vô sản, thì mới vỡ lở ra một bọc tư tưởng tư sản rất hôi tanh!

Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình mình trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề:

Ngồi đây ta gõ mạn thuyền Ta ca trái đất còn riêng ta!

Những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của lòng yêu nước. Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:

Ta là đàn chim bay trên mây xanh Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan… … Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng

Ta không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó còn thấp. Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền thân của cái lối “Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của “không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ!

Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan rã, như bài “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”, hay như bài “Ngoại ô mùa đông 46” (Văn nghệ số 2, tháng 4-5/1948):

Ta đi trong nhà đổ Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh Còn xiêm hài dành hương phấn cũ… ………………………………………………….. Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp Gió lạnh khi qua viện tàng thư Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche…

*

Quần chúng và Đảng rất sẵn sàng tha thứ cho những sai lầm, thậm chí tội lỗi nữa của ta trước cách mạng, miễn là vào với cách mạng, ta ở thật chứ đừng ở giả, thành tâm thống nhất với chân lý của cách mạng. Mười mấy năm qua, Văn Cao không chịu nhổ vứt đi những tư tưởng nghệ thuật tư sản của mình, lại vờ vĩnh che màn cho nó, đặng cho nó cứ ngấm ngầm nảy nở to lên. Đến khi Văn Cao nắm lấy thời cơ Giai phẩm mùa Xuân 1956, cùng với Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần công bố bản tuyên ngôn của mình, thì thiên hạ phải ngạc nhiên: Người này trở mặt, nói cái gì lạ vậy? cái gì chướng vậy?

Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? đối lập với ai là “chúng ta”?

Bao giờ nghe được bản tình ca Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật Bao giờ Bao giờ chúng nó đi tất cả

Có ai cấm bản tình ca? Có ai cấm tranh tĩnh vật? Nhà thi hào Đức Bertholt Brecht, sống trong thời kỳ ở nước Đức có lũ phát-xít Hít-le trị vì, cảm thấy trách nhiệm của mình nặng nề đến nỗi thấy một cái trán phẳng lỳ, tức là một cái trán bàng quan vô giác;” nói đến cây: hầu như là một tội ác, bởi như thế là làm thinh trên bao nhiêu kinh tởm”. Nhà văn lớn ấy không nỡ nói về cây khi đồng bào ông còn bị xiềng xích. Một người văn nghệ chân chính tất phải thông cảm rằng khi dân tộc, khi nhân dân có những vấn đề lửa cháy dầu sôi, há có nên làm như Yến Lan (mà Văn Cao ca tụng), mê sảng trước tranh tĩnh vật? Há có nên ngụp lịm trong toàn những chuyện tình?

Trên đất nước ta, “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy; nhưng Văn Cao lại lấy những khuyết điểm có thật hay tưởng tượng của ta mà gọi là “chúng nó”; Văn Cao đã từng phát biểu “Trái tim của tôi thuộc về Nhân văn” thì ta không lấy làm lạ Văn Cao xem ta là địch. Đi với ma thì mặc áo giấy, mình có là ma mới mặc áo giấy; Văn Cao lấp lửng bảo rằng chúng nó “bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người”, chúng nó “như nấm mọc trên những thân gỗ mục”, nhưng chẳng dám nói thẳng ra là ai? Văn Cao bảo thiên hạ “mắt không bao giờ nhìn thẳng”, đó là Văn Cao tự tả mình mắt la mày lét làm “tay trong của bọn cầm đầu Nhân văn-Giai phẩm hoạt động trong nội bộ Đảng”. Sao mà thơ Văn Cao hiểm độc vậy!

Một mặt

Những con người không phải của chúng ta Vẫn ngày ngày ngày ngang nhiên sống một mặt thì Những người của chúng ta Đang mờ mờ xuất hiện Le lói hy vọng Trên những cánh đồng lầy Văn Cao truyền ra một câu sấm “Một nửa thế giới − một nửa tâm hồn − một nửa thế kỷ − chưa khai thác xong”, rồi Văn Cao tiếp tục giọng tiên tri: Anh có nghe thấy không? Chỗ nào cũng có tiếng Chưa nói lên

Những con người của chúng ta, từ Cách mạng tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái đất cũng biết chúng ta vĩ đại! Văn Cao có mắt, có tai, không thể nào phủ nhận việc ấy. Vậy thì những “chúng ta” mà Văn Cao bảo là “đang mờ mờ xuất hiện” đó chính chỉ là “chúng ta” của Văn Cao , của Nhân văn-Giai phẩm mà thôi. Công chúng bị đưa vào một thế giới âm binh mà ông phù thuỷ Văn Cao đang sai dậy, bảo nói lên, đứng lên, gọi là “hàng loạt hàng loạt những con người thật của chúng ta” và giao cho lũ chúng những nhiệm vụ tương lai to lớn! Bà con của những âm binh đó, trong một lúc, đã làm tội ác ở Hung-ga-ri. Văn Cao chơi một trò chơi thật là nguy hiểm!

Văn Cao đã đi bước thứ nhất trong Giai phẩm mùa Xuân thì Văn Cao đi tiếp bước thứ hai trong cái báo Nhân văn. “Thơ Văn Cao” góp vũ khí chống Đảng, chống chế độ với bọn Nhân văn. Một lời toà soạn rất là xông hương trình diện rất là trịnh trọng một đoạn thơ dài của Văn Cao; họ đã nhè ngay cái “trái tim thuộc về Nhân văn” của Văn Cao mà trích. Tiếp theo lề lối của bài “Anh có thấy không” trên kia, Văn Cao bảo: “Kẻ thù của chúng ta xuất hiện” mà không đả động gì đến Mỹ-Diệm, chỉ nói đến những con rồng đất, những con bói cá, những con bạch tuộc một cách lập lờ ám muội. Văn Cao đặt tất cả lòng thù địch vào chữ “chúng”; chúng nào “muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng” ? chúng nào “làm rỗng những con người lụi dần niềm hy vọng” ? Ai là “những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc” ? Văn Cao không nói rõ, mà dùng lối ám chỉ thâm độc, đổ các thứ tội cho Đảng, cho cán bộ. Đó là cái lối gài mìn chống phá Đảng và nhân dân; những bài thơ, đoạn thơ trên đây rõ ràng là những sự việc chính trị.

* Sau khi báo Nhân văn chết rồi, Văn Cao viết những bài văn nói chuyện nghệ thuật. Mở đầu “Một vài ý nghĩ về thơ”, Văn Cao nấp ngay sau cái chiêu bài “cộng sản”. “Một trong những hướng xây dựng nhân văn cộng sản là đào tạo cho xã hội những người biết khai thác, khám phá, phân tách thực tế và mở đường cho tương lai”. Muốn được như thế, tưởng là Văn Cao yêu cầu các nhà văn phải gắn liền với quần chúng cách mạng, phải đi theo với bộ phận tiên tiến nhất của nhân dân, là Đảng, có vậy thì mới chinh phục được tương lai; hoá ra Văn Cao chỉ đại ngôn như vậy, để mà viết tiếp theo rút ngay ra cái điều kiện là “nhà thơ phải thành lập cá tính”.

Cá tính trên hết! Nhà thơ “phải chủ động thành lập lên sự thẩm mỹ mới cho người đọc, chủ động xây dựng con người biết tư tưởng cảm xúc và cảm giác tinh tế như mình cho xã hội đương thời và cả xã hội sau này”. Chính những nhà văn lạc hậu và những nhà văn phản động đã dán lên ngực những câu nói kênh kiệu và rỗng tuếch như trên đây; Văn Cao làm như nhà thơ có thể nấp sau cái “nghề” của mình, cái “chuyên môn”, cái “loại biệt tính” của mình, cứ thế mà ban phát sự “thẩm mỹ mới” cho thiên hạ. Nhất định nhà văn nhà thơ phải có cá tính, có độc đáo, nhưng không phải cứ cố tình “thành lập” mà được; trước hết phải có nội dung tốt đẹp, tiến bộ, và cá tính là cái bản sắc trong khi diễn đạt, gắn liền với nội dung. Trong một xã hội đang làm cách mạng như ở miền Bắc nước ta, thì nhà thơ phải xắn quần lên mà chạy theo cho kịp quần chúng cái đã, trước hết phải “lấy của quần chúng” được một cái gì đã, rồi sau mới hòng “trả lại cho quần chúng” được một cái gì; chứ còn những kiểu nhà thơ “tinh tế” như Văn Cao ước mơ, ngồi gặm móng tay mình, thì cái roi của lịch sử sẽ đánh vào đít! Thẩm mỹ của ta mới vô cùng, là vì nó xây dựng trên cơ sở quần chúng, nó là thẩm mỹ cho đa số; còn cái “thẩm mỹ mới” của Văn Cao, tự phụ rằng không ai tinh tế bằng ta đây, nó đã tắc tị và giẫy chết ở Âu châu từ cuối thế kỷ XIX rồi, có phải mới gì!

Với một cái giọng cao đạo, ra vẻ bác học, thông thái, Văn Cao lại tiếp tục nói nào là “yêu những người biết thất bại và dám mở đường”, nào là “cái mới trước hết là cái mới trong tư tưởng, cảm xúc và trong cảm giác của nhà thơ”, nào là “ tấm bia trên mồ một người đã khuất có lẽ còn ở lâu trên mặt đất hơn một cuộc đời”… Đó là những thứ tư tưởng anh hùng chủ nghĩa, cứ mở đường liều, để lấy tiếng là “tiên phong”, không kể gì tổn thất trên lưng của quần chúng, thứ tư tưởng duy tâm, đặt cái chủ quan lên trước cái khách quan, thứ tư tưởng vô đạo, coi mạng người không bằng lâu đài, lăng tẩm . Những thứ tư tưởng đó mới hở hơi ra, chúng ta đã nhức lên tận óc, không chịu được, phải bịt nó lại ngay!

Rồi Văn Cao làm theo lối bắt quyết với hai tay không, và hô phong hoán vũ: “… cũng có người thấy trời xanh vô cùng tận trong bát nước, và cũng có người chỉ nói tới một giọt ánh sáng để thấy cái vô cùng tận của trời xanh. Có người phải tìm con đường lớn mới thấy dấu xe, mà có người tìm thấy dấu xe trong một hạt bụi”. Lấy một bộ phận để nói cái toàn thể, lấy một mắt xích để nói sợi dây chuyền, đó là phương pháp thường dùng ở trong nghệ thuật. Nhưng muốn dùng được phương pháp đó, thì điều kiện trươc tiên là phải biết thật rõ cả toàn thể, biết thật kỹ cả dây chuyền. Muốn nhìn thấy cái trong sáng trong một bát nước thì phải nhìn thấy tận mắt cả cái nguồn ánh sáng từ mặt trời đưa đến, chứ đừng nhầm với ánh lửa ma trơi. Sau luận điệu của Văn Cao nấp cái nói phét, cái tán dóc của những kẻ nhác lười sợ thực tế, sợ quần chúng, cứ ngồi bói một hạt bụi để thấy tất cả thế gian; vâng, hạt bụi có là một vũ trụ thật đấy, nhưng phải dùng khoa học cụ thể nghiên cứu cụ thể, mới được thấy những nguyên tử, điện tử trong đó. Một hạt bụi có thể đến từ một con đường lớn, mà cũng có thể đến từ một con đường rất nhỏ, một ngõ cụt tắc tị và bẩn thỉu, hay đến từ chân một con ruồi xanh đậu lên mép của “nhà thơ”. Muốn hiểu con đường lớn của cách mạng thì phải thực sự ra giữa đường lớn mà nhìn mà đi mà đắp mà tắm giữa quần chúng, chứ đừng có tin ở hạt bụi!

Văn Cao có cái tài viết rất trịnh trọng những câu không có nghĩa lý gì hết: “Chỉ riêng cái phần giác quan của nhà thơ cũng nói được cái hướng biểu hiện hoặc thiên về tư tưởng, hoặc thiên về cảm xúc, hoặc thiên về cảm giác”. Văn Cao hiểu giác quan là cái gì? Có phải là nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ không? Năm thứ này, thứ nào và lúc nào thì thiên về tư tưởng, cảm xúc hay cảm giác? − Thời kỳ ra những câu đố để làm cho công chúng tưởng nhà văn là thâm thuý, qua đã lâu rồi! Văn Cao viết tiếp: “ Cái khuynh hướng đó nhiều khi còn là của cả một thời đại, một môn phái hay một triết học”. “Nhiều khi” là khi nào? Khi trước cách mạng hay sau khi cách mạng? Hai cái “khi” đó không thể san bằng được. Trước cách mạng, trước chủ nghĩa Mác-Lênin thì có trăm thứ “ba bị, chín quai, mười hai con mắt” ở trong văn nghệ, nhất là trong thời kỳ tan rã của chủ nghĩa tư bản; còn sau cách mạng, Văn Cao phải chọn chứ, phải biết hiện thực xã hội chủ nghĩa là phương pháp sáng tác tốt nhất, đừng có lạc lối vào các môn phái sa đoạ, phân tranh, và chỉ có một triết học Mác-Lênin duy nhất đúng, chứ còn lắm triết học nào nữa?

“Một vài ý nghĩ về thơ” của Văn Cao là một sự hiện hồn về của những quan niệm nghệ thuật đã bị cách mạng đào thải; dù có nấp mình sau cái nghĩa lớn của những chữ “cộng sản”, “xã hội sau này”, “khát vọng”, v.v…, vẫn không giấu được cái duy tâm chủ quan, cái cá nhân chủ nghĩa bế tắc, cái tìm tòi lập dị, cái khinh thường quần chúng, một mớ cặn bã tư tưởng cũ rích, mà Văn Cao cứ bảo là mới toanh! *

Cái lá cờ nghệ thuật ố bẩn đó, Văn Cao ngày càng giương cao lên, từ chỗ tung “một vài ý nghĩ” đến chỗ ngang nhiên đặt lên đầu những quyển sách. Nhà xuất bản Hội Nhà văn trước đây cho ra đời một loạt bài tựa gieo rắc những cái sai lạc; đứng đầu là bài tựa Văn Cao đề cho Những ngọn đèn của Yến Lan.

Đại cục của thơ Yến Lan là một thứ thơ tủn mủn, đi vào chỗ kỹ thuật khô héo, quặt quẹo, bế tắc. Khoảng giữa tập Những ngọn đèn chỉ có được dăm ba nét của con người kháng chiến, mới mang có một chút xíu hơi mới của thời đại hãy còn quá rất mong manh (một số câu trong những bài Bên đường chiến khu, Những bạn đẩy goòng, Tỉnh nhỏ, Phù ly). Đáng lẽ Văn Cao phải nhấn vào cái chút hơi mới đó, khuyến khích cho nó lớn mạnh, thì Văn Cao lại đề cao cái luồng lạc hậu và thoái hoá. Phía trước tập thơ là những bài thơ cũ bị không ai biết chẳng ai hay trước cách mạng (trừ bài Bến My Lăng) đến nỗi dưới thời Pháp thuộc cũng không in ra được; sau một sự cố gắng ngắn ngủi tự cải tạo mình thì Yến Lan đã vội tiếc hối ngay ( “Cũng trong quãng đời đi đó đi đây− Tôi theo bước đôi người hì hục lăn vào cuộc sống− … Nhưng lòng tôi dần lạnh tiếng chuông ngân” trong bài “Tĩnh vật”) và quay trở về truy lĩnh những cái cô đơn lạc hậu trước cách mạng. Nhưng khi người ta hồi sinh cho những cái lạc hậu cũ, thì lúc sống lại, nó không chịu đứng yên ở mức cũ đâu! Chịu ảnh hưởng của nhóm phá hoại Nhân văn-Giai phẩm, Yến Lan, ngoài việc đi vào kỹ thuật chủ nghĩa, còn đẩy mình đến mức dùng những “biểu hiện hai mặt”:

Hà Nội vẫn đi lên từng bậc nấc thang Trên những cột dài bóng đen chữ máy; …………………………………………………….. Hay tiếng mạ kền rà trên sắt rỉ Hay tiếng nảy của những “lò so ý nghĩ” Chống lên những mái đầu chìm

Những ngọn đèn tắt phụt ở bài “Ga xép” đóng tập thơ sập xuống tối sầm (“Khi đời anh con tàu cũ đang trôi”… − “Như một nhà ga không người lên xuống” ).

Một tập thơ, một luồng thơ như vậy, mà Văn Cao viết tựa đưa lên rất cao, nêu một cái gương đáng cho người ta học tập. Trong những dịp như thế này, Văn Cao càng cần đến cái giọng phù thuỷ; bởi vì khi người ta không có chân lý trong nội dung thì người ta phải lấy vẻ thâm nghiêm, cố nhăn trán lim dim con mắt, làm thế nào nói cho kêu, cho lấp lánh, cho rườm rà, lẩn quẩn, để mà không nói cái gì hết, đặng mà không ai bắt được cái lừa bịp của mình!

Cả bài tựa của Văn Cao là một mớ tà thuyết viết theo lối thần chú. Văn Cao khen thơ Yến Lan là “Lúc nào anh cũng bắt đầu”… “chúng ta thường vui sướng đợi một sự đổi thay của nhau”… “tập thơ này đánh dấu một quãng đường dài chuẩn bị cho sự bắt đầu của anh”. Chúng ta làm cách mạng, dựng lên cả một xã hội xã hội chủ nghĩa mà lịch sử chưa từng có, nhưng chúng ta không mắc phải cái bệnh “hãy đi mãi!”, cái bệnh “luôn luôn mới!”, cái bệnh lúc nào cũng xoá đi làm lại tất cả, nghĩa là phá hoại, lúc nào cũng “bắt đầu”. Chúng ta mừng nhau tiến bộ chứ không mừng nhau đổi thay; vì bao năm được Đảng giáo dục, mà trở mặt phản bội như nhóm Nhân văn, cái lối đổi thay đó là sự cuối cùng của đê nhục. Văn Cao nói: “Thơ anh bắt đầu biết đề cao những hành động, tình cảm của con người anh yêu lên để đả phá những bọn phá hoại sự xây dựng của xã hội”. Yến Lan rời chỗ sáng, đi vào con đường bế tắc, tối tăm, bắt đầu sa xuống hố hoang mang, thoái hoá, học lối nói xỏ xiên đối với Đảng, thì Văn Cao lại cho là một thành tích; bọn phá hoại sự xây dựng của xã hội chính là bọn Nhân văn-Giai phẩm, Văn Cao còn đổ cho ai?

Văn Cao viết: “Thơ Yến Lan càng ngày càng muốn đi gần lại cuộc sống hiện đại: một người đi từ một vùng thủ công nghiệp đến một thành phố kỹ nghệ. Từ một người hiền lành, bình dị, Yến Lan đang trở thành một người muốn thúc đẩy một sức gì đang làm trì trệ cuộc sống của chúng ta…”. Cái thuyết “hiện đại” của Văn Cao là cái chủ nghĩa “tân thời” cho rằng càng phức tạp tức là càng tiến bộ. Không phải! Nghệ thuật tư sản hiện nay nhất định làm thơ không ai hiểu được, nó vẽ tranh trừu tượng chủ nghĩa, rất quái dị, và nó bảo rằng thời đại của kỹ nghệ, của kỹ thuật, của ra-đi-ô, vô tuyến truyền hình, của bom nguyên tử, thì văn nghệ phải như thế mới đúng điệu. Văn Cao cho rằng hễ là thành phố kỹ nghệ thì tâm trí con người và văn nghệ phải rắc rối theo; điều ấy chỉ đúng với thành phố kỹ nghệ tư bản chủ nghĩa, nơi tập trung những cái tà ác, những cái tan rữa, điên loạn của chế độ tư bản. Còn trong phe ta bây giờ, một nước còn ở trình độ chăn nuôi như Mông Cổ, nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, vẫn có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội mà không cần phải bước vào cái quằn quại giẫy chết của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế chúng ta phải tiến bộ lên công nghiệp hoá, kỹ nghệ hoá, nhưng tâm trí chúng ta lại tiến bộ theo một quá trình khác: những tầng lớp bên trên, bị văn hoá đế quốc lôi đi theo cái rắc rối, cái phức tạp đồi trụy của nó, cần phải giải độc, phải học lấy cái đơn giản vô cùng phong phú, cái lành mạnh vô cùng cao quý của của những con người xã hội chủ nghĩa. Cho nên Yến Lan “đi từ một vùng thủ công nghiệp đến một thành phố kỹ nghệ” chưa phải là việc đáng mừng, mà Yến Lan đi tới cái rắc rối, cong queo, nhọc mệt không có hồn của những bài thơ “Ngọn đèn ngoại ô”, “Hà Nội sang hè”, “Hàng Gai”, “Ga xép” (“Có lòng tôi quàng áo đỏ chầu kinh ”), thì là một việc đáng lo, đáng giận. Thơ Yến Lan sau một cái ánh của kháng chiến dọi vào chưa mạnh lại rơi sâu hơn vào bóng tối, vào quá khứ, chính nó “đang làm trì trệ cuộc sống của chúng ta”, chứ Văn Cao đừng nói ngược bảo rằng nó “thúc đẩy”. Chính cái kiểu thơ, cái kiểu tư tưởng không có một chút hơi trong lành, mới mẻ của công nông binh thổi tới, như Yến Lan, là “đã nằm đọng lại giống như những vũng nước”, là “con sứa chết phơi trên bãi cát” mà Văn Cao muốn ám chỉ vào những người khác đấy!

Cái trắng trợn cao nhất của Văn Cao là đề cao bài thơ trắng trợn “Tĩnh vật”. Yến Lan niệm kinh trước những tranh tĩnh vật nào đó, ngồi chơi màu mà cố ý nói mê nói sảng, ca tụng tranh tĩnh vật với một “lập trường” hẳn hoi, mừng rằng chúng “đã chiếm hồn tôi như chiếm một đô thành − không cần đến thanh gươm viên đạn” , là để mà mắng nhiếc:

Bởi họ thiếu con tim khối óc Luôn động đậy nhưng chỉ là tĩnh vật

Văn Cao hoan hô những câu này trong bài tựa, thật là một đồng một cốt đắc ý cười ha hả với nhau! Đến đây thì họ đã đi xa quá! Họ mạt sát những người cộng sản, những người cán bộ theo luận điệu “Người khổng lồ không tim” của Nhân văn-Giai phẩm; họ có sáng tạo ngôn ngữ thật đấy, tìm được hình ảnh rất cay chua, nổi bật để nói một điều phản động. Hình ảnh càng xách mé, tư tưởng phản động càng phơi bày tính chất thù địch. Kinh Thánh bảo: “Khởi đầu tất cả là lời nói”; văn thơ làm bằng ngôn ngữ nên một số người nắm được một ít ngôn ngữ là họ tưởng nắm được tất cả rồi; bày ra được một vài cách khéo nói, cách lên dòng xuống dòng, xỏ xiên được thiên hạ, họ cho là họ đã làm được kỳ công, công kênh tán tụng lẫn nhau. Đó là một bọn hình thức chủ nghĩa đi vào đường chết của tư tưởng và của nghệ thuật. Chúng ta thì chúng ta bảo: “Khởi đầu tất cả là lao động”. Nhà văn trước tiên phải ôm lấy tư tưởng đúng, phải ôm lấy quần chúng vạn năng, phải ôm lấy Đảng vĩ đại, chứ nếu chỉ ôm lấy một mớ chữ, theo lối Văn Cao tán thưởng, thì chỉ là ôm lấy tro tàn thuốc lá hay cặn rượu mà thôi. Huống chi mớ chữ đó lại còn phản động, thì nhất định tiêu ma sự nghiệp.

Bài tựa Văn Cao giới thiệu “Những ngọn đèn” là một mẫu hàng khá tiêu biểu của chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ. Nhưng những câu văn viết lối thần chú không che đậy nổi cái vô nghĩa, cái phi chân lý, cái tà thuyết của tư tưởng Văn Cao. Dù khéo dán nhãn hiệu thế nào, thuốc độc vẫn là thuốc độc.

*

Văn Cao đã tự phân tích mình dưới thời Pháp Nhật thuộc: “bị ảnh hưởng những thứ nhân sinh quan nửa phát-xít, nửa đồi trụy thời bấy giờ, tôi muốn tìm lối siêu thoát trong nghệ thuật và trong đời sống bằng con đường của chủ nghĩa cá nhân anh hùng, phiêu lưu. Một mặt khác thì đi sâu vào nghệ thuật suy đồi”. Lớn lên trong những ngày cuối cùng của Pháp Nhật thuộc, Văn Cao bị đầu độc nặng nề, điều đó rất dễ hiểu. Cái đau đớn là Văn Cao lại coi những thuốc độc ấy là bản chất, là bản ngã, là “tâm hồn” của mình, cố hết sức bảo tồn nó, đưa nó vào ăn ở chung với tư tưởng của Đảng. Sự lộn sòng đó kéo dài. Đó là một sự mai phục, đến một khi gặp thời cơ thì nó lại hiển hiện ra, nảy nở đầy đủ hơn xưa và công phá mạnh mẽ hơn xưa. Nhưng sống dưới chế độ ta nên nó vẫn cứ phải khoác áo là tư tưởng của Đảng. Nó phải lá mặt lá trái. Đảng nắm chính quyền, nó muốn tiếp tục nhận những ân huệ của Đảng. Nhưng tư tưởng Đảng là ngoại lai với nó; nó chống phá từ bên trong chống phá ra: “Luôn trong mấy năm, tôi tự đẩy mình vào một hệ thống hoạt động chống đối liên tiếp trong văn nghệ, làm ngột ngạt sự sinh hoạt tư tưởng của chúng ta” . Trước cuộc đấu tranh này, khi những tư tưởng xét lại chưa bị vạch trần, lá cờ nghệ thuật của Văn Cao đã có lúc chừng như phất cao lắm.

Và Văn Cao cũng đã không ngừng làm những bài thơ rất độc hại; “Những nét mặt” của Văn Cao (báo Văn số 93 ngày 20.12.1957) phải chăng là “những người của chúng ta − đang mờ mờ xuất hiện” mà Văn Cao mong đợi? Bao nhiêu con người cách mạng, kháng chiến mà vào trong thơ Văn Cao chỉ có những cái mặt tan rã, chập chờn như mặt nạ, Văn Cao hai lần hỏi:

Những người đi buổi ấy Bây giờ còn lại bao nhiêu?

Nghĩa là thế nào? Họ mỗi người một việc, đi có chỗ, về có nơi, trong bộ đội, vào nhà máy, ở công trường, tại nông thôn đổi mới; đến như các liệt sĩ, dù có chết, vẫn thơm mình Tổ quốc; thế mà Văn Cao kể:

… Những nét mặt gặp trong đêm tối Những ánh đuốc in nửa má nghiêng nghiêng Những cặp mắt nhìn lặng lẽ Những bàn tay che nửa mặt im lìm…

rồi lại hỏi một lần thứ ba, để kết luận:

Những người đi buổi ấy Còn lại bao nhiêu suy nghĩ những gì

Họ là những con người có Đảng lãnh đạo chứ có phải là mây đâu! Sở dĩ Văn Cao hỏi như người ngái ngủ vậy, là vì “chơi” mặt người như chơi những chất liệu màu sắc, hình dáng, chứ không thấy họ cụ thể ở trong xã hội.

Cuộc đấu tranh tư tưởng chống chủ nghĩa xét lại ở trong văn nghệ hiện nay cũng mới chỉ là một bước đầu. Chúng ta cần phân biệt cho rõ giả chân, không cho những thư tư tưởng nghệ thuật kiểu Văn Cao trá hình, tác quái!

XUÂN DIỆU

Trong bài thơ “Gửi những người mai sau”. Bài thơ này, và nhiều bài khác, đã bị nhóm Nhân văn-Giai phẩm dịch ra mà cố tình không chú thích thời gian, hoàn cảnh để dùng vào mục đích “biểu hiện hai mặt” trong tập thơ dịch Gửi người mai sau (nguyên chú của Xuân Diệu) Xem “Tự kiểm thảo của nhạc sĩ Văn Cao”, báo Văn học số 3 (15/6/1958) (nguyên chú của Xuân Diệu) “Những ngày báo hiệu mùa xuân” (trích tập thơ Cửa biển) đăng báo Nhân văn (nguyên chú của Xuân Diệu) Xem bài “Thế nào là cái mới”, Văn nghệ số 4 (nguyên chú của Xuân Diệu) “Tự kiểm thảo của nhạc sĩ Văn Cao”, Văn học số 3 (nguyên chú của Xuân Diệu)

@ MỘT SÁNG TÁC BỊ BỎ QUÊN CỦA NHẠC SĨ VĂN CAO ______________________________

Nguyễn Lưu

Tôi cam đoan rằng người Việt Nam nào cũng yêu mến âm nhạc của Văn Cao và sẽ là một niềm vui nếu được tiếp xúc với sáng tác mới của con người tài hoa này. Câu chuyện ấy tưởng như đã qua đi từ lâu lắm bỗng được nhớ lại như ngày nào.

Đó là vào một ngày hè năm 1960, khi ấy tôi là cậu học sinh cấp 3 trường Việt Đức (tên ban đầu của trường là Trường con em cán bộ), vừa bước lên cầu thang gác tôi vừa nghêu ngao “Thiên Thai, chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm…” bỗng bác Thụ, là người cần vụ của cha tôi (*) hỏi “Cậu này hát bài của Văn Cao à?”. Tôi vô cùng ngạc nhiên vì cứ nghĩ bác Thụ chỉ là một người cần vụ rất chi hiền lành, làm sao lại biết đển âm nhạc của Văn Cao? Gặng hỏi mãi, thì ra bác Thụ chính là cơ sở năm nào, từng che dấu Văn Cao khi ông nhạc sĩ hoạt động cách mạng thời kì Việt Minh mà theo bác Thụ, Văn Cao vốn yêu ca hát nên lâu lâu lại ca lên đôi câu và bác biết được đó là bài hát của nhạc sĩ. Từ đó tôi rất kính nể bác Thụ, vì bác là người từng bảo vệ Văn Cao, lại nữa, có lẽ bác Thụ còn có một tâm hồn văn nghệ nên con trai bác là Vương Tâm, sau này là một nhà báo, nhà thơ.

Cuối năm đó, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời và vào năm sau, trường tôi đổi tên là Trường Việt- Đức sau khi Thủ tướng Đức, ngài Grôt-tơ-vôn sang thăm Việt Nam, vị Thủ tướng đã đến thăm nhà trường, đi cùng có Thủ tướng Phạm Văn Đồng và nhà trường đã nhận được nhiều quà của nước bạn, trong đó có một chiếc đàn accordeon 160 bass, vào loại to nhất Việt Nam. Và tôi rất xúc động vì một hôm, anh Lê Khương là Bí thư đoàn trường đã mời tôi lên phòng hội đồng và thay mặt nhà trường giao cho tôi quản lí chiếc đàn to đẹp ấy.

Một hôm, có anh bạn đem đến bài hát Dưới ngọn cờ giải phóng và nói đó là sáng tác của Văn Cao. Ngày ấy, những sáng tác mới rất ít khi có điều kiện phổ biến bằng ấn loát, chương trình dạy hát trên đài TNVN cũng chưa nhiều và vì thế chúng tôi rất khoái, quyết định tập ngay và tôi nhớ đã phân công bạn Chu An, anh trai của nhà văn Chu Lai, đảm nhiệm phần lĩnh xướng. Tốp ca nam hát bài này do tôi đệm bằng chiếc đàn 160 bass. Đây là một ca khúc cách mạng có giai điệu đẹp và tiết tấu khỏe khoắn, ca từ rất hay. Tôi nhớ như in là đúng vào dịp ấy, những thanh niên và học sinh Hà Nội đang khoái với Sech-xpia, lại nhớ mãi lời thoại của nhũ mẫu Ophelia khi khóc thương nàng Juliet đã chết như con thiên nga cất tiếng hát vào mùa xuân trên bầu trời, vì thế khi nhạc sĩ Văn Cao viết “trước những lời ca từng đồng chí hy sinh gọi ta là lời hát thiên nga khi mùa xuân qua” tất cả đều thấy hay. Tuy nhiên không lâu sau, lứa chúng tôi tan đàn xẻ nghé và chẳng có dịp nào được cùng nhau ca hát, nhất là không ai nhớ đến bài hát ấy nữa. Thấm thoắt đã nửa thế kỷ trôi qua.

Ngay trước ngày 2-9 năm nay, tôi chợt nhớ đến bài hát ấy và giật mình suy nghĩ rằng tại sao mà một bài hát hay như thế lại chẳng thấy ghi trong tài liệu nào, từ sách của Hội NSVN cho đến Google, và tôi chợt nhớ ra Văn Cao còn có con trai, tôi liên hệ được với anh Văn Thao, là con trai nhạc sĩ Văn Cao, chỉ với mục đích là kiểm tra lại xem có đúng nhạc sĩ Văn Cao có sáng tác ra bài hát ấy không (vì đã qua mấy mươi năm rồi!). Chỉ 2 hôm sau tôi đã nhận thư chuyển phát nhanh của Văn Thao, bài hát rất hay ấy quả là của nhạc sĩ Văn Cao!. Từ Hòa Bình, Văn Thao điện thoại tâm sự và cho tôi biết, đúng vào dịp GS Nguyễn Văn Hiếu, Bộ trưởng Văn hóa của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra miền Bắc và vào thăm Bác Hồ, vào ngày 20-12-1962 (thông tin này tôi đã kiểm tra lại qua anh bạn Dương Trung Quốc), nhạc sĩ Văn Cao đã gửi bài hát này nhờ GS Nguyễn Văn Hiếu đem về cho nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Vậy mà không hiểu vì lý do gì, sự thất thoát của thời chiến hay sao mà bài hát ấy không thấy ai hát? Nghe tôi kể chuyện này, nhà văn Chu Lai đã tâm sự rằng bài hát nào cũng có số phận, giá như giai điệu của Dưới ngọn cờ giải phóng được vang lên trong những ngày hào hùng đã qua, có lẽ quân và dân miền Nam lại có thêm một nguồn sức mạnh và ý chí nữa để xốc tới và đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.

Ghi chú: (*) Bác Vương Thụ là cần vụ của cố GS Nguyễn Xiển, nguyên Chủ tịch UBND Bắc Bộ, Phó chủ tịch UBTV Quốc Hội, Giám đốc Nha Khí tượng Thủy văn…

@’Tiến quân ca’ và nỗi niềm của Văn Cao giờ mới thành hiện thực ____________________ QUỐC PHONG

Nhạc sĩ Văn Cao nói: ‘Nhiều lúc, tôi cũng thích “hủ hoá” chút chút nhưng vì mình là tác giả của Quốc ca nên lại phải giữ gìn. Vậy là khác nào trên đầu tôi đang có chiếc “vòng kim cô” của nhà Phật hầu, muốn thoát tục cũng không được’.

Theo thông tin từ Bộ VHTT&DL, ngày 15.7 tới Văn phòng Quốc hội sẽ tổ chức lễ tiếp nhận ca khúc “Tiến quân ca” của cố nhạc sĩ Văn Cao từ gia đình ông. Buổi lễ sẽ được tổ chức long trọng tại tòa nhà Quốc hội. Được biết, tại đây, lãnh đạo Đảng, Nhà nước cũng sẽ truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho cố nhạc sĩ Văn Cao và tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho bà Nghiêm Thuý Băng – vợ cố nhạc sĩ.

Vậy là 71 năm sau khi ra đời, Quốc ca Việt Nam đã chính thức trở thành tài sản tinh thần vô giá của Nhân dân Việt Nam sau thời gian 6 năm (từ 2010) bà quả phụ Văn Cao gửi thư bày tỏ tâm nguyện đến Quốc hội muốn hiến tác phẩm “Tiến quân ca” theo nguyện vọng của nhạc sĩ Văn Cao cho Dân, cho Quốc hội và Đảng CSVN, nhưng nay mới có thể làm lễ tiếp nhận cho đúng nghi thức trang trọng cần thiết.

Vào năm 2015, khi đất nước long trọng kỷ niệm 70 năm Quốc khánh, một “sự cố” hy hữu đã xảy ra khiến dư luận cả nước phải ngỡ ngàng đến khó tin. Đó là việc Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam tạo một phen “dậy sóng” do việc đòi thu tiền bản quyền tác phẩm âm nhạc “Tiến quân ca” của cố nhạc sĩ Văn Cao trong chương trình “Hát mãi khúc quân hành” ngày 15.8 tại Nhà hát Tuổi Trẻ; chương trình “Tự hào tổ quốc tôi” (do báo Thanh Niên thực hiện) ngày 17.8 tại Cung thể thao tổng hợp Quần Ngựa Hà Nội và chương trình “Điều còn mãi” của báo VietNamnet ngày 2.9 tại Nhà hát lớn Hà Nội.

Câu chuyện có thực như vậy nhưng nhiều vị lãnh đạo vẫn không tin tại sao lại có thể diễn ra nhiều năm, thậm chí còn phê bình các báo đã nói quá (!). Thế rồi, mọi việc đã tỏ tường và từ đó, cách thu tiền vô cảm nói trên đã chấm dứt.

Phải chăng vì những câu chuyện có thật gây bức xúc này mà nhiều người mới vỡ lẽ ra rằng bài “Tiến quân ca”, nếu hát theo lối biểu diễn nghệ thuật như một ca khúc bình thường thì bị thu phí tác quyền giống với các tác phẩm âm nhạc khác trong chương trình. Còn nếu hát như hát Quốc ca thuần tuý theo nghi thức chào cờ ở các kỳ cuộc mit tinh, hội nghị… thì đương nhiên không bị thu phí.

Có một câu chuyện hoàn toàn có thật, xin được kể lại với tư cách của người viết báo đã được vinh hạnh gặp nhạc sĩ Văn Cao lúc ông còn mạnh khoẻ. Vào năm 1991 khi đó, nhạc sĩ Văn Cao và gia đình ông sống ở trên gác ngôi biệt thự nhỏ ở phố Yết Kiêu. Tôi có đến thăm để hỏi lại ông chuyện cũ của những năm 80, xin viết về ông nhân hồi trước đó chúng ta có chủ trương phát động cuộc thi sáng tác Quốc ca mới nhưng rồi không thành công.

Sau một thời gian phát động, điều tưởng không khó ấy xem ra lại quá khó bởi chất lượng của các nhạc phẩm dự thi cứ thấy thiêu thiếu một cái gì đó . Hình như ngoài cái chất tráng ca hào hùng lại phải có được sự nghiêm trang cần thiết nào đó thì nó mới ra nổi một bài Quốc ca? Nếu không có thực tiễn, không có bối cảnh như giai đoạn Cách mạng tháng Tám mà nhạc sĩ Văn Cao sáng tác thì khó có được cái hồn như vậy.

Ông kể với tôi, đại ý rằng, khi Quốc hội có thông báo sẽ tổ chức thi sáng tác Quốc ca mới để thay Quốc ca hiện thời vì nhiều lý do, tôi không khỏi suy nghĩ. Quả đúng là trong Tiến quân ca mà tôi sáng tác ngày trước, nó cũng có những ca từ không còn phù hợp nữa. “Lúc tôi nghe thông tin này chính là lúc tôi được Nhà nước cho sang Cộng hoà Dân chủ Đức tham quan, nghỉ dưỡng. Lúc đầu thì phải nói thật lòng rằng nó cũng hơi có chút hụt hẫng nhất định. Song nghĩ lại, tôi thấy cũng có lý và biết đâu cũng lại là điều hay. Nói thật, tôi là nhà thơ, là hoạ sĩ và là nhạc sĩ nên nhiều lúc cũng cảm thấy đứa con tinh thần thiêng liêng đó lại trở thành một gánh nặng tâm lý cho tôi. Nhiều lúc, tôi cũng thích “hủ hoá” chút chút nhưng vì mình là tác giả của Quốc ca nên lại phải giữ gìn. Vậy là khác nào trên đầu tôi đang có chiếc “vòng kim cô” của nhà Phật hầu, muốn thoát tục cũng không được. Thế là tôi lại thấy mừng bởi sắp được thoát khỏi cái “vòng kim cô” đó”.

Thấy tôi tỏ vẻ hơi lạ tai khi ông nhắc đến từ “hủ hoá “, ông đọc vị nhanh trong đầu tôi và giải thích: “Cái từ “hủ hoá” mà tôi vừa nói, cậu đừng hiểu sai đi nhé! Nó có nghĩa rất rộng và không hoàn toàn như người ta hay dùng cụm từ đó cho người nào có tính lăng nhăng vụng trộm trai gái đâu. Ý tôi muốn nói là sắp đến lúc mình cũng sẽ được tự do hơn, bớt phải ý tứ, đạo mạo hơn khi đi đâu, làm gì. Muốn ngồi vệ đường làm chén rượu suông , uống chén trà nóng nói chuyện tào lao với bè bạn, tôi đều có thể tự do thoải mái, không còn phải giữ ý như bây giờ. Nếu có quá chén rồi nói quá lời một chút cũng chẳng ảnh hưởng tới ai. Nếu phải bò lê về nhà lúc quá chén thì cũng là chuyện bình thường của một con người. Muốn ngắm một phụ nữ đẹp để lấy cảm hứng sáng tác những bức tranh, tôi cũng cảm thấy thoải mái, tự nhiên hơn… Chỉ vì vướng cái “vòng kim cô” kia mà tôi lại phải đạo mạo hơn, nhiều khi không còn là “tôi” của ngày xưa nữa. Cậu đừng tưởng đó là chuyện giản đơn nhé. Người có tiếng tăm một chút nó khổ vậy đấy! Với một anh làm văn nghệ như tôi, quả là rất khó!”.

Vậy là từ 15.7.2016 này trở đi, “Tiến quân ca” – đứa con tinh thần của cố nhạc sĩ Văn Cao dù đã đi suốt chiều dài lịch sử nước nhà với biết bao tự hào cũng như không ít thăng trầm ở nơi con người đa tài ấy sẽ chính thức trở thành tài sản quốc gia. Song dù ở vị thế nào, cho dù quyền tác giả của ca khúc bất hủ đó được hiến tặng cho đất nước thì tên tuổi của ông luôn sống mãi theo thời gian và đồng hành cùng dân tộc… Trong dịp này, ngoài việc cố nhạc sĩ được Đảng , Nhà nước trao Huân chương cao quý, có lẽ cũng nên nghĩ đến gia đình ông, những người lẽ ra được hưởng quyền thừa kế tác phẩm vô giá kia. Nếu có được một chính sách gì đó cho gia đình ông thì kể cũng xứng đáng. Tôi tin rằng, ở nơi suối vàng, cố nhạc sỹ sẽ nhấp ly rượu trắng quen thuộc rồi ngậm cười cùng tất cả chúng ta, những thế hệ sau, luôn biết uống nước nhớ nguồn…

Quốc Phong

@ Văn Cao: một thiên tài bị lưu đày _______________________________ Trần Mạnh Hảo

Âm nhạc sang trọng bậc nhất nước Việt của ông còn sống mãi. Những bài hát rất hay, rất quý phái cao sang đầy chất thánh ca của ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng ca Cái Đẹp, như một cứu cánh góp phần cứu chuộc dân tộc ta, đất nước…

… ta đang có cơ bị diệt vong bởi chính sự băng hoại của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi ông bằng tên gọi thường nhật trìu mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi thầm tên ông: ANH VĂN; như ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu gần rạp xiếc. Vâng, anh Văn suốt một đời sống chết cũng chỉ vì hai chữ Nhân Văn thiêng liêng, cao cả này mà thôi… \> * \> “Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư…” – Trịnh Công Sơn. \> \> Năm 2013 này là năm kỷ niệm 90 năm ngày sinh của thiên tài văn nghệ Văn Cao – người đã tự lưu đầy mình vào vĩnh cửu bằng ba tài năng lớn: hội họa, thi ca và âm nhạc. Văn Cao nhà cải cách tiền phong cả ba nghệ thuật: hội họa, âm nhạc và thi ca. Bài này chỉ nói về kiếp nhạc của Văn Cao. \> Không đợi khi xuân đến, tết về như dịp này, chúng tôi mới nghe lại bản nhạc bất hủ: “Mùa xuân đầu tiên” Văn Cao khởi viết cuối tháng 12-1975, hoàn thành trong dịp tết Bính Thìn năm 1976. \> Đây là bài hát có số phận đặc biệt nhất trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát mang nhiều tâm trạng đối lập, hòa trộn nước với lửa: vui ít, buồn nhiều, mừng ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào nhiều, bâng khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở than nhiều, cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc nhiều, sum họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ vơ nhiều… \> Hầu như tất cả các trạng thái tình cảm trái ngược nhau của con người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này: ai vui hát lên thì nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát lên thấy một trời đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm đang đồng cảm cùng mình… \> Nghe đi nghe lại bản nhạc này, ta thấy xuất hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe bản nhạc “ Mùa xuân đầu tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng mình. \> \> Riêng lời bài hát đã là một bài thơ hay: \> \> “Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về \> Mùa bình thường mùa vui nay đã về \> mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên \> Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông \> một trưa nắng cho bao tâm hồn. \> Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về \> Người mẹ nhìn đàn con nay đã về \> Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên \> Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh \> Niềm vui phút giây như đang long lanh. \> ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên. \> ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm. \> Từ đây người biết quê người \> Từ đây người biết thương người \> Từ đây người biết yêu người. \> Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về \> Mùa bình thường, mùa vui nay đã về. \> Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu \> với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông \> một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.

Rất nhiều chim én, nhiều nắng gió, có nước mắt vui gặp gỡ của đàn con nay đã về, có cuộc đời êm ấm… nhưng sao hình ảnh “khói bay trên sông, gà đang gáy trưa trên sông” lặp lại hai lần làm không gian của “Mùa xuân đầu tiên” xa xôi, bơ thờ thế, xao xác thế, hoang vắng thế, hiu quạnh thế, đơn độc có phần cô đơn thế? Chợt nhớ nỗi buồn thiếu quê hương của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng gà trưa Văn Cao nay, một khói sóng trên sông xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết: “một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông”: \> \> Nhật mộ hương quan hà xứ thị, \> Yên ba giang thượng sử nhân sầu. \> (Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu? \> Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!) \> \> Chợt nhớ Lưu Trọng Lư “thời con nai vàng ngơ ngác” với câu thơ tiền chiến xưa sao rất đồng cảm với nỗi vui não nùng Văn Cao nay: “Tiếng gà trưa xao xác não nùng”. \> \> Bài hát như một điệu valse bằng nước mắt; sự thướt tha, quý phái của một giai điệu bi thương; sự sang trọng của ngậm ngùi, day dứt; sự lãng mạn của một phiêu linh, xô dạt; sự mê đắm của một vu vơ; sự đoan trang của cái đẹp lỡ thì; sự liêu trai của ngơ ngác, đìu hiu; sự dịu dàng của nỗi thương đau, xót nhớ… \> Chừng như đã mấy chục năm chiến tranh liên miên chưa từng có xuân về? Chừng như gần hết cả đời người bận chuyện đấu tranh giai cấp giành giật miếng ăn chưa từng thấy chim én báo xuân? Chừng như đã rất lâu rồi sự căm thù trùm lên xã hội không còn ai biết thương người? Chừng như đã lâu lắm rồi ta tha hương trên chính quê hương mình? Chừng như suốt mấy cuộc chém giết kinh hoàng mạo danh cách mạng, không còn ai biết yêu con người? Chừng như mấy mươi năm rồi con người đã quên mình còn nước mắt? Chừng như lâu rồi tâm hồn người không được sưởi nắng mùa xuân? \> Và chừng như lâu lắm rồi Văn Cao quên không còn nhớ mình từng là nhạc sĩ lãng mạn đã có cả chục ca khúc vào hàng kiệt tác? Chừng như cây đàn piano cũ kỹ do Hội nhạc sĩ Việt Nam cho Văn Cao thuê mỗi tháng 07 đồng, (thuê căn gác chật hẹp cũ kỹ 108 Yết Kiêu 15 đồng) đã bị thời gian phủ bụi đầy rêu mốc? Chừng như đôi tai Văn Cao đã bị súng đạn thời cuộc, sự hò hét xướng ca hò vè phục vụ chính trị một thời làm ù đặc, khi tất cả các kiệt tác âm nhạc của ông đều bị chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa (Miền Bắc) cấm hát, trừ bài quốc ca (kể cả thơ Văn Cao cũng bị cấm)? \> Và chừng như toàn bộ vết thương cuộc đời Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà nhỏ xuống cây đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến những vết thương chợt mở miệng ca hát: “Mùa xuân đầu tiên” \> Chừng như nỗi niềm ngày 30 tháng tư năm 1975: “có một triệu người Việt Nam vui thì cũng có một triệu người Việt Nam buồn” (lời ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi bài hát: “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao? Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi nghe có một nửa nước vui thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn thua trận cũng trào nước mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng xé nhau, cười khóc mếu máo bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh đênh phiêu bạt thế, nức nở nghẹn ngào thế? \> Có lẽ, chính vì những điều trên mà kiệt tác “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao sau khi được báo “Sài Gòn giải phóng” in trước tết Bính Thìn: 01-01-1976, được hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy lần liền bị cấm suốt 24 năm (1976-2000). Sinh thời, Văn Cao không được nghe, được nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao này của mình được trình diễn. Sau khi ông mất (1995) 05 năm, “Mùa xuân đầu tiên” mới ra khỏi nhà tù kiểm duyệt của chế độ. \> Xin quý bạn đọc hãy nghe nhà thơ, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự ra đời của bài hát này: \> “Sau khi bài “Tiến về Hà Nội” ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa… Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng… \> \> Tôi còn lưu giữ được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói. Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hoá” mất 30 năm thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc Việt Nam. \> \> Những ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên những ly rượu tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”. \> \> Văn Cao đã sáng tác xong ca khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn.” \> Văn Thao tiết lộ tiếp rằng, bài hát bị cấm ở Việt Nam nhưng bên nước Liên Xô người ta lại dịch sang tiếng Nga, phát trên Đài phát thanh Matxcova: \> \> “Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN đã được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: “Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu.”” \> //tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c168/n2814/Van-Cao-voi-ca-khuc-Mua-xuan-dau-tien.html \> \> Qua tiết lộ trên của anh Văn Thao, con trưởng nhạc sĩ thì nhà ông Văn Cao trên căn gác nhỏ 108 Yết Kiêu suốt một thời luôn luôn có công an ngầm canh gác, ai đến đều “bị vỗ vai” hỏi tên tuổi, xem đến nhà tên phản động “Nhân Văn” làm gì? Người viết bài này sau năm 1975 có lần đến thăm nhạc sĩ Văn Cao để cho ông mượn cuốn tiểu thuyết vĩ đại: “Giờ thứ 25” của văn hào Romania Constantin Virgil Gheorghiu (1916-1992) mang ra từ Sài Gòn như đã hứa, cũng đã từng bị công an mật “vỗ vai” hỏi đi đâu? Bèn bảo: đi phỏng vấn tác giả “Quốc ca” viết bài in báo cũng bị cấm à? Người “vỗ vai” hất đầu cộc lộc: “Vào đi”. \> \> Người ta đã cầm giữ Văn Cao như một tù nhân lương tâm bị giam lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân kiểu xã hội chủ nghĩa. Rằng Văn Cao bị vô hiệu hóa suốt 30 năm vì tội Nhân Văn – Giai Phẩm. Rằng suốt 30 năm ấy, nhạc sĩ Văn Cao sống rất nghèo khổ, “bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu”. \> \> Chúng ta lại được nghe người con trai thứ của nhạc sĩ Văn Cao, nhà thơ Nghiêm Bằng kể sơ qua về sự ra đời của “Mùa xuân đầu tiên”: \> \> “Đó là một đêm vào giữa tháng 12-1975. Chúng tôi đang sống với cha mẹ trong ngôi nhà số 108 Yết Kiêu. Mùa đông Hà Nội rét tê tái. Cha tôi đã từ lâu rồi không đàn. Vậy mà trong đêm ấy, tôi nghe có tiếng chân nhè nhẹ lần từng bước từ phòng trong ra gần chiếc đàn piano – đối diện với chiếc đivăng tôi đang ngủ.

Một giai điệu khe khẽ vang lên, nó được đàn bởi một bàn tay phải. Cũng phải nói thêm là cha tôi đã đàn trên chiếc đàn vốn được Hội Nhạc sĩ VN cho thuê lại với giá 7 đồng rưỡi một tháng (lương tôi hồi đó là 63 đồng, còn tiền thuê nhà là 15 đồng); từ ngày kỷ niệm 30 năm Tiến quân ca (1974), chiếc đàn mới được tặng hẳn cho cha tôi thì cha lại rất ít có dịp dùng đến. \> \> Bài hát đã được báo Sài Gòn Giải Phóng số năm mới 1-1-1976 in trang trọng ở bìa 4 và thu thanh ngay sau đó, được phát trên sóng Đài Tiếng nói VN, nếu tôi không nhầm thì do ca sĩ Trần Khánh và đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói VN trình bày. Bài hát được phát khoảng mươi lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được truyền bá chủ yếu qua sóng phát thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như thể bị quên lãng. \> \> Như mọi lần, trong suốt mấy chục năm, cha không tỏ ra bực bội gì, chỉ hơi buồn thôi. Cha tôi nói chắc chắn bài hát sẽ có ngày được hát lại và mọi người sẽ yêu nó. Và như mọi lần, cha tôi lại đúng. Chỉ có điều lúc đó cha tôi không còn nữa. Khi bài hát lần đầu tiên được phát trên sóng truyền hình Việt Nam năm 2000, cha tôi đã mất được năm năm.” Với tất cả tội trạng tày trời do Xuân Diệu đấu tố Văn Cao công khai trên báo chí, tội của Văn Cao có khi còn to hơn tội của bà nhà văn Thụy An và ông Nguyễn Hữu Đang (cùng bị án 15 năm tù giam, 05 năm quản thúc vì hai người này bị cho là đầu sỏ gây ra vụ án chống đảng “ Nhân văn – giai phẩm”). Sở dĩ Văn Cao thoát tù mọt gông vì ông chính là tác giả Quốc ca. \> \> Ngay sau vụ “Nhân Văn”, nhà nước cộng sản tính lấy một bài hát “Cách mạng tiến quân” của Đỗ Nhuận làm bài quốc ca, thay bài “Tiến quân ca” của Văn Cao nhưng việc không thành. Mấy năm sau, năm 1981 nhà nước mở cuộc thi quốc ca trong suốt hai năm, quyết thay bài hát của tên phản động đang bất đắc dĩ dùng làm quốc ca; nhưng mấy trăm bài dự thi thay đổi quốc ca, không bài nào được chọn (vì quá tẻ nhạt) để thay thế bài ca lịch sử của Văn Cao. \> Nếu không có bài quốc ca che chắn, có lẽ Văn Cao có thể đã chết trong tù Cộng sản? Một Văn Cao mềm mỏng, nồng nàn, say đắm, lãng mạn tận cùng (với các ca khúc bất diệt: “Buồn tàn thu”, “Suối mơ”, “Bến xuân”, “Trương Chi”, “Thiên Thai”…) trong một Văn Cao tỉnh bơ, quyết liệt, lạnh băng, thần kinh thép, thậm chí dữ dằn, sắt máu: “thề ăn gan uống máu quân thù”… “đường ta đi xây xác quân thù”… đến cùng tận khi một mình một xe đạp, đến tiệm hút thuốc phiện ở Hải Phòng, dương khẩu súng lục số 7165 của tổ chức (do Nguyễn Đình Thi trao) nhắm thẳng vào đầu Đỗ Đức Phin (bị Việt Minh cho là tay sai của Nhật) tuyên án từng lời đanh thép: tao bắn mày vì mày là Việt gian tay sai giặc Nhật! Đoạn, Văn Cao bóp cò súng cái đoàng, đầu Đỗ Đức Phin nức toác, tóe máu; rồi ông thủng thẳng nhét súng vào thắt lưng, đủng đỉnh đạp xe đi như đang dạo mát… \> Sau này, cả cuộc đời còn lại, Văn Cao vô cùng ân hận vì đã bắn chết một con người là Đỗ Đức Phin. Đến nỗi, sự sám hối quằn quại khôn xiết này đã khiến ông không còn dám gõ lên piano những giai điệu lãng mạn tuyệt đẹp thuở ban đầu kiểu “Suối mơ”, “Bến xuân”… nữa; vì ông có cảm giác tay mình còn nhuốm máu đồng loại. Thế mà, có những kẻ vô lương tâm, can dự vào việc giết chết hàng chục triệu đồng bào vô tội của mình mà vẫn vênh mặt tự hào, chẳng một chút ăn năn sám hối! \> Nghe nói Văn Cao còn bắn sẩy (bắn hụt) hai mật thám Nhật tại Hà Nội là Cung Đình Vạn và Võ Văn Cẩm (không biết có phải vì ông căm thù quân Nhật từng giết bố vợ mình là cụ Nghiêm Xuân Huyến – một chủ báo, chủ xuất bản lớn Hà Nội từng bị Nhật thủ tiêu trong tù?). Một con người như thế không dễ gì thỏa hiệp, đầu hàng, thà chết cho điều mình tin yêu hơn là phải sống như một chiếc bóng trong suốt hơn ba mươi năm bị giam lỏng trong án tù thả rông: “Nhân văn – Giai phẩm”… \> Có lần, Văn Cao kể cho người viết bài này (trong một bàn rượu đơn sơ “cuốc lủi”, lạc rang, đậu phụ mắm tôm, với bạn tâm giao: nhà văn Mạc Phi, nhà văn Sơn Tùng…) rằng: “Sau vụ Nhân Văn, anh em “chống đảng” chúng tôi, ngoài mấy người bị án tù 15 năm, tất cả đều bị đi cải tạo lao động trên Tây Bắc. Trong chặng đường đi đày trên tàu hỏa, dù tôi đang đau dạ dày nặng sắp chết vẫn bị điệu đi, mấy lần tôi đã toan nhảy xuống đường tự tử khi tàu chạy, nhưng hình bóng đàn con lóe lên trong đầu như ánh chớp, hình bóng bà Băng (bà Nghiêm Thúy Băng – phu nhân nhạc sĩ) còng lưng nuôi đàn con bơ vơ mất bố, tôi liền bỏ ý định tự sát để tiếp tục sống hèn mà trở về nuôi con…” \> Có lẽ men “cuốc lủi” làm Văn Cao cảm động, tay ông run run, kể tiếp: “Thảm nhất là khi ở nơi cải tạo lao động, đến bữa ăn, cứ thấy mình ngồi bàn nào là anh em (cùng bị đi đày lao động) lại tìm sang bàn khác ngồi, không ai chịu ngồi cùng bàn ăn với kẻ đầu sỏ Nhân Văn, đến nỗi chị nuôi trại đi đày phải xẻ một suất cơm ôi cá thối cho tôi ngồi một mình một bóng mà ăn cho khỏi chết đói chứ nào có ngon lành gì…” \> Ngày 30 tháng tư 1975, ngày kết thúc 30 năm chiến tranh, theo mấy người con và mấy người bạn thân của nhạc sĩ kể lại, Văn Cao im lặng không nói gì, không reo mừng hò hét vỗ tay vỗ chân rầm rập trong hàng nghìn ca khúc khẩu hiệu điếc tai như phần lớn đồng nghiệp đã hét. Có lẽ, ông nghĩ rằng, nhờ chiến thắng này mà có thể thân phận “tù tại ngoại” của ông cũng sẽ được giải phóng, thoát án giam lỏng nhân văn chăng? \> Dồn nén khát vọng tự do mấy chục năm, dồn nén khát vọng hòa bình mấy chục năm, dồn nén khát vọng mùa xuân mấy chục năm, dồn nén khát vọng thoát khỏi “nhà giam tư nhân” mấy chục năm, dồn nén khổ đau buồn hận mấy chục năm, dồn nén oan ức bị chà đạp mấy chục năm, chợt một sáng cuối đông, đầu xuân năm 1976, vỡ òa cảm xúc, vỡ òa nước mắt nhỏ giọt yêu thương, nhỏ giọt mật đắng nghẹn ngào lên từng phím đàn thành giai điệu Văn Cao “Mùa xuân đầu tiên” chăng? \> Thành ra, “Mùa xuân đầu tiên” chính là lời reo vui của đắng cay, niềm rưng rưng kiếp nạn giải thoát, nỗi hoan ca ngục tù gặp nắng gió mênh mông…? \> Xin xem thêm tài liệu tổng kết vụ án “Nhân Văn – Giai Phẩm” (NVGP) của đại tá công an A 25 Thái Kế Toại đã in công khai trên rất nhiều trang mạng, để thấy thân phận của Văn Cao suốt ba mươi năm dưới chế độ “ưu việt gấp triệu lần tư bản” thê thảm là dường nào (xem chú thích cuối bài) \> Qua lời tự thú của vị đại tá công an phụ trách theo dõi văn hóa văn nghệ trên, ta thấy số phận kẻ trọng tội NVGP bị lưu đày trong chính căn phòng mình, trên chính quê hương mình của Văn Cao và các bạn hữu NVGP của ông hầu như đã bị tước quyền công dân, tước hết quyền sáng tạo nghệ thuật, bị “giam tại nhà”, bị đấu tố, bị làm nhục, bị cải tạo lao động hà khắc; không khác mấy so với những kẻ thua trận Việt Nam cộng hòa bị tù tội trong danh phận học tập cải tạo sau năm 1975… \> Không thấu hiểu hoàn cảnh sống bị chà đạp, bị lăng nhục, vùi dập, bị đói khổ, bị mất hết tự do nơi Văn Cao suốt ba mươi năm, chúng ta sẽ không cảm nhận được hết nỗi vui của người tù vừa tìm thấy một khe hở gió nắng, được vụt lóe với khói trên sông, với tiếng gà trưa hiu quạnh trong nỗi đau nghẹn ngào “Mùa xuân đầu tiên” này… \> \> Chính nỗi đau buồn kia đã đẩy Văn Cao tới chân tường của cô đơn, lưu đày ông vào ly rượu và khói thuốc. Chứng nghiện rượu đã giúp Văn Cao phần nào quên đi thực tại thê thảm, giúp ông có nghị lực để sống qua thời thương khó. Nhiều đêm, không ngủ được, thức khuya để tìm ảo giác trong men rượu, thấy bóng mình in trên tường, Văn Cao chợt rùng mình hoảng sợ, ngỡ là công an mật nửa đêm xuyên tường đến hỏi cung ông, suýt nữa làm ông co cẳng ù té chạy… \> Suốt một đời Văn Cao không chạy thoát khỏi bóng mình, không thoát khỏi kiếp lưu đầy thiên bẩm của một nghệ sĩ lớn mà thời đại dường như không đủ chỗ cho mình tỏa bóng. Đành thu bóng lại như con mèo nghệ thuật nằm cuộn tròn trong đống tro tàn cải tạo tại gia mà ăn năn hối cải về tội chống đảng của mình. \> Đâu rồi chàng trai Văn Cao yêu đời, yêu người, tự do tự tại, thanh bình, phiêu lãng miền thiên giới, thần tiên sống lẫn con người, lãng mạn tới tận cùng chân trời góc bể trong những ca khúc tiền chiến tuyệt tác? Xin cùng nghe lại bản nhạc đầu tay tuyệt diệu của trang thiếu niên 16 tuổi, và xem lại lời của ca từ “ Buồn tàn thu”: \> \> Buồn Tàn Thu \> \> Ai lướt đi ngoài sương gió, Không dừng chân đến em bẽ bàng, Ôi vừa thoáng nghe em mơ ngay bước chân chàng, Từ từ xa đường vắng. Đêm mùa thu chết, nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng. Em ngồi đan áo lòng buồn vương vấn, em thương nhớ chàng. Người ơi còn biết em nhớ mong, Tình xưa còn đó xa xôi lòng. Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên Chim với gió bay về, chàng quên hết lời thề. Áo đan hết rồi, cố quên dáng người, Chàng ngày nào tìm đến? Còn nhớ đêm xưa kề má say sưa Nhưng năm tháng qua dần, mùa thu chết bao lần. Thôi tình em đấy, như mùa thu chết rơi theo lá vàng. \> “Buồn tàn thu” một nỗi buồn đẹp, trong veo dù tình em tưởng “chết rơi theo lá vàng”. Cái buồn của tình yêu “ em thương nhớ chàng” Văn Cao kết hợp hồn nhạc ngũ cung với chất khải huyền Thánh ca Thiên Chúa giáo rất cổ thi; như người chinh phụ nhớ chinh phu “ Chinh phụ ngâm” Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm, như thần thiếp nhớ quân vương “ Cung oán ngâm khúc” Nguyễn Gia Thiều, Kiều nhớ Thúc Sinh trong mùa thu chết “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” Nguyễn Du thuở lục bát “ người lên ngựa, kẻ chia bào” của “ bụi hồng dặm cuốn chinh an”… \> Cái buồn của con người gặp cái buồn của trời đất, rất “ mang mang thiên cổ sầu” Văn Cao. Chàng thiếu niên 16 tuổi đã ký thác đời mình trong vàng thu lá chết, lấy lá vàng mùa thu làm chiếc diều của của nghệ thuật muôn đời siêu thoát. Chàng tự lưu đày mình vào mùa thu một cách tự nguyện. Chàng chết đuối theo vàng thu chìm nghỉm để bất tử trong giai điệu du dương, sang trọng, như danh họa Nga gốc Do Thái Levitan phó linh hồn cho mùa thu Nga vĩnh cửu sơn dầu… \> Ngay từ 16 tuổi, bằng sự lãng mạn tận cùng qua “ Buồn tàn thu”, Văn Cao đã sung sướng được đắm chìm vào vương quốc Cái – Đẹp. Chàng dùng nỗi buồn làm rượu, làm lương thực hằng sống nuôi dưỡng những giai điệu du dương lãng mạn đẹp nhất của nền tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu trong năm kiệt tác vô song:” Buồn tàn thu”, “ Suối mơ”, “ Bến xuân” (lời Phạm Duy) “ Trương Chi” và “ Thiên Thai”… \> Dường như năm bản nhạc lãng mạn trên là năm bản thánh ca của tâm hồn con người, đưa ta thoát mọi phàm tục để được thánh hóa, được thăng hoa tới muôn vàn mê đắm, thoát khỏi hận thù mà bất tử với thương yêu? Bản tình ca của nỗi buồn, của Cái – Đẹp ban sơ được hát lên cùng thiên giới thiêng liêng niềm hoài niệm trần thế; nơi suối nguồn róc rách mê ly chảy ra từ năm dòng kẻ nhạc Văn Cao, theo giai điệu thiên thần réo rắt thanh tao kia mà rót vào hồn ta hơi thở đất trời, rót vào tai ta chất men say của niềm ham sống, của tin yêu và hoài vọng. Âm nhạc Văn Cao nâng cánh con người bay lên cõi đẹp, cõi mê, cõi thần tiên, cõi hằng sống là vì thế chăng? \> Chừng như Văn Cao đã ngầm ký gửi thân phận mình vào hai ca khúc lãng mạn một cách siêu nhiên có phần kỳ bí, huyền nhiệm: “ Thiên thai” và “ Trương Chi”, vừa mang phong cách cao sang, nền nã, cổ điển của nghệ thuật Apollon – thần ánh sáng và thi ca, vừa mang phong cách ma mị, xuất thần, cuồng si của nghệ thuật Dionysos – thần rượu nho (theo quan niệm về bi kịch Hy Lạp của Nietzsche)? \> Văn Cao, ngay từ độ đôi mươi, đã tự đày ải mình lên miền thiên giới trong đại kiệt tác “ Thiên Thai”. Cuộc nhập “Thiên Thai” ấy không chỉ có hai chàng Lưu Nguyễn mà thực ra đã có ba chàng: người tham gia khí muộn vụ thiên hành lên cõi tiên ấy chính là Văn Cao: \> \> Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng \> Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên \> Kià đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên \> theo gió tiếng đàn xao xuyến \> Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền \> Mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền \> \> Âm ba thoáng rung cánh đào rơi \> Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời \> Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan \> Quê hương dần xa lấp núi ngàn \> Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền \> Ai hát trên bờ Đào Nguyên

Thiên Thai chốn đây Hoa Xuân chưa gặp Bướm trần gian \> Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần \> Thiên Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm \> Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn \> \> Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quyên \> đây đó nỗi lòng mong nhớ \> Này khúc bồng lai \> là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi \> Đàn xui ai quên đời dương thế \> Đàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên \> \> Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian \> Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần \> \> Gió hắt trầm tiếng ca tiếng phách ròn lắng xa \> Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta \> \> Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn \> Cùng bầy tiên đàn ca bao năm \> Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về \> Tiên nữ ơi! \> Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về \> Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao? \> Những khi chiều tà trăng lên \> Tiếng ca còn rền trên cõi tiên \> \> Văn Cao và hai chàng Lưu Nguyễn đã nhập “Thiên Thai” nghệ thuật. Nơi đó, Cái Đẹp chính là tiên nữ, khởi nguồn mọi xúc cảm hồn người. Nghệ thuật, nói cho cùng KHÔNG VỊ BẤT CỨ ĐIỀU GÌ, vì nó là cái chân thiện mỹ đã được thánh hóa, được đóng dấu thiên giới cao sang. Tột cùng của nghệ thuật là sự thoát tục, sự thăng hoa con người lên những thế giới khác, tâm hồn khác, rung động khác, mê ly khác, ảo diệu khác… do con đò của tưởng tượng chở ta sang bờ bên kia của sự thật, bờ bên kia của thế giới. \> \> Những giai điệu thần tiên mê ly hết mực Văn Cao đã đưa hồn ta du nhập cùng ba chàng lãng tử Lưu – Nguyễn – Văn vào cõi trời. Thiên Thai ấy, tiên nữ ấy, nghê thường ấy hóa ra không ở đâu xa, lại ở chính nơi hồn ta khi được âm nhạc thiên tài Văn Cao đánh thức… \> \> Văn Cao hóa thân vào bi kịch nghệ thuật Trương Chi, hay chính hồn chàng Trương Chi đã ám lấy cuộc đời Văn Cao trong một ca khúc hay đến rợn người, hay đến ngờ có ma trong giai điệu du dương chìm lắng, thê lương, rờn rợn liêu trai, khuya khoắt ngồi nghe một mình có thể nổi da gà: \> \> Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ \> Trầm trầm không gian mới rung thành tơ \> Vương vất heo may hoa yến mong chờ \> Ôi, tiếng cầm ca thu tới bao giờ. \> \> Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang, \> Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan \> Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng \> Đây đó từng song the hé đợi đàn. \> \> Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân \> Hò khoan mơ bóng con đò trôi \> Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời \> \> Anh Trương Chi \> Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung, \> Anh thương nhớ. \> Oán trách cuộc từ ly não nùng. \> \> Đò trăng cắm giữa sông vắng. \> Gió đưa câu ca về đâu? \> Nhìn xuống đáy nước sông sâu. \> Thuyền anh đã chìm đâu! \> Từng khúc nhạc xa vời \> Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi. \> Sương thu vừa buông xuống \> Bóng cây ven bờ xa mờ xóa dòng sông \> \> Ai qua bến giang đầu tha thiết, \> Nghe sông than mối tình Trương Chi \> Dâng úa trăng khi về khuya, \> Bao tiếng ca ru mùa thu. \> \> Ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn \> Còn nghe như ai nức nở và than, \> Trầm vút tiếng gió mưa \> Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng? \> Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn \> Về phương xa ai nức nở và than, \> Cùng với tiếng gió vương, \> Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa. \> \> Đò ơi! Đêm nay dòng sông Thương dâng cao \> Mà ai hát dưới trăng ngà \> Ngồi đây ta gõ ván thuyền, \> Ta ca trái đất còn riêng ta. \> Đàn đêm thâu \> Trách ai khinh nghèo quên nhau, \> Đôi lứa bên giang đầu. \> Người ra đi với cuộc phân ly, \> Đâu bóng thuyền Trương Chi? \> \> Bi kịch Trương Chi chính là bi kịch của nghệ thuật, bi kịch cuộc đời, hơn nữa là bi kịch của thiên tài và thời đại, bi kịch của Văn Cao và chế độ…Hình như Văn Cao đã đổi vai cho chàng ca sĩ thiên tài Trương Chi trong câu chuyện cổ diễm tình, được kể lại bằng hồn Văn Cao với giai điệu bi ca, khốc ca, hú ca, Mỵ Nương ca? \> \> Hồn Trương Chi u uẩn, u u trong gió sương vương vấn trên sông, đêm đêm đã lấy đi hết nước mắt nàng Mỵ nương ân hận nghìn đời. Nay hồn ấy, tình đơn phương yêu đến chết ấy lại nhập vào hồn Văn Cao với giai điệu sầu thương, nức nở, lấy đi bao giọt khóc của người nghe nhạc hôm nay. \> \> Thương thay chàng Trương Chi Văn Cao đã dâng hiến cả tâm hồn và thân xác mình cho tình yêu con người, cho tình yêu thời đại, yêu đến nỗi cuồng điên kiểu Xuân Diệu: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” nhưng đã bị thời đại đáp lại bằng “cú đớp chính trị” Nhân Văn Giai Phẩm tàn mạt cả một đời. \> \> Nàng Mỵ Nương cuộc đời, nàng Mỵ Nương thời đại không chấp nhận tình yêu đơn phương tận hiến ấy, yêu và ca hát như con ve tới chết cho nàng, vì nàng, một tình yêu phi điều kiện, phi chính trị. Cũng như Trương Chi, Văn Cao đã bị nàng Mỵ Nương – Thời đại phụ tình, hớp hết hồn chàng, rút hết gan ruột chàng trong các ca khúc kháng chiến bất hủ: “Trường ca Sông Lô”, trong “ Tiến quân ca”, trong “ Làng tôi”, trong “Tiến vế Hà Nội”, trong “ Ngày mùa”… ăn ốc đổ vỏ, rồi nhốt chàng vào mật thất cô đơn như một huyệt mộ của tự do trá hình có tên là căn gác chật hẹp 108 Yết Kiêu, Hà Nội, thuê 15 đồng một tháng (ở tù tại gia mà phải thuê a?)… \> \> Trương Chi đã yêu, đã chết cho mối tình lý tưởng đơn phương, thân xác tan vào sông nước và hồn hóa thành đá quý làm chén ngọc cho Mỵ Nương gieo nước mắt thương tình thành sông. Văn Cao không ném thân xác mình vào cát bụi để được chết vì yêu như Trương Chi; nhưng linh hồn ông, âm nhạc ông đã đang và mãi mãi sẽ được người đời yêu thương đón nhận. Hồn Văn Cao còn hát mãi tiếng tuyệt vời Trương Chi trên dòng sông âm nhạc, nơi sẽ có hàng nghìn Mỵ Nương xinh đẹp mong ước chàng sống lại để hậu thế được yêu chàng như lời thơ R. Tagore vẽ hộ tình yêu mai sau dành cho chàng Trương Chi – Văn Cao: \> \> “Nàng ơi / tất nhiên là nàng sẽ ra đời / trong một thế kỷ nào đó / xin nàng tha thứ cho / nếu quả vì tôi kiêu hãnh / vẽ dáng nàng đang đọc thơ tôi / khi trăng rọi im lìm qua khe chữ / tôi biết đêm nay / dưới trăng mờ / nàng thắp đèn chờ / dù nàng biết chẳng bao giờ nhà thơ (nhạc sĩ – chua thêm TMH) đến nữa …” (bản dịch từ tiếng Anh của Cao Huy Đỉnh) \> \> Tiền bối Văn Cao ơi! \> \> Âm nhạc sang trọng bậc nhất nước Việt của ông còn sống mãi. Những bài hát rất hay, rất quý phái cao sang đầy chất thánh ca của ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng ca Cái Đẹp, như một cứu cánh góp phần cứu chuộc dân tộc ta, đất nước ta đang có cơ bị diệt vong bởi chính sự băng hoại của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi ông bằng tên gọi thường nhật trìu mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi thầm tên ông: ANH VĂN; như ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu gần rạp xiếc. Vâng, anh Văn suốt một đời sống chết cũng chỉ vì hai chữ Nhân Văn thiêng liêng, cao cả này mà thôi… \> Sài Gòn ngày 23-01-2013 \> Trần Mạnh Hảo

@ Về nhạc sĩ VĂN CAO ___________________ Nguyễn Thanh Giang

Ngày 15 tháng 7 năm 2016 Nhà nước CHXHCNVN đã long trọng tổ chức lễ tiếp nhận bài hát “Tiến quân ca”. Bài hát được xưng tụng là quốc ca, tác giả được truy tặng huân chương Hồ Chí Minh, vợ tác giả, bà Nghiêm Thúy Bằng được nhận bằng khen Chính phủ. Nhận dip này mời quý vị đọc lại tiểu luận “Tản mạn về người viết quốc ca Việt Nam” của tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang viết từ Mùa Thu 1992 để cùng nghe vang vọng những tiếng rên thảm khốc của người nhạc sỹ tài ba trong suốt quãng đời đằng đẵng bị ĐCSVN truy bức thật tàn bạo. (Bùi Hiền)

Chuẩn bị tiễn Văn Cao rời thành phố Hồ Chí Minh về Hà Nội hôm mồng 5 tháng 8 năm 1993, nhà thơ Đỗ Trung Quân có đêm đã hình dung thấy ở trên trời: “Ngày mai có một chuyến bay cất cánh, tóc ông và mây, cái nào trắng hơn?”.

Cho đến bây giờ, nhìn lên những đám mây trắng ấy, cũng thế, tôi như vẫn thấy một Văn Cao tiên phong đạo cốt lãng đãng đâu chốn Thiên Thai, trên một chiếc thuyền lan, dưới hoa, bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền, để nghe gió hát trầm tiếng ca, tiếng phách ròn lắng xa. Để, trong cái ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian huyền ảo kia, Văn Cao dõi tìm về quê hương, và lại thấy:

Một cánh tay sông Hồng Một cánh tay sông Lô Hai cánh tay như ôm Trung du

thấy:

Một nửa hình con trai ngày lấp lánh sắc cầu vồng một nửa mình trăng đêm nằm nghiêng trên cát biển (Quy Nhơn 1, 31.3.1985)

thấy:

Từ trời xanh rơi vài giọt tháp Chàm quanh Quy Nhơn (Quy Nhơn 3, 15.4.1985)

Thấy những làng tôi xanh bóng tre, mà dưới khóm lá lăn tăn lừng tiếng chuông, ban chiều, thường có

Vài ngôi nhà nho nhỏ Vẫn ngày đêm lấp lánh

mang vết thương xưa ngày đêm làm ngọc (Quy Nhơn 1, 31.3.1985)

Ở đấy tháng năm ấp ủ

Giấc mơ của mái nhà Giấc mơ của một người đang ngủ (Giấc mơ, 5.1.1972)

… Vậy mà, Văn Cao ơi, sao ông vẫn không thôi khắc khoải

tôi không đi qua tôi để lại gì? (Không đề, 1967)

Không, ông đã để lại nhiều lắm.

Đến nỗi chúng tôi dù đi xa đến bất cứ xứ sở nào; dù rồi đây, sẽ nằm sâu trong ba thước đất, chợt vẳng nghe thơ, nhạc của ông, chợt hình dung lại những bức tranh của ông, chúng tôi vẫn cứ còn như đang đi qua suốt cuộc đời này da diết, vẫn cứ còn da diết lưu luyến những chiều chưa đi sao gió vương? nơi con suối mơ bên rừng thu vắng, nơi bát ngát một dòng Lô với Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một mầu khói thu… của ông, của tôi, của nhân dân Việt Nam, của cả thế gian này.

Làm sao ngợi ca ông cho xứng tâm tưởng tôi hằng tôn vinh ông. Chỉ xin có đôi dòng tản mạn thắp lên mấy nén hương trầm dâng tặng ông.

  1. Sinh ra tôi đã có Hải Phòng

Câu thơ mở đầu trường ca Những người trên cửa biển này Văn Cao viết năm 1956. Sau này Nguyễn Khoa Điềm phóng tác thành: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”. Không biết câu thơ là Sinh tôi ra… hay phải là Sinh ra tôi… thì mới đúng (Vì trong Tuyển tập thơ Văn Cao ông đề tặng nhà văn Sơn Tùng, tôi thấy ông chữa bằng viết tay: “Sinh ra tôi”, trong khi ở các tập sách khác đều là “Sinh tôi ra”). Dẫu sao, đọc câu thơ trên, nhiều khi tôi cứ lẫn lộn, không biết Hải Phòng đã sinh ra ông hay ông đã góp phần sinh ra Hải Phòng. Cũng như chúa Giêsu sinh ra trong máng cỏ, hay chính Người đã sinh ra hoa trái cho đời?

Ngày Văn Cao chào đời, Đầu nhà mới trồng cây mận. Thật hạnh phúc cho cây mận nào được sinh cùng với ông. Để rồi… đau buồn sao cho cây sấu già trước sân nhà ông bỗng cùng gẫy đổ ngày ông mất; lúc 4 giờ sáng mồng 10 tháng 7 năm 1995.

Tuổi thơ ông, Hải Phòng sao ảm đạm quá:

Gió biển thổi về trắng trời, trắng đất Mười năm chưa nguôi nổi Mái rạ bờ tre xưa Cả cuộc đời chỉ thấy rơi nước mắt Chỉ nghe tiếng thở dài… (Ai biết Hải Phòng là đâu, 1956)

Thời đó Hải Phòng chỉ đủ nuôi

Những cuộc đời sau bức tường xám xa, lem nhem than khói Những bức tường hàng chục năm mưa nắng Trong từng ô từng cửa sổ của dãy phố ven sông Từng căn gác nhỏ chênh vênh chiếc dây phơi quần áo Từng cái hầm nhà lom nhom lửa bếp Những lá thuyền chen chúc nép bên nhau Qua chiếc lưới phơi thấp thoáng bóng người Cả cuộc đời của những con hà long lánh Bám chắc lấy chân cầu bao nhiêu năm trong bến(Những ngày báo hiệu mùa xuân, 1956)

Những con người cuối cùng tàn phế Như những vỏ thùng dầu Những đống than lò tắt lửa Giạt ra bên ngoài thành phố Đầu bờ cuối bãi lênh đênh (Ai biết Hải Phòng là đâu, 1956)

Lớn lên, xa Hải Phòng, bỗng có ngày ông nhận được “Tin từ Hải Phòng lên, cho biết mẹ tôi, các em và các cháu tôi đang đói khổ. Bà đưa các cháu nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường đã để lạc mất đứa cháu gái con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như đôi mắt con mèo con. Có thể nó nằm trong đám người chết đói dọc đường năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký hoạ để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.” (Tại sao tôi viết Quốc ca)

Vậy mà ông vẫn quả quyết:

Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi (Những ngày báo hiệu mùa xuân)

Thực ra Hải Phòng không phải quê gốc của ông:

Tôi không có quê hương Nghe đâu như Thái Bình, Hà Nam, Phủ Lý Như Nam Định Ruộng đất mênh mông trong tiếng hát Quê mẹ quê cha cách một vườn trầu (Ai biết Hải Phòng là đâu)

Gia đình ông là một trong những dòng người tha phương đổ về cho Hải Phòng ngày một đô hội:

Những hàng ren hàng thêu Nam Định Những thợ giỏi làng Hồ làng Bưởi Những giọng ca hay nhất Bắc Ninh Lũ lượt đi vào tỉnh (Ai biết Hải Phòng là đâu)

  1. Thuở nhỏ lòng tôi hướng mãi…

Văn Cao họ Nguyễn, tên đầy đủ là Nguyễn Văn Cao. Ngày 15 tháng 11 năm 1923, Văn Cao cất tiếng khóc chào đời ở chân nhà máy nước Hải Phòng, trong một căn nhà nhỏ nhìn ra bến Bính. Cụ thân sinh lúc bấy giờ là giám đốc (thầy cai) nhà máy nước Hải Phòng. Cậu bé Văn Cao có thời từng được ôtô đưa đón khi học tiểu học ở trường Bonnal, Nhật đảo chính Pháp, trường đổi tên thành trường Bình Chuẩn. Sau một thời gian bị đóng cửa, tháng 11 năm 1948 trường được tái lập và mang tên Ngô Quyền .

Năm 1985, về dự kỷ niệm 65 năm thành lập trường cũ, Văn Cao đã ghi lai những ký ức học trò:

Ta về tóc râu đã bạc Sân trường hơn nửa thế kỷ trôi đâu bạn bè xưa một thời trọc lốc trong bức ảnh cởi trần quần đùi

Thầy giáo khuất lâu rồi làm sao còn khi ta cũng sắp ơi ấu thơ những mảnh báo in thạch ai trong đời còn lưu giữ dùm ta

Ngay từ năm học lớp Ba, Văn Cao đã cùng hai người bạn thân là Trần Liễn và Doãn Tòng hý húi nấu thạch làm tiêu bản in báo. Báo viết bằng mực tím, có số lượng đến mấy trăm bản. Tờ báo hấp dẫn đến nỗi vượt khỏi khối tiểu học, tán phát lên cả các lớp trung học.

Khi lên trung học, Văn Cao chuyển sang học trường Saint Josef (nay là trường bồi dưỡng giáo viên Hải Phòng). Ngoài giờ tới lớp, Văn Cao học võ với một người tên là Tú. Để luyện cho võ nghệ cao cường, người thanh niên mới lớn này, lúc thì nắm tay đấm vào tường huỳnh huỵch, lúc thì duỗi bàn tay thẳng đơ xọc vào thân cây chuối phập phập. Anh chàng còn bắt chước Tạ Duy Hiển dỗ dành cô Diệp -em gái út- đứng dang tay ép sát vào cánh cửa gỗ làm tiêu cho mình biểu diễn tài phóng dao găm chi chít quanh người.

Trước biển, chàng thanh niên chí thú ôn văn luyện võ đã mơ hồ những dự cảm lớn lao:

Thuở nhỏ lòng tôi hướng mãi Theo những con tầu biển ra đi Đến những đất đai tưởng tượng Những người anh thuỷ thủ kể cho nghe Nơi mọc đêm đêm những ngôi sao biển Rực rỡ chân trời những hạt lưu ly

Tôi bơi như con cá dưới nước Vẫn không bơi dài ra tới biển Tôi theo những thuyền cá ra khơi Vẫn chưa đi tới chân trời (Ai biết Hải Phòng là đâu?)

Ở chàng thanh niên mới lớn đó, chắc hẳn không phải là lòng tự ty mà chính là sự tự thách đố. Cho nên, sau lời cảm thán:

Cố thét song lời tôi yếu quá Ngựa đều chân chạy nhạc càng xa (Ai về Kinh Bắc, 14.10.1941)

là những khẳng định quả quyết:

Ta ngày nay đợi từng mùa bình tĩnh Như những người ươm cây Hái hoa trái tự tay mình vun xới …… Tôi giờ đây liếm môi nóng bỏng Nhìn ra biển bao la Lòng hãy còn nhiều khát vọng còn rất nhiều khát vọng Biến thành người khổng lồ kêu khát suốt ngày đêm

Là hoài vọng khôn cùng:

Nước ngọt của ngàn sông Bao giờ đổ đầy lòng biển (Nhà thơ Thanh Thảo khi viết về Văn Cao đã như choáng váng, sũng sờ: “Trong một Văn Cao có quá nhiều Văn Cao: Văn Cao thơ, Văn Cao hoạ, Văn Cao hiệp sĩ, Văn Cao Quốc ca, Văn Cao rượu đế… Một Văn Cao đa tài, đa nguyên, đa nạn… Một Văn Cao lặng lẽ như chén rượu mỗi sớm, lặng lẽ như những dòng chữ lít nhít trong sổ tay, lặng lẽ như Thơ…”.

Không, Văn Cao không chỉ là một nghệ sĩ đa tài, nhà văn lão thành, giáo sư Đặng Thai Mai từng đánh giá: “Văn Cao là một viên ngọc trên bức khảm văn hoá – nghệ thuật của dân tộc Việt Nam”.

Phác hoạ cho được chân dung viên ngọc quý này thật khó. Chỉ xin ra dẫn ra đây mấy mảng ký hoạ của nhiều người đã gặp, đã cùng sống với Văn Cao:

Nhà văn Vũ Bằng: “Nói đến Văn Cao, ai cũng nhận là anh duyên dáng, quyến rũ người nghe chuyện từ buổi đầu gặp gỡ, và có những cử chỉ mã thượng dễ làm cho các cô gái yêu mến… Anh bé nhỏ, ốm như Thâm Tâm mà cũng cao hơn Thâm Tâm một chút, da hơi tai tái. Tóc anh xoã xuống trán như một cái lưỡi trai, bơ phờ rủ xuống cặp lông mày hơi rậm, mũi cao, tiếng nói rụt rè và nhỏ. Cổ anh nhỏ, và điều làm cho người ta lưu ý nhất là anh lộ hầu và mắt cũng hơi lộ nữa.”

Nhà thơ Vũ Cao: “…tôi thấy Văn Cao và Nguyễn Văn Bổng đang nằm trên một chiếc giường tre. Bỗng Văn Cao chăm chăm nhìn tôi hỏi: Nghe giọng ông có vẻ người Nam Định lắm nhỉ? Tôi nghĩ: chắc vì anh ấy là nhạc sĩ cho nên rất tinh khi nhận xét mọi thứ âm thanh. Xong, anh nhắc đến núi Hồ, làng Gạo, chợ Hầu, Trình Xuyên… Hoá ra anh với tôi là người cùng xã, chỉ khác thôn. Mà sao một cái thôn, cái xã nghèo khổ cơ cực như vậy, suốt nghìn năm không có lấy một ông Thám, ông Bảng nào, vậy mà bỗng chốc lại nẩy sinh ra một tài năng độc đáo như Văn Cao!”

Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo: “Đến bây giờ tôi vẫn nhớ giọng vang trong của ông đọc thơ trong quán rượu. Bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật ông làm năm 1960 mà tôi tưởng ông vừa làm trong quán rượu năm 1980 này. Chúng tôi nghe như nuốt từng lời thơ ông vào tâm khảm. Khi ngấm rượu ông nói hay đến nỗi tôi có cảm giác là đang nghe ông trong giáo đường chứ không phải giữa chợ.”

Nhà văn Nam Dao: “Văn Cao ngẩng đầu lên, rướn thẳng người. Những nốt nhạc nhẩy nhót trên chín bậc thinh không. Văn Cao cúi xuống, những nốt nhạc chìm dần vào những vực sâu tưởng sẽ mất hút. Văn Cao gục xuống, tiếng đàn nghẹn lại tăm tích mơ hồ. Mắt anh đầy nước mắt. Bỗng Văn Cao vùng dậy, râu tóc dựng đứng. Râu tóc ấy đã bạc phơ, song cái xanh của con người trong anh dẫu có chút bóng đen của đêm tối, thì vẫn xanh. Tối hôm ấy, khi nắm tay Văn Cao tôi thấy ươn ướt, thì ra Văn Cao đánh đàn thế nào mà ngón tay ứa máu.”

Hoạ sĩ Tạ Tỵ: “Vào mùa đông năm 1948, trời bên ngoài đen như than, mưa phùn, gió bấc. Chiếc mền Mỹ mỏng teo làm chúng tôi rét không ngủ được. Văn Cao nằm giữa, ngâm bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc . Giọng ngâm làm da thịt tôi tê rợn. Nó âm u hơn cửa Địa ngục. Nó rờn rợn như thể có ai đang cầm một miếng mảnh chai cạo vào chiếc lóng tre khô. Nó ai oán thê lương hơn một bãi sa trường sau giờ tác chiến. Nó thấm vào hồn mình như từng giọt cường toan… Văn Cao là mẫu người đặc biệt. Với vóc dáng nhỏ nhắn. Với nụ cười lắng chìm không thành tiếng. Với hàm răng ngắn, đều. Với đôi mắt lạnh lùng dễ sợ lúc giận dữ và dịu hiền khi tâm hồn chìm du vào dòng suy tưởng… Từng bước khảng khoát, Văn Cao hiên ngang đi vào lòng mẹ Việt Nam và được tiếp nhận nồng hậu. Chưa ai nghĩ tới và tưởng tượng nổi một Văn Cao trước những đối nghịch lớn, chứa đựng trong cái vóc dáng khiêm nhường ấy. Người ta có thể coi là huyền thoại khi nói về một Văn Cao vẽ giấy bạc giả để chi dùng trong khi hoạt động túng thiếu, đến lúc hành vi bị lộ, đã rút súng colt 45 chĩa vào những người có mặt, bắt họ giữ nguyên vị trí để mình rút lui, rồi sau ngày 19 tháng 8, mang giấy bạc thật đến hoàn lại số tiền đã trả bằng bạc giả với đôi lời xin lỗi… Văn Cao uống hai chai đế, da mặt cứ tái đi và thái độ vẫn ung dung hoà nhã như chưa uống giọt nào. Lúc trước tôi đã nghe nói về tửu lượng và sức hút thuốc phiện của Văn Cao. Theo anh em, Văn Cao có thể hút sáu bẩy mươi điếu liền trong một tối và uống tối thiểu một chai cô-nhắc sếch. Lúc vui, tôi hỏi, Văn Cao xác nhận: “Đúng! moa uống và hút thế đó. Nhưng không nghiện thứ nào cả, có cũng vui, không cũng chẳng sao”. Nói xong Văn cười, nụ cười không thành tiếng, tôi chỉ nhìn thấy hàm răng trắng nhỏ đều lấp lánh bên ánh đèn dầu lửa…”

Nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha: “Đêm cuối xuân 1945. Gió rét. Hải Phòng chìm trong bóng tối. Một thanh niên nhỏ nhắn lạ mặt xuất hiện ở ‘vườn hoa đưa người’. Không ai biết đấy là Văn Cao. Cải trang từ Hà Nội, khi về Hải Phòng ập vào nhà Doãn Tòng, không ai nhận ra Văn Cao. Đêm nay, vẫn hình thù ấy, mặt mũi ấy, Văn Cao đến ‘vườn hoa đưa người’, trong ngực giấu một khẩu Colt to và một khẩu Browning bé xíu.”

Nhà điện ảnh Nguyễn Hà: “Điều quan ngại nhất, sức khoẻ của ông quá kém. Tuổi mới 70 nhưng trong mình ông chứa đầy bệnh tật đã thành mãn tính. Một đốt xương sống bị gẫy. Tim, gan, bao tử đều có chuyện. Huyết áp trồi trụt vô thường. Oái oăm, muốn bồi dưỡng thì ông lại biếng ăn. Ngày chỉ hai chén súp nhỏ hoặc vài ly sữa. Sức khoẻ chủ yếu được duy trì bằng mỗi bữa vài ly rượu tăm trong vắt. Cũng như Nguyễn Tuân xưa kia, ông bảo đấy là ‘tinh của gạo’.”

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Anh Văn ngồi. Ngồi ở sạp gỗ cũ kỹ như đã ngồi hàng trăm năm. Ngồi tóc bạc phơ, râu cũng bạc phơ. Chỗ ngồi đã mòn. Lưng dựa đã mòn. Ngồi như thế có ích gì, anh Văn… Cho đến bây giờ tôi vẫn bị ám ảnh bởi cái không khí ảm đạm, cô đơn của những mùa thu đông ở Hà Nội, với hình ảnh một Văn Cao ngồi một mình với cốc rượu trước mặt ngày này qua ngày khác. Anh ngồi đó mà như một sự vắng mặt trước cuộc sống. Ngồi hơn hai mươi năm như một cái bóng. Ly rượu cũng biến thành cái bóng. Cái bóng của hai người. Người và ly-rượu-người. Thân thiết và chia sẻ cùng nhau những nỗi đời riêng, hiu quạnh, không còn ai khác có thể san sẻ giùm.”

  1. Ngoài kia lời non nước đang nhắc ta

Trên đây là câu mở đầu một ca khúc Văn Cao viết năm 1945, sau này được Tổng Công Đoàn chọn là bài ca chính thức của công nhân Việt Nam. Bài này được xếp vào bộ tứ bình ca khúc: Không quân Việt Nam, Bài ca chiến sĩ hải quân, Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam. Tất cả đều được sáng tác ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, năm 1945. Ông được suy tôn làm công nhân danh dự số một của Công ty Tem Việt Nam.

Từ ngày bị tỵ hiềm và mất chức, cụ thân sinh Văn Cao phải về mở cửa hàng chữa thuê máy nước hỏng, Văn Cao bắt đầu lam lũ, nhập vào đám con em thợ thuyền. Mười lăm tuổi, năm 1938, Văn Cao bỏ học vào làm điện thoại viên ở Sở Bưu điện ngay gần nhà. Chẳng bao lâu. chán cảnh làm viên chức quèn tù túng, Văn Cao rủ bạn bè lập nhóm du ca đi hát lang thang. Bài Buồn tàn thu, ca khúc đầu tay, mở đầu cho sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao chính là ca khúc được sáng tác cho nhóm du ca này biểu diễn. Nhóm du ca lúc lên Hà Nội, lúc về Hải Phòng. Cảnh tình tha phương của một nghệ sĩ lưu lạc gian truân giúp Văn Cao tiếp xúc càng gần hơn với khổ nghèo, với cuộc đời muôn mặt. Nhìn vào đâu cũng thấy thê lương:

Những giỏ cơm lạnh ngắt nắm tro tàn Xóm rợn mình người nằm đợi sang canh Có tiếng khóc ở mấy nhà bên cạnh Cửa ngõ mấy thây người đã lạnh … Thân xác xơ đói khổ sống âu sầu Không đóm lửa chỉ chập chờn trăng chiếu (Bến Ngự trên Thương cảng)

Về Hà Nội, ông thuê căn gác nhỏ số 171 Mongrant (nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền) nhìn sang phố Khâm Thiên, một căn gác ọp ẹp:

Nhà ta thuê mái gục tự mùa thu Góc cô độc hương về phường Dạ Lạc (Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, 1945)

Từ góc nhìn này, ông càng cảm thông sâu sắc với những kỹ nữ bị dày vò như cánh hoa tàn tạ:

Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ Thanh xuân hờ thanh xuân Bước gần ta chút nữa thêm gần Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút tuỷ … Trên đường tối đêm khoả thân khiêu vũ Kèn nhịp xa điệu múa vô luân Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc Kiếp người tang tóc Loạn lạc đòi nơi xương chất lên xương (Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc)

Cho đến một đêm quá rùng rợn khi Văn Cao chợt nhìn vào đêm đen và bắt gặp một chiếc đèn bào leo lét đu đưa trên chiếc xe ba gác chở xác người chết đói kéo qua mà tiếng bánh xe xiết xuống lòng đường như nạo vào xương tuỷ mình:

Bánh nghiến nhựa đường nghe sào sạo Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe

Trái tim thấm đẫm nhân văn của người nghệ sĩ lớn bỗng như quặn thắt, Văn Cao thốt lên vô thức:

Ta về gác chiếu chăn gào tự tử

Lời thét gào quằn quại bi tráng này về sau đã quật cường lên thành tuyên ngôn:

Giữa sự sống và sự chết Tôi chọn sự sống Để bảo vệ sự sống Tôi chọn sự chết (Chọn, 26.8.1957)

Rồi ông trở về Hải Phòng, quyết tâm trừ khử tên Việt gian tay sai cho Nhật.

Ông rủ Trần Liễn, một người bạn cùng học tiểu học, và Trần Khánh – em Trần Liễn, sau này trở thành một ca sĩ nổi tiếng của Đài Tiếng nói Việt nam – tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Trần Liễn đến trước chọn chỗ nằm hút ngay sau Đỗ Đức Phin. Dụ Phin hút thật phê, lúc ấy Văn Cao đột ngột tiến vào, có Trần Khánh hộ vệ. Trần Liễn đọc nhanh bản tuyên cáo và Văn Cao nổ súng trúng đầu tên Phin, Văn Cao phóng xe đạp về nhà Doãn Tòng cải trang rồi trốn biệt. Về Hà Nội ông còn bắn trượt Cung Đình Vận ở gần rạp hát cuối phố Huế.

Trước vụ ám sát Đỗ Đức Phin người ta còn nghi ngờ Văn Cao có dính líu đến vụ in và rải truyền đơn dẫn đến cái chết của một người tên là Nghiêm Xuân Huyễn. Nghiêm Xuân Huyễn, sước hiệu “Voi đen” nguyên là chủ hiệu ảnh Aristic ở phố Hàng Đàn. Tuy nhiên bên trong hiệu ảnh lại là toà soạn và nhà in của tuần báo “Rạng Đông” và một tờ báo trào phúng lấy tên là “Con Ong” do Tam Lang Vũ Đình Chí chủ biên. Ngoài việc in báo, ở đây còn in truyền đơn. Nguyễn Xuân Huyễn do vậy bị Nhật bắt và “xin âm dương” cho đến chết ở trong nhà lao. Không biết ngẫu nhiên hay do tâm giao đồng chí mà Văn Cao đã trở thành con rể của nhà cách mạng này

Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Văn Cao tự mình chỉ huy đoàn thanh niên xung phong đồng ca bài Tiến quân Ca của mình.

Năm 1946 Văn Cao được cử cùng Hà Đăng Ấn chuyên chở vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó chính thức được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu là Uỷ viên Chấp hành.

Đầu năm 1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều tra đặc biệt của công an Liên khu 10 ở biên giới phía bắc. Tại đây ông được giao nhiệm vụ kết nghĩa với vua Mèo để lập ra một phòng tuyến bảo mật chống sự tràn sang của quân Tưởng khi thua trận.

Tháng 3 năm 1948, Văn Cao được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương.

Cuối năm 1949, Văn Cao thôi làm báo Văn Nghệ chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam. Văn Cao dấn thân đi làm cách mạng với tâm niệm: “Càng tới gần cái cuộc sống đầy mâu thuẫn đấu tranh là càng như đi gần lại một kho thuốc nổ. Có người dao động và sợ hãi quay lưng lại. Có người vụng về mà làm nổ. Nhưng cũng có người can đảm biết làm nổ để mở đường.” (Mấy ý nghĩ về thơ). Từ đây, lời ông đã từng như hồi kèn thúc quân giục giã: … nước non đang chờ mong tay ngươi, hồn sông núi khí thiêng ghi muôn đời (Chiến sĩ Việt Nam). V.

  1. Nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà thơ. Tất cả đều tài danh

Với những Suối mơ, Thiên Thai, Tiến quân Ca, Bắc Sơn, Trường ca Sông Lô…, người ta thường nhớ đến Văn Cao như một nhạc sĩ tài ba. Thực ra, ông được học có lớp lang hơn, không phải về âm nhạc, mà là hội hoạ. Ông đã theo học hai năm ở trường Mỹ thuật Hà Nội, song, theo các hoạ sĩ cùng lứa như Lương Xuân Nhị, Tô Ngọc Vân, Tạ Tỵ, Nguyễn Đỗ Cung thì tuy Văn Cao chỉ học với tư cách thính giả tự do nhưng cũng đã tỏ ra một tài hoa kỳ lạ, khó tả trong môn phái lập thể. Văn Cao từng có những thành công không kém gì âm nhạc từ rất sớm. Tại triển lãm Salon Unique năm 1943 ở Nhà Khai trí Tiến Đức, ba bức tranh sơn dầu của Văn Cao đã từng được treo ở chỗ tốt nhất của phòng tranh và được các báo khen ngợi. Đặc biệt là bức tranh Le Bal aux suicidés (Cuộc khiêu vũ của những người tự tử). Ngoài ra còn có bột mầu Thái Hà ấp đêm mưa (1943), mầu dầu Sám hối nửa đêm (1944), mầu dầu Phố Nguyễn Du (1945), mầu dầu Lớn lên trong kháng chiến (1952)… Nhiều và nổi tiếng hơn là minh hoạ trên báo và bìa sách. Tranh minh hoạ của Văn Cao thường rất phóng khoáng với những nét đen dẹt, khoẻ. Ngựa và thiếu nữ trong các minh hoạ ấy rất độc đáo, trẻ trung, phảng phất chất sang trọng, quý phái. Những đường kỷ hà trong tranh Văn Cao hao hao như Kadinsky. Ông thường vẽ nhanh và nét bút vung mạnh, rất thần, rất thiền. Người ta cho rằng cái nhìn hội hoạ của Văn Cao có địa vị dẫn đường và chi phối. Những đề xuất của ông về một ngữ pháp mới cho đồ hoạ đến nay vẫn có khả năng khai thác và biến thể thành một thế hệ ngôn ngữ hội hoạ nữa. Tài năng hội hoạ của Văn Cao còn là một bí ẩn, chưa được khai thác, bộc lộ, và cũng chưa được làm sáng tỏ. Nói như nhà nghiên cứu Thái Bá Tân: “Nếu âm nhạc và thơ là một bản thể tươi tốt của anh, thì hội hoạ là một tri thức sâu sắc. Cách nhìn thế giới của anh nghiêng về hội hoạ. Là bởi phép viễn cận của các thời đại hội hoạ, là tiềm thức sâu kín của phối cảnh xã hội, nơi Văn Cao tỏ ra những nhạy bén về xúc cảm, và tinh tường trong quan sát.” (Văn Cao – người đi tìm cái đẹp)

Trong một Triến lãm Hội hoạ ở Liên khu Ba, Văn Cao gửi tham gia một bức sơn dầu mang tựa đề Cây đàn đỏ vẽ một người bộ đội ôm “Cây đàn chủ nghĩa”. Sau này Văn Cao còn treo một bức sơn dầu lập thể khác vẽ một cậu bé thổi sáo bằng hai cái mồm. Một cái được vẽ từ cách nhìn thẳng. Một cái được vẽ bằng cách nhìn nghiêng. Làm nền, phía sau cậu bé là đông nghịt những con người trong một tiết tấu đầy chuyển động của nhịp chiến tranh. Hai bức sơn dầu lập thể này đã gieo hoạ cho Văn Cao. Ông bị quy kết: hình thức lai căng, nội dung thì có vấn đề về tư tưởng! Văn Cao nhiều lần tự định trước bạn bè: “Mình chưa bao giờ là nhạc sĩ cả”, nhưng, ngoài những ca khúc rất nổi tiếng, chỉ bằng tự học một cách hết sức kiên nhẫn, ông đã tiến tới viết cả nhạc không lời. Ông đã hoàn thành bản giao hưởng thính phòng Anh bộ đội Cụ Hồ ngay trước ngày giải phóng Miền Nam và một số tác phẩm khí nhạc cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa

Ông viết nhạc cho cuốn phim Đi bước nữa, phim Chị Dậu, phim Lửa rừng và vở kịch Vào tuyến của Tất Đạt. Nét độc đáo là ở vở kịch này, ông cho 4 cây ghi-ta chơi từ đầu đến cuối. Ngoài Vào tuyến ông còn soạn nhạc cho các vở: Gió xoay chiều, Ta-nhi-a, Lịch sử và nhân chứng, Chỗ đứng…; cho vở cải lương Những người quyết tử do đoàn Kim Phụng dàn dựng. Song, không thể không nói đến vở kịch đầu tiên Văn Cao viết nhạc là vở Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng. Bài hát Bắc Sơn với ca từ bi tráng: Khi nhìn châu xưa bóng cờ mấy ánh sao vàng. Đồn cao vách đá nép mây huy hoàng không chỉ rền vang khắp miền rừng núi ngàn tiếng hú căm hờn suốt những năm dài kháng chiến mà còn được hát vang nhiều lần trong các đêm biểu diễn vở kịch này ở Nhà Hát Lớn thủ đô. Nguyễn Huy Tưởng sau đó nhiều lần đã bàn định với Văn Cao làm nhạc cho vở Vũ Như Tô của mình. Tiếc thay, chưa kịp xúc tiến thì Nguyễn Huy Tưởng đã mất sớm – ngày 25 tháng 7 năm 1960.

Nhà hát Cải lương Việt Nam thì coi Văn Cao là người góp công lớn sáng lập ra mình vì ông đã có công giữ được bà Dịu Hương, ông Năm Ngũ… trong một tổ chèo hồi còn ở chiến khu.

Năm 1959, chuyển về công tác ở Ban Nghiên cứu Âm nhạc thuộc Bộ Văn hoá, ông đã biên soạn công trình nghiên cứuĐiệu thức năm cung trong dân ca đồng bằng và trung du Băc Bộ. Ở đây ông đã có một đóng góp quan trọng qua luận điểm: Điệu thức Do Re Fa Sol La là điệu thức gốc trong dân ca đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Ở đó, âm quãng bốn của điệu thức (tức âm Fa) đóng vai trò chủ âm nằm ở bụng điệu thức.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết: “Những bài thơ của ông khiến chúng tôi nổi da gà, kinh ngạc vì thán phục. Thơ ông đẹp một cách quyết liệt. Thơ ông thật đến siêu thực. Thơ ông mới, bất ngờ như mầm cây vừa đội đất trồi lên.”

Nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha: “Thơ anh không ồn ào. Chỉ những người mặc cảm về sự tẻ nhạt của mình mới ồn ào. Thơ Văn Cao là những khoảnh khắc lắng xuống dưới tiếng động. Người hời hợt, ham sự kiện có lẽ không hợp với thơ anh. Không bày tiệc mời, thơ anh là những viên tăng lực cho con người giữa đời sống cần lao, nhọc nhằn. Nó trụi trần nhưng không thô thiển. Nó đẹp nhưng không diêm dúa. Nó lắng buồn nhưng không chán nản. Thi pháp Văn Cao thật khó bắt chước nhưng tạo được ảnh hưởng mạnh tới thế hệ trẻ.”

Nhà thơ Thanh Thảo: “Cái nhìn của Văn Cao trong thơ, nhiều lúc, là cái nhìn của một hoạ sĩ, nó bắt được cái thần của đối tượng chỉ qua vài nét phác. Sự giản lược tối đa, những khoảng trống, những khoảng lặng, tự làm khô lại như một củ huệ, lan chờ lúc bật mầm. Thơ Văn Cao gợi nhớ đến J. Ritsos hay thơ N. Hikmet. Đó là thơ của những người chỉ có một khoảng không gian hẹp trong đời sống, những người phải dè xẻn lương thực, những cây xanh phải tận dụng đến từng chiếc lá của mình để phát điện.”

Nhà thơ Hoàng Cầm: “Đêm ấy tôi đọc hết bài thơ dài Những người trên cửa biển. Có những câu đầy khí thế, rất Văn Cao, ứ đọng những tư tưởng mới, những cách nhìn mới về xã hội, về con người, về thành phố cảng.”

Giáo sư Hoàng Như Mai thì khái luận: “Văn Cao không nói nhân văn hiền từ như lời thuyết pháp của nhà truyền đạo hay ôn hoà như lời giảng bài của giáo sư. Anh nói nhân văn và nói mãnh liệt, quyết liệt, tính cách của tác giả Tiến quân Ca.”

Về văn, Văn Cao có đăng một vài truyện ngắn. Trước Cách mạng ông có một phóng sự tả về đời sống công nhân các nhà máy ở Hải Phòng nhưng tờ Tiểu thuyết Thứ Bẩy không đăng có lẽ vì tính chất tố cáo quá mạnh của bài báo. Năm 1948, Văn Cao có viết một vở kịch mang tên Cái hầm sống.

Ngoài thiên chức một nghệ sĩ lớn, Văn Cao còn là một nhà tư tưởng rất có tư chất khoa học. Đây là tuyên ngôn cổ suý mạnh mẽ tư duy sáng tạo đối với con người của ông: “Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người biết thất bại mà dám mở đường… Hôm nay, con đường lớn nhất của chúng ta là mở cho tất cả những giấc mơ, những khát vọng thuộc về sự sáng tạo của con người tự do phát triển bay đi xe mật về ổ. Mở cho những giấc mơ, những khát vọng tự do phát triển bao nhiêu là tập trung tất cả giấc mơ và khát vọng của con người làm thành mũi nhọn kéo lê đi phía sau cái thực tế chậm chạp ” (Mấy ý nghĩ về thơ).

  1. Này khúc Bồng Lai… và Sông mênh mông như bát ngát hát…

Trịnh Công Sơn – nhạc sĩ thiên tài, người vừa được nhận “Giải thưởng Âm nhạc Hoà bình Thế giới”, một Nobel về âm nhạc, mang tên “Trọn đời vì hoà bình” – đã nói về âm nhạc của Văn Cao như sau: “Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư”.

Những trí thức, những thanh niên sục sôi tinh thần cách mạng trước 1945 đã từng cuồng nộ với Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang (1941), Gò Đống Đa (1942), Thăng Long hành khúc (1943)… qua những ca từ hùng dũng: Cố bước bước trên đường thơm gió mát. Ta đi đi đi đi thăm gò xưa chất thây. Đống Đa còn chốn đây…, những Ơi Thăng Long! Ơi Thăng Long! Ơi Thăng Long ngày mai. Xây đắp dưới vinh quang bằng chí khí anh hùng…

Các thế hệ học sinh sau Cách mạng Tháng Tám có lẽ không ai không thuộc bài Làng tôi. Ngày 10 tháng 2 năm 1993, sau buổi gặp giữa ông và một số trí thức Việt Nam với tổng thống F. Mitterand, hai câu: Ngày giặc Pháp đốt làng triệt thôn vàNgày khi quân Pháp qua đã được đề nghị đổi thành: Ngày giặc ác đốt làng triệt thôn, và Ngày khi quân ác qua

Cái tâm trạng khổ đau của người dân mất nước:

Sao đàn u hoài gì mùa thu? Sao đàn u hoài gì mùa thu? Tri âm nghe thử dây đồng vọng Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru (Một đêm đàn lạnh trên sông Huế)

cái khắc khoải mông lung của một trí thức trẻ muốn tìm đường:

Sương buông chừng núi vấn vương Tiếng chim lạ cất tiêu thương buồn trời Cái gì cũng thấy chơi vơi… (Đêm ngàn, 22.11.1941)

có lúc đã đưa Văn Cao, cũng như nhiều trí thức đương thời, tìm đến thoát tục. Ông tìm lại Trương Chi để được sống vớiMột chiều xưa trăng nước chưa thành thơ. Trầm trầm không gian mới rung thành tơ. Vương vất heo may hoa yến mong chờ. Ôi tiếng cầm ca thu tới bao giờ (Trương Chi – 1942 ). Ông đến Bến Xuân (một trong mấy ca khúc viết chung với Phạm Duy), bước đi run rẩy:

…Tới đây, chân bước còn ngập ngừng Mắt em như dáng thuyền soi nước

…Tới đây, mây núi đồi chập chùng Liễu dương hơ tóc vàng trong nắng

Ông thả lòng trong Chiều buồn trên sông Bạch Đằng:

Chiều dần rơi sương buông non ngàn xa trầm ngâm trên sông vắng Bạch Đằng Giang sầu mơ bên lau xanh với bến nước xa xôi Thuyền ai kia trôi theo dòng sông xanh không vang một tiếng người Buồn ai đứng nhìn con sông xanh biếc ngày xưa mà nước mắt mờ rơi

Ông cứ thế, lang thang buồn rồi lạc vào Thiên Thai khi 18 tuổi. Song, nỗi buồn ông cao quý quá, đẹp quá. Nó vút lên thành: Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng…

Để ca ngợi Thiên Thai một cách muộn mằn, khiên cưỡng, Trần Bạch Đằng, cho đến năm 1986, mà còn viết: “…nếu hiện nay, Văn Cao vừa sáng tác xong bài Thiên Thai thì… đè anh xuống mà nện. Còn nửa thế kỷ trước, đó là chuyện khác ”.

Tôi thấy khó mà đồng ý được với ông Trần Bạch Đằng. Thiên Thai lúc nào cũng là Thiên Thai. Cái chốn tràn trề những nguồn hương duyên theo gió tiếng đàn xao xuyến, cái chốn Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần kia luôn luôn là niềm mộng tưởng trong sáng; là mục tiêu tột cùng của cách mạng. Tôi ước sao thanh niên ngày nay biết mêThiên Thai để bớt sài hồng phiến, rủ nhau lao vào nhẩy xếch thác loạn; bớt lôi kéo nhau vật lộn điên cuồng làm giầu bằng mọi giá; và tán tụng hết lối ẩm thực phương Đông đến lối ẩm thực phương Tây.

Hát Thiên Thai, tôi nghĩ, sẽ cũng là một cách thiền để người ta vượt được lên trên những dục vọng vật chất tầm thường.

Vả chăng, dù có lạc vào Đào Nguyên thì Văn Cao vẫn tỉnh táo nhìn thấy Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian; vẫn ngậm ngùi cùng bầy Tiên: Nhớ quê chiều nào xa khơi. Chắc không đường về Tiên nữ ơi kia mà. Nó cũng giông như Tản Đà: “Nửa năm Tiên cảnh. Một bước trần ai. Ước cũ, duyên thừa có thế thôi!”

Giai điệu Thiên Thai biến hoá diệu kỳ, khiến người nghe thấy “Khi cao vút tận mây mờ. Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh”. Ngân lên câu hát Gió hát trầm tiếng ca. Tiếng phách ròn lắng xa hay Này khúc Bồng Lai, là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi… người ta tưởng như đang được tấu lên những tiết điệu réo rắt của ca trù tuyệt diệu.

Giai điệu Thiên Thai biến hoá diệu kỳ, khiến người nghe thấy “Khi cao vút tận mây mờ. Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh”. Ngân lên câu hát Gió hát trầm tiếng ca. Tiếng phách ròn lắng xa hay Này khúc Bồng Lai, là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi… người ta tưởng như đang được tấu lên những tiết điệu réo rắt của ca trù tuyệt diệu.

Tuy nhiên có nhạc sĩ lại liên tưởng Thiên Thai với nhạc phẩm trữ tình nổi tiếng cuả nhạc sĩ Pháp hiện đại Debussy và cho rằng, trước Văn Cao, những tác giả ca khúc Việt Nam khác, chưa ai tổ chức ca khúc trên một hình thức mở rộng như thế và mang chứa một nội dung phóng khoáng như thế.

Thiên Thai được biểu diễn lần đầu tại Nhà Hát Lớn Thủ đô do tốp ca nữ trường Đồng Khánh (Trường Trưng Vương ngày nay), có phần múa phụ hoạ do nhạc sĩ Văn Chung biên đạo và dàn dựng. Nhờ bản dịch tiếng Anh của Xuân Oanh, bài hát được lan truyền đến nhiều nơi trên thế giới và là bài hát Việt Nam đầu tiên được người Mỹ hát từ giữa thế kỷ trước. Thiên Thai cũng được chọn đưa vào băng nhạc để các phi hành gia Mỹ đem vào vũ trụ trên tầu Apollo. Ảo huyền với Thiên Thai nao nao bầu sương khói phủ quanh trời, nghiêng tai vào Bờ xanh ngắt bóng đôi cây thuỳ dươngđể nghe cho dược con suối mơ hát theo đôi chim quyên, bỗng một ngày Văn Cao ào ạt, tràn trề với Sông Lô đang xuôi mau. Tin về đồng lúa reo mừng

Xướng lên ngổn ngang những sóng ngàn Việt Bắc, bãi dài ngô lau, núi rừng âm u trong câu nhạc mở đầu điệp trùng như không dứt: Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc, bãi dài ngô lau, núi rừng âm u rồi hoạ lại mênh mang một Thu ru bến nắng vàng từng nhà mờ biếc chìm một mầu khói thu để rồi ngay sau đó cao độ âm thanh được nâng lên 3 giọng và giữ nguyên qua 4 nốt nhạc như để cất lên dõng dạc lời tuyên cáo: Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang; trường ca Sông Lô như một bài hịch, như một cuốn phim, như một bức tranh liên hoàn, như một cuốn truyện nhiều tình tiết hấp dẫn với những: mùa thu tới nước băng qua ngàn nước in ven bờ xanh ôm bóng tre, Phan Lương vui bóng thuyền. Lều dựng lên ven sông, bóng người sầm uất bến Then. Bên sông Lô đắp nhà. Bao dân trong khu Mười, mơ thành người sông Lô; với cảnh hoang tàn: Về trong đêm gió rét. Từng sân bao bóng người quanh lửa hồng. Nền khô trơ than xám. Đêm chìm đợi ánh chiêu dương. Câu nhạc lúc ở trên nguồn cao, lúc lênh láng tràn ra đến biển: Dòng sông Lô trôi. Dòng sông Lô trôi ; lúc dồn dập hành quân chiến đấu hay hăng say lao động: Vui hát ca hoà, vui hát ca hoà dân buông lưới… Vui hát ca hoà, vui hát ca hoà chí chiến đấu; lúc nhởn nhơ thư thái: Đời vui vút lên. Đời vui sướng về…

Ở Việt Nam chắc chắn chưa có bài hát nào về một con sông hay đến thế, hào hùng đến thế. So với thế giới hình như cũng vậy. Bài Dòng Danube xanh chỉ tả được cảnh thiên nhiên, ở Sông Lô có cả cảnh chiến đấu và chiến thắng.

VII. Bản Quốc ca bất hủ

Vào những năm trước Tổng khởi nghĩa, ở chiến khu chưa có bài hát mới nên các chiến sĩ cách mạng thường phải hát những bài hát của hướng đạo. Theo Văn Cao kể, ông viết Tiến quân Ca là theo “đơn đặt hàng ” của một cán bộ bí mật tên là Vũ Quý, để kịp có một ca khúc cách mạng cho khoá quân chính kháng Nhật đầu tiên sắp mở. Vũ Quý vốn đã theo dõi những hoạt động nghệ thuật của Văn Cao từ ít năm trước và đã từng khuyến khích Văn Cao sáng tác những bài hát yêu nước như: Đống Đa, Thăng Long hành khúc, Tiếng rừng… Vũ Quý còn là người đầu tiên trực tiếp đưa Văn Cao vào đội ngũ cách mạng.

Tháng 10-1944, Tiến quân Ca được viết xong tại số nhà 45 Nguyễn Thượng Hiền – Hà Nội. Tháng 11-1944, Văn Cao tự tay viết lên đá để in litô bản Tiến quân Ca trong trang Văn Nghệ đầu tiên của báo Độc Lập. Quốc hội nhất trí xét chọn và ngày 13-8-1945, Tiến quân Ca được chính thức công bố là Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Vậy là, ngẫu nhiên mà trùng hợp. Cả Rouget de Lisle ở Pháp khi viết Marseillaise cũng như Văn Cao ở Việt Nam khi viếtTiến quân Ca đều không hề nghĩ rằng mình đang viết Quốc ca. Có điều Rouget de Lisle chỉ là một đại uý công binh chứ không trở thành một nhạc sĩ lừng danh như Văn Cao.

Thật ra cái hào khí bừng bừng trong Tiến quân Ca đã được phát khởi từ Gò Đống Đa (1942): “Lời đoàn quân trước trong gió rung bao cờ bay. Còn rền theo trống chiêng lắng khua trong chiều nay. Hỡi dũng sĩ ái quốc ngại gì bao nguy khó. Giữ đất nước thống nhất bao người đang ngóng ta. Tiến quân hành khúc ca. Thét vang rừng núi xa ”; từ Thăng Long hành khúc (1943): “Nhị Hà còn kia. Nhị Hà còn đó. Lũ quân chàng Tôn sập cầu trôi đầy sông. Tháp đây, gươm thần đâu dưới nước biếc… Xây đắp dưới vinh quang bằng chí khí anh hùng…”. Cái khí thế bừng bừng đó càng bột khởi mạnh mẽ trong năm 1945. Chỉ riêng trong một năm Tổng khởi nghĩa này Văn Cao có hàng loạt hành khúc chiến đấu: Không quân Việt Nam, Bài ca chiến sĩ hải quân, Chiến sĩ Việt Nam, Bắc Sơn, Công nhân Việt Nam. Cái hùng khí cách mạng rầt mạnh mẽ, rất quyết liệt nhưng cũng rất lãng mạn trong những hành khúc này còn thôi thúc mãi trong tâm tưởng thế hệ chúng tôi và âm vang của nó hẳn sẽ còn làm khoẻ mạnh tinh thần nhiều thế hệ sau nữa.

Thế mà! Không biết do không ưa tác giả hay do không đủ tâm, đủ trí chiêm nghiệm nổi cái giá trị lịch sử, cái hồn thiêng khí phách của bài Tiến quân Ca bất hủ mà bỗng dưng người ta ra Nghị quyết và ầm ầm tổ chức thi sáng tác quốc ca để thay thế. Trong cuộc vận động sáng tác rầm rộ này người ta đã chọn ra 17 bài trong vòng sơ khảo. Tất cả đều được ấn hành với số lượng lớn và Đài Phát thanh đã phát oang oang trên cả nước suốt một thời gian dài.

Phấn khích bởi sự khích lệ rộn rã của hệ thống tuyên truyền, người viết bài này cũng đã từng hồ hởi tham gia. Bài “quốc ca” của kẻ ngạo mạn này không được chọn vào vòng nào cả. Có chăng chỉ được vài anh chị em tập và hát nghêu ngao trong cơ quan. Bây giờ nghĩ lại thấy xấu hổ quá!

Trộm nghĩ, nếu không muốn dùng Tiến quân Ca nữa thì còn một bài ca khác cũng rất xứng đáng sử dụng làm Quốc ca. Nhưng, bài đó cũng chính là của… Văn Cao, bài Chiến sĩ Việt Nam. Ở bài Chiến sĩ Việt Nam, có một đoạn mà tôi thấy còn thích hơn cả Tiến quân Ca: “Thề phục quốc. Tiến lên Việt Nam! Lập quyền dân Tiến lên Việt Nam! Đài hạnh phúc đắp xây tự do. Việt Nam tranh đấu chống quân ngoại xâm”.

Như là “đồng khí tương cầu”, nhà thơ Phùng Quán cũng đã từng hết lời biểu dương bài Chiến sĩ Việt Nam. Tôi xin được chép lại nguyên văn một bài thơ Phùng Quán nói về Văn Cao, về bài hát này:

Giữa chiến khu võ vàng đói khát Cả tiểu đội tôi chỉ còn mắt với răng Như một đồng ca chúng tôi lên cơn sốt rét Lên cơn sốt rét, Chúa Trời cũng phải rên Chúng tôi hát: Bao chiến sĩ anh hùng!… Có một điều anh không bao giờ ngờ được Chúng tôi đã cải biên khúc quân hành bão táp của anh Thành nhạc không lời Thành một điệu rên…

Cả tiểu đội tôi chỉ một mình tôi còn sống Những người đã rên theo điệu quân hành của anh Đã ngã xuống Như những anh hùng Trong những bài ca bất tử của anh!… Những năm tháng trường chinh Nằm gai nếm mật Chúng tôi thường mơ đến Anh Như trẻ nhỏ mơ những anh hùng truyền thuyết Chúng tôi thường mơ… Một hôm nào đó Nhạc sĩ Văn Cao bị bốn bề súng giặc Chúng tôi sẽ xông ra lấy ngực che đạn cho anh! Chúng tôi thường mơ…

Trên chiến trường quê hương Trị Thiên Chúng tôi sẽ đánh một trận lừng danh đất nước Trên sông Hương, sông Thạch Hãn, sông Bồ… Để anh về anh viết trường ca Như trường ca Sông Lô…

Anh Văn Cao Cuộc đời tôi quá hiếm hoi niềm vui Hiếm hoi hạnh phúc Niềm vui lớn nhất Hạnh phúc lớn nhất Đời tôi Là dược gặp Anh! Được thay mặt những người đồng đội đã khuất Nói với anh một lời gan ruột: Tình chúng tôi yêu anh

Chép nguyên xi một bài thơ dài của tác giả khác vào bài viết của mình có thể xem là một sự lạm dụng. Nhưng, tôi thấy bài thơ hay quá, chỉ riêng nó đã nói được hơn nhiều lần về Văn Cao so với bài viết lê thê này. Cho nên tôi vẫn cứ xin chép để sự suy tôn Văn Cao càng được nhân lên.

VIII. Những dự báo đã thành hiện thực

Tưởng cũng nên hơn một lần nhắc lại rằng Văn Cao không chỉ là một nghệ sĩ tài ba mà còn là một nhà khoa học. Ông luôn cổ vũ, biểu dương cái mới. Ông có tư duy khoa học và diễn giải cũng rất khoa học:

“Cái mới đâu phải là những cái không sẵn có. Sự làm mới những cái sẵn có cũng là một phương pháp sáng tạo”, “…Một trong những hướng xây dựng nhân vật là đào tạo cho xã hội những người biết khai thác, khám phá, phân tích thực tế và mở đường cho tương lai” (Mấy ý nghĩ về thơ).

Ông có nhãn quan vượt thời đại, có tầm dự báo chính xác đến ngạc nhiên.

Cách mạng Tháng Tám vừa thành công, ông đã dự báo ngay về những binh chủng hiện đại sẽ có trong lực lượng vũ trang của ta qua Bài ca chiến sĩ hải quân, Không quân Việt Nam. Còn ở chiến khu chống Pháp với những nhóm quân so với quân đội Pháp chỉ như “châu chấu đá voi” mà ông đã hình dung cái buổi tiến về Hà Nội rõ rệt như đang diễn ra trước mắt: “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về. Như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh… Khi đoàn quân tiến về là đêm tan dần. Như mùa xuân xuống cành, đường nghe gió về, Hà Nội bừng Tiến quân Ca” (Tiến về Hà Nội – 1949). Hát bài hát lên, người hát ngày ấy, khi chưa được trở về Hà Nội, hay bây giờ đều như thấy mình đang thật sung sướng đứng giữa rừng cờ hoa ngày Thủ đô giải phóng.

Điều kỳ lạ hơn là ông không chỉ dự báo lạc quan mà còn cảnh báo được những ẩn hoạ đằng sau tấm huân chương. Ông nói như Kinh Dịch:

Những bó hoa mang tới chúc tụng Thành công một con người Hàng ngày hàng ngày Xây thành cái mồ chôn Con người thành công ấy Đôi khi người ta bị giết bằng những bó hoa (Những bó hoa, 17.3.1974)

Điều cảnh báo này không ngờ nghiệm rất đúng ngay cả cho ông Tổng Bí thư Đảng nước ta sau chiến thắng 1975!

Ông nói vừa như về khoa học tự nhiên, vừa như giảng giải triết học:

Tin tất cả và hoài nghi tất cả Chúng ta là những kẻ chài quen biển Thấy ngọn lửa quay đầu Biết bão táp đang trở mình trên mặt sóng (Những ngày báo hiệu mùa xuân)

Thì ngọn lửa quả đã quay đầu rồi. Quay về kinh tế thị trường, về tư bản hoang dã; chỉ còn cái khẩu hiệu dối lòng được giương lên thật cao: Định hướng xã hội chủ nghiã!

Sau cái chết khó hiểu của Vũ Quý, ông giật mình nhận ra trong cuộc đời, và ngay trong Đảng của ông:

Tôi đã nhìn thấy chung quanh tất cả Những con người và con vật Dũng cảm và hèn nhát Cao quý và ty tiện Trung thực và bất lương (Trong mùa xuân đời tôi)

Ông thảng thốt tố cáo:

Trong những ngày khó khăn chồng chất Kẻ thù của chúng ta xuất hiện Những con rồng đất khi đỏ, khi xanh Lẫn trong hàng ngũ

Những con bói cá Đậu trên những dây buồm Đang đo mực nước Những con bạch tuộc Bao tay chân cố dìm một con người

Đất nước đang lên da lên thịt Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang Làm rỗng những con người lụi dần niềm hy vọng Héo dần mầm sáng tạo mất phẩm giá con người Chúng nó ở bên ta trong ta lén lút Đào rỗng từng kho tiền gạo thuốc men Tôi đã thấy từng mặt từng tên xâu chuỗi Tôi sẽ vạch từng tên từng mặt

Hãy dừng lại Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc Những tên muốn cây to che cớm mầm non (Những người trên cửa biển)

Những kẻ Đào rỗng từng kho tiền gạo thuốc men như Trần Dụ Châu ngày ấy, nay nhung nhúc trong Đảng, trong xã hội ai cũng thấy; nhưng còn Những con rồng đất khi đỏ khi xanh, khi ngả theo Liên Xô, khi sà vào lòng Trung Quốc; gõ mõ thật to để tụng niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” mà thực tế ngược lại Hồ Chí Minh; thậm chí đã từng tổ chức hãm hại Người;Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc. Những tên muốn cây to che cớm mầm non. Làm rỗng những con người lụi dần niềm hy vọng. Héo dần mầm sáng tạo mất phẩm giá con người thì đâu có dễ vạch mặt chỉ tên, vì chúng làNhững con bói cá. Đậu (tít) trên những dây buồm. Chúng là bọn hãnh tiến, là những tên cơ hội nguy hiểm nhưng lại đủ quyền đủ thế để lu loa người chân chính là cơ hội. Đối với đất nước, với dân tộc, chúng là thế lực phản động nhưng lại oang oang vu khống những người nghĩa khí là phản quốc, phản Đảng, thậm chí là gián điệp!

Có lúc Văn Cao đã dám rụt rè vạch mặt một trong những tên đầu xỏ bậc thầy đó:

Tôi đã gặp lại anh Im lìm như một bức ảnh Người anh dẹt như một con dao Gây nhiều vết thương cho bạn hữu

Anh mang trong tôi nhiều bộ mặt Đâu là cái cuối cùng Chỉ còn hai con mắt Trắng dã không thể dối lừa (Về một người, 1960)

Nhìn vào bức chân dung ai cũng nhận ra được một nhân vật tác oai tác quái một thời, nhưng không ai dám nói thẳng tên ông ta. Ông ta đã từng hãm hại rất nhiều hiền tài, kể cả những công thần đại danh của cách mạng, đến như tướng Võ Nguyên Giáp.

Nhưng rồi, chắc chắn lịch sử sẽ phán xử công minh.

Thật chua xót khi cho đến ngày nay, nhìn lên, ta chỉ thấy:

Còn lại những đám khói đen Đọng giữa trời sương sớm (Ai biết Hải Phòng là đâu)

Cho đến ngày nay dân tộc ta vẫn phải

Đêm đêm cầu nguyện bên đèn Chưa thấy ngày mai hửng sáng Chỉ thấy những xác thiêu thân Chết trên mặt bìa những cuốn sách kinh

Những pho tượng không bao giờ nói Hai con mắt nhìn an ủi Ngón tay không chỉ rõ đường (Tình yêu và khát vọng, 1956)

Đánh giá về Văn Cao viễn kiến, tôi thật tâm đắc với Nguyễn Thuỵ Kha khi ông viết:

“Tôi nhớ câu thơ của nhà thơ Liên Xô Andrei Voznesensky: “Không thể chịu được khi không có tài năng – nhưng khi có tài năng lại cũng không chịu được”. Thật không muốn nhắc lại những gì đã qua, nhưng trong ngót nửa thế kỷ này ta không thật sự nuôi dưỡng những tài năng lớn. Tầm nhìn thiển cận đã tự làm nghèo mình đi bao nhiêu. Cũng là tài năng thơ nhưng có người suốt một thời chỉ nhằm tạo ra hiệu quả trước mắt cho cách mạng. Hành động đáng quý đó xẩy ra với Maiacovski ở Liên Xô, với cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh ở Việt Nam. Nhưng không tạo ra hiệu quả kịp thời không có nghĩa là chống lại cách mạng, mà chính họ – những nghệ sĩ ấy muốn đem lại cho cách mạng những giá trị đích thực và dài lâu. Hành động đó cũng đáng quý như hành động kể trên. Không so sánh tài năng, chỉ đồng nhất hiện tượng, có thể kể ra ở Liên Xô cũ là Boris Pasternak, còn ở Việt Nam là Văn Cao và một số tài năng cùng thế hệ anh”.

  1. “Có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được”

Sau suốt một đời hô hào dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than. Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới và bản thân đã từng xả thân chiến đấu cho độc lập dân tộc, cho cái chân, cái thiện, cái mỹ, Văn Cao đã từng có thời khắc được ngợi lên khúc khải hoàn ca:

Từ đây người biết quê người Từ đây người biết thương người Từ đây người biết yêu người (Mùa xuân đầu tiên)

Tuy vậy, trên kia vẫn là tiếng kêu buồn của ông gửi trần thế mà tất cả những lương tri còn lại trên đời không thể không xót xa, trăn trở:

Có lúc một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ

có lúc ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt

có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được (Có lúc, 1.1963)

Suốt gần hai chục năm trời, ngoại trừ quốc ca, hầu như các bài hát của Văn Cao không còn được hát, thơ Văn Cao không thấy được in. Ông phải lao đao mưu sinh bằng vẽ bìa sách, minh hoạ báo, sáng tác nhãn diêm, tem thư… Tất cả đều không được ghi bút danh thật mà chỉ có chữ “Văn”.

Nhà Văn Sơn Tùng kể, có hôm ông lếch thếch đi bộ từ nhà sang gõ cửa gọi vợ mình: “Chị Mai ơi ! Chị còn tiền đi chợ không, đem mua cút rượu về đây uống, mai kia có nhuận bút cái tranh minh hoạ ở báo Văn Nghệ tôi lại đưa chị”.

Trong những cuốn sách ký tặng nhà văn Sơn Tùng, có cuốn ghi: “Thân mến gửi anh chị Sơn Tùng tập nhạc này để nhớ nhiều ngày đã ăn cơn nhạt” (Xuân Canh Thân)

Một hôm khác, đã gần khuya, bỗng có tiếng đập cửa nghe rất hung bạo. Vừa mở cửa, thấy sững người vì trước khung cửa là một khuôn người lực lưỡng, mặt méo mó như có sẹo. Lấp ló phía sau là Văn Cao rã rời, không còn thần sắc. Hắn nắm cánh tay đẩy Văn Cao vào:

“Khượt rồi. Bảo đưa về nhà với vợ, không chịu. Chỉ đường đưa tới đây!”

Lúc tỉnh dậy, Văn Cao rùng rợn kể lại chuyện có người đến nhà rủ ra quán. Một bọn hùa nhau đổ cho Văn Cao thật say rồi gọi xich lô chở đi. Rã rượu, Văn Cao nhận ra hình như đang nằm trong một cái động nhà thổ, ghê sợ lắm. (Người ta dễ dàng liên tưởng đến vụ kéo nhà thơ Bùi Minh Quốc đi hát Karaoke và vụ rủ tướng Trần Độ đến khách sạn Hữu Nghị để bố trí quay phim, chụp ảnh.)

Vì sao Văn Cao có thời gian dài “ngồi chơi xơi nước”, có nhiều ngày ăn cơm nhạt? Quả tình Văn Cao chưa hề bị tù như Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Phùng Cung… Nhưng đối với những trí thức như Văn Cao, cái đòn “đắm đuối người trên cạn mà chơi” còn độc ác, còn gây đau khổ gấp mấy lần tù giam lỏng.

Một số anh em trẻ hỏi tôi lý do Văn Cao bị xử lý. Câu trả lời của tôi nói chung không đủ sức thuyết phục và họ đều cho rằng tôi không nắm được vấn đề. Tôi đi hỏi thêm một số người được xem là có dính dáng đến Nhân văn-Giai phẩm. Chẳng câu trả lời nào nghe cho thật có lý.

Chính bản thân Văn Cao cũng không hiểu vì sao:

Tại sao tôi chạy? tôi không hiểu tôi cả phố đuổi theo tôi xe cộ đuổi theo tôi

tôi chạy bạt mạng gần hết đời tới chỗ chỉ còn gục xuống tỉnh dậy mồ hôi chảy tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội

tôi rơi vào mạng nhện mạng nhện cuốn lấy tôi không còn cách gì gỡ được

tôi như con sâu tằm cuộc đời cứ như thế muốn phá cái mạng nhện tôi không đủ tay (Ba biến khúc tuổi 65)

Cho đến bây giờ, được lạc vào Thiên Thai rồi, chắc Văn Cao càng không thể nào hiểu được. Chỉ còn vọng lại những tiếng kêu buồn thảm thiết:

Tôi chỉ còn thoảng nhớ Một cái nhớ thuộc về cơ thể Những vết roi còn nằm trong da thịt nhiều năm Những tiếng chửi vọng suốt thời tôi sống (Không nhớ, 19.12.1963)

Chúng ta ngủ tìm một cơn mộng Quên một ban ngày đã qua nhọc nhằn chịu đựng (Quên, 25.6.1957)

Không đất này mọc lên từ nước mắt! (Quy Nhơn 3, 15.4.1985)

Nhưng Văn Cao dứt khoát không bi luỵ, không rã rời. Ông tự dằn vặt mình. Ông quằn quại vươn lên trong tột cùng đau khổ một cách kiên cường:

Khi đêm tối tất cả người tôi thức dậy Những đam mê quên ngủ suốt ngày (Thức dậy, 2.3.1964)

Tôi đã mất sắc da tuổi trẻ Nhưng một tôi đã rắn chắc lại rồi Mùa xuân không kịp nở Mãi trong tôi Những tháng ngày khát khao hy vọng (Trong mùa xuân đời tôi, 9.10.1959)

Mùa xuân đi qua không nở được Còn giữ lại mãi cái mầm trong suốt đời tôi Như một mầu luyến tiếc Nhưng một ngọn lửa nhen cứ bùng lên mãi mãi

Cho đến khi nào chết đi nó vẫn chưa nở được Để phải mọc lên trên mồ hôi những bông hoa trắng nhất Cho tuổi trẻ ngày sau thấy một mùa xuân đã mất Trong một chiến tranh Để xây ngày mai hạnh phúc

Họ hái mãi những bông hoa trắng đó Và sống thêm phần hạnh phúc của tôi (Mùa xuân không nở, 8.1957)

Đầy đoạ một Nguyễn Văn Cao – bậc tiền bối của cách mạng – là sự chà đạp lương tri một cách tàn ác, làm nhơ danh Đảng. Bóp nghẹt cái Mùa–Xuân-Văn–Cao của đất nước, của dân tộc, làm cho nó không thể nào nở được càng có tội bội phần lớn hơn đối với nhân dân Việt Nam.

Ai biết được còn bao nhiêu Sông Lô, bao nhiêu Thiên Thai… đã nghẹn lại, không thể ra đời. Và như thế đất nước đã mất đi bao nhiêu cái có thể còn quý giá hơn những gì đã biết của Văn Cao!

Vậy mà sao cho đến bây giờ cũng chỉ có được mấy giọt cảm thương một cách rất rụt rè kiểu như thế này: “Một nghệ sĩ chân chính như Văn Cao không thể không day dứt trước bao nhiêu cái gọi là ‘thói đời’. Tất cả những người cùng thời với Văn Cao – chúng ta đều hiểu ý nghĩa của Đai hội VI. Vậy những ‘thói đời’ gì? Sao lại để mãi đến Đại hội VI mới sửa một phần ‘thói đời’” (Trần Bạch Đằng).

Nhìn lại một thân phận Văn Cao ở Việt Nam, ta không thể không liên tưởng đến Boris Pasternak ở Liên Xô. Sau khi cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago dược trao giải thưởng Nobel, bỗng dưng B. Pasternak cũng bị nhâu nhâu chửi bới, bị đuổi khỏi Hội Nhà Văn Liên Xô, bị đe doạ trục xuất khỏi đất nước.

Như Văn Cao, Pasternak đã từng kêu khóc thảm thương trong bài thơ Giải thưởng Nobel: Tôi chết sững như con thú bị lùa Đâu đây có người, tự do, ánh sáng Còn sau lưng tôi là tiếng xua đuổi ồn ào Mà tôi không có ngả nào thoát ra … Tôi đã làm gì xấu xa Tôi sát nhân, tàn bạo? Tôi đã bắt cả thế gian phải khóc Thương vẻ đẹp quê tôi … Với vòng dây thế này ở cổ Tôi vẫn còn ước ao: Cánh tay phải của tôi Lau nước mắt giùm tôi

Người ta cũng đã tìm mãi mà không hiểu B. Pasternak phạm tội gì, ngoại trừ mấy dòng sau đây trong cuốn Bác sĩ Zhivago:

“Tai hoạ chính, căn nguyên của cái ác trong tương lai là việc mất tin vào giá trị của ý kiến cá nhân mình. Người ta tưởng rằng đã qua rồi cái thời cần làm theo sự mách bảo của đạo đức, tưởng rằng bây giờ phải hót theo giọng điệu chung và sống bằng quan niệm của kẻ khác, những quan niệm bị gán ép cho hết thảy mọi người.”

Đồng thanh tương ứng, Văn Cao cũng từng viết:

“Người làm thơ biết thành lập cho mình một cá tính trong suy nghĩ, trong tình cảm, trong cảm giác những điều mới lạ bao nhiêu là làm phong phú thêm cho người đọc về mặt tư tưởng, cảm xúc hay cảm giác .” (Mấy ý nghĩ về thơ, 1957)

Thì ra, dù biết vì nhân dân quên mình, xả thân đi làm cách mạng nhưng lại không biết khom lưng cúi đầu, làm nô lệ cho những thế lực nhân danh Đảng; lại còn, giống như B. Pasternak, biểu dương cá tính, kêu gọi tôn trọng cái tôi, bênh vực quyền con người thì trong cái chế độ tập trung dân chủ, Văn Cao tất phải mang thân phận Văn Cao.

Tuy nhiên, Mùa Thu tuồng như đã lại đến. Cái Mùa Thu buồn vui lẫn lộn. Cứ thấy miên man như Văn Cao:

Nắng chuyển dần trên thềm đá cũ mùa thu năm nay không mưa ngâu (Mùa Thu)

Nguyễn Thanh Giang Rút trong cuốn “ĐÊM DÀY LẤP LÁNH”

@ BA BÀI THƠ của Văn Cao viết về Huế _________________ THANH THẢO

Văn Cao sống với Huế không nhiều. Nhưng chỉ vài ba lần đến Huế trong cả cuộc đời, Văn Cao đã để lại ba bài thơ thấm thía viết về Huế, trong đó có hai bài trực tiếp Huế, và một bài (Ðêm phá Tam Giang) “cạnh Huế”. Văn Cao mất đã bốn năm rồi, ông không được biết trận lũ lụt kinh hoàng vừa xảy ra tại Huế và suốt dải miền Trung. Ông không biết nơi ông yêu thương giờ đây phải gánh chịu thảm hoạ, đang vật vã từng ngày để khôi phục, hồi sinh, vươn dậy. Văn Cao là nhà thơ có trực giác mạnh, cái đầu tiên ông “bắt” được ở Huế là nét buồn. Huế như một gương mặt đẹp nhưng buồn. Nỗi buồn ấy có tự bao giờ, và sẽ còn đến bao giờ, không ai biết.

“Sao đàn u hoài gì mùa thu? Sao đàn u hoài gì mùa thu?”

Câu thơ là câu hỏi lặp lại hai lần nhưng không có câu trả lời. Phải vì mùa Thu thuộc hành kim, mà kim sinh thuỷ. Huế và miền Trung lại nằm ở phía Tây trực tiếp của những vùng áp thấp, những cơn bão hình thành từ biển Ðông, nên mùa Thu đầy cảm giác, đầy rung động với thơ ca lại là mùa tai hoạ với Huế, với miền Trung. Trực giác được điều oái ăm đó”Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” chợt nghèn nghẹn một nỗi gì:

Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi Từng canh trời điểm một sao rơi Tà tà trăng lặn hiu hiu gió ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi.

Trong vẻ bình lặng ấy như ẩn giấu một nỗi lo sợ, như linh cảm một bão tố, tựa vẻ bình lặng của một cái ráng đỏ báo hiệu một cơn bão, một trận lụt.

Kể từ bài thơ “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế“, phải 45 năm sau Văn Cao mới có dịp về lại Huế để cây đàn thơ trong ông ngân lên giai điệu “Huế xưa“:

Về Huế xưa Ðường phố mưa dài Về phố xưa Nhìn phố mưa buồn

Âm nhạc đã song hành với từng câu thơ, mới nghe như có sự khơi gợi nào từ những bài hát về Huế đã nổi tiếng mà Văn Cao lọc được, nhưng nghe kỹ, đó vẫn là âm nhạc Văn Cao tiếp nối một dòng chảy từ những “Suối mơ” và “Làng tôi” nhưng nhịp đã rải hơn, từng giọt đàn từng âm thanh rơi chầm chậm như nhịp mưa buồn xứ Huế. Ðó là thế mạnh của một nhạc sĩ khi làm thơ, hay ngược lại, là thế mạnh của nhà thơ khi chạm tới âm nhạc. Văn Cao đã nghe được từng câu thơ mình sắp viết, và gương mặt Huế chợt hiện đầy một ám ảnh đau xót:

Từng mặt gương đau Từng mảnh gương tan

Từng giọt từng giọt như nước mắt lăn dài trên lòng phố, như nỗi đau nào tích tụ đã trăm năm, nghìn năm. Sao lại thế, khi Văn Cao chưa phải đã sống nhiều với Huế?. Câu trả lời: nhưng ông cảm nhận ngay được Huế, ông đã đi được vào lòng ruột Huế, sâu thẳm và khuất khúc:

Giọt người chia ly Giọt người yêu thương Giọt nào không vương Giọt người bơ vơ Giọt người theo mưa về phố.

Khi thơ song hành cùng âm nhạc, sức gợi của nó tăng lên rất nhiều. Cái “tiếng mưa đang đổ” trong bài thơ chợt nghe như trong bài hát, và bài thơ bỗng chơi vơi. Chơi vơi, đó là thần thái của bài Huế xưa, và biết đâu, cũng là thần thái của Huế.

Như muốn thoát khỏi một ám ảnh nặng nề, Văn Cao về phá Tam Giang và ở đó ông viết bài thơ Ðêm phá Tam giang, một trong những bài thơ hồn hậu nhất của ông.

Tôi ngủ trên mảnh lưới Bên các anh thuỷ thủ Gío gió gió biển vào Mơ giấc mơ lạ.

THANH THẢO.

@ Nhạc sĩ Văn Cao – trọn một tấm lòng vì Tổ quốc _____________________ NGỌC NGÀ

Việc gia đình cố nhạc sĩ Văn Cao hiến tặng “Tiến quân ca” cho nhân dân, cho Đảng, cho Quốc hội là làm tròn tâm nguyện của ông khi còn sống, để tác phẩm quý báu này trường tồn cùng đất nước.

Những lời ca hùng tráng “Đoàn quân Việt Nam đi/ Chung lòng cứu quốc/ Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…” của bài “Tiến quân ca” – tác phẩm được chọn làm Quốc ca của Việt Nam đã gắn liền với lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ vĩ đại. Vượt qua thời gian, vượt qua những quy định mang tính giới hạn của hoạt động sáng tác, lưu giữ và phổ biến tác phẩm nghệ thuật, “Tiến quân ca” đã trở thành di sản tinh thần vô giá của đất nước, của dân tộc. Việc gia đình cố nhạc sĩ Văn Cao hiến tặng tác phẩm quý báu này cho nhân dân, cho Đảng, cho Quốc hội là làm tròn tâm nguyện của ông khi còn sống, để “Tiến quân ca” trường tồn cùng đất nước. Đó chính là “Tấm lòng của một nghệ sĩ lớn đối với Tổ quốc”.

Căn gác nhỏ trên phố Yết Kiêu, thành phố Hà Nội là nơi nhạc sĩ Văn Cao đã sống những năm tháng cuối đời. Dẫu ông đã đi xa nhưng căn gác thân quen này đã trở thành nơi lưu giữ những kỷ vật về một người nhạc sĩ tài hoa, trong đó bài “Tiến quân ca” được gia đình ông trân trọng như một báu vật.

Tham gia Việt Minh ở Hà Nội, khi thời cơ khởi nghĩa đến gần, nhạc sĩ Văn Cao được tổ chức giao nhiệm vụ viết một ca khúc cổ vũ tinh thần chiến đấu cho 34 đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và phong trào Cách mạng… Chính trong căn gác nhỏ này, một ngày đầu đông năm 1944, “Tiến quân ca” đã ra đời, được đăng trên báo Độc lập do chính tác giả tự khắc in.

Nhà thơ, nhạc sĩ Nghiêm Bằng, con trai cố nhạc sĩ Văn Cao kể lại: “Cuối tháng 10 năm 1944, nhạc sĩ Văn Cao sau khi đi dọc các phố phường Hà Nội, tìm hiểu tình hình đất nước, vì lúc đó là hơn 2 triệu người chết đói vì Nhật bắt nhổ lúa trồng đay. Trước bối cảnh đó nhạc sĩ Văn Cao đã thốt lên “Đoàn quân Việt Minh chung lòng cứu quốc, rồi thề phanh thây uống máu quân thù…”. Sau này nhiều người phê phán là sao lại viết như thế nhạc sĩ Văn Cao có trả lời rằng: “Lúc đó tôi mới 21 tuổi thôi mà nhìn cảnh hơn 2 triệu người chết đói thì không còn cách nào khác”.

Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945, trong số 3 ca khúc: “Tiến quân ca”, “Chiến sĩ Việt Minh” (sau đổi thành “Chiến sĩ Việt Nam”) của nhạc sĩ Văn Cao và bài “Diệt phát xít” của Nguyễn Đình Thi; Bác Hồ đã chọn “Tiến quân ca” làm Quốc ca chính thức của Việt Nam.

Bác nói rằng, lời bài “Diệt phát xít” ngắn gọn, dễ hát, dễ phổ cập, tuy nhiên chế độ phát xít đã tan rã, nếu lấy bài “Diệt phát xít” làm quốc ca sẽ không hợp thời. Mặc dù thích bài “Chiến sĩ Việt Minh” nhất, nhưng Bác lại không chọn làm Quốc ca vì cho rằng lời dài, khó hát. Theo Bác, đưa “Tiến quân ca” trở thành Quốc ca là phù hợp nhất, vì ca khúc thể hiện được ý chí, khát vọng của dân tộc, lại gắn gọn, dễ thuộc lời, đầy đủ về ý nghĩa, giai điệu lại hùng tráng….

Ngày Tổng khởi nghĩa, 19/8/1945 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, trước hàng vạn quần chúng nhân dân, giữa một rừng cờ đỏ sao vàng, Văn Cao đã chỉ huy đội đồng ca thiếu niên tiền phong hát vang bài “Tiến quân ca”. Bài hát như một hồi kèn xung trận, khích lệ tinh thần yêu nước, kêu gọi quần chúng nhân dân đứng lên giành chính quyền, làm nên cuộc Cách mạng mùa thu đi vào lịch sử của dân tộc.

Trong hồi ký về tác phẩm “Tiến quân ca” nhạc sĩ Văn Cao kể lại: “Có mặt trong ngày Tổng khởi nghĩa 19/8 tại Hà Nội, khi “Tiến quân ca” nổ ra như một trái bom, tôi lặng đi và nghĩ bài hát đã không còn thuộc về riêng cá nhân tôi, “Tiến quân ca” đã trở thành tiếng nói thiêng liêng của dân tộc và của Tổ quốc”. Đó là lý do để người nhạc sĩ tài hoa khi còn sống luôn xem “Tiến quân ca” là lời ca, trí tuệ của dân tộc chứ không phải của riêng ông. Suy nghĩ và tình cảm đó đã thấm vào suy nghĩ của mỗi thành viên của gia đình nhạc sĩ.

Nhà thơ, nhạc sĩ Nghiêm Bằng con trai nhạc sĩ Văn Cao chia sẻ: “Tiến quân ca là bài ca thiêng liêng không thể giữ riêng của gia đình chúng tôi được. Sáng tác ca khúc là một nhiệm vụ của Việt Minh trao, của Đảng trao. Cố nhạc sĩ Văn Cao cũng là một Đảng viên, nhận nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm vụ và trao trả lại cho dân tộc và Tổ quốc. Những điều đó là tâm niệm của nhạc sĩ Văn Cao. Gia đình chúng tôi tiếp tục thực hiện ý nguyện đó và hiến tặng lại cho dân tộc và cho đất nước”.

Năm tháng trôi qua, với mỗi người dân Việt Nam, mỗi khi nghe bài “Tiến quân ca” vang lên trong lễ chào cờ, hay trong những ngày lễ trọng, lòng lại trào dâng bao cảm xúc thiêng liêng về tinh thần yêu nước, niềm tự hào tự tôn dân tộc. Bài hát đã ăn sâu vào tiềm thức của các thế hệ người Việt Nam.

Anh hùng lực lượng vũ trang, Thiếu tướng Lê Mã Lương chia sẻ: “Chúng ta có một bài Quốc ca khi mà hát theo cùng với mọi người thấy lòng mình phấn chấn, sục sôi, đúng tinh thần của bài hát. Âm hưởng của bài hát ấy, giai điệu sâu sắc của khúc ca ấy có ảnh hưởng tác động rất sâu đến những người lính chúng tôi. Mỗi lần hát quốc ca, trong lòng như có một cái gì đấy trào lên, tự hào, tự tôn dân tộc. Vì thế mà trước những khó khăn, trước những trận đánh lớn thì bao giờ Quốc ca cũng là một trong những bài anh em thuộc nhất và hay hát nhất. Nó ăn sâu vào con tim, khối óc những người lính và góp phần tạo nên những chiến công”.

Với mong muốn “Tiến quân ca” là bài ca của toàn dân, năm 2010, bà Nghiêm Thúy Băng, vợ cố nhạc sĩ Văn Cao đã có thư gửi Bộ trưởng Bộ VHTT&DL xin hiến tặng tác phẩm “Tiến quân ca” cho nhân dân, Đảng, Quốc hội và Nhà nước. Trong thư, bà Nghiêm Thúy Băng viết: “Tâm nguyện của ông nhà tôi là Quốc ca không của riêng ông nên tôi xin hiến tặng Nhà nước, Quốc hội”. Nay, tâm nguyện ấy đã thành hiện thực. Văn phòng Quốc hội đã tổ chức lễ tiếp nhận “Tiến quân ca” một cách trang trọng, thiêng liêng, xứng đáng với giá trị của bài hát mà nhạc sĩ Văn Cao đã dành trọn tâm huyết để viết nên.

Lễ tiếp nhận ca khúc “Tiến quân ca” của cố nhạc sĩ Văn Cao được tổ chức cùng với việc truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho ông, chính là sự ghi nhận của Đảng, Nhà nước, của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với người nhạc sĩ tài hoa đã cống hiến tất cả sức lực, tâm huyết, tài năng cho Tổ quốc và nhân dân.

Ngọc Ngà

.

@

Nhà thơ Văn Cao: “Còn những tiếng rạn vỡ” __________________

Thiên Sơn

Giờ nhìn lại sự nghiệp thơ Văn Cao, ta không khỏi ngạc nhiên, khi chỉ trong hơn 10 năm kể từ khi có tác phẩm thơ đầu tiên, từ một nhà lãng mạn cuối mùa, ông đã làm một hành trình dài lao thẳng vào hiện đại như một cánh chim xuyên qua bão táp của những thành kiến trong thời đại mình để trở thành một nhà tiên phong, mở ra một cánh cửa mới cho thơ hiện đại Việt Nam, mà cho đến nay chúng ta chưa đi hết cung đường mà ông đã vạch ra.

Nếu như âm nhạc Văn Cao đã được khẳng định ở vị trí số một Việt Nam trong thế kỷ 20 thì các lĩnh vực sáng tác khác, là họa và đặc biệt là thơ của ông dường như chưa có sự nghiên cứu thấu đáo. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho biết, khi ông và Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo tuyển chọn tập thơ Lá của Văn Cao để in, có ít nhất 1 bài thơ của ông đã không in được, đó là bài Đồng chí của tôi nói về chuyện bất nhẫn giữa những người cùng một chiến hào đối xử với nhau. Văn Cao từ những năm 50 của thế kỷ trước đã có cái nhìn xuyên thẳng vào hiện thực, đã nói lên cả những mặt trái của cuộc cách mạng, cả những bất trắc khó lường trong đội ngũ của ông.

Ngọn lửa thơ của Văn Cao sung sức và bùng cháy nhất chính ở thời điểm ông viết trường ca Những người trên cửa biển năm 1956. Cảm xúc sôi trào. Ý tứ sắc sảo. Câu thơ hoạt. Hình tượng thơ gây nhiều ám ảnh. Từ thời điểm này về trước, Văn Cao thiên về cảm xúc, cảm giác và những hình ảnh lãng mạn. Sau thời điểm này, Văn Cao chuyển dần sang ẩn dụ, tượng trưng với những hình ảnh biểu tượng hết sức sâu sắc và những suy tư mang nhiều cay đắng.

Cuộc đời Văn Cao, có thể nói, cũng gặp phải những bước ngoặt ngặt nghèo từ sau khi viết Trường ca những người trên cửa biển. Trước đó, là một đoạn đời nhiều xiêu dạt, hào hùng, lãng mạn. Sau đó là những năm tù túng, bị trói buộc và chìm trong ưu tư triền miên.

Văn Cao sinh ra ở Hải Phòng trong một gia đình công chức, cha của Văn Cao vốn là đốc công nhà máy nước Hải Phòng. Thuở nhỏ, Văn Cao hoc ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành chung. Qua những tác phẩm còn lại thì 16 tuổi ông đã làm thơ, viết nhạc và giành được những thành công đầu tiên. Tuy nhiên, theo nhà thơ Văn Thao, con trai ông, thì Văn Cao làm thơ lúc chỉ mới 12, 13 tuổi. Văn Cao đến với thơ trước khi đến với nhạc, họa và thơ cũng là cõi riêng ông thổ lộ những suy tư thăm thẳm về cuộc đời mình, những chiêm nghiệm trước hiện thực ngặt nghèo mấy mươi năm thăng trầm của một thế kỷ đầy bão táp.

trở thành một hiểm họa lớn.

Trong cái thời sung sức ấy, Văn Cao cũng chú trọng đến cách tân hình thức. Điều đáng nói là Văn Cao đề cao sự phù hợp giữa nội dung và hình thức thơ. Trong bài Gử

Cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ trước, phong trào thơ mới bắt đầu cạn dần dòng chảy của nó. Những sáng tác đầu tiên của Văn Cao (bài thơ đầu tiên giữ lại được ghi sáng tác năm1939) chịu ảnh hưởng của tư duy thơ mới, nhưng lối dùng chữ vẫn còn nặng về hán việt, nhạc thơ còn chưa thật nhuần nhuyễn. Nhưng, chỉ khoảng 1 năm sau, khi ông viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế (1940) thì độ điêu luyện, mượt mà đã không kém các bậc đàn anh trong thơ mới trước đó. Và cũng chỉ mấy năm sau, ông viết Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc thì không chỉ độ điêu luyện đã lên đến đỉnh, mà còn cho thấy một cách nhìn, cách miêu tả hiện thực đến tận cùng trước thảm họa khủng khiếp của dân tộc ta trong nạn đói năm 1945. Đó là thời điểm Văn Cao đã hoàn toàn vượt qua ảnh hưởng của thơ mới và nghiêng theo chủ nghĩa hiện thực. Nhưng rồi sau đó, Văn Cao chủ yếu chuyển sang nhạc, liên tiếp giành được những thành tựu lớn trong âm nhạc, còn đường thơ thì dần trở nên thưa thớt.

Nhà thơ Văn Thao cho biết, hồi còn học ở trường Saint Josef, Hải Phòng, Văn Cao tham gia làm một tờ báo cùng các bạn trong lớp. Lúc ấy, ông đã tự tay trình bày báo và biên tập thơ của bạn hữu đăng lên. Văn Cao cũng tham gia hướng đạo sinh, trở thành đại biểu của tổ chức này được mời đi dự hôi nghị toàn Đông Dương tổ chức ở Huế. Sau khi gia đình sa sút, bố ông bị mất, chị gái ông lấy chồng trong Nam ra chịu tang cha, Văn Cao có thời kỳ theo chị vào Sài Gòn kiếm sống, nhưng sau đời sống khó khăn, ông không muốn phiền đến gia đình anh chị nên trở lại miền Bắc. Khoảng cuối năm 1943, đầu 1944, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội học thêm và có lúc do khó khăn phải ở nhờ một người chị từng là cô gái nhảy nổi tiếng của Hải Phòng xiêu dạt lên Khâm Thiên. Những năm lưu lạc ấy, đã giúp Văn Cao lăn lộn trong giông tố cuộc đời và hiểu thêm chuyện đời, chuyện thế sự. Nhưng rồi, như một quy luật, hầu hết những nghệ sỹ lớn hồi đó đều tham gia Việt Minh, Văn Cao cũng thế. Ông được ông Vũ Quý giác ngộ và gợi ý ông dùng tài năng của mình phục vụ cho cách mạng. Văn Cao từ 16 đến 18 tuổi đã cắm những cái mốc trong âm nhạc với Suối mơ, Trương Chi, Buồn tàn thu, thì 21 tuổi đã viết Tiến quân ca, để rồi 1 năm sau đó trở thành Quốc ca. Và cũng từ đó, ông liên tục sáng tác nên những tác phẩm hào hùng Thăng Long hành khúc ca, Trường ca sông Lô, Không quân Việt Nam, Tiến về Hà Nôi…

Nửa cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, Văn Cao có vài bài thơ, mà đáng chú ý phải nói đến Ngoại ô mùa thu năm 1946. Sự biểu đạt về ngôn từ ở đây đã thoát thai ra khỏi lối ước lệ cổ điển và cập nhật những từ ngữ mới có hơi thở đời sống. Cũng phải nói rằng, chính cuộc sống chiến đấu và lao động mới sau cách mạng Tháng 8 đã giúp nhào nặn lại ngôn ngữ thơ của Văn Cao và đưa ông lên tuyền đầu với những ước mơ và khát vọng sáng tạo mới cho thơ.

Trở lại với thời điểm bước ngoặt trong thơ Văn Cao, chính là khi ông viết trường ca Những người trên cửa biển. Ở trường ca này, Văn Cao lấy Hải Phòng làm một hoán dụ như “Việt Nam thu nhỏ”. Hải Phòng hiện lên trong thác lũ của chiến tranh và trong mơ ước nhào nặn lại hình hài của mình vươn đến cuộc sống mới. Và cũng chính ở đây, bên cạnh những thành công và mơ ước, Văn Cao đã không ngại ngần đề cập đến những hiểm họa khó trừ trong hàng ngũ những người cách mạng.

“Kẻ thù của chúng ta xuất hiện

Những con rồng đất khi đỏ khi xanh

Lẫn trong hàng ngũ

Những con bói cá đậu trên những dây buồm

Đang đo mực nước

Những con bạch tuộc

Bao tay chân cố dìm một con người”

“Đất nước đang lên da lên thịt

Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày

Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải

Đã thấy loài sâu nằm dài trong cuống…”

“Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc

Những tên muốn cây to che cớm mầm non”.

Và ông cũng đã thấy những bi kịch lặng thầm:

“Không có tiếng vỡ trong không gian

Sao có tiếng vỡ trong lòng tiếng vang âm rên rỉ”.

Bản lĩnh Văn Cao, sự trung thực của ngòi bút, tính dự báo sâu sắc bắt đầu được thể hiện mãnh liệt. Và hẳn nhiên, điều này làm cho không ít người có quan điểm hẹp hòi, thích che đậy lấy làm khó chịu.

Cũng tại thời điểm này, Văn Cao viết bài Mấy ý nghĩ thơ như một tuyên ngôn về thơ, đặt ra những vấn đề lớn về thơ hiện đại. Văn Cao đặc biệt nhấn mạnh đến tính tư tưởng của thơ: “Chúng ta đã qua một thời kỳ dài thiên về cảm xúc và một thời kỳ cảm giác, cái thời kỳ thiên về tư tưởng có phải đang bắt đầu không?”

Tuyên ngôn rồi, Văn Cao bắt đầu có những đột phá cả trong khai thác đề tài và nghệ thuật biểu hiện.

Bài Anh có nghe thấy không là một cách đặt vấn đề về nội dung mới cho thơ. Trong lời đề từ Văn Cao ghi “gửi một nhà thơ”. Và ông viết:

“Chỗ nào cũng có tiếng

Chưa nói lên”

Văn Cao không ngại ngần chỉ ra:

“Chung quanh còn những người khôn ngoan

Không có mồm

Mắt không bao giờ nhìn thẳng

Những con mèo ngủ yên trên ghế

Trong một cuộc dọn nhà

Những con sên chưa dám ló đầu ra

Những dây leo càng ngày càng tốt lá”

Kẻ thù lớn nhất của cách mạng chính là những kẻ xảo trá, cơ hội lẫn vào hàng ngũ những người cách mạng để phá hoại nó. Hiện thực mà Văn Cao cảnh báo, tiếc thay đã không được khắc phục, không được chỉnh đốn kịp thời để sau này

i những nhà thơ, ông viết:

“Hãy xếp lại thang âm

A ba ca

Da đa la ma

Ôi vần thơ nhạc điệu

Trong trúc trắc nặng nề ngột ngạt

Trong chua chát ngậm ngùi hàng ngày quằn quại

Chết mòn chết mòn chết mòn”

Ở một chỗ khác, ông cũng ví cánh thơ du dương như “chiếc máy bay của người đầu tiên tập lái”. Ông cho rằng, nhà thơ “hãy giữ lại thang âm và đôi cánh/ Trong cuộc đời cao tiếng hát du dương”. Tiếc thay, nửa cuối của thập niên 50 của thế kỷ trước, với những oan trái nặng nề, và cách xử lý vụ Nhân văn Giải phẩm có phần sai lầm đã khiến cuộc đời nhiều văn nhân rơi vào bi kịch. Văn Cao, một nghệ sỹ với tài năng sáng chói cũng bị người ta cho là có liên quan đến vụ này. Từ đó, tài năng của ông đã không còn nhiều cơ hội được thể hiện trước công chúng.

Từ những năm 60 của thế kỷ trước, cuộc sống của Văn Cao trở nên nặng nề, cô độc và thậm chí nơm nớp vì một sự đe dọa vô hình. Ông gần như không làm nhạc, phải vẽ minh họa cho báo hoặc vẽ bìa sách để kiếm sống và thường phải chịu cảnh đói nghèo. Ông cũng ít làm thơ. Hầu hết là những bài thơ viết và để trong sổ tay, thỉnh thoảng mới được đọc lên chia sẻ với bạn hữu trong những cuộc rượu.

Mãi mấy chục năm sau, khi đất nước đã mở cửa, đổi mới thì thơ Văn Cao mới được in lại trong một tập “Lá”. Sau khi Văn Cao mất, những tuyển thơ của ông mới dần dần được in nhưng vẫn còn một số bài thơ gai góc đến giờ vẫn chưa xuất hiện chính thức trong tập nào.

Càng về sau, Văn Cao làm thơ như là một cuộc độc thoại với chính mình. Trước đây có lần ông muốn hét to lên, cảnh báo về những hiện trạng nguy hiểm đang dần dần lộ diện trong đời sống, nhưng chẳng ai nghe thấy, tiếng thét của ông tựa như gặp một triền núi dựng đứng chắn lại:

“Khi tôi hú lên thật to

Không nghe tiếng tôi nữa

Như viên đá rơi vào im lặng

Những ngọn núi dựng lên đen trũi

Bờ một cái vực khổng lồ

Nơi cả mặt trời mặt trăng

Thường lặn xuống không tiếng động”.

(Lòng núi)

Đến lúc chìm trong cô độc, ưu tư, Văn Cao chua xót nhận ra:

“Bỗng nhiên

Bóng người ấy che mất

Nửa mặt của tôi”

(Nguyệt thực)

Dù sao, thơ Văn Cao vẫn tiến những bước dài trong sự chiêm nghiệm về thân phận con người, về những nghịch lý của thời đại và trong nghệ thuật biểu hiện, ông đã chọn lối ẩn dụ, tượng trưng như một phương thức biểu đạt chính, tạo ra những bài thơ trùng điệp các tầng ngữ nghĩa, gợi liên tưởng và ngẫm suy không dứt.

“Sự thất bại thường gặp trong một bài thơ là khép lại: Khép tất cả sự muốn nghĩ và muốn nói”. Văn Cao đã từng quan niệm như vậy, và ông đã thành công khi biến mỗi bài thơ của mình thành một tác nhân kích thích suy nghĩ của độc giả. Có thể coi mỗi bài thơ như một câu hỏi nhức buốt về sự sống, hoặc một tấm gương để độc giả soi vào và tự ngẫm suy về chính mình, về thời đại mình. Bài thơ Văn Cao vì thế không phải là một văn bản chết, cứng đờ trên giấy, nó lung linh, sống động và biến hóa tùy theo sức cảm và nghĩ của độc giả. Đó chính là sự hấp dẫn đặc biệt của thơ Văn Cao, thâm trầm, sâu sắc và liên tục gợi mở. Tính hiện đại của Văn Cao biểu lộ rõ nét ở điểm này. Nó vượt thoát khỏi dòng thơ tuyên truyền đương thời. Nó xác lập một cá tính riêng, làm phong phú thêm cho Việt và mở đường cho những dòng chảy mới của thơ sau này.

Bài “Năm buổi sáng không có trong sự thật” là một thành công quan trọng trong nỗ lực hiện đại hóa thơ của Văn Cao. Bài thơ mở ra cái thế giới của tưởng tượng, của giả tưởng. Buổi sáng thứ nhất, khi tỉnh dậy bỗng “cả phố biến đâu mất” “Mặt đất đỏ màu gạch nung/ như miệng quả núi lửa”. Buổi sáng thứ hai tỉnh dậy “không nghe tiếng chim hót”, không nghe tiếng chân đi, “không ai nhìn miệng tôi gào thét”. Tất cả chỉ có im lặng. Và nhà thơ cảm thấy “Hình như nơi đây bị đày trong im lặng”. Buổi sáng thứ ba, nhà thơ thấy “không phải mình thức dậy/ một người nào đó trong tôi đang thở”, thế rồi từ đó, bao nhiêu điều khủng khiếp đã diễn ra. “Từ khi ấy, chúng tôi hai người suy nghĩ/ Hai kẻ thù nhau/Hai thái cực tâm hồn/ Hai người ấy trong một người chịu đựng/ mưu hại lẫn nhau”. Buổi sáng thứ tư, cả phố phường như mở hội. “Mọi con người đeo mặt nạ đi chơi” nhưng nhà thơ lại nhìn thấy “Nước mắt mồ hôi / chảy ra trên từng mặt nạ”. Bài thơ kết lại bằng buổi sáng thứ năm ấm áp. Trong căn phòng trong suốt thủy tinh, “Em ở đây với anh” “Da thịt em cho anh sưởi” “Chúng ta đi vào bí mật của mùa xuân”. Năm buổi sáng là năm tình huống, năm cung bậc của cảm xúc, suy tưởng, tưởng tượng. Dù nó được vẽ nên mang màu sắc giả tưởng nhưng lại không xa lạ với hiện thực. Bài thơ khép lại mà sức gợi của nó không dứt, tựa như một chất xúc tác nhào nặn lại những suy nghĩ của độc giả.

Nếu như “Năm buổi sáng không có trong sự thật” hướng ngoại, mô tả những cảnh ngộ chung của nhiều người, hoặc khái quát về cái chung, thì “Ba biến khúc tuổi sáu lăm” là một lối thơ nghiêng về ẩn dụ nói lên cảnh ngộ của một con người. Biến khúc thứ nhất, kể rằng, “một người cho tôi con dao găm” và tác giả vô tình ném con dao qua cửa sổ trong đêm. Bỗng có tiếng ngã ngoài sân, “một người trúng tim đã chết”. Tác giả thanh minh: “Tôi không hề biết người ấy/ Tôi là kẻ không muốn giết người/ Chỉ biết bóng tối/ mà tôi đã ném dao”. Biến khúc thứ 2, kể về một oan khiên: “Bỗng nhiên mọi người nhìn tôi/ một ai đó kêu lên thằng ăn cắp”. Thế rồi, khi chạy hết cả cuộc đời, sắp gục xuống, “tỉnh dậy mồ hôi chảy/ tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội”. Biến khúc thứ ba, kể: “Tôi rơi vào mạng nhện/ mạng nhện cuốn lấy tôi/ không còn cách gì gỡ được”. Đây là một bài thơ đau đớn, nói về sự vô tình nghiệt ngã, sự xô đẩy của thời thế tạo nên số phận oan nghiệt của một con người. Dù tất cả hình ảnh trong bài thơ đều mang tính biểu trưng, nhưng hầu như những mâu thuẫn, những kịch tích lại khá rõ ràng và có thể hiểu được khá rõ.

Trừ một số bài thơ dài, mà trường độ cảm xúc và tính khái quát không thua kém những trường ca, về cơ bản, thời kỳ những năm 60, 70 của thế kỷ trước, thơ Văn Cao trở nên ngắn gọn, cô đúc. Ông tìm sự liên kết trong ý tứ, hình ảnh, trong nhạc điệu, tức là sự liên kết từ bên trong chứ ít khi sử dụng những vần điệu vang vọng. Hình ảnh trong thơ ông thường biến nghĩa, cấu trúc câu cũng linh hoạt khơi gợi sự ngẫm ngợi. Hầu hết thơ ông quãng sau nghiêng về nghĩa bóng, mỗi bài thơ đặt ra những thách thức bí ẩn khiến người đọc phải giải mã điều thực sự nhà thơ muốn nói phía sau mỗi câu từ.

Dù không sáng tác nhiều thơ (khoảng 60 bài thơ và 1 trường ca), Văn Cao cũng đã ôm chứa trong ông bước dịch chuyển lớn lao mang dấu ấn của hơn nửa thế kỷ tìm đường của thơ Việt. Từ một nhà lãng mạn, Văn Cao đã nỗ lực để trở thành một nhà thơ hiện thực, từ một nhà hiện thực, Văn Cao đã tiến thêm một bước vào lãnh địa của thơ tượng trưng. Trong thơ ông người ta tìm thấy cả dấu ấn thân phận nhà thơ, lẫn nỗi cay đắng của một lịch sử đầy gấp khúc.

Hà Nội tháng 6/2013 THIÊN SƠN

@

Văn Cao, Mùa Xuân Cuối Cùng ______________________

Phạm Đình Trọng

  1. NỖI KHẮC KHOẢI VĂN CAO

Một buổi sáng mùa đông, tôi đang bon bon trên con đường một chiều Tràng Thi, Hà Nội thì bỗng thấy Đinh Anh Dũng và Quốc Thành, hai nhà quay phim có tiếng của hãng phim Giải Phóng cùng ở thành phố phương Nam với tôi, đang lom khom bên chiếc camera đặt trên hè đường gần Thư viện Quốc gia. Ở thành phố phương Nam, tôi và Dũng vẫn thường ngồi với nhau nói nhiều chuyện về điện ảnh, bây giờ lại gặp Dũng đang làm phim ở Hà Nội, dù đang có việc bận, tôi vẫn không thể không dừng lại với anh,

Dũng say sưa nói về bộ phim anh đang thực hiện, bộ phim ca nhạc về Văn Cao mà Dũng định lấy tên là Năm buổi sáng có trong sự thật. Bộ phim sẽ lần theo bước chân Văn Cao lãng đãng trong cõi âm nhạc vì thế là phim ca nhạc nhưng nó cũng là phim tài liệu về năm tháng cuộc đời Văn Cao. Tôi đã được đọc bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật. Thơ Văn Cao là Không có trong sự thật, nhưng sao phim của Dũng lại là có trong sự thật? Theo Dũng, Năm buổi sáng không có trong sự thật là năm giấc mơ trong những giấc mơ của Văn Cao. Cả cuộc đời Văn Cao như một giấc mơ. Văn Cao sống như mơ, tồn tại như mơ, làm việc trong mơ. Những tác phẩm của Văn Cao thực sự là những giấc mơ, là trạng thái siêu thoát của ông. Vì thế mới có Thiên Thai, mới có Suối Mơ, mới có Trương Chi, mới có Cung Đàn Xưa, vân vân! Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng kinh ngạc thốt lên: Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng! Cả Sông Lô cũng là một giấc mơ sảng khoái trong không khí thần thánh thiêng liêng của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến ấy là Thánh đường của lòng yêu nước và Tiến Quân Ca, Người Hà Nội, Sông Lô, Làng Tôi, Giải Phóng Điện Biên . . . là những bài Thánh ca. Dũng nói rằng anh muốn đưa Văn Cao lên sông Lô để ghi hình Văn Cao với dòng sông lịch sử đã để lại bóng dáng oai hùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và trong cuộc đời bi tráng của Văn Cao. Giây phút lịch sử của sông Lô, của cuộc kháng chiến chống Pháp đã qua rồi nhưng chứng nhân của giây phút lịch sử đó vẫn còn đây. Giây phút hào hùng của sông Lô đi vào tâm hồn nghệ sĩ Văn Cao đã làm nên tráng ca Sông Lô bất hủ. Sông Lô đó, vẫn hiền hòa mà oai hùng chảy trong ngút ngàn Việt Bắc! Văn Cao đây, vẫn liêu xiêu dáng dấp bình dị mà tài hoa! Và giai điệu hùng tráng của nhạc phẩm Sông Lô còn âm vang mãi trong thời gian! Nhưng tiếc quá! Những ngày vừa rồi lạnh tê tái làm cho Văn Cao không được khỏe nên Dũng chỉ đưa được Văn Cao lên sông Cầu. Mùa này con sông Cầu cũng thu lại đìu hiu, tĩnh lặng, hiền hòa như sông Lô. Về sông Cầu nước chảy lơ thơ và về làng Thổ Hà nổi tiếng của gốm và rượu! Sao? Cuộc đời Văn Cao như một giấc mơ ư? Tôi ngạc nhiên về cảm nhận này của Dũng! Tác phẩm là sự thăng hoa của tâm hồn tác giả thì đúng rồi! Nhưng cuộc đời trần ai, cay đắng của Văn Cao đâu phải là một giấc mơ! Có lẽ trước năm 1975 Dũng sống ở Sài Gòn chỉ biết Văn Cao qua những tác phẩm hào hoa của ông mà nghĩ cuộc đời Văn Cao lãng đãng như mơ chăng? Tôi chợt nhớ câu chuyện kể về Văn Cao của bạn tôi, anh Nguyễn Ánh, một nhà báo viết cho tờ Sân Khấu của hội Nghệ sĩ Sân khấu, một trợ lí được việc của nhiều đạo diễn sân khấu, điện ảnh, một diễn viên không chuyên có vai phụ trong nhiều bộ phim. Cao lêu đêu, gày lòng khòng, mặt dài thườn thượt, Nguyễn Ánh thường được các đạo diễn chọn vào những vai ông già nghèo khó, người hát sẩm, phu đào huyệt, người thổi kèn đám ma . . . . . . . Nguyễn Ánh còn là thư kí được việc của nhiều đạo diễn sân khấu, điện ảnh. Nguyễn Ánh kể rằng dạo ấy là năm 1965, Ánh làm thư kí cho đạo diễn sân khấu Trần Hoạt khi ông dựng vở kịch Cuba Đồng Mía cho đoàn kịch Hà Nội. Trần Hoạt mời Văn Cao làm nhạc và thiết kế mĩ thuật cho vở diễn. Một buổi chiều hai ông cùng thư kí đạo diễn và mấy người trong đoàn kịch ngồi bên li rượu bàn công việc. Nhân khi mọi người chuyền tay nhau bao thuốc lá Tam Thanh, một người lên tiếng: – Các ông nhìn hình vẽ trên bao thuốc lá này xem có thấy gì không? – Thấy hòn Vọng Phu chứ thấy gì! Lạng Sơn có phố Kỳ Lừa, có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh. Tam Thanh thì phải vẽ nàng Tô Thị ngóng chồng chứ còn vẽ gì nữa! – Đấy, vấn đề chính là ở cái hình nàng Tô Thị ngóng chồng ai oán này đấy! Văn Cao đã nâng chén rượu lên ngang môi lại vội đặt xuống, vẻ lo lắng: – Vấn đề gì thế? Vốn nhạy cảm, đạo diễn Trần Hoạt nhận ra vẻ lo lắng thất thần của Văn Cao nên vội gạt đi: – Cứ suy diễn tùy tiện thì cái gì chẳng có vấn đề! Thôi, uống đi mà lo việc của mình! Nhưng Văn Cao vẫn bồn chồn không yên, hỏi ráo riết: – Vấn đề ở chỗ nào hả cậu? Người khơi chuyện vẫn thủng thẳng: – Vấn đề nặng đấy! Tay họa sĩ vẽ hình hòn Vọng Phu, nàng Tô Thị ngóng chồng rõ ràng định bi thảm hóa người vợ lính có chồng ra trận! Cuộc kháng chiến chống Mĩ đang quyết liệt! Nhà nào chẳng có người ra trận! Vẽ hòn Vọng Phu như thế là vẽ sự tang tóc, tuyệt vọng của cuộc kháng chiến đang diễn ra à? Thế là đánh phá về chính trị, tư tưởng cuộc kháng chiến chống Mĩ rồi còn gì nữa! Mặt Văn Cao biến sắc và giọng đã run run: – Có ý kiến như thế thật à? Thế thì gay đấy! – Bác cứ nhìn kĩ xem có phải hình hòn Vọng Phu xõa tóc vật vờ như bóng ma không? Đó là một hình ảnh tang tóc thê lương chứ có phải hình nàng Vọng Phu bền bỉ chờ chồng đến hóa đá đâu! Họ suy diễn cũng đúng đấy chứ! Văn Cao thở dài lẩm bẩm: – Khổ quá! Mình không có ý viser (ám chỉ – tiếng Pháp) nhưng họ buộc cho như thế, làm sao cãi được! Không biết rồi chuyện gì sẽ đến?

Đạo diễn Trần Hoạt nhìn Văn Cao ái ngại: – Cái bao thuốc lá này cũng cậu vẽ kiếm cơm hả? Rõ khổ! Vì cậu vẽ nên người ta mới suy diễn như thế! Nhưng việc quái gì phải sợ! Họ chẳng làm được gì hơn nữa với cậu đâu! Thôi, uống đi! Chúng ta đang cần lửa! Cần lửa cho vở kịch về cách mạng Cuba! Chúng ta phải thổi ngọn lửa đó lên, truyền hơi ấm của ngọn lửa đó đến công chúng! Nhắc đến chuyện vớ vẩn kia là dội nước lạnh vào lửa! Thôi dẹp! Lửa đây! Lửa trong rượu Thổ Hà! Nào, làm chút lửa Thổ Hà rồi trở lại công việc với ngọn lửa cách mạng Cuba! Văn Cao nâng chiếc chén hạt mít lên nhưng nét mặt vẫn đăm đăm khắc khoải: – Có chuyện gì với mình cũng chẳng sao! Mình chịu quen rồi! Nhưng còn người đã thương mình, giao việc cho mình làm để có tiền nuôi vợ con! Chỉ sợ họ cũng bị vạ lây vì lòng thương họ dành cho mình! Làm sao mình có thể vô tâm, không lo nghĩ đến điều đó được! Nghe câu chuyện của Nguyễn Ánh, tôi cứ thấy hiện lên vẻ mặt khắc khoải âu lo đến tội nghiệp của Văn Cao. Đã có quá nhiều tai họa kiểu hòn Vọng Phu giáng xuống cuộc đời Văn Cao! Gần suốt cuộc đời Văn Cao phải sống trong âu lo khắc khoải về tinh thần, sống trong khó khăn, thiếu thốn cơ cực về vật chất! Thiết kế sân khấu cho một vở diễn, vẽ bìa sách, vẽ cả bao thuốc lá . . . những công việc cần tài hoa, cần cả sự cặm cụi khuya sớm nữa! Sau câu chuyện của Nguyễn Ánh, tôi đã có dịp gặp Văn Cao. Khi ấy tên tuổi ông đã lại được nhiều tờ báo nhắc đến với sự trân trọng, ngưỡng mộ. Những đêm nhạc Văn Cao lại được liên tiếp tổ chức tưng bừng ở Hà Nội, Hải Phòng và ở cả thành phố phương Nam nơi tôi sống. Ông xuất hiện ở đâu cũng được chào đón nồng nhiệt. Nhưng gặp ông tôi vẫn thấy một Văn Cao dung dị, cởi mở nhưng khắc khổ, ưu tư, như thảng thốt, như đang mang một tâm trạng đầy khắc khoải! Sự khắc khoải về một cuộc sống đầy tai ương, bất trắc! Nghe nhạc Văn Cao, tôi cũng nhận ra sự khắc khoải ấy. Sư khắc khoải về cái đẹp! Sự khắc khoải về thân phận con người! Với ấn tượng rất sâu sắc về một Văn Cao trong cõi thực ấy nhưng khi đứng ở phố Tràng Thi nghe Đinh Anh Dũng nói về Văn Cao, tôi lại thấy hiện lên một Văn Cao khác, Văn Cao trong cõi mơ. Tôi bỗng thấy cần đến thăm ông để xem có nhận ra một Văn Cao trong cõi mơ không?

  1. VÒ RƯỢU QUỐC LỦI

Dắt xe đạp len lách qua những gánh hàng rau của cái chợ cóc tự phát vỉa hè phố Yết Kiêu, tôi lại lên những bậc cầu thang đổ ra góc phố. Vẫn cánh cửa gỗ cũ kĩ. Vẫn bà Băng, người bạn đời chia sẻ mọi hoạn nạn với Văn Cao ra mở cửa. Vẫn bức tượng chân dung do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng ở Đà Nẵng tạc tặng ông đặt trên chiếc đàn piano cũ. Ở phòng khách lần này có một cái mới là thêm bức ảnh đẹp do Lê Quang Châu chụp Văn Cao ngồi bên đàn với bình hoa cúc vàng đến ngẩn ngơ. Tôi chợt nhận ra màu vàng của hoa cúc mùa thu sao đồng điệu với Văn Cao đến thế! Từ phần buồng phía sau chiếc tủ sách, Văn Cao bước ra. Trông ông khỏe mạnh, nhanh nhẹn hơn hồi tôi gặp ông năm trước. Cái bắt tay của ông cũng có lực nắm mạnh hơn, bàn tay ông cũng nóng ấm hơn. Ông rót cho tôi một li rượu. Căn phòng như ấm hẳn lên bởi mùi rượu thơm nồng. Mấy năm nay các nhà điện ảnh trong nước và ngoài nước làm khá nhiều phim về Văn Cao. Trong nước có phim Giai điệu Văn Cao do đạo diễn Kinh Môn ở hãng phim Tài liệu Khoa học Trung ương thực hiện. Phim Người đi dọc biển không để lại dấu chân của hãng phim Truyện Một do Hoàng Tích Chỉ biên kịch và Trần Phương đạo diễn. Ban Việt Kiều trung ương cũng làm phim về Văn Cao do anh Nguyễn Thụy Kha thực hiện. Ngoài nước có phim của đài RFI, Pháp, phim của đài BBC, Anh. Tôi hỏi ông có được xem những bộ phim đó không và cảm nhận của ông về những bộ phim đó. Ông nói rằng ông thích bộ phim Homeland (Quê Hương) của đài BBC hơn cả vì nó dung dị, nhẹ nhàng, chân thực, gần gũi với những gì ông có, không cao giọng tán dương như cách làm phim chân dung của ta! Hóa ra những bộ phim người ta ca ngợi, đề cao ông nhiều thì ông lại không thích! Tôi hỏi về bộ phim Đinh Anh Dũng đang làm về ông. Ông kể về chuyến đi của Dũng và ông đến sông Cầu, về làng Thổ Hà. Bao giờ ông cũng nhắc đến Dũng trước, Dũng và tôi. Ông nâng li rượu lên và nói rằng rượu này cũng do Dũng mua ở Thổ Hà đưa về tận nhà cho ông. Rượu đựng trong vò, nút lá chuối khô, đúng cách trữ rượu của dân gian. Rượu dân dã, vò dựng rượu cũng rất dân dã! Mở nút lá chuối khô ra, hương nếp thơm lừng! Thứ rượu quê thuần khiết mang quốc hồn, quốc túy thế mà bao năm phải chui lủi, dấm dúi khốn khổ để rồi phải mang tên là rượu quốc lủi! Tôi thăm dò suy nghĩ của Văn Cao về ý tưởng bộ phim của Đinh Anh Dũng làm về ông: – Dũng rất thích bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật của bác. Dũng sẽ làm bộ phim về bác theo tứ bài thơ. Năm buổi sáng không có trong sự thật là năm giấc mơ. Theo Dũng, mỗi tác phẩm của bác là một giấc mơ và cả cuộc đời của bác cũng là một giấc mơ dài, bác thấy thế nào? Văn Cao tặng tôi bản photocopy trang thơ Văn Cao in trong tờ báo của người Việt ở nước ngoài, trong đó có bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật. Ông nói nhỏ và chậm rãi: – Thật ra cuộc đời ai cũng chỉ là một giấc mơ thôi. Có giấc mơ ngọt ngào nhưng cũng có giấc mơ cay đắng! Dừng giây lát, tôi tưởng ông nghĩ ngợi, bỗng ông nói to: – Còn cuộc đời mình là vò rượu quốc lủi thì đúng hơn! Văn Cao cười rung chòm râu thưa. Gương mặt ông dãn ra. Vui vì câu trả lời bất ngờ và hóm của Văn Cao, tôi càng vui hơn thấy Văn Cao cười rạng rỡ. Nhưng gương mặt rạng rỡ và tiếng cười của ông thoáng qua nhanh rồi gương mặt già nua, gày guộc của ông lại hằn sâu nét khắc khổ, trầm luân! Sau này, khi hoàn thành, bộ phim của Đinh Anh Dũng về những tác phẩm âm nhạc của Văn Cao có tên chính thức là Giấc mơ một đòi người.

  1. BUỔI SÁNG CÓ TRONG SỰ THẬT

Xem phim Giấc mơ một đời người của đạo diễn Đinh Anh Dũng về những tác phẩm âm nhạc của Văn Cao, mọi người đều thòm thèm, như một món ăn ngon được chờ đợi nhưng lại quá ít, vừa đụng đũa đã hết! Giọng hát hay! Tạo hình đẹp! Những giai điệu làm lay động, xao xuyến lòng người còn đang muốn được nghe nhưng đã hết rồi! Mới chỉ có Thiên Thai, Suối Mơ, Bến Xuân, Cung Đàn Xưa, Sông Lô. Văn Cao còn nhiều bài hát hay nữa chưa có trong Giấc mơ . . . Hình ảnh Văn Cao còm cõi, mong manh như chiếc bóng và xiết bao trìu mến, thân thiết nhưng xuất hiện quá ít trong Giấc mơ . . . Nhiều người hối thúc Dũng làm tiếp phần hai bộ phim ca nhạc về người nhạc sĩ tài hoa và lận đận. Đối với Dũng, được làm phim về Văn Cao, được tìm hiểu cuộc đời và khám phá thế giới tâm hồn phong phú và đẹp đẽ của Văn Cao là một điều may mắn, quí giá, là một hạnh phúc không dễ có được. Vì thế mỗi dịp được gặp Văn Cao, Đinh Anh Dũng đều hối hả tranh thủ ghi hình ông khá kĩ làm tư liệu. Dũng đã nung nấu rất kĩ ý tưởng cho phần tiếp theo của Giấc mơ . . . và anh tự hẹn rằng khi nào Văn Cao về chốn Thiên Thai anh sẽ làm phim ca nhạc tài liệu thứ hai về ông. Không ngờ anh lại phải thực hiện lời hứa này quá sớm, chỉ hơn một năm sau. Ngày mồng mười, tháng bảy, năm một ngàn chín trăm chín mươi nhăm (10. 7. 1995), bốn giờ sáng, Dũng vừa từ Mĩ về đến thành phố Hồ Chí Minh thì sáu giờ một cú phôn từ Hà Nội gọi vào thảng thốt báo cho Dũng biết nhạc sĩ của những giai điệu thần tiên đã đi về chốn Thiên Thai trước đó hai giờ, tức là đúng lúc Dũng đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất! Đúng là số phận cho Dũng cái duyên được gắn bó với Văn Cao vì thế Dũng mới may mắn kịp về nước đúng giờ phút hệ trọng này! Dũng lại hối hả mang máy quay phim ra sân bay, bay ra Hà Nội và một trăm năm mươi ngày sau khi Văn Cao mất, bộ phim thứ hai về Văn Cao của Đinh Anh Dũng đã hoàn thành với tên gọi Buổi sáng có trong sự thật! Mùa xuân năm 1960 Văn Cao viết bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật. Năm buổi sáng bi thương bởi lòng hận thù, sự đố kị, hẹp hòi, nhỏ nhen. Văn Cao ước nguyện là năm buổi sáng đó không có trong sự thật! Nhưng buổi sáng ngày mồng mười, tháng bảy, năm một ngàn chín trăm chín mươi nhăm, buổi sáng Văn Cao ngừng sáng tạo, rời bỏ cuộc đời ra đi mãi mãi thì có thật rồi! Buổi sáng có trong sự thật ấy còn là những buổi sáng bắt đầu một ngày âm thầm tư duy sáng tạo của Văn Cao để mang lại cho cuộc đời còn nhiều gian nan, cay đắng những giai điệu dìu dặt nâng đỡ tâm hồn con người! Buổi sáng có trong sự thật ấy là buổi sáng mùa đông rét mướt, Văn Cao trở về một vùng đất kỉ niệm. Chiếc áo len màu đất lụng thụng, trông ông như một gốc cây xù xì, như một khối suy tư. Bóng ông run rảy khi chân bước vào kí ức xa xăm và cõi lòng chạm vào kỉ niệm rưng rưng! Buổi sáng có trong sự thật ấy là buổi sáng mùa xuân cuối cùng của Văn Cao, ông cùng người bạn đời Thúy Băng trôi giữa dòng người trong chợ hoa Hàng Lược, Hà Nội, ngắm sắc hoa đào Nhật Tân, ngắm gương mặt cuộc đời, gương mặt nhân dân và ngắm hạnh phúc nhỏ bé đơn sơ của những người dân còn nhiều lam lũ vất vả. Khuôn hình đặc tả cận cảnh gương mặt Văn Cao dãn ra, sáng lên trong niềm vui hiếm hoi. Niềm vui của Văn Cao, nhân vật của phim cũng chính là niềm vui của người thực hiện bộ phim, quay phim và đạo diễn Đinh Anh Dũng vì chính Dũng tổ chức đưa ông bà Văn Cao đến chợ hoa Hàng Lược này! Tận dụng mọi cơ hội ghi hình Văn Cao, Dũng đã có hình ảnh Văn Cao ở Hải Phòng, nơi Văn Cao để lại tuổi niên thiếu cắp sách đến trường, Dũng đã có hình ảnh Văn Cao với những nẻo đường tám năm kháng chiến chống Pháp. Văn Cao với Hà Nội là gian gác nhỏ nhà số 45 phố Nguyễn Thượng Hiền, nơi có một mùa đông với những đêm Văn Cao thức chong chong nghe hơi lạnh thấu qua lớp chăn mỏng thấm vào cơ thể và nghe tiếng xe bò lọc cọc đi nhặt xác người chết đói ngoài phố mà thấm thía nỗi đau của kiếp đời nô lệ mất nước, mà nung nấu trong lòng nỗi khát khao: Cờ pha máu chiến thắng mang hồn nước – Đứng đều lên gông xích ta đập tan . . . (Lời của ca khúc Tiến Quân Ca) Ca khúc Tiến Quân Ca của Văn Cao, của non nước Việt Nam vững bền được viết ở căn gác nhỏ Hà Nội, trong mùa đông lạnh thấu xương đó! Văn Cao với Hà Nội là Nhà Hát Lớn, nơi người dân mất nước tụ lại thành khối, thành sức mạnh cùng ngẩng cao đầu hát vang bài Tiến Quân Ca rồi trùng trùng đội ngũ như thác đổ, như bão giông ầm ầm cuốn theo đường Tràng Tiền đến Phủ Bắc Bộ, cuồn cuộn theo đường Tràng Thi đến Phủ Toàn quyền Đông Dương giành lại chính quyền, giành lại đất nước! Nhà Hát Lớn Hà Nội còn là nơi Quốc hội khóa đầu tiên họp phiên thứ nhất quyết định chọn bài Tiến Quân Ca của Văn Cao là Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa! Đó là Hà Nội trong cuộc đời chính trị, trong sự nghiệp Văn Cao. Còn Văn Cao trong đời thường với Hà Nội? Suy nghĩ mãi Đinh Anh Dũng thấy cần có hình ảnh Văn Cao cùng người bạn đời Thúy Băng trong chợ hoa Tết Hàng Lược. Thế là giáp tết Ất Hợi 1995 trong khi mọi người tìm về với gia đình thì Đinh Anh Dũng lại rời gia đình ở thành phố phương Nam, xách camera bay ra Hà Nội. Quả thật Dũng rất có duyên với Văn Cao. Ghi được hình ảnh Văn Cao trong mùa xuân cuối cùng của cuộc đời ông là nhờ cái duyên đó! Đinh Anh Dũng rất thành công khi anh thực hiện thể đối trong bộ phim này. Cô ca sĩ trẻ mười bảy tuổi Thanh Thúy sinh ra và phát triển tài năng ở phương Nam hát bài Mùa xuân đầu tiên, sáng tác của Văn Cao tặng thành phố phương Nam thương nhớ nhân mùa xuân hòa bình đầu tiên. Thanh Thúy vàng rực như tia nắng sớm, như đóa hoa mai mới hé, xinh đẹp tài năng lanh lảnh hát: Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về . . . Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên đan xen là hình ảnh Văn Cao với gam màu nâu xẫm quen thuộc lặng lẽ giữa dòng đời trong mùa xuân cuối cùng của cuộc đời ông! Đó có phải là vòng tròn tiến hóa, là vòng luân hồi của đạo Phật? Mùa xuân cuối cùng của cuộc đời Văn Cao cũng là mùa xuân đầu tiên của một tài năng thế hệ kế tiếp, của một vòng luân hồi mới. Đó cũng là sự vĩnh cửu, bất tử của những giai điệu Văn Cao. Nhạc của Văn Cao là nhạc của lòng người đang xao xác xáo dộng, đang thấp thỏm trước những dự cảm về những biến động lớn lao sẽ đến, đang đến. Tiết tấu của âm nhạc ấy là tiết tấu của tâm trạng, của khát vọng, của lắng đọng chứ không phải là tiết tấu của cuộc sống công nghiệp, sôi sục, cuồn cuộn, dồn dập, hối hả. Lời từ trong ca khúc Văn Cao là nỗi khắc khoải về những lí tưởng thẩm mĩ, bâng khuâng, da diết nhưng cũng mênh mang đa diện. Lời từ ấy mượn một cớ cụ thể chỉ để nói một tâm trạng, một nỗi khắc khoải trước cái đẹp chứ không phải để nói về cái cụ thể đó. Tạo hình cho bài hát Buồn Tàn Thu là hình ảnh người tráng sĩ nâng gươm ngang mày, bái lạy tổ tiên, giã từ người vợ, lên đường rong ruổi! Tạo hình cho bài hát Trương Chi là bộ mặt Trương Chi sần sùi gớm ghiếc . . . sự minh họa thô thiển đó đã làm giảm giá trị thẩm mĩ, hạn chế ý nghĩa khái quát và thế giới tâm hồn mênh mang, man mác mà âm nhạc Văn Cao mở ra. Cách phối khí của Buổi sáng có trong sự thật với âm thanh mạnh mẽ, rầm rộ của đám đông, của số nhiều, át đi tiếng thì thầm của nỗi lòng nhiều trắc ẩn cũng là cách thể hiện nhạc Văn Cao mà chưa tiếp cận được thế giới âm nhạc Văn Cao! Buổi sáng có trong sự thật là tác phẩm điện ảnh đầu tiên khám phá di sản âm nhạc Văn Cao sau khi Văn Cao mất. Buổi sáng có trong sự thật còn trân trọng giữ gìn những hình ảnh gần gũi, thân thiết của Văn Cao trong mùa xuân cuối cùng của cuộc đời ông để hình ảnh Văn Cao cùng với âm nhạc Văn Cao mãi mãi có mặt trong cuộc đời với chúng ta, cùng chúng ta đi tới những giá trị thẩm mĩ mà ông luôn khắc khoải./.

Phạm Đình Trọng

@ Ba biến khúc ở tuổi 65. _____________________

Trần Lê

“Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư”.

Những dòng ấy là của Trịnh Công Sơn viết về Văn Cao, người nghệ sĩ tài ba của Việt Nam, “người viết tình ca số một“, “người đẻ ra thể loại hùng ca và trường ca Việt Nam” (Phạm Duy), “một viên ngọc trên bức khảm văn hóa – nghệ thuật của dân tộc Việt Nam” (Đặng Thai Mai), đã qua đời cách đây 11 năm vào một ngày hạ tuần tháng Bảy, nhưng âm ba những tác phẩm của ông thì sẽ còn lại vĩnh viễn với đất Việt, người Việt!

Nhạc sĩ Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh năm 1923 tại Hải Phòng trong một gia đình viên chức nghèo. Cha mất sớm, Văn Cao sống với mẹ và anh ruột tại một khu lao động nghèo cạnh bờ sông Hải Phòng, và trưởng thành trong cảnh đói khổ, thiếu thốn. Về đường học vấn, ông chỉ học đến năm thứ 2 bậc Thành Chung thì gia cảnh sa sút, phải bỏ học, lang thang mưu sinh nhiều nghề. Trong những năm tháng ấy, Văn Cao có dịp tự học thêm về âm nhạc và ca khúc đầu tay của ông, “Buồn Tàn Thu”, đã ra đời năm 1939 khi tác giả mới 16 tuổi, đúng vào lúc nền Tân nhạc Việt Nam mới thôi thai.

Từ đầu thập niên 40, chuyển lên Hà Nội lập nghiệp, bắt đầu nhận vẽ tranh quảng cáo và sáng tác nhạc trong một căn gác nhỏ, ọp ẹp (số 45 Nguyễn Thượng Hiền hiện nay), nhìn sang phố Khâm Thiên và chứng kiến bao cảnh đời khốn khổ, tài năng thiên phú của Văn Cao nở rộ trên phương diện âm nhạc. Hàng loạt bản nhạc tình của ông ra đời, toàn bích và sang trọng cả về ca từ và nhạc điệu, như “Thiên thai” (1941), “Bến xuân” (1942), “Cung đàn xưa” (1942), “Suối mơ” (1943), “Trương chi” (1943)… đã đưa Văn Cao lên địa vị nhạc sĩ xưng tụng tình yêu bậc nhất của nền Tân nhạc Việt Nam thời ấy.

Ngoài âm nhạc, Văn Cao còn theo học hội họa 2 năm trên tư cách một bàng thính viên tự do tại Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (Hà Nội) từ năm 1942; tranh của ông được các hoạ sĩ cùng lứa như Lương Xuân Nhị, Tô Ngọc Vân, Tạ Tỵ, Nguyễn Đỗ Cung đánh giá cao, đặc biệt là bức họa lập thể “Cuộc Khiêu Vũ Những Người Tự Tử“, một trong ba bức sơn dầu rất lạ được báo giới đặc biệt khen ngợi và được treo ở chỗ tốt nhất tại phòng tranh của kỳ triển lãm Salon Unique năm 1943, do Nhà Khai trí Tiến Đức tổ chức. Nhà nghiên cứu nổi tiếng Thái Bá Tân, trong bài “Văn Cao – người đi tìm cái đẹp”, đã nhận định: “Nếu âm nhạc và thơ là một bản thể tươi tốt của anh, thì hội hoạ là một tri thức sâu sắc. Cách nhìn thế giới của anh nghiêng về hội họa. Là bởi phép viễn cận của các thời đại hội hoạ, là tiềm thức sâu kín của phối cảnh xã hội, nơi Văn Cao tỏ ra những nhạy bén về xúc cảm, và tinh tường trong quan sát“.

Bên cạnh hội họa, Văn Cao còn viết truyện ngắn, phóng sự và kịch; ông cũng là một nhà thơ với những cách tân trong thi ca, với những thi phẩm mang âm hưởng lạ và có phần mới hơn Thơ Mới như “Đêm mưa“, “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế“, “Ai về Kinh Bắc“, “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc“… Tài năng thiên bẩm của Văn Cao trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật đã khiến nhà thơ Thanh Thảo, một trong ba người được tác giả ủy thác biên tập và lựa chọn các thi phẩm để in trong tập “Lá” (năm 1988), phải thốt lên: “Trong một Văn Cao có quá nhiều Văn Cao: Văn Cao thơ, Văn Cao họa, Văn Cao hiệp sĩ, Văn Cao Quốc ca, Văn Cao rượu đế… Một Văn Cao đa tài, đa nguyên, đa nạn… Một Văn Cao lặng lẽ như chén rượu mỗi sớm, lặng lẽ như những dòng chữ lít nhít trong sổ tay, lặng lẽ như Thơ…“

Cuộc đời của Văn Cao – cũng như của đa số các văn nghệ sĩ Việt Nam thời ấy – đã có một bước mặt lớn trong thập niên 40 thế kỷ trước. Thuộc lớp thanh niên ái quốc đầu thế kỷ XX, Văn Cao đã dấn thân chống Pháp và tham gia Mặt trận Việt Minh hoạt động bí mật ở nội thành từ năm 1943-44. Thời gian này, ông đã soạn “Tiến quân ca” (cuối năm 1944), mở đầu và tiêu biểu cho dòng “nhạc hùng” với những ca khúc nổi tiếng như “Chiến sĩ Việt Nam” (1945), “Bắc Sơn” (1945), “Thăng Long hành khúc ca“, “Trường ca Sông Lô” (1947), “Tiến về Hà Nội” (1951)… Một số ca khúc đượm tình quê hương, dân tộc của Văn Cao trong thời kỳ này cũng rất đáng kể, như “Làng tôi” (1947), “Ngày mùa” (1948)…

Sau mốc 1954, Văn Cao ở lại Hà Nội và, vì những cống hiến trong cuộc kháng chiến, ông nghiễm nhiên có được địa vị một công thần của nền văn nghệ miền Bắc. Trước đó 2 năm, ông còn được sang thăm Liên Xô trên tư cách thành viên một phái đoàn văn hóa Bắc Việt Nam, rồi được gặp Shostakovich, nhạc sĩ số một của nước Nga thời đó. Tuy nhiên, thời gian ấy, khi nhà độc tài Stalin còn ngự trị tại điện Kremlin, dường như Văn Cao đã không tìm thấy được ở Liên bang Xô-viết một hình mẫu tự do và dân chủ trong đời sống văn nghệ, như ông hằng mường tượng. Trở về nước đúng vào thời kỳ cuộc cải cách ruộng đất và đấu tố địa chủ đang ở đỉnh cao, con người nghệ sĩ của Văn Cao càng phản cảm trước những biểu hiện bất công và phi dân chủ trong xã hội đương thời.

Với tâm tình như thế, dễ hiểu là cùng rất nhiều bạn hữu văn nghệ, Văn Cao đã tham gia phong trào Nhân văn Giai phẩm năm 1956, với hi vọng có một một tương quan dân chủ hơn, bình đẳng hơn giữa giới sáng tác và chính quyền, tránh được sự chỉ đạo xơ cứng, hủy diệt sáng tạo và cá tính văn nghệ sĩ. Trong “Giai phẩm mùa Xuân 1956” ra mắt tháng Giêng năm 1956 và lập tức bị tịch thu, Văn Cao đã có mặt, cạnh những tên tuổi Hoàng Cầm, Lê Đạt, Nguyễn Sáng, Phùng Quán, Sỹ Ngọc, Tô Vũ, Trần Dần, Tử Phác, với thi phẩm “Anh có nghe thấy không?”, kêu gọi vào một cuộc đấu tranh mới với những kẻ nham hiểm, thâm độc trong xã hội, mà ông gọi bằng cái tên “những người không phải của chúng ta“, để con người thật của mỗi thành viên xã hội có dịp bộc lộ:

Bao giờ nghe được bản tình ca Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật Bao giờ Bao giờ chúng nó đi tất cả

Những con người không phải của chúng ta Vẫn ngày ngày ngày ngang nhiên sống

(…) Vào một cuộc đấu tranh mới Để mở tung các cánh cửa sổ Mở tung các cửa bể Và tung ra hàng loạt hàng loạt Những con người thật của chúng ta.

Đầu tháng 10-1956, trong số “Giai phẩm mùa Thu tập II“, Văn Cao lại có “Những ngày báo hiệu mùa Xuân“, trích từ trường ca “Những người trên cửa biển” viết về Hải Phòng, được in trong tập thơ chung của “bộ tứ” Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt, được Nhà xuất bản Văn Nghệ phát hành năm 1956. Đánh giá về trường ca ấy, nhà thơ Hoàng Cầm nhận xét: “Có những câu đầy khí thế, rất Văn Cao, ứ đọng những tư tưởng mới, những cách nhìn mới về xã hội, về con người…” Phải chăng, Hoàng Cầm muốn nhắc đến những câu thơ đậm tính chính luận và khí phách của “con người xã hội” trong nhạc sĩ?

Trong những ngày khó khăn chồng chất. Kẻ thù của chúng ta xuất hiện Những con rồng đất khi đỏ khi xanh Lẩn trong hàng ngũ

Những con bói cá Đậu trên những chiếc giây buồm Đang đo mực nước. Những con bạch tuộc Bao nhiêu tay chân dìm chết một con người

Đất nước đang lên da lên thịt Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng. Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hy vọng. Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người chúng nó ở bên ta, trong ta lén lút Đào rỗng từng kho tiền gạo thuốc men Tôi đã thấy từng mặt từng tên sâu chuỗi Tôi sẽ vạch từng tên từng mặt

Hãy dừng lại Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc Những tên muốn làm cây to che cớm mầm non Con đường ta đi tự hào lực lượng Con đường nước nguồn thành sông thành biển Con đường ta đi tự hào duy nhất Con đường đi trái đất quanh mặt trời…

Tâm cảm hào sảng đó, của một nghệ sĩ yêu tự do, muốn đột phá và vươn lên trong đời sống xã hội, cá nhân và nghệ thuật, càng được bộc lộ rõ trong bài viết “Mấy ý nghĩ về thơ“, được Văn Cao chấp bút sau đó gần năm và được đăng trên “Tạp chí Văn nghệ”: “Người làm thơ biết thành lập cho mình một cá tính trong suy nghĩ, trong tình cảm, trong cảm giác những điều mới lạ bao nhiêu là làm phong phú thêm cho người đọc về mặt tư tưởng, cảm xúc hay cảm giác. […] Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người biết thất bại mà dám mở đường […] Càng tới gần cái cuộc sống đầy mâu thuẫn đấu tranh là càng như đi gần lại một kho thuốc nổ. Có người dao động và sợ hãi quay lưng lại. Có người vụng về mà làm nổ. Nhưng cũng có người can đảm biết làm nổ để mở đường. Hôm nay, con đường lớn nhất của chúng ta là mở cho tất cả những giấc mơ, những khát vọng thuộc về sự sáng tạo của con người tự do phát triển bay đi xe mật về ổ. Mở cho những giấc mơ, những khát vọng tự do phát triển bao nhiêu là tập trung tất cả giấc mơ và khát vọng của con người làm thành mũi nhọn kéo lê đi phía sau cái thực tế chậm chạp“.

Cuối năm 1957, cùng hơn 300 văn nghệ sĩ khác, Văn Cao bị đả kích dữ dội, bị kiểm thảo và đưa đi lao động học tập. Xuân Diệu, trong bài viết “Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao” đăng trên báo “Văn nghệ” tháng 7-1958, đã phê phán người nhạc sĩ vĩ đại là “con người phản phúc hai mặt, giả dối như con mèo, là một phù thủy toan dùng âm binh chọi nhau với Đảng“. Ông bị khai trừ khỏi Hội Nhạc sĩ và bắt đầu một khoảng thời gian kéo dài chừng 30 năm, khi đại đa số các ca khúc của ông không được hát, thơ của ông không được in.

Đó là ba thập niên mà theo lời nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha, một người rất thân cận với nhạc sĩ, đã nhận xét rằng “túng quẫn vẫn luôn luôn rình rập trước số phận Văn Cao, luôn đe dọa dập tắt mọi ý nghĩa sáng tạo“. Ngưng sáng tác ca khúc, ông âm thầm chuyển sang viết khí nhạc và nhạc cho nhiều bộ phim. Vì mưu sinh, Văn Cao vẽ bìa sách, minh họa báo, và làm cả những nghề như vẽ nhãn diêm, tem thư… mà không được ký tên thật: trên tất cả những minh họa mà ông vẽ rất nhanh, mạnh, rất phóng khoáng, độc đáo, trẻ trung mà không kém phần sang trọng, quý phái, ông chỉ được ký một chữ “Văn”!

Những ngày tháng tủi cực ấy của Văn Cao đã được ghi dấu trong nhiều bài thơ, sau này được tuyển lại trong “Lá“, tập thơ duy nhất của ông. “Những bài thơ chi chít trong những cuốn sổ tay nhỏ xíu úa màu thời gian vàng vọt. Những bài thơ viết trên vỏ bao thuốc lá nhặt được trong quán rượu. Có bài thơ được ghi lại không phải nét chữ của ông mà là chữ của vợ ông, bà sợ ông quên đi mất nên bà bắt ông đọc để bà chép lại” – nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, một trong ba biên tập viên của tập “Lá”, đã cho chúng ta biết như vậy. Thật động lòng, như bài thơ “Có lúc” (1963):

Có lúc một mình một dạo giữa rừng đêm không sợ hổ có lúc ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được.

Ấn tượng bị xua đuổi, đè nén một cách phi lý, không thể biện giải, còn theo Văn Cao đến cuối đời, như ông ghi lại trong bài thơ “Ba biến khúc tuổi 65“:

Tại sao tôi chạy?

tôi không hiểu tôi cả phố đuổi theo tôi xe cộ đuổi theo tôi

tôi chạy bạt mạng gần hết đời tới chỗ chỉ còn gục xuống tỉnh dậy mồ hôi chảy

tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội

tôi rơi vào mạng nhện mạng nhện cuốn lấy tôi không còn cách gì gỡ được

tôi như con sâu tằm cuộc đời cứ như thế

muốn phá cái mạng nhện tôi không đủ tay

Con người quá lãng mạn, quá lý tưởng và quá trong trắng ấy, đã từng dạt dào cảm xúc sau biến cố 1975 với viễn cảnh đất nước thống nhất khi sáng tác ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” (1976) mang âm hưởng khải huyền, có lẽ không ngờ được rằng cũng phải chờ 20 năm sau, bài hát ấy mới được dàn dựng và phát sóng. Đầu thập niên 80, trong cảnh bệnh tật và túng quẫn triền miên, cơm nhiều khi phải lo từng bữa, tác giả bài Quốc ca còn phải chịu đựng một cực hình là “cuộc vận động sáng tác Quốc ca mới“, với 17 bài nhạc lọt vào vòng sơ khảo, được ấn hành và được phát thanh liên tục trên làn sóng điện. Sau đây là chân dung Văn Cao trong những ngày ấy, ở căn nhà nhỏ số 108 Yết Kiêu, Hà Nội, một địa chỉ đã đi vào huyền thoại, dưới sự khắc họa của Trịnh Công Sơn: “Anh Văn ngồi. Ngồi ở sạp gỗ cũ kỹ như đã ngồi hàng trăm năm. Ngồi tóc bạc phơ, râu cũng bạc phơ. Chỗ ngồi đã mòn. Lưng dựa đã mòn. Ngồi như thế có ích gì, anh Văn… Cho đến bây giờ tôi vẫn bị ám ảnh bởi cái không khí ảm đạm, cô đơn của những mùa thu đông ở Hà Nội, với hình ảnh một Văn Cao ngồi một mình với cốc rượu trước mặt ngày này qua ngày khác. Anh ngồi đó mà như một sự vắng mặt trước cuộc sống. Ngồi hơn hai mươi năm như một cái bóng. Ly rượu cũng biến thành cái bóng. Cái bóng của hai người. Người và ly-rượu-người. Thân thiết và chia sẻ cùng nhau những nỗi đời riêng, hiu quạnh, không còn ai khác có thể san sẻ giùm“.

Những thay đổi có lẽ chỉ đến với Văn Cao từ cuối thập niên 80, khi nhiều ca khúc lãng mạn của ông lần lượt được tái hồi tại các sân khấu nhạc Hà Nội và trên toàn quốc, dưới sự thể hiện của nhiều giọng ca mới, trong số đó đáng kể nhất là Ánh Tuyết. “Lá“, tập thơ duy nhất của ông, in sơ sài trên giấy xấu, đầy lỗi chính tả và in ấn và thiếu một số bài thơ tâm đắc của tác giả, nhưng cũng là sự an ủi muộn mằn phần nào cho Văn Cao trong những năm cuối đời. Nhiều thế hệ trẻ sinh ra và trưởng thành, chỉ biết đến tên Văn Cao như tác giả Quốc ca, nay có dịp chứng kiến trên màn ảnh hình ảnh nguời nghệ sĩ đa tài bậc nhất của Việt Nam thế kỷ XX, tóc bạc phơ, gương mặt không thể đoán tuổi chứa chở dấu ấn của thời gian và sự đau khổ, lẫm chẫm lê chiếc ba-toong đi từng bước khó nhọc trên đường phố Hà Thành cùng người vợ đã cùng ông chia ngọt sẻ bùi, bà Nghiêm Thúy Băng.

Sớm tinh sương ngày 10-7-1995, người nghệ sĩ tài ba của đất Việt đã bình thản và nhẹ nhàng qua đời vì căn bệnh ung thư phổi hiểm nghèo. Mười một năm sau ngày mất, những thành phố lớn của Việt Nam như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn… đều đã có những đường phố mang tên ông. Di sản văn hóa và tinh thần của ông sẽ mãi còn ở lại với chúng ta, bởi lẽ, mượn ý thơ của ông khi từ giã nhà văn Nguyễn Huy Tưởng: “Cái chết của một nghệ sĩ – Không bao giờ là cái chết“.

Văn Cao đã sống và sáng tạo như một nghệ sĩ đích thực và cao cả của từ này, trong suốt cuộc đời chìm nổi của ông!

Trần Lê

@ Biểu tượng “khuôn mặt” trong thơ Văn Cao ____________________

Đỗ Thị Mỹ Hà

  1. Nghiên cứu thơ ca cũng như nhiều loại tác phẩm nghệ thuật khác dưới góc độ biểu tượng đang là một hướng đi đạt được nhiều thành tựu. Mỗi biểu tượng trong một tác phẩm cụ thể không tồn tại một cách độc lập mà gắn bó chặt chẽ với mẫu gốc trong vốn văn hóa chung, với tư duy của mỗi dân tộc.

Dưới cái nhìn của tín hiệu học, biểu tượng bao giờ cũng bao gồm hai mặt, mặt biểu trưng và mặt được biểu trưng, có mối quan hệ nội tại với nhau. Mặt được biểu trưng bao giờ cũng được liên tưởng từ một đặc điểm nào đó của mặt biểu trưng. Hơn nữa, sự liên tưởng ấy không tuân theo tỷ lệ 1:1, tức là từ một cái biểu trưng có thể suy ra được nhiều cái được biểu trưng khác nhau. Đây chính là tính đa trị vốn tồn tại trong mỗi biểu tượng. Nhờ tính chất này, biểu tượng mở ra rất nhiều hướng nghĩa cho người cảm nhận. Mỗi người, tùy theo vốn văn hóa và hiểu biết khác nhau có thể giải mã một cách khác nhau.

Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài. Ngoài âm nhạc, ông còn có những tìm tòi mới mẻ trong thơ ca. Một trong những sáng tạo cần được ghi nhận của ông là xây dựng được những biểu tượng đa nghĩa trong thơ. Tìm hiểu những biểu tượng này, có thể thấy được mối quan hệ giữa văn hóa, ngôn ngữ với tư duy nghệ thuật riêng của nhà thơ. Trong khuôn khổ của một bài báo, chúng tôi chỉ xin được tìm hiểu biểu tượng “khuôn mặt” trong thơ Văn Cao.

  1. Sự thể hiện biểu tượng “khuôn mặt” trong thơ Văn Cao

2.1. “Khuôn mặt” – một biểu tượng văn hóa

Mặt là phần sống động, là nơi tập trung của các trung khu thần kinh, điều hành cả cơ thể. Xuất phát từ đó mà trong vốn văn hóa chung của nhân loại, mặt thường được quan niệm là bộ phận đại diện cho cả cơ thể con người. Trong tiếng Anh, người ta dùng cụm từ “face to face” (mặt đối mặt) để nói về sự gặp gỡ, đối diện của hai người. Trong tiếng Việt cũng xảy ra trường hợp tương tự: “Đôi ta đã trót lời nguyền, Chớ xa cách mặt mà quên mảng lòng” (ca dao).

Khuôn mặt là phần phô ra của cơ thể, ít được che đậy bởi trang phục, ta dễ dàng để cho người khác nhìn thấy. Vì thế, khuôn mặt là biểu tượng của cái “tôi” sâu kín trong mỗi con người đã bị bóc trần ra một phần. Nét nghĩa này ăn sâu vào ngôn ngữ của mỗi dân tộc. Người Việt thường “nhìn mặt mà bắt hình dong”, nhìn khuôn mặt mà đoán tính cách của người mang nó. Khuôn mặt đầy đặn, tròn trĩnh thường là người phúc hậu: “Mặt chữ điền quan rưỡi cũng mua” (Tục ngữ). Nam nhi quân tử, đầu đội trời, chân đạp đất phải có “râu hùm, hàm én, mày ngài”. Ở một số nước, người phụ nữ buộc phải che mặt khi ra đường, phải chăng là để giấu kín đi “cái tôi” của mình? Nghệ thuật thường lấy con người làm đối tượng phản ánh, và trong con người, rất nhiều nghệ sĩ tìm đến khuôn mặt để thể hiện tính cách, số phận của nhân vật. Thúy Vân mang “khuôn trăng đầy đặn” dự báo về một số phận êm đềm giữa cuộc đời. Khuôn mặt đầy bí hiểm của Monalisa trong tranh của Leonardo de Vinci mở ra rất nhiều hướng cắt nghĩa suy nghĩ về tâm trạng của nàng cho người thưởng thức… Vì vậy, khuôn mặt là bộ phận thể hiện rất rõ bản chất của con người. Khuôn mặt không những nói lên bản chất của người, mà “khuôn mặt” còn mang nét nghĩa rộng hơn, khái quát hơn, nói về diện mạo của các sự vật, hiện tượng khác: bộ mặt của xã hội, bộ mặt của cuộc sống…

2.2. “Khuôn mặt” – một biểu tượng trong thơ Văn Cao

Trong thơ Văn Cao, biểu tượng “khuôn mặt” vừa tiếp thu một số ý nghĩa trong văn hóa chung, vừa thể hiện những sáng tạo riêng của người nghệ sĩ. Khuôn mặt xuất hiện với tần số 15 lần trong những bài thơ ngắn của Văn Cao (không tính đến trường ca Những người trên cửa biển) và bao gồm những nét nghĩa biểu trưng sau:

Ý nghĩa biểu trưng thứ nhất: khuôn mặt hiện diện trong sự bình lặng, trong sáng – vẻ đẹp đã kết tinh thành những giá trị lớn lao, đã hóa thành sự trường tồn, vĩnh cửu:

Giữa những ngày dằng dặc,

Chỉ còn khuôn mặt em,

Sáng trong và bình lặng

(Khuôn mặt em)

Trên đường đi,

Khuôn mặt em làm giếng,

Để anh tìm làm đáy ngọc châu

(Khuôn mặt em)

Ý nghĩa này còn tiếp nối được ý nghĩa biểu trưng vốn có của “khuôn mặt” trong kho văn hóa của nhân loại: hiện thân của vẻ đẹp tâm hồn. Tuy nhiên, ở đây, Văn Cao đi sâu vào khai thác sự hiền hậu, vẻ trong trẻo của người phụ nữ – những phẩm chất mà ông luôn hướng tới như một điểm tựa tinh thần trong cuộc đời. Giữa “những ngày dằng dặc” gian khổ, khó khăn, giữa không gian ác liệt của con đường hành quân, hình ản khuôn mặt người con gái lại hiện lên trong tâm tưởng để xoa dịu đi những nhọc nhằn trong tâm hồn nhà thơ. Biểu tượng giếng trong tâm thức chung của nhân loại hàm chứa ý nghĩa biểu trưng cho nguồn sống. Khi so sánh khuôn mặt em với giếng, nhà thơ tăng thêm một nét nghĩa biểu tượng nữa cho biểu tượng “khuôn mặt”: vẻ đẹp sáng trong của người phụ nữ là nguồn sống tinh thần cho tác giả.

Văn Cao là người nghệ sĩ thầm lặng nhưng dẻo dai đi tìm những thể nghiệm mới cho nghệ thuật. Trong thơ, “khuôn mặt” không chỉ đơn thuần chứa đựng vẻ đẹp hình hài của con người, mà luôn toát lên sự ám ảnh về những suy tư, trăn trở trong nội tâm. Đây cũng là nét nghĩa biểu trưng rút ra từ biểu tượng “khuôn mặt” trong kho tàng văn hóa chung của toàn nhân loại.

Bỗng nhiên

Bóng người ấy che mất

Nửa mặt tôi

Nửa mặt của tôi

Của tôi nửa mặt trắng

Miệng tôi nửa miệng đắng

(Nguyệt thực)

Bóng tối và ánh sáng, thiện và các, yêu và ghét…, vốn là những cặp trái ngược và mâu thuẫn đan xen tồn tại trong một con người. Bằng việc xẻ đôi “khuôn mặt” ra thành hai phần trắng – đen, một nửa hiện diện và nửa kia bị khuất lấp, nửa này của tôi và nửa kia của “người ấy”, Văn Cao đã tái hiện lại sự trộn lẫn phức tạp mà đau đớn ấy. Tho ông lách vào giữa đường ranh giới mong manh của ý chí và bản năng rất người để vụt lên những suy tư. Rõ ràng biểu tượng khuôn mặt là nơi gửi gắm những trăn trở đầy tính nhân sinh của nhà thơ.

Không chỉ trong thơ, mà cả trong tranh của Văn Cao, khuôn mặt cũng biểu trưng cho vẻ đẹp thuần khiết nữ tính, và chứa đựng những trăn trở của nghệ sĩ về sự phức tạp và chiều sâu suy tư thăm thẳm của con người. Thơ và họa, hai ngành nghệ thuật thuộc về hai lĩnh vực khác nhau, nhưng có độ tương đồng rất lớn về ý nghĩa biểu trưng trong biểu tượng này.

Tuy nhiên, ý nghĩa biểu trưng của biểu tượng “khuôn mặt” trong họa chỉ bao gồm vẻ đẹp tâm hồn và bản chất phức tạp trong một con người – những lớp ý nghĩa cũng tồn tại trong thơ. Trong khi ở thơ, chúng ta còn có thể bắt gặp các nét nghĩa khác nữa mà trong họa tác giả chưa thể hiện.

Khuôn mặt là phần sống động của cơ thể. Nhìn vào khuôn mặt có thể nhận biết được một phần “cái tôi” của mỗi người. Văn Cao đã khai thác sâu thêm nét nghĩa văn hóa đó, để phản ánh những suy tư của bản thân về số phận cũng như sự sống mòn mỏi của kiếp người:

Những bộ mặt người nghèo khổ đêm đêm đến uống rượu

và nói to hơn thường ngày họ sống

Không không không phải như vậy tôi không hề nhìn thấy ánh đèn

của quán rượu đêm những bộ mặt người như đất

(Đêm quán)

Trong không gian quán rượu tàn tạ là sự hiện diện của những kiếp người nghèo khổ và tăm tối. “Đêm quán” đã trở thành một “ngữ cảnh tu từ” để tạo lên biểu tượng “những bộ mặt người như đất” trong bài thơ này. Sự tương đồng, cộng hưởng giữa ánh vàng vọt, leo lét của ngọn đèn với màu trắng bạc của mái tóc người chủ quán, với những nét hằn khắc khổ trên khuôn mặt, khách đến uống rượu, đã tạo ra dư vị cay đắng của số phận. Ở đây, có sự phát triển của biểu tượng khuôn mặt, từ “bộ mặt người nghèo khổ” đến “bộ mặt người như đất”. Con người luẩn quẩn trong vòng tròn của sự nghèo khổ, chỉ biết lao vào rượu để giải sầu. Số phận của họ đi từ nghèo đói về vật chất đến nghèo đói và mòn mỏi về tinh thần, thậm chí tê liệt cả cảm giác. Người Việt Nam thường có câu “hiền như đất”, nhưng ở đây, Văn Cao không chủ tâm khắc họa tính cách hiền lành mà muốn xoáy sâu vào sự ngơ ngác đến tội nghiệp của con người trước cuộc đời.

Tiếp nối mạch cảm hứng ấy, nhà thơ đã đưa thêm một nét nghĩa biểu trưng cho “khuôn mặt”: thể hiện cuộc sống “mòn”, sống mà như đã chết của con người:

Một bàn tay giơ lên không biết để làm gì

Hái một bông hoa hay hái một ngôi sao

Một bàn tay đưa vào

Khoảng trống

Cả nụ cười

Khi buồn

Làm thành mặt người đang sống

Đêm và ngày mặt trời hay mặt trăng

Đã ngủ từ lâu trong im lặng

Chỉ còn neo lại một cuộc sống trong anh.

(Cuộc sống trong anh)

“Mặt người” đang sống được tạo nên từ những gì? Từ nỗi buồn, từ bàn tay đưa vào khoảng trống? Bàn tay đưa vào khoảng trống thực ra cũng là một biểu tượng biểu thị sự vô phương hướng của cuộc đời. Thậm chí, ý thức về thời gian, về “đêm và ngày”, “mặt trời hay mặt trăng”, về những đổi thay, chuyển biến của đời sống cũng tê liệt đến chết mòn trong anh. “Khuôn mặt” ở đây không còn là vẻ ngoài nữa mà đã biểu trưng cho một trạng thái sống – trạng thái tinh thần của con người. Với biểu tượng “khuôn mặt”, Văn Cao đã góp một tiếng nói, một dáng hình về sự “sống mòn” của con người vào trong văn học. Đây là những triết lý, tư tưởng mà Văn Cao gửi gắm qua biểu tượng “khuôn mặt” trong thơ, những triết lý gần như vắng bóng trong lĩnh vực họa.

  1. Như đã nói, biểu tượng mang tính đa nghĩa, từ một mặt biểu trưng có thể suy ra hơn một mặt được biểu trưng. Biểu tượng “khuôn mặt” trong thơ Văn Cao dồn nén rất nhiều tầng lớp ý nghĩa biểu trưng khác nhau. Những tầng nghĩa đó có mối liên hệ mật thiết với mẫu gốc, văn hóa và ngôn ngữ. Vì vậy, một trong những phương pháp khoa học để giải mã một biểu tượng là đi từ những kiến thức nền ấy. Theo phương pháp này, độc giả vừa thấy được sự tiếp thu vừa tìm ra được những sáng tạo riêng của tác giả qua mỗi biểu tượng. Bài viết chính là một minh chứng cụ thể cho cách thức, phương pháp giải mã biểu tượng này, hi vọng tạo ra được một cái nhìn, hay một cách thức cụ thể đối với bạn đọc trong việc tìm hiểu tác phẩm cũng như con người của Văn Cao.

Đỗ Thị Mỹ Hà @ Thời gian cô đặc trong thơ Văn Cao _________________________________ THANH THẢO

Tôi

Một trái cây muộn

còn sót lại cành

(Sự sống thật)

Văn Cao tự nhận mình như vậy, luôn chịu sự câu thúc của thời gian, cái thời gian kéo dài trong một ngày ở một thế ngồi bất động, “một cái bóng”, nhưng lại vô cùng ngắn giữa những chớp mắt của tâm tưởng, những hình ảnh, những ý nghĩ vụt lóe. Sáng tạo là chấp nhận sự mất đi của những thời gian đằng đẵng để đổi lấy cái chớp mắt của những thời gian cô đặc. Thời gian ấy có thể là tiếng kêu của “một khúc thép đỏ- trong chậu nước”, có thể là cái “lặng lẽ lấp lánh” của một con mắt “sau bóng đen”, có thể là một cái bóng chung cho cả hai người: Chúng tôi hai người – Một bóng… Thời gian ấy có thể nghe được từ “những tiếng rạn vỡ”, có thể thấy được từ dòng máu của một nhà văn thân thiết đang đối mặt từng phút giây với cái chết: Và dòng máu nơi anh – Những giọt mực cạn dần. Văn Cao có thể thấy, sau khoảng thời gian cô đặc như sau một tách trà ấy là Một khoảng trống thẳm sâu. Thơ có được từ những chênh vênh, những mấp mé miệng vực ấy của một thoáng chốc thời gian.

Tôi níu lấy mảnh lưới

Lưới là cái cuối cùng

Đang hắt tôi xuống biển

(Đêm phá Tam Giang)

Đó cũng là thời gian để đột ngột hình thành một cái gì:

Từ trời xanh

rơi

vài giọt tháp Chàm

(Quy Nhơn 3)

Đọc thơ Văn Cao đã lâu, tôi cứ nghĩ mãi, vì sao thơ ông cô đặc được đến vậy? Thì ra, mỗi bài thơ của ông được dựng lên từ một lát cắt rất mảnh của thời gian, hoặc từ một sự cô đặc dồn nén cả một khoảng thời gian dài trong một chuyển động bất chợt:

Bất ngờ

một con chim bay qua cửa sổ

tự nhiên

ánh sáng đi

(Mùa xuân, em)

Với bài thơ Trôi, Văn Cao dựng xương sống của nó chỉ bằng ba động từ “thả”, “ôm” và “trôi”. Chỉ ba động từ mà đặt được một vấn đề triết học, một cách nhìn cách nghĩ không cố chấp về cuộc sống: Tôi ôm em trong tay – Em trôi. Người tự do là người nhận thức được quy luật tất yếu. Nhà thơ tự do cũng vậy, anh chọn xả kỷ chứ không phải ích kỷ, anh dám cô độc trên con đường mình đã chọn nhưng bao giờ cũng khát khao sự đồng cảm, sự chia sẻ, tình thân hữu. Tài năng của Văn Cao thăng hoa được tới đỉnh cao là nhờ cái tình sâu đậm của ông với con người, với nhân dân mình, với quê hương mình. Cõi thiên thai trong bản nhạc bất hủ của ông chính là cõi trần gian mà ông muốn thấy, mà ông khao khát chiến đấu để có được. Trong mỗi nhà Cách mạng cũng như mỗi nghệ sĩ chân chính đều có phần không tưởng, phần lý tưởng mà nhờ nó họ có được sự hy sinh tự nguyện và những tác phẩm để đời. Họ không cần và cũng không thể thấy những cõi thiên thai trên mặt đất này, nhưng họ khao khát, họ sống và chết vì sự khao khát. Văn Cao là một nhà cách mạng rất nghệ sĩ, và là nhà nghệ sĩ sống rất cách mạng. Hai con người này, nói như Văn Cao là: “Chúng tôi hai người – một bóng”, cái “bóng” ấy thấm đẫm xuống từng trang tác phẩm của Văn Cao.

Có những nhà nghệ sĩ lớn không Cách mạng, nhưng tự hào biết bao ở cái thế kỷ 20 khốc liệt này chúng ta được thấy hàng loạt những nghệ sĩ lớn, những nghệ sĩ vĩ đại đồng thời là nhà Cách mạng. Cách mạng trong tư tưởng, và Cách mạng trong hành động. Chính Cách mạng đã đặt đôi chân nghệ sĩ của họ cắm chặt trên mảnh đất cần lao, đứng cùng những người bị áp bức, những người đang chiến đấu để làm người, và chính Cách mạng đã làm thăng hoa những tưởng tượng những khát khao của họ về một thế giới mới, về những gì chưa thể nhìn thấy được trong hiện tại nhưng có thể sẽ là giai điệu chủ trong tương lai. Nhưng cũng như những nghệ sĩ Cách mạng khác, Văn Cao không bao giờ chấp nhận sự đánh tráo khái niệm, đánh tráo hình ảnh. Sự trung thực đến cùng với lý tưởng của mình có thể làm khổ ông một thời nhưng sẽ tôn vinh ông mãi mãi.

Bây giờ không còn những tiếng nổ to

Nhưng còn những tiếng rạn vỡ

Anh có nghe thấy không

Chỗ nào cũng có tiếng

Chưa nói lên

(Anh có nghe thấy không)

Văn Cao đã nghe từ ngót 50 năm trước những điều đang xảy ra hôm nay. Ông không phải là nhà tiên tri vu vơ, ông là nhà Cách mạng và là nhà nghệ sĩ, ông nghe được bằng tất cả trái tim mình, bằng sự linh cảm không đánh lừa của mình, bằng tất cả tấm lòng của mình với nhân dân với đất nước mà ông trọn đời yêu thương. Với những người như thế, thời gian trong tâm tưởng họ là thời gian cô đặc, họ có thể nhìn thấy cảm thấy những điều xảy ra trăm năm sau không phải nhờ một năng lực thần bí nào, mà nhờ cậy chính vào sự trong trẻo tuyệt vời của tâm hồn, của lương tâm họ. Đó là những người đã ngộ. Cái “thời gian cô đặc” trong thơ Văn Cao bắt nguồn từ khả năng cô đặc thời gian trong tâm tưởng ông, là sự dịch chuyển đến vô cùng từ một không gian hẹp, từ một thế ngồi bất động.

Tôi đã nhiều lần nhìn ngắm Văn Cao ngồi im lặng: ông có thể ngồi suốt ngày với một tư thế như vậy, với một tâm thế như vậy. Những lúc ấy, tâm tưởng ông liên tục du hành trong thời gian, trong những không gian tưởng tượng. Chính khả năng cô đặc thời gian, khả năng “tích trữ lương thực” cho tinh thần, cho tâm hồn đã đưa tới những bài thơ cô đặc mà Văn Cao từng ủ bao nhiêu năm trong những cuốn sổ tay nhỏ nhít của ông. Ủ như người ta ủ những hạt mầm. Bản thân những hạt mầm cũng là sự cô đặc thời gian, sự kiên nhẫn với thời gian. Đọc thơ Văn Cao giờ đây, tôi như thưởng thức được từng chấm sáng lấp lánh của thời gian qua từng con chữ. Nhiều khi, thơ cũng phải biết tự dè sẻn như thế, tự làm nhỏ mình lại như thế, biết kiên nhẫn như thế. Như những hạt mầm. Những hạt mầm của thời gian.

THANH THẢO

@ Mùa xuân bí ẩn trong thơ Văn Cao ____________________________

ĐẶNG ANH ĐÀO

Đọc lại thơ Văn Cao trong một ngày đông lạnh, tôi thấy số phận thật đa đoan: người nghệ sĩ ấy lại hóa thiệt thòi vì quá tài hoa. Nếu sự nghiệp âm nhạc của ông không lớn đến như thế, thì có lẽ người ta sẽ chú ý hơn tới thơ ca để nghe thấy một tiếng nói khác, giống như tiếng “người khổng lồ kêu thét suốt ngày đêm”, giống như tiếng sóng biển từng ám ảnh suốt cả đời ông.

Trong những ca khúc viết về mùa xuân như bài “Mùa xuân đầu tiên” ta nghe thấy những giai điệu vui, lảnh lót, êm đềm như điệu nhảy trong vũ hội. Thật lạ lùng: có một sự khác biệt giữa mùa xuân trong thơ và nhạc Văn Cao rất rõ rệt.

Ở ca khúc, mùa xuân trong sáng, có thể nói là “trong suốt”. Còn mùa xuân trong thơ Văn Cao luôn mang một vẻ u uất – có lẽ đó cũng là nét khác thường so với cái “mã” của mùa xuân thông thường được coi là khoảnh khắc tươi trẻ nhất trong sự luân hồi của thời gian.

Vào một sáng mùa xuân, khi nói với người yêu “Em ở đây với anh/ cho bớt lạnh sáng mùa xuân náo níu” Văn Cao đã khép lại bài thơ bằng một lời mời mọc “Chúng ta đi vào bí mật của mùa xuân”. Bí ẩn ấy, trước hết vẫn là nỗi buồn.

Chiếc xe xác đi qua phường dạ lạc viết vào mùa xuân 1945, thực sự là mùa chết chóc của cả dân tộc. Ngã Tư Sở, xóm ăn chơi, lại là điểm gặp của “bốn ngả âm u”. Mưa phùn thơ mộng của xuân Hà Nội trở thành “Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch”.

Có những câu thơ điểm theo nhịp phách của ca nhi, nhưng lại vẳng lên âm thanh của chết chóc: “…Khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ/ Thanh xuân hờ thanh xuân”. Hăm hai tuổi, giữa độ tuổi xuân, vậy mà bóng dáng Văn Cao điệp lại hình ảnh ông già Đỗ Phủ: “Nhà ta thuê mái gục tự mùa thu/ Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc“…

ều này cũng minh chứng lại tình cảm đối với “tuổi trẻ ngày sau” mà nhiều bạn bè vong niên đã nói về con ngườ

Cùng một giai đoạn sáng tác trước cách mạng 1945, trong ca khúc, ta lại thấy Bến xuân “réo rắt oanh ca”…, “mùa xuân cùng xây nhà bên suối”, mùa xuân của Thiên Thai, nơi “hoa xuân chưa gặp bướm trần gian” và không bao giờ tàn xuân: “Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần”… Sau cách mạng, sự khác biệt với thơ càng rõ.

Nhà thơ đã viết một thiên trường ca chiếm hết “cả mùa xuân 1956”- như lời ghi ở cuối bài Những người trên cửa biển. Chương IV mang tên “Những ngày báo hiệu mùa xuân” kết thúc bài thơ có thể coi là vui nhất của Văn Cao. Nhưng đã xuất hiện những tiên cảm u uất, những dự báo.

Bên “những con bói cá/ Đậu trên những dây buồm” nhà thơ thấy “những con bạch tuộc/ Bao tay chân cố dìm một con người”… “Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải/ Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống (…) Làm rỗng những con người lụi dần niềm hi vọng”.

Cũng vào năm ấy, ở một bài thơ khác, Văn Cao viết: “Cửa đóng lại từ chín giờ/ Không một cuốn sách chờ đợi/ Dù những ngôi sao đang nở trên trời/ Dù đêm xuân bắt đầu trở lại”.

Năm 1957, có một bài thơ dành riêng cho Mùa xuân không nở. Văn Cao nói về mình bằng một câu thơ u ám: “Có bao giờ tôi sống thật mùa xuân của tôi”. Tuy nhiên – và đi ông – dẫu “Mùa xuân qua đi không nở được/ Còn giữ lại cái mầm trong suốt đời tôi (…) Để phải mọc lên trên mồ hôi những bông hoa trắng nhất/ cho tuổi trẻ ngày sau thấy một mùa xuân đã mất”…

Như để lý giải vì sao “mùa xuân không nở”, năm 1959, bài Trong mùa xuân đời tôi viết về “Những đêm đi trong những ngọn đèn lửa đốt nhà dài từng cây số (…) Tôi đã nhìn thấy chung quanh tất cả/ những con người và con vật/ Dũng cảm và hèn nhát”…

Lạ lùng nhất là mùa xuân năm 1960 trong Năm buổi sáng không có trong sự thật. Ám ảnh phố phường, là những chiếc mặt nạ. “Mọi người đeo mặt nạ đi chơi (…) Những mặt nạ gặp nhau chào hỏi (…) Từng con người/ Vội vàng lau mồ hôi và nước mắt/ Trên những mặt nạ giấy bồi”. Đối lập lại, là “gian phòng trong suốt thủy tinh/ Em ở đây với anh/ cho bớt lạnh sáng mùa xuân náo níu”.

Dường như càng về sau, mùa xuân ở thơ Văn Cao càng thu lại ở thế giới của hai người: “tạm biệt em/ mùa xuân bỗng thu lại dần ánh sáng” (Mùa xuân, em – 1988). Đây cũng là bài thơ xuân bí ẩn nhất của Văn Cao. Khi nói đến độ dài của mùa xuân, dư vị của câu thơ lại là một cảm giác nặng nề: “Có lẽ cuộc đời chúng ta còn đi/ dài như mùa xuân đã đến”. Phải chăng vì nó gắn với cảm nhận mệt mỏi về thế giới bên ngoài?

Nhưng cảm giác về cái khoảnh khắc chốc lát, bay biến của mùa xuân lại chan hòa màu xanh, ánh sáng: “Vừa nghe qua mùa/ tràn vào ngưỡng cửa màu xanh/ chợt em đến/ có lẽ bên ngoài hơi lạnh (…)/ bất ngờ/ một con chim bay qua cửa sổ/ tự nhiên ánh sáng bay đi/ em của anh – nói gì được bây giờ/ nói gì được bây giờ?”.

Mùa xuân, em, vì thế, hàm chứa một nghịch lý bí ẩn. Ngay cả hình ảnh “em” cũng khác với hình ảnh quen thuộc của người đàn bà có “khuôn mặt sáng trong và bình lặng” (Khuôn mặt em), giữa mùa xuân lạnh “Thịt da em cho anh sưởi (…) Nghe nhựa mùa xuân/ Những nụ hồng mới nở/ Và mật vừa thơm và ong đã tới” (Năm buổi sáng…); Nàng cũng là người đã dẫn dắt ông đi qua sự hủy diệt của thời gian: “Và đôi mắt em/ như hai giếng nước” (Thời gian).

Còn trong bài Mùa xuân, em có lẽ là bài thơ cuối cùng của Văn Cao, năm 1988, ta thấy giữa thi nhân và người đàn bà trong thơ có một khoảng cách: “Ta nói gì với nhau không nhớ/ em ra đi (…) ta đợi nhau/ như chờ mùa xuân/ hình như/ chỉ còn kỷ niệm/ giữa chúng ta/ không còn gì ở anh”. Nhịp thơ đứt gãy, ngay kỷ niệm cũng là bức rào chắn. Nàng chợt đến chợt đi, tan biến với “mùa xuân thả trên bàn tay em”, khác hẳn với hình ảnh người đàn bà mãi đọng lại ở những bài thơ kia: “Dĩ vãng giữ trong tôi như một mùi cỏ/ Thơm ủ trong tóc người yêu”.

Thường khi, người đàn bà trở đi trở lại trong thơ ông gắn với hình ảnh sâu thẳm, lắng đọng nhưng cũng tràn đầy, trọn vẹn, trong sáng dường như để bù đắp sự viên mãn cho những gì khiếm khuyết trong “những ngày dài dằng dặc (…) những đau khổ” của đời thi nhân. Đó là “mảnh trăng những đêm rừng cháy“… là “khuôn mặt em làm giếng/ Để anh tìm đáy ngọc châu“.

Bởi vậy, hai hình ảnh song song Mùa xuân/ Em đã khiến cho bài thơ này trở thành bí ẩn nhất trong thơ xuân của Văn Cao. Gần như cùng mùa xuân ấy, trong bài thơ Trôi (bài này được ghi đủ ngày và tháng: 16/1/88), hình ảnh người đàn bà cũng gợi lại âm hưởng đứt gãy, bay biến ấy: “Tôi ôm em trong tay/ em vẫn trôi”. Sau đó, không còn mùa xuân, chỉ có Ba biến khúc của tuổi 65, Trần trụi, Mùa thu, và “mùa gió Nam thổi” (Tôi ở) – lúc ấy đã là năm 1994, trong “Tuyển tập thơ Văn Cao” đây là bài thơ cuối cùng ông viết.

Trở lại mùa xuân trong ca khúc, vì sao mỗi lần vút lên, nhạc Văn Cao lại cuốn ta vào những cung bậc dặt dìu, êm đềm, giống như những điệu valses của Brahms, điệu “Tango màu biếc” của Andersen – ngay từ trước Cách mạng tháng Tám? Và tới những ngày chiến tranh chống Pháp, mùa xuân của Sông Lô tràn trề tuôn chảy như một vũ khúc của J. Strauss: “Mùa xuân tới, nước băng qua ngàn, núi in ven bờ xanh ôm bóng tre”…

Như vậy, không thể đơn giản giải thích không khí u uẩn bao trùm thơ xuân Văn Cao bằng hoàn cảnh xã hội. Có thể nói vì nhạc của Văn Cao chủ yếu được sáng tác thời trẻ, còn sau này ông coi “Nhạc là mối tình đầu bị phản bội” chăng? Cũng có thể vì nhạc của Văn Cao hướng ngoại, còn thơ là nơi “tôi đi qua tôi”, là “một nửa mặt” của thi nhân đầy mâu thuẫn như biển trong thơ ông, tràn ngập mênh mông nước, vậy mà vẫn “thành người khổng lồ kêu khát suốt ngày đêm”?

Một tác phẩm nghệ thuật lớn luôn chứa đựng nét bí ẩn. Vẻ đẹp ở Mona Lisa, là ở nụ cười bí ẩn. Gợi lên vẻ u uẩn của mùa xuân không nói hết, thơ ông là “ngàn đáy sâu tới đáy không cùng”, là “Vô cùng biển cả/ những tiếng vang không bao giờ đáp lại”

Đặng Anh Đào

@ Nhạc sĩ Văn Cao – trọn một tấm lòng vì Tổ quốc ____________________________________ Ngọc Ngà

Việc gia đình cố nhạc sĩ Văn Cao hiến tặng “Tiến quân ca” cho nhân dân, cho Đảng, cho Quốc hội là làm tròn tâm nguyện của ông khi còn sống, để tác phẩm quý báu này trường tồn cùng đất nước.

Những lời ca hùng tráng “Đoàn quân Việt Nam đi/ Chung lòng cứu quốc/ Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…” của bài “Tiến quân ca” – tác phẩm được chọn làm Quốc ca của Việt Nam đã gắn liền với lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ vĩ đại. Vượt qua thời gian, vượt qua những quy định mang tính giới hạn của hoạt động sáng tác, lưu giữ và phổ biến tác phẩm nghệ thuật, “Tiến quân ca” đã trở thành di sản tinh thần vô giá của đất nước, của dân tộc. Việc gia đình cố nhạc sĩ Văn Cao hiến tặng tác phẩm quý báu này cho nhân dân, cho Đảng, cho Quốc hội là làm tròn tâm nguyện của ông khi còn sống, để “Tiến quân ca” trường tồn cùng đất nước. Đó chính là “Tấm lòng của một nghệ sĩ lớn đối với Tổ quốc”.

Căn gác nhỏ trên phố Yết Kiêu, thành phố Hà Nội là nơi nhạc sĩ Văn Cao đã sống những năm tháng cuối đời. Dẫu ông đã đi xa nhưng căn gác thân quen này đã trở thành nơi lưu giữ những kỷ vật về một người nhạc sĩ tài hoa, trong đó bài “Tiến quân ca” được gia đình ông trân trọng như một báu vật.

Tham gia Việt Minh ở Hà Nội, khi thời cơ khởi nghĩa đến gần, nhạc sĩ Văn Cao được tổ chức giao nhiệm vụ viết một ca khúc cổ vũ tinh thần chiến đấu cho 34 đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và phong trào Cách mạng… Chính trong căn gác nhỏ này, một ngày đầu đông năm 1944, “Tiến quân ca” đã ra đời, được đăng trên báo Độc lập do chính tác giả tự khắc in.

Nhà thơ, nhạc sĩ Nghiêm Bằng, con trai cố nhạc sĩ Văn Cao kể lại: “Cuối tháng 10 năm 1944, nhạc sĩ Văn Cao sau khi đi dọc các phố phường Hà Nội, tìm hiểu tình hình đất nước, vì lúc đó là hơn 2 triệu người chết đói vì Nhật bắt nhổ lúa trồng đay. Trước bối cảnh đó nhạc sĩ Văn Cao đã thốt lên “Đoàn quân Việt Minh chung lòng cứu quốc, rồi thề phanh thây uống máu quân thù…”. Sau này nhiều người phê phán là sao lại viết như thế nhạc sĩ Văn Cao có trả lời rằng: “Lúc đó tôi mới 21 tuổi thôi mà nhìn cảnh hơn 2 triệu người chết đói thì không còn cách nào khác”.

Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945, trong số 3 ca khúc: “Tiến quân ca”, “Chiến sĩ Việt Minh” (sau đổi thành “Chiến sĩ Việt Nam”) của nhạc sĩ Văn Cao và bài “Diệt phát xít” của Nguyễn Đình Thi; Bác Hồ đã chọn “Tiến quân ca” làm Quốc ca chính thức của Việt Nam.

Bác nói rằng, lời bài “Diệt phát xít” ngắn gọn, dễ hát, dễ phổ cập, tuy nhiên chế độ phát xít đã tan rã, nếu lấy bài “Diệt phát xít” làm quốc ca sẽ không hợp thời. Mặc dù thích bài “Chiến sĩ Việt Minh” nhất, nhưng Bác lại không chọn làm Quốc ca vì cho rằng lời dài, khó hát. Theo Bác, đưa “Tiến quân ca” trở thành Quốc ca là phù hợp nhất, vì ca khúc thể hiện được ý chí, khát vọng của dân tộc, lại gắn gọn, dễ thuộc lời, đầy đủ về ý nghĩa, giai điệu lại hùng tráng….

Ngày Tổng khởi nghĩa, 19/8/1945 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, trước hàng vạn quần chúng nhân dân, giữa một rừng cờ đỏ sao vàng, Văn Cao đã chỉ huy đội đồng ca thiếu niên tiền phong hát vang bài “Tiến quân ca”. Bài hát như một hồi kèn xung trận, khích lệ tinh thần yêu nước, kêu gọi quần chúng nhân dân đứng lên giành chính quyền, làm nên cuộc Cách mạng mùa thu đi vào lịch sử của dân tộc.

Trong hồi ký về tác phẩm “Tiến quân ca” nhạc sĩ Văn Cao kể lại: “Có mặt trong ngày Tổng khởi nghĩa 19/8 tại Hà Nội, khi “Tiến quân ca” nổ ra như một trái bom, tôi lặng đi và nghĩ bài hát đã không còn thuộc về riêng cá nhân tôi, “Tiến quân ca” đã trở thành tiếng nói thiêng liêng của dân tộc và của Tổ quốc”. Đó là lý do để người nhạc sĩ tài hoa khi còn sống luôn xem “Tiến quân ca” là lời ca, trí tuệ của dân tộc chứ không phải của riêng ông. Suy nghĩ và tình cảm đó đã thấm vào suy nghĩ của mỗi thành viên của gia đình nhạc sĩ.

Nhà thơ, nhạc sĩ Nghiêm Bằng con trai nhạc sĩ Văn Cao chia sẻ: “Tiến quân ca là bài ca thiêng liêng không thể giữ riêng của gia đình chúng tôi được. Sáng tác ca khúc là một nhiệm vụ của Việt Minh trao, của Đảng trao. Cố nhạc sĩ Văn Cao cũng là một Đảng viên, nhận nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm vụ và trao trả lại cho dân tộc và Tổ quốc. Những điều đó là tâm niệm của nhạc sĩ Văn Cao. Gia đình chúng tôi tiếp tục thực hiện ý nguyện đó và hiến tặng lại cho dân tộc và cho đất nước”.

Năm tháng trôi qua, với mỗi người dân Việt Nam, mỗi khi nghe bài “Tiến quân ca” vang lên trong lễ chào cờ, hay trong những ngày lễ trọng, lòng lại trào dâng bao cảm xúc thiêng liêng về tinh thần yêu nước, niềm tự hào tự tôn dân tộc. Bài hát đã ăn sâu vào tiềm thức của các thế hệ người Việt Nam.

Anh hùng lực lượng vũ trang, Thiếu tướng Lê Mã Lương chia sẻ: “Chúng ta có một bài Quốc ca khi mà hát theo cùng với mọi người thấy lòng mình phấn chấn, sục sôi, đúng tinh thần của bài hát. Âm hưởng của bài hát ấy, giai điệu sâu sắc của khúc ca ấy có ảnh hưởng tác động rất sâu đến những người lính chúng tôi. Mỗi lần hát quốc ca, trong lòng như có một cái gì đấy trào lên, tự hào, tự tôn dân tộc. Vì thế mà trước những khó khăn, trước những trận đánh lớn thì bao giờ Quốc ca cũng là một trong những bài anh em thuộc nhất và hay hát nhất. Nó ăn sâu vào con tim, khối óc những người lính và góp phần tạo nên những chiến công”.

Với mong muốn “Tiến quân ca” là bài ca của toàn dân, năm 2010, bà Nghiêm Thúy Băng, vợ cố nhạc sĩ Văn Cao đã có thư gửi Bộ trưởng Bộ VHTT&DL xin hiến tặng tác phẩm “Tiến quân ca” cho nhân dân, Đảng, Quốc hội và Nhà nước. Trong thư, bà Nghiêm Thúy Băng viết: “Tâm nguyện của ông nhà tôi là Quốc ca không của riêng ông nên tôi xin hiến tặng Nhà nước, Quốc hội”. Nay, tâm nguyện ấy đã thành hiện thực. Văn phòng Quốc hội đã tổ chức lễ tiếp nhận “Tiến quân ca” một cách trang trọng, thiêng liêng, xứng đáng với giá trị của bài hát mà nhạc sĩ Văn Cao đã dành trọn tâm huyết để viết nên.

Lễ tiếp nhận ca khúc “Tiến quân ca” của cố nhạc sĩ Văn Cao được tổ chức cùng với việc truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho ông, chính là sự ghi nhận của Đảng, Nhà nước, của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với người nhạc sĩ tài hoa đã cống hiến tất cả sức lực, tâm huyết, tài năng cho Tổ quốc và nhân dân.

Ngọc Ngà

@ QUA BÀI THƠ “KHÔNG ĐỀ” HIỂU THÊM TÍNH SÂU SẮC CỦA VĂN CAO ___________________________________________

TRẦN HUYỀN NHUNG

Nếu như ai đã từng thả bộ trên đôi bờ của một con sông, sẽ thấy mỗi bờ một khác, mỗi bờ vang lên những âm vọng rất riêng. Thưởng thức các sáng tạo của Văn Cao, dù là thơ hay nhạc, dường như ta cũng có cảm giác đang lắng nghe hai bờ đồng vọng: một bên là ào ạt xô bồ sự sống thời cuộc và bên bờ này là yên lặng những thông tuệ riêng tư. Các thủy lưu sáng tạo của Văn Cao cứ đập vỗ đi về giữa đôi bờ tưởng như khác biệt đó. Dẫu thế, vẫn áp mặt vào nhau, đôi bờ luôn hô hứng , đồng vọng, che đỡ, bồi đắp lẫn nhau làm ra những dòng chảy nhạc- thơ nhiều trữ lượng. Hai mà một là vì vậy- nhất quán trong một “cốt cách thi nhân”. Văn Cao là thế ! LÔI CUỐN và MÊ HOẶC. Cả hai đều phát huy sức mạnh tận độ, không cưỡng lại được, hết mình. Đó là gì nếu không phải là quyền phép tối thiêng của các bậc thiên tài !

Nhiều lúc tôi cứ trở đi trở lại câu hỏi này: tại sao Văn Cao lại thành công trong hai khu vực, trong khi đa số những người khác hoặc phải lựa chọn lấy một, hoặc chỉ thành công một mà thôi? Dưới đây là một câu trả lời ít nhiều sáng tỏ:

KHÔNG ĐỀ

Con thuyền đi qua

để lại sóng

Đoàn tàu đi qua

để lại tiếng

Đoàn người đi qua

để lại bóng

Tôi không đi qua tôi

để lại gì ?

Văn Cao.

Một bài thơ bé nhỏ, có thể người đọc rất dễ bỏ qua. Qủa đúng thế! Bởi vì nó yên lặng quá, nó không ồn ào, không đao to búa lớn, nó như người sinh ra nó đang yên lặng cầm cốc rượu trên tay, mắt thả vào khoảng không vô định, nghĩ gì không ai biết… Tất cả từ con thuyền, đoàn tàu, đoàn người đi qua đều ít nhiều để lại dấu vết xác định của mình. Riêng” tôi không đi qua” và tôi càng “không đi qua tôi”, vậy thì tôi có gì để lại không? Ở đây ta hiểu được dụng ý của nhà thơ. “Đi qua” tức là đi hời hợt, bề ngoài, đi ẩu; nếu chỉ vậy thôi thì những gì anh để lại cũng chỉ là bèo bọt, hư ảnh, dễ tan, dễ vỡ, chẳng mấy chút giá trị gì. Ý nghĩ của Văn Cao mang tính chất triết lý sâu sắc đối với quan điểm sống của con người. Cũng như trong quan điểm nghệ thuật, người cầm bút phải biết tìm tòi, sáng tạo “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa ai có”. Nhưng Văn Cao là người không chịu “đi qua” , mà là “sống kỹ”, sống nhuyễn– sống kỹ với xung quanh và sống nhuyễn với chính mình. Sống siêng năng và trách nhiệm, sống với mình với người, cho mình, cho người , sống nhập cuộc với thời mình và sống nghiệm sinh trong từng khoảnh khắc của riêng mình. Nhờ thế, sự sống trong nhiều chiều kích cứ thế ngồn ngộn, tươi ròng , tinh chất lấp lánh trong từng câu chữ, từng nét nhạc- sự sống đã thăng hoa thành hương và rượu quý trong cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ.

Hơn nữa, khi tôi không chịu” đi qua tôi” , tức là tôi không chấp nhận biến mình thành “kẻ khác”. Nếu chấp nhận đi qua chính mình, nghĩa là anh chấp nhận đánh mất mình. Vô luận, dù thế nào cũng phải sống “là mình” , tránh thói sống “ba phải”, qua loa” rằm cũng ư, mười tư cũng gật”. Đó là một nguyên tắc sống , là kỷ luật thép, một bản lĩnh cao cường mang dáng dấp của một khí tiết đại trương phu đáng kính trọng. Bản lĩnh, bản sắc, phong cách, cốt cách cũng nhờ thế mà có được. “Tôi không đi qua tôi”là một tự nghiệm đau đớn và kiêu hãnh… Bản lĩnh ấy có thể so sánh với một Cao Bá Quát “trọng nghĩa khinh tài” mà suốt đời tâm niệm “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”. Chỉ có những bậc tài hoa khí phách mới tôn vinh tài hoa khí phách của nhau được xứng tầm như thế. Trong cái phút giây lặng im cúi đầu trước hoa mai như thế không biết Cao Bá Quát đã nghĩ gì? Một hình ảnh đẹp tráng nghĩa, một bức tranh bày tỏ và chứa đựng nhiều suy tư của một đấng nam phu. Cao Bá Quát đã nghĩ gì? Nghĩ mình là hoa mai hay nghĩ mai đang hóa thân thành một nam tử cầm thanh gươm đi rửa nhục anh hùng, những thế cuộc và chí của kẻ làm trai tài tử như ông. Trong khoảng lặng im thinh không đó, Cao Bá Quát có ngộ ra cái “chân tâm” của bản thể mình, của cuộc sống?

Vâng, vậy là “sống kỹ” và “sống là chính mình” đối lập hẳn với sống “dối” và sống khác mình. Tức là sống ẩu, sống nông cạn, sống bắt chước, a dua, sống xu thời vị thế, …Đây chính là lối sống của một số văn sĩ “nửa mùa” nhưng lại thích “ngưu tầm ngưu mã tầm mã”, cũng ra chiều cao siêu hơn người. Còn với Văn Cao, chính vì kiên định trong một lối sống kiêu hãnh như thế , mỗi sáng tạo của nghệ sĩ là một bảo đảm đầy sức thuyết phục và rất thiết thực đối với đời sống con người. Nhúng toàn bộ bản ngã của mình vào thế giới của cái vô ngã, vừa bảo toàn, vừa thâu nhận, ấy là khi nói bất cứ điều gì về anh là đã có phần đời của nhiều người khác. “Tiếng kêu của một khúc thép nung đỏ -trong chậu nước” không còn là chuyện của riêng mình mà nghe trong đó thấy cả một nỗi đời nhộn nhịp tiếng búa, tiếng đe, mồ hôi, vị mặn, cả tiếng nghiến răng và tiếng cười đồng loại. Đó là sự va chạm hết cỡ của”thủy” với “hỏa” để trở về một trạng thái “an nhiên” tọa trong chất thép. Trải qua 70 năm cõi thế, thi nhân đã đắc đạo từ khi nào?…

Viết đến đây, tự dưng một ý nghĩ bỗng đâu chen ngang, chẹt lấy ngòi bút tôi : mặc lòng, nói gì thì nói, và hình như lảm nhảm cả, với Văn Cao thi nhân :

“Riêng những câu thơ

còn xanh

Riêng những bài hát

còn xanh

Và đôi mắt em

như hai giếng nước”

Một nét Thiên Thai đang lãng đãng đâu đây quyện cả niềm trần…

Trần Huyền Nhung.

@ Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao __________________________________ Xuân Diệu 7/1958

Mặt trận tư tưởng, tinh thần, mặt trận văn hoá văn nghệ quả thật là xung yếu, tinh tế! Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. Cũng là một thứ văn thơ “giật gân”, giật gân đến một độ rất nguy hiểm; thà cứ như cái thùng sắt tây Lê Đạt, thà cứ ngổ ngáo cao bồi như Trần Dần: dễ thấy; đằng này cứ như triết gia ban phát đạo lý nghìn đời; người nào đã biết thế nào là chân lý chân chính, đọc một số thơ và những bài văn, tựa của Văn Cao, có thể tức tối đến đau óc, bởi cái giả dối ở đây nó chằng chịt thật là khó gỡ, nó đã thành máu thịt của Văn Cao, nó nói cứ như thánh, và còn biết nhoẻn miệng cười duyên nữa!

Người ta lấy làm lạ rằng: những tư tưởng văn nghệ của Văn Cao, bóc trần ra, chỉ là một mớ bùng nhùng bèo nhèo quan điểm nghệ thuật tư sản, tại sao nó không phát ngôn ra ngay cuối thời Pháp thuộc, mà Văn Cao để dành ấp úng mãi, vừa rồi, đã mười mấy năm sau cách mạng, mới níu lấy “thời cơ” mà phất nó lên thành cờ, thổi nó ra thành kèn, hòng tập hợp văn nghệ sĩ sau lưng mình? Những thứ quan điểm đó, nếu mà đưa ra trong thời Pháp thuộc, cũng đã bị lạc lõng chẳng ai muốn nghe. Cũng như bọn xét lại hiện nay tái bản chủ nghĩa xét lại cũ rích hàng năm, sáu chục năm trước, trên cái đà của Nhân văn-Giai phẩm, Văn Cao lôi những cặn bã tư tưởng nằm giấu trong mình, chưa có dịp tuyên ngôn trong thời Pháp thuộc, nhảy vào hòng làm chủ trường phái trong văn học hiện nay. Nhiều nhà văn lớp trước vào với cách mạng, đã và đang tiếp tục tẩy gột những cái sai lầm tiền kiếp, mà vẫn thấy hãy còn chưa sạch; thì Văn Cao từ trong làng nhạc sang làng văn, vội lặn hụp vào vũng nước tống ra kia, và cho thế là thơm, là mới! Văn Cao đã nhầm thời gian, nhầm lịch sử rồi!

Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. Bây giờ mà vạch những cái vẩn vơ, buồn bã, sầu thảm trong thơ trong nhạc thời thuộc Pháp, thì dễ quá; trừ những người được giác ngộ cách mạng, còn thì hoang mang tiêu cực là “thường tình” của những người văn nghệ thời cũ. Ở đây ta chỉ nhắc lại về Văn Cao, là vì ở Văn Cao thời trước, cái chủ nghĩa cá nhân nó không “thường thường bậc trung” nữa, mà nó đã đi vào sa đoạ, đi vào giai đoạn cô quạnh; cái óng ánh ngời lên của nó chính là màu của sự tan rã. Cái điều đã thành ra bi kịch, là Văn Cao vào với cách mạng, mà không chịu tự kiểm tra, tự phân tách vào đúng huyệt của tư tưởng cũ của mình, để mà cải tạo nó, lại tự xoa vuốt mình với quan niệm dân tộc giải phóng chung chung, ôm giấu và nuôi nấng những tư tưởng cũ như một cái vốn ngầm tưởng là quý lắm; đến lúc cách mạng tiến lên chủ nghĩa xã hội, thiết lập nền chuyên chính vô sản, thì mới vỡ lở ra một bọc tư tưởng tư sản rất hôi tanh!

Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình mình trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề:

Ngồi đây ta gõ mạn thuyền Ta ca trái đất còn riêng ta!

Những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của lòng yêu nước. Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:

Ta là đàn chim bay trên mây xanh Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan… … Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng

Ta không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó còn thấp. Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền thân của cái lối “Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của “không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ!

Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan rã, như bài “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”, hay như bài “Ngoại ô mùa đông 46” (Văn nghệ số 2, tháng 4-5/1948):

Ta đi trong nhà đổ Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh Còn xiêm hài dành hương phấn cũ… ………………………………………………….. Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp Gió lạnh khi qua viện tàng thư Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche…

*

Quần chúng và Đảng rất sẵn sàng tha thứ cho những sai lầm, thậm chí tội lỗi nữa của ta trước cách mạng, miễn là vào với cách mạng, ta ở thật chứ đừng ở giả, thành tâm thống nhất với chân lý của cách mạng. Mười mấy năm qua, Văn Cao không chịu nhổ vứt đi những tư tưởng nghệ thuật tư sản của mình, lại vờ vĩnh che màn cho nó, đặng cho nó cứ ngấm ngầm nảy nở to lên. Đến khi Văn Cao nắm lấy thời cơ Giai phẩm mùa Xuân 1956, cùng với Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần công bố bản tuyên ngôn của mình, thì thiên hạ phải ngạc nhiên: Người này trở mặt, nói cái gì lạ vậy? cái gì chướng vậy?

Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? đối lập với ai là “chúng ta”?

Bao giờ nghe được bản tình ca Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật Bao giờ Bao giờ chúng nó đi tất cả

Có ai cấm bản tình ca? Có ai cấm tranh tĩnh vật? Nhà thi hào Đức Bertholt Brecht, sống trong thời kỳ ở nước Đức có lũ phát-xít Hít-le trị vì, cảm thấy trách nhiệm của mình nặng nề đến nỗi thấy một cái trán phẳng lỳ, tức là một cái trán bàng quan vô giác;” nói đến cây: hầu như là một tội ác, bởi như thế là làm thinh trên bao nhiêu kinh tởm”. [1] Nhà văn lớn ấy không nỡ nói về cây khi đồng bào ông còn bị xiềng xích. Một người văn nghệ chân chính tất phải thông cảm rằng khi dân tộc, khi nhân dân có những vấn đề lửa cháy dầu sôi, há có nên làm như Yến Lan (mà Văn Cao ca tụng), mê sảng trước tranh tĩnh vật? Há có nên ngụp lịm trong toàn những chuyện tình?

Trên đất nước ta, “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy; nhưng Văn Cao lại lấy những khuyết điểm có thật hay tưởng tượng của ta mà gọi là “chúng nó”; Văn Cao đã từng phát biểu “Trái tim của tôi thuộc về Nhân văn” thì ta không lấy làm lạ Văn Cao xem ta là địch. Đi với ma thì mặc áo giấy, mình có là ma mới mặc áo giấy; Văn Cao lấp lửng bảo rằng chúng nó “bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người”, chúng nó “như nấm mọc trên những thân gỗ mục”, nhưng chẳng dám nói thẳng ra là ai? Văn Cao bảo thiên hạ “mắt không bao giờ nhìn thẳng”, đó là Văn Cao tự tả mình mắt la mày lét làm “tay trong của bọn cầm đầu Nhân văn-Giai phẩm hoạt động trong nội bộ Đảng”. [2] Sao mà thơ Văn Cao hiểm độc vậy!

Một mặt

Những con người không phải của chúng ta Vẫn ngày ngày ngày ngang nhiên sống

một mặt thì

Những người của chúng ta Đang mờ mờ xuất hiện Le lói hy vọng Trên những cánh đồng lầy

Văn Cao truyền ra một câu sấm “Một nửa thế giới − một nửa tâm hồn − một nửa thế kỷ − chưa khai thác xong“, rồi Văn Cao tiếp tục giọng tiên tri:

Anh có nghe thấy không? Chỗ nào cũng có tiếng Chưa nói lên

Những con người của chúng ta, từ Cách mạng tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái đất cũng biết chúng ta vĩ đại! Văn Cao có mắt, có tai, không thể nào phủ nhận việc ấy. Vậy thì những “chúng ta” mà Văn Cao bảo là “đang mờ mờ xuất hiện” đó chính chỉ là “chúng ta” của Văn Cao , của Nhân văn-Giai phẩm mà thôi. Công chúng bị đưa vào một thế giới âm binh mà ông phù thuỷ Văn Cao đang sai dậy, bảo nói lên, đứng lên, gọi là “hàng loạt hàng loạt những con người thật của chúng ta” và giao cho lũ chúng những nhiệm vụ tương lai to lớn! Bà con của những âm binh đó, trong một lúc, đã làm tội ác ở Hung-ga-ri. Văn Cao chơi một trò chơi thật là nguy hiểm!

Văn Cao đã đi bước thứ nhất trong Giai phẩm mùa Xuân thì Văn Cao đi tiếp bước thứ hai trong cái báo Nhân văn. [3] “Thơ Văn Cao” góp vũ khí chống Đảng, chống chế độ với bọn Nhân văn. Một lời toà soạn rất là xông hương trình diện rất là trịnh trọng một đoạn thơ dài của Văn Cao; họ đã nhè ngay cái “trái tim thuộc về Nhân văn” của Văn Cao mà trích. Tiếp theo lề lối của bài “Anh có thấy không” trên kia, Văn Cao bảo: “Kẻ thù của chúng ta xuất hiện” mà không đả động gì đến Mỹ-Diệm, chỉ nói đến những con rồng đất, những con bói cá, những con bạch tuộc một cách lập lờ ám muội. Văn Cao đặt tất cả lòng thù địch vào chữ “chúng”; chúng nào “muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng” ? chúng nào “làm rỗng những con người lụi dần niềm hy vọng” ? Ai là “những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc” ? Văn Cao không nói rõ, mà dùng lối ám chỉ thâm độc, đổ các thứ tội cho Đảng, cho cán bộ. Đó là cái lối gài mìn chống phá Đảng và nhân dân; những bài thơ, đoạn thơ trên đây rõ ràng là những sự việc chính trị.

*

Sau khi báo Nhân văn chết rồi, Văn Cao viết những bài văn nói chuyện nghệ thuật. Mở đầu “Một vài ý nghĩ về thơ“, Văn Cao nấp ngay sau cái chiêu bài “cộng sản”. “Một trong những hướng xây dựng nhân văn cộng sản là đào tạo cho xã hội những người biết khai thác, khám phá, phân tách thực tế và mở đường cho tương lai”. Muốn được như thế, tưởng là Văn Cao yêu cầu các nhà văn phải gắn liền với quần chúng cách mạng, phải đi theo với bộ phận tiên tiến nhất của nhân dân, là Đảng, có vậy thì mới chinh phục được tương lai; hoá ra Văn Cao chỉ đại ngôn như vậy, để mà viết tiếp theo rút ngay ra cái điều kiện là “nhà thơ phải thành lập cá tính“.

Cá tính trên hết! Nhà thơ “phải chủ động thành lập lên sự thẩm mỹ mới cho người đọc, chủ động xây dựng con người biết tư tưởng cảm xúc và cảm giác tinh tế như mình cho xã hội đương thời và cả xã hội sau này”. Chính những nhà văn lạc hậu và những nhà văn phản động đã dán lên ngực những câu nói kênh kiệu và rỗng tuếch như trên đây; Văn Cao làm như nhà thơ có thể nấp sau cái “nghề” của mình, cái “chuyên môn”, cái “loại biệt tính” của mình, cứ thế mà ban phát sự “thẩm mỹ mới” cho thiên hạ. Nhất định nhà văn nhà thơ phải có cá tính, có độc đáo, nhưng không phải cứ cố tình “thành lập” mà được; trước hết phải có nội dung tốt đẹp, tiến bộ, và cá tính là cái bản sắc trong khi diễn đạt, gắn liền với nội dung. Trong một xã hội đang làm cách mạng như ở miền Bắc nước ta, thì nhà thơ phải xắn quần lên mà chạy theo cho kịp quần chúng cái đã, trước hết phải “lấy của quần chúng” được một cái gì đã, rồi sau mới hòng “trả lại cho quần chúng” được một cái gì; chứ còn những kiểu nhà thơ “tinh tế” như Văn Cao ước mơ, ngồi gặm móng tay mình, thì cái roi của lịch sử sẽ đánh vào đít! Thẩm mỹ của ta mới vô cùng, là vì nó xây dựng trên cơ sở quần chúng, nó là thẩm mỹ cho đa số; còn cái “thẩm mỹ mới” của Văn Cao, tự phụ rằng không ai tinh tế bằng ta đây, nó đã tắc tị và giẫy chết ở Âu châu từ cuối thế kỷ XIX rồi, có phải mới gì!

Với một cái giọng cao đạo, ra vẻ bác học, thông thái, Văn Cao lại tiếp tục nói nào là “yêu những người biết thất bại và dám mở đường“, nào là “cái mới trước hết là cái mới trong tư tưởng, cảm xúc và trong cảm giác của nhà thơ“, nào là “ tấm bia trên mồ một người đã khuất có lẽ còn ở lâu trên mặt đất hơn một cuộc đời“… Đó là những thứ tư tưởng anh hùng chủ nghĩa, cứ mở đường liều, để lấy tiếng là “tiên phong”, không kể gì tổn thất trên lưng của quần chúng, thứ tư tưởng duy tâm, đặt cái chủ quan lên trước cái khách quan, thứ tư tưởng vô đạo, coi mạng người không bằng lâu đài, lăng tẩm [4] . Những thứ tư tưởng đó mới hở hơi ra, chúng ta đã nhức lên tận óc, không chịu được, phải bịt nó lại ngay!

Rồi Văn Cao làm theo lối bắt quyết với hai tay không, và hô phong hoán vũ: “... cũng có người thấy trời xanh vô cùng tận trong bát nước, và cũng có người chỉ nói tới một giọt ánh sáng để thấy cái vô cùng tận của trời xanh. Có người phải tìm con đường lớn mới thấy dấu xe, mà có người tìm thấy dấu xe trong một hạt bụi“. Lấy một bộ phận để nói cái toàn thể, lấy một mắt xích để nói sợi dây chuyền, đó là phương pháp thường dùng ở trong nghệ thuật. Nhưng muốn dùng được phương pháp đó, thì điều kiện trươc tiên là phải biết thật rõ cả toàn thể, biết thật kỹ cả dây chuyền. Muốn nhìn thấy cái trong sáng trong một bát nước thì phải nhìn thấy tận mắt cả cái nguồn ánh sáng từ mặt trời đưa đến, chứ đừng nhầm với ánh lửa ma trơi. Sau luận điệu của Văn Cao nấp cái nói phét, cái tán dóc của những kẻ nhác lười sợ thực tế, sợ quần chúng, cứ ngồi bói một hạt bụi để thấy tất cả thế gian; vâng, hạt bụi có là một vũ trụ thật đấy, nhưng phải dùng khoa học cụ thể nghiên cứu cụ thể, mới được thấy những nguyên tử, điện tử trong đó. Một hạt bụi có thể đến từ một con đường lớn, mà cũng có thể đến từ một con đường rất nhỏ, một ngõ cụt tắc tị và bẩn thỉu, hay đến từ chân một con ruồi xanh đậu lên mép của “nhà thơ”. Muốn hiểu con đường lớn của cách mạng thì phải thực sự ra giữa đường lớn mà nhìn mà đi mà đắp mà tắm giữa quần chúng, chứ đừng có tin ở hạt bụi!

Văn Cao có cái tài viết rất trịnh trọng những câu không có nghĩa lý gì hết: “Chỉ riêng cái phần giác quan của nhà thơ cũng nói được cái hướng biểu hiện hoặc thiên về tư tưởng, hoặc thiên về cảm xúc, hoặc thiên về cảm giác“. Văn Cao hiểu giác quan là cái gì? Có phải là nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ không? Năm thứ này, thứ nào và lúc nào thì thiên về tư tưởng, cảm xúc hay cảm giác? − Thời kỳ ra những câu đố để làm cho công chúng tưởng nhà văn là thâm thuý, qua đã lâu rồi! Văn Cao viết tiếp: “ Cái khuynh hướng đó nhiều khi còn là của cả một thời đại, một môn phái hay một triết học“. “Nhiều khi” là khi nào? Khi trước cách mạng hay sau khi cách mạng? Hai cái “khi” đó không thể san bằng được. Trước cách mạng, trước chủ nghĩa Mác-Lênin thì có trăm thứ “ba bị, chín quai, mười hai con mắt” ở trong văn nghệ, nhất là trong thời kỳ tan rã của chủ nghĩa tư bản; còn sau cách mạng, Văn Cao phải chọn chứ, phải biết hiện thực xã hội chủ nghĩa là phương pháp sáng tác tốt nhất, đừng có lạc lối vào các môn phái sa đoạ, phân tranh, và chỉ có một triết học Mác-Lênin duy nhất đúng, chứ còn lắm triết học nào nữa?

“Một vài ý nghĩ về thơ” của Văn Cao là một sự hiện hồn về của những quan niệm nghệ thuật đã bị cách mạng đào thải; dù có nấp mình sau cái nghĩa lớn của những chữ “cộng sản”, “xã hội sau này”, “khát vọng”, v.v…, vẫn không giấu được cái duy tâm chủ quan, cái cá nhân chủ nghĩa bế tắc, cái tìm tòi lập dị, cái khinh thường quần chúng, một mớ cặn bã tư tưởng cũ rích, mà Văn Cao cứ bảo là mới toanh!

*

Cái lá cờ nghệ thuật ố bẩn đó, Văn Cao ngày càng giương cao lên, từ chỗ tung “một vài ý nghĩ” đến chỗ ngang nhiên đặt lên đầu những quyển sách. Nhà xuất bản Hội Nhà văn trước đây cho ra đời một loạt bài tựa gieo rắc những cái sai lạc; đứng đầu là bài tựa Văn Cao đề cho Những ngọn đèn của Yến Lan.

Đại cục của thơ Yến Lan là một thứ thơ tủn mủn, đi vào chỗ kỹ thuật khô héo, quặt quẹo, bế tắc. Khoảng giữa tập Những ngọn đèn chỉ có được dăm ba nét của con người kháng chiến, mới mang có một chút xíu hơi mới của thời đại hãy còn quá rất mong manh (một số câu trong những bài Bên đường chiến khu, Những bạn đẩy goòng, Tỉnh nhỏ, Phù ly). Đáng lẽ Văn Cao phải nhấn vào cái chút hơi mới đó, khuyến khích cho nó lớn mạnh, thì Văn Cao lại đề cao cái luồng lạc hậu và thoái hoá. Phía trước tập thơ là những bài thơ cũ bị không ai biết chẳng ai hay trước cách mạng (trừ bài Bến My Lăng) đến nỗi dưới thời Pháp thuộc cũng không in ra được; sau một sự cố gắng ngắn ngủi tự cải tạo mình thì Yến Lan đã vội tiếc hối ngay ( “Cũng trong quãng đời đi đó đi đây− Tôi theo bước đôi người hì hục lăn vào cuộc sống− … Nhưng lòng tôi dần lạnh tiếng chuông ngân” trong bài “Tĩnh vật“) và quay trở về truy lĩnh những cái cô đơn lạc hậu trước cách mạng. Nhưng khi người ta hồi sinh cho những cái lạc hậu cũ, thì lúc sống lại, nó không chịu đứng yên ở mức cũ đâu! Chịu ảnh hưởng của nhóm phá hoại Nhân văn-Giai phẩm, Yến Lan, ngoài việc đi vào kỹ thuật chủ nghĩa, còn đẩy mình đến mức dùng những “biểu hiện hai mặt”:

Hà Nội vẫn đi lên từng bậc nấc thang Trên những cột dài bóng đen chữ máy; …………………………………………………….. Hay tiếng mạ kền rà trên sắt rỉ Hay tiếng nảy của những “lò so ý nghĩ” Chống lên những mái đầu chìm

Những ngọn đèn tắt phụt ở bài “Ga xép” đóng tập thơ sập xuống tối sầm (“Khi đời anh con tàu cũ đang trôi“… − “Như một nhà ga không người lên xuống” ).

Một tập thơ, một luồng thơ như vậy, mà Văn Cao viết tựa đưa lên rất cao, nêu một cái gương đáng cho người ta học tập. Trong những dịp như thế này, Văn Cao càng cần đến cái giọng phù thuỷ; bởi vì khi người ta không có chân lý trong nội dung thì người ta phải lấy vẻ thâm nghiêm, cố nhăn trán lim dim con mắt, làm thế nào nói cho kêu, cho lấp lánh, cho rườm rà, lẩn quẩn, để mà không nói cái gì hết, đặng mà không ai bắt được cái lừa bịp của mình!

Cả bài tựa của Văn Cao là một mớ tà thuyết viết theo lối thần chú. Văn Cao khen thơ Yến Lan là “Lúc nào anh cũng bắt đầu“… “chúng ta thường vui sướng đợi một sự đổi thay của nhau“… “tập thơ này đánh dấu một quãng đường dài chuẩn bị cho sự bắt đầu của anh“. Chúng ta làm cách mạng, dựng lên cả một xã hội xã hội chủ nghĩa mà lịch sử chưa từng có, nhưng chúng ta không mắc phải cái bệnh “hãy đi mãi!”, cái bệnh “luôn luôn mới!”, cái bệnh lúc nào cũng xoá đi làm lại tất cả, nghĩa là phá hoại, lúc nào cũng “bắt đầu”. Chúng ta mừng nhau tiến bộ chứ không mừng nhau đổi thay; vì bao năm được Đảng giáo dục, mà trở mặt phản bội như nhóm Nhân văn, cái lối đổi thay đó là sự cuối cùng của đê nhục. Văn Cao nói: “Thơ anh bắt đầu biết đề cao những hành động, tình cảm của con người anh yêu lên để đả phá những bọn phá hoại sự xây dựng của xã hội“. Yến Lan rời chỗ sáng, đi vào con đường bế tắc, tối tăm, bắt đầu sa xuống hố hoang mang, thoái hoá, học lối nói xỏ xiên đối với Đảng, thì Văn Cao lại cho là một thành tích; bọn phá hoại sự xây dựng của xã hội chính là bọn Nhân văn-Giai phẩm, Văn Cao còn đổ cho ai?

Văn Cao viết: “Thơ Yến Lan càng ngày càng muốn đi gần lại cuộc sống hiện đại: một người đi từ một vùng thủ công nghiệp đến một thành phố kỹ nghệ. Từ một người hiền lành, bình dị, Yến Lan đang trở thành một người muốn thúc đẩy một sức gì đang làm trì trệ cuộc sống của chúng ta…“. Cái thuyết “hiện đại” của Văn Cao là cái chủ nghĩa “tân thời” cho rằng càng phức tạp tức là càng tiến bộ. Không phải! Nghệ thuật tư sản hiện nay nhất định làm thơ không ai hiểu được, nó vẽ tranh trừu tượng chủ nghĩa, rất quái dị, và nó bảo rằng thời đại của kỹ nghệ, của kỹ thuật, của ra-đi-ô, vô tuyến truyền hình, của bom nguyên tử, thì văn nghệ phải như thế mới đúng điệu. Văn Cao cho rằng hễ là thành phố kỹ nghệ thì tâm trí con người và văn nghệ phải rắc rối theo; điều ấy chỉ đúng với thành phố kỹ nghệ tư bản chủ nghĩa, nơi tập trung những cái tà ác, những cái tan rữa, điên loạn của chế độ tư bản. Còn trong phe ta bây giờ, một nước còn ở trình độ chăn nuôi như Mông Cổ, nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, vẫn có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội mà không cần phải bước vào cái quằn quại giẫy chết của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế chúng ta phải tiến bộ lên công nghiệp hoá, kỹ nghệ hoá, nhưng tâm trí chúng ta lại tiến bộ theo một quá trình khác: những tầng lớp bên trên, bị văn hoá đế quốc lôi đi theo cái rắc rối, cái phức tạp đồi trụy của nó, cần phải giải độc, phải học lấy cái đơn giản vô cùng phong phú, cái lành mạnh vô cùng cao quý của của những con người xã hội chủ nghĩa. Cho nên Yến Lan “đi từ một vùng thủ công nghiệp đến một thành phố kỹ nghệ” chưa phải là việc đáng mừng, mà Yến Lan đi tới cái rắc rối, cong queo, nhọc mệt không có hồn của những bài thơ “Ngọn đèn ngoại ô“, “Hà Nội sang hè“, “Hàng Gai“, “Ga xép” (“Có lòng tôi quàng áo đỏ chầu kinh “), thì là một việc đáng lo, đáng giận. Thơ Yến Lan sau một cái ánh của kháng chiến dọi vào chưa mạnh lại rơi sâu hơn vào bóng tối, vào quá khứ, chính nó “đang làm trì trệ cuộc sống của chúng ta”, chứ Văn Cao đừng nói ngược bảo rằng nó “thúc đẩy”. Chính cái kiểu thơ, cái kiểu tư tưởng không có một chút hơi trong lành, mới mẻ của công nông binh thổi tới, như Yến Lan, là “đã nằm đọng lại giống như những vũng nước”, là “con sứa chết phơi trên bãi cát” mà Văn Cao muốn ám chỉ vào những người khác đấy!

Cái trắng trợn cao nhất của Văn Cao là đề cao bài thơ trắng trợn “Tĩnh vật“. Yến Lan niệm kinh trước những tranh tĩnh vật nào đó, ngồi chơi màu mà cố ý nói mê nói sảng, ca tụng tranh tĩnh vật với một “lập trường” hẳn hoi, mừng rằng chúng “đã chiếm hồn tôi như chiếm một đô thành − không cần đến thanh gươm viên đạn” , là để mà mắng nhiếc:

Bởi họ thiếu con tim khối óc Luôn động đậy nhưng chỉ là tĩnh vật

Văn Cao hoan hô những câu này trong bài tựa, thật là một đồng một cốt đắc ý cười ha hả với nhau! Đến đây thì họ đã đi xa quá! Họ mạt sát những người cộng sản, những người cán bộ theo luận điệu “Người khổng lồ không tim” của Nhân văn-Giai phẩm; họ có sáng tạo ngôn ngữ thật đấy, tìm được hình ảnh rất cay chua, nổi bật để nói một điều phản động. Hình ảnh càng xách mé, tư tưởng phản động càng phơi bày tính chất thù địch. Kinh Thánh bảo: “Khởi đầu tất cả là lời nói”; văn thơ làm bằng ngôn ngữ nên một số người nắm được một ít ngôn ngữ là họ tưởng nắm được tất cả rồi; bày ra được một vài cách khéo nói, cách lên dòng xuống dòng, xỏ xiên được thiên hạ, họ cho là họ đã làm được kỳ công, công kênh tán tụng lẫn nhau. Đó là một bọn hình thức chủ nghĩa đi vào đường chết của tư tưởng và của nghệ thuật. Chúng ta thì chúng ta bảo: “Khởi đầu tất cả là lao động”. Nhà văn trước tiên phải ôm lấy tư tưởng đúng, phải ôm lấy quần chúng vạn năng, phải ôm lấy Đảng vĩ đại, chứ nếu chỉ ôm lấy một mớ chữ, theo lối Văn Cao tán thưởng, thì chỉ là ôm lấy tro tàn thuốc lá hay cặn rượu mà thôi. Huống chi mớ chữ đó lại còn phản động, thì nhất định tiêu ma sự nghiệp.

Bài tựa Văn Cao giới thiệu “Những ngọn đèn” là một mẫu hàng khá tiêu biểu của chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ. Nhưng những câu văn viết lối thần chú không che đậy nổi cái vô nghĩa, cái phi chân lý, cái tà thuyết của tư tưởng Văn Cao. Dù khéo dán nhãn hiệu thế nào, thuốc độc vẫn là thuốc độc.

*

Văn Cao đã tự phân tích mình dưới thời Pháp Nhật thuộc: “bị ảnh hưởng những thứ nhân sinh quan nửa phát-xít, nửa đồi trụy thời bấy giờ, tôi muốn tìm lối siêu thoát trong nghệ thuật và trong đời sống bằng con đường của chủ nghĩa cá nhân anh hùng, phiêu lưu. Một mặt khác thì đi sâu vào nghệ thuật suy đồi”. Lớn lên trong những ngày cuối cùng của Pháp Nhật thuộc, Văn Cao bị đầu độc nặng nề, điều đó rất dễ hiểu. Cái đau đớn là Văn Cao lại coi những thuốc độc ấy là bản chất, là bản ngã, là “tâm hồn” của mình, cố hết sức bảo tồn nó, đưa nó vào ăn ở chung với tư tưởng của Đảng. Sự lộn sòng đó kéo dài. Đó là một sự mai phục, đến một khi gặp thời cơ thì nó lại hiển hiện ra, nảy nở đầy đủ hơn xưa và công phá mạnh mẽ hơn xưa. Nhưng sống dưới chế độ ta nên nó vẫn cứ phải khoác áo là tư tưởng của Đảng. Nó phải lá mặt lá trái. Đảng nắm chính quyền, nó muốn tiếp tục nhận những ân huệ của Đảng. Nhưng tư tưởng Đảng là ngoại lai với nó; nó chống phá từ bên trong chống phá ra: “Luôn trong mấy năm, tôi tự đẩy mình vào một hệ thống hoạt động chống đối liên tiếp trong văn nghệ, làm ngột ngạt sự sinh hoạt tư tưởng của chúng ta” [5] . Trước cuộc đấu tranh này, khi những tư tưởng xét lại chưa bị vạch trần, lá cờ nghệ thuật của Văn Cao đã có lúc chừng như phất cao lắm.

Và Văn Cao cũng đã không ngừng làm những bài thơ rất độc hại; “Những nét mặt” của Văn Cao (báo Văn số 93 ngày 20.12.1957) phải chăng là “những người của chúng ta − đang mờ mờ xuất hiện” mà Văn Cao mong đợi? Bao nhiêu con người cách mạng, kháng chiến mà vào trong thơ Văn Cao chỉ có những cái mặt tan rã, chập chờn như mặt nạ, Văn Cao hai lần hỏi:

Những người đi buổi ấy Bây giờ còn lại bao nhiêu?

Nghĩa là thế nào? Họ mỗi người một việc, đi có chỗ, về có nơi, trong bộ đội, vào nhà máy, ở công trường, tại nông thôn đổi mới; đến như các liệt sĩ, dù có chết, vẫn thơm mình Tổ quốc; thế mà Văn Cao kể:

… Những nét mặt gặp trong đêm tối Những ánh đuốc in nửa má nghiêng nghiêng Những cặp mắt nhìn lặng lẽ Những bàn tay che nửa mặt im lìm…

rồi lại hỏi một lần thứ ba, để kết luận:

Những người đi buổi ấy Còn lại bao nhiêu suy nghĩ những gì

Họ là những con người có Đảng lãnh đạo chứ có phải là mây đâu! Sở dĩ Văn Cao hỏi như người ngái ngủ vậy, là vì “chơi” mặt người như chơi những chất liệu màu sắc, hình dáng, chứ không thấy họ cụ thể ở trong xã hội.

Cuộc đấu tranh tư tưởng chống chủ nghĩa xét lại ở trong văn nghệ hiện nay cũng mới chỉ là một bước đầu. Chúng ta cần phân biệt cho rõ giả chân, không cho những thư tư tưởng nghệ thuật kiểu Văn Cao trá hình, tác quái!

Xuân Diệu 7/1958

[1]Trong bài thơ “Gửi những người mai sau“. Bài thơ này, và nhiều bài khác, đã bị nhóm Nhân văn-Giai phẩm dịch ra mà cố tình không chú thích thời gian, hoàn cảnh để dùng vào mục đích “biểu hiện hai mặt” trong tập thơ dịch Gửi người mai sau (nguyên chú của Xuân Diệu) [2]Xem “Tự kiểm thảo của nhạc sĩ Văn Cao“, báo Văn học số 3 (15/6/1958) (nguyên chú của Xuân Diệu) [3]”Những ngày báo hiệu mùa xuân” (trích tập thơ Cửa biển) đăng báo Nhân văn (nguyên chú của Xuân Diệu) [4]Xem bài “Thế nào là cái mới“, Văn nghệ số 4 (nguyên chú của Xuân Diệu) [5]”Tự kiểm thảo của nhạc sĩ Văn Cao“, Văn học số 3 (nguyên chú của Xuân Diệu)

Nguồn: Dao có mài mới sắc (tập bút ký, tiểu luận và phê bình của Xuân Diệu), Nxb. Văn học, Hà Nội, 1963, tr. 101-114. Bản điện tử do Lại Nguyên Ân cung cấp, đăng trên //www.talawas.org

@

Văn Cao: Một họa sĩ trọn vẹn và rộng rãi _____________________________ VĂN BẢY

Khi nói đến Văn Cao (15/11/1923 – 10/7/1995), đương nhiên âm nhạc phải ở vị trí đầu, kế đến là thi ca, và thi thoảng mới hội họa. Tuy vậy, nếu chỉ nhìn riêng ở khía cạnh hội họa thì vẫn có một Văn Cao họa sĩ, theo nghĩa trọn vẹn và rộng rãi của từ này.

Trên Wikipedia tiếng Việt, ở tiểu mục “Hội họa điêu khắc” có một câu ngắn về Văn Cao: “Rất nhiều họa phẩm giá trị, nghệ thuật độc đáo”. “Rất nhiều” cũng là ý kiến mà vài người có dịp gần gũi với Văn Cao xác nhận, nhưng cụ thể bao nhiêu tác phẩm thì họ không nhớ. Theo ước đoán, “rất nhiều” ở đây có thể lên đến con số 60 – 70 bức tranh, trên nhiều chất liệu. Đó là chưa tính mảng minh họa báo, ký họa và vẽ chân dung khổ nhỏ, Văn Cao có rất nhiều.

Lập thể từ hơn 70 năm trước?

“Về mỹ thuật, khi ở tuổi 20, ông đã có những sáng tác dự triển lãm Duy nhất năm 1943, với phong cách lập thể, được biết đến như một họa sĩ tiên phong với các tác phẩm: Cô gái dậy thì, Sám hối, Nửa đêm, Cuộc khiêu vũ. Những năm sau, ông tiếp tục sáng tác các tác phẩm sơn dầu mà đến nay người ta còn nhớ tới như: Thái Hà ấp đêm mưa, chất liệu bột màu, năm 1943, nghĩa là đã cách đây 70 năm” – họa sĩ Trần Khánh Chương (Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam) phát biểu tại lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh Văn Cao (1923 – 2013).

Nếu đúng Văn Cao vẽ lập thể thì quá đặc biệt và quá cấp tiến. Bởi cubism (chủ nghĩa lập thể) trong hội họa và điêu khắc do Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng từ năm 1906 tại Paris, Pháp, rồi làm việc cùng nhau cho đến năm 1914 để thành trường phái. Rất tiếc ngày nay ít hoặc không còn tác phẩm nào của Văn Cao ở triển lãm Duy nhất để xem chúng lập thể ở mức độ nào.

Xem lại một số hình chụp tại tư gia, trên tường có treo bức tranh khổ lớn (chỉ lộ một phần) mà Văn Cao vẽ năm 1985, cho thấy giai đoạn này ông đã dùng ý niệm mang hơi hướng chủ nghĩa tối giản (minimalism). Bức tranh trên khái quát chủ thể theo hai chiều, cho dù có gạch thêm nhiều nhát bút – nhiều chủ thể thì cũng không thể gọi là lập thể.

Một vài tác phẩm có hình trên mạng của Văn Cao cũng theo phong cách này. Trước ông có Tạ Tỵ và một vài người khác, sau ông thì có Nguyễn Thân, Lê Thiết Cương, Trịnh Công Sơn… cũng vẽ theo lối này. Tuy nhiên mỗi người ứng biến mỗi kiểu.

Tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam hiện còn một vài tác phẩm của Văn Cao như Cô gái và đàn dương cầm, Dân công miền núi, Chân dung bà Băng, Nhà văn Đặng Thai Mai… Ngoài ra, ông còn được nhớ đến bởi các tác phẩm như Cổng làng (năm 1944), Ngõ Nguyễn Du (sơn dầu, năm 1945)…

Chân dung nhà báo Phan Kim Thịnh (sơn mài trên ván, 39 x 30 cm) được Văn Cao vẽ tại Hà Nội ngày 1/5/1983. Từ cuối năm 2013, tác phẩm này thuộc sưu tập của Bảo tàng Đức Minh (TP.HCM).

“Thi trung hữu họa”

Với những ca khúc như Bến Xuân, Thiên thai, Suối mơ, Trương Chi, Trường ca sông Lô… người nghe có thể hình dung khá dễ về không gian hội họa. Với thơ thì hình dung về không gian này càng đậm nét hơn, những bài như Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Phố Phái… là ví dụ điển hình.

Trong luận văn có tên Chất hội họa trong thơ Văn Cao, cử nhân Đỗ Thu Hà khảo sát Tuyển tập thơ Văn Cao (59 bài thơ, NXB Văn học, 1994) đã cho thấy 28 bài có sử dụng đến từ chỉ màu sắc. Cụ thể về tần suất như sau: màu xanh (28 lần, tương đương 49,12%), trắng, đen (8), vàng (6), đỏ (4), chàm, hồng, hoàng lan (1).

Tất nhiên không phải lúc nào màu sắc cũng cùng tần số với thi ảnh hoặc i họa, nhưng phần nào cũng cho thấy sự quan tâm về thi họa của Văn Cao. Ở đây màu xanh cũng rất gần với tinh thần trong bài Mùa Xuân đầu tiên (1976) – một ca khúc được cho là “nhạc xanh” – của chính ông

VĂN BẢY

@ Nhà thơ Văn Cao: Tôi không được làm trái tim đầu mùa… ____________________________ P.K.

Sinh năm 1923, 18 tuổi có thơ đăng báo, song đúng như Văn Cao tự nhận, thơ ông không phải là “trái đầu mùa”. Khi Văn Cao nắn nót những dòng thơ đầu thì trào lưu Thơ Mới đang thập thững đi đến… hồi kết!…

Trong bài thơ “Sự sống thật”, Văn Cao từng viết:

Tôi không được làm trái đầu mùa Những trái cây cao giá

Sinh năm 1923, 18 tuổi có thơ đăng báo, song đúng như Văn Cao tự nhận, thơ ông không phải là “trái đầu mùa”. Khi Văn Cao nắn nót những dòng thơ đầu thì trào lưu Thơ Mới đang thập thững đi đến… hồi kết! Tình hình đất nước vốn đã ảm đạm lại có những diễn biến hết sức phức tạp. Phát xít Nhật đã vào Đông Dương, bóng mây của cuộc đại chiến đang lan rộng ra khắp địa cầu. Lòng người rối ren, bấn loạn, không mấy ai còn tâm trí để ý tới những vần thơ buồn vơ buồn vẩn “chẳng đâu vào đâu”.

Nhà văn Tô Hoài kể lại trong một cuốn hồi ký: Ông thường bắt gặp tên Văn Cao – không phải trên đầu những bài thơ đăng báo mà là ở mục… hộp thư. Thiên hạ không cần thơ, nói đúng hơn là không cần những loại thơ “hớt váng” Thơ Mới kiểu như của Văn Cao, Quang Dũng, Huyền Kiêu… thời ấy. Những câu: “Sông chầm chậm chảy trong mưa/ Nghe chừng cô gái đã thưa nhát chèo/ Mưa trong trăng tiếng nhỏ đều” (bài “Đêm mưa”) hoặc: “Mấy lá bàng rơi nhắc nhở thu/ Chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống/ Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa” (bài “Ai về Kinh Bắc”) của Văn Cao dẫu là những câu thuộc loại tinh tế, khơi gợi, song cũng chỉ đến với độc giả như một làn gió thoảng, không lưu lại trong họ một ấn tượng sâu đậm nào bởi trước đó, họ đã gặp những cảm giác ấy (mà lại đậm đà hơn) trong thơ Huy Cận, Hồ Dzếnh. Nói chung, nó chỉ lưu lại trong tác giả như một thứ kỷ niệm. Bài “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” cũng sẽ rơi vào tình cảnh tương tự nếu như ở hai khổ thơ đầu, tác giả không có cách gieo vần rất tạo thanh âm, nghe như có tiếng ghi ta bật bưng:

Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi Lòng nâng ngòn ngọt lại đầu môi Này em hát khúc tương tư nhé Ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời

Sao đàn u hoài gì mùa thu? Sao đàn u hoài gì mùa thu? Tri âm nghe thử dây đồng vọng Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru.

Một cách sử dụng thanh điệu thật tài tình. Hãy thử tưởng tượng, nếu khổ thơ đầu thiếu đi mấy từ láy như “nẩy nẩy”, “nhịp nhịp”, “ngòn ngọt”, “tương tư”, “nhẹ nhẹ”; khổ hai không lặp lại câu “Sao đàn u hoài gì mùa thu?”, và không kết thúc các chữ cuối của khổ thơ bằng thanh bằng, liệu hiệu quả của bài thơ có được như vậy? Rõ ràng, về hình ảnh, ngữ nghĩa, bài thơ không có gì nổi trội so với nhiều bài của các tác giả Thơ Mới khác, song về sử dụng thanh điệu, nó có nhiều điểm đáng nói và ghi dấu một nét duyên riêng trong những bài thơ thời kỳ đầu của Văn Cao. Sau này, ở bài “Huế xưa” (viết năm 1987), Văn Cao cũng có cách sử dụng thanh điệu khá kỳ công, khiến bài thơ ngân lên như một khúc nhạc buồn về một vệt mưa dài xứ Huế:

Về Huế xưa Đường phố mưa dài Về phố xưa Nhìn phố mưa buồn

Từng mặt gương đau Từng mảnh gương tan

Lòng phố lòng người Giọt người chia ly Giọt người yêu thương Giọt nào không vương Giọt người bơ vơ Giọt người theo mưa về phố…

Rất nhiều thanh bằng trong một bài thơ, để nói cái triền miên của gió mưa, cái vấn vương của lòng người… Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài, đủ cả cầm, kỳ, thi, họa. Có người nói, ca từ của ông rất giàu chất thơ. Lại có người nói, thơ ông giàu chất nhạc. Điều này đúng, nhưng theo tôi chỉ đúng với mấy bài thơ trích dẫn trên chứ không đúng với hầu hết các bài thơ còn lại của Văn Cao. Đọc thơ Văn Cao, ta ít gặp cái bay bổng du dương của một thứ “thơ hát” vốn dĩ tràn ngập thi đàn từ trước tới nay, mà chủ yếu thấy ở đó một giọng nói chậm rãi, thâm trầm của một người nhiều trải nghiệm và giàu suy tưởng. Nó như giọt sương đêm tí tách thẩm thấu vào mạch tư duy của người đọc, làm bừng lên trong họ một triết luận nào đó về lẽ sống, về kiếp nhân sinh…Thơ Văn Cao vì thế rất khác với phần lời (vốn dĩ được xem là “giàu chất thơ”) trong các ca khúc của ông. Và đó cũng chính là đóng góp độc đáo của ông vào sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.

Văn Cao từng viết trong bài “Mấy suy nghĩ về thơ” (in trên tập san Văn nghệ tháng 7 năm 1957): “Có người phải tìm con đường lớn mới thấy dấu xe mà có người tìm thấy dấu xe trong một hạt bụi. Đấy là điểm khác nhau giữa những nhà thơ. Sao Nghệ thuật không biết tìm ở đấy sự phong phú? Sao người làm thơ không biết tìm riêng lấy một cách thể hiện?”. Ý kiến này, đành rằng các nhà thơ cổ kim đông tây đã nói nhiều, song việc Văn Cao nêu lại ở thời điểm bấy giờ vẫn cứ là cần thiết, nhất là khi xu thế văn học phản ánh hiện thực một cách máy móc, thô thiển đang có cơ ngự trị văn đàn. Có những hiện thực không phải cứ là “đi thực tế” mới thấy. Cái quan trọng là cách khai thác hiện thực của mỗi tác giả. Ấy là chưa nói tới những dự cảm mang tính tiên báo, một điều rất “nhạy” ở Văn Cao (từng thể hiện cả trong nhạc và trong thơ của ông).

“Con thuyền đi qua/ để lại sóng/ đoàn tàu đi qua/ để lại tiếng/ đoàn người đi qua/ để lại bóng/ tôi không đi qua tôi/ để lại gì?” – Văn Cao từng đau đớn đặt câu hỏi với chính mình. Và rồi – một cách không dễ dàng – ông đã “đi qua” ông và để lại cho đời những cảm nhận tinh tế, những triết luận sâu sắc, mang đậm dấu ấn Văn Cao.

Những bó hoa mang tới chúc tụng Thành công một con người Hàng ngày hàng ngày Xây thành cái mồ chôn Con người thành công ấy Người ta đôi khi bị giết bằng những bó hoa (bài “Những bó hoa”).

Đúng là ở đời, có những người đã bị vinh quang ru ngủ và đã “chết” ngay sau thành công đầu tiên, “chết” bởi chính những bó hoa chúc tụng kia. Nhà văn Phan Thị Vàng Anh từng kể rằng, sinh thời, cha chị – nhà thơ Chế Lan Viên – rất sợ bị mất thời gian bởi những cuộc thù tạc. Và ông luôn nhìn những quán cà phê “như nhìn những nấm mồ chôn thì giờ!”. Tất nhiên, không phải ai cũng như Văn Cao, như Chế Lan Viên để mà ý thức được điều này.

Có lúc Một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ

Có lúc ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt (bài “Có lúc”).

Hồ Chí Minh từng viết trong “Thế lộ nan” (Đường đời hiểm trở): “Núi cao gặp hổ mà vô sự/ Đường phẳng gặp người, bị tống lao”. Ấy là cách đối sánh hình ảnh, sự việc mà một nhà chính trị, một nhà hoạt động xã hội gặp phải để cho thấy cái bất công của chính quyền Tưởng Giới Thạch trong cách xử sự với đồng loại. Văn Cao trước nhất là một nghệ sĩ. Qua bài thơ trên, ông muốn cảnh tỉnh chính mình: Con người một khi đã để nhụt ý chí, để mất phương hướng thì rất dễ rơi vào trạng thái cô đơn, hoảng hốt, sợ cả những cái hết sức thường tình. Tất nhiên, không chỉ cảnh tỉnh chính mình, bài thơ còn là một lời nhắn gửi tới những ai đó, rằng trong việc xử sự với các văn nghệ sĩ, đừng bao giờ đẩy họ “có lúc” phải rơi vào trạng huống như vậy… Làm sao để giấc ngủ của họ mãi mãi trọn vẹn một giấc mơ đẹp: “Dưới mái nhà/ Một người đang ngủ/ Với giấc mơ của những vì sao/ Những vì sao đang kể chuyện/ Giấc mơ của mái nhà/ Giấc mơ của một người đang ngủ” (bài “Giấc mơ”).

Nhà thơ Thanh Thảo quả là có lý khi nhận xét rằng: “Trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, thơ ông không chỉ là chỗ dựa cho ông, mà còn là chỗ dựa cho rất nhiều người”, khiến những người này “chợt bình tâm trước những thử thách” (bài “Văn Cao vẫn đồng hành với chúng ta”, sách “Mãi mãi là bí mật”, NXB Lao động, 2004).

Như trên đã nói, Văn Cao là một người có tài cầm, kỳ, thi, họa. Trong thơ ông, nếu như phần “nhạc” không thật được ông chú trọng (ông chú ý tới “nhịp thơ” hơn là “nhạc thơ”) thì phần “họa” lại có những tác động đáng kể. Có thể thấy, thơ Văn Cao rất nhiều nét đẹp tượng hình:

Từ trời xanh rơi vài giọt tháp Chàm

(bài “Quy Nhơn 3”)

biển đưa về vài chùm chim yến nắng làm khô những trái dừa non

(bài “Quy Nhơn 2”).

Đó là những câu tả cảnh. Còn đây, tả người, trước nhất là tả vẻ đẹp gương mặt phụ nữ:

Những ngày đau khổ ấy Khuôn mặt em Như mảnh trăng những đêm rừng cháy

Thứ đến là vẻ đẹp của vóc dáng họ:

Trên đường đi Anh đặt em bên dốc núi Để tìm lại những đường mềm của núi

(bài “Khuôn mặt em”).

Lột tả cái xấu của ngoại hình để nói cái xấu của nhân tâm, Văn Cao cũng có những câu sắc lẹm: “Tôi đã gặp lại anh/ Im lìm như một bức ảnh/ Người anh dẹt như một con dao/ Gây nhiều vết thương cho bạn hữu“. Mặc dù “Anh mang trong tôi nhiều bộ mặt” tưởng không dễ phán đoán “Đâu là cái cuối cùng”, nhưng với tác giả, ông nhận ra bộ mặt thật của con người này qua một chi tiết: “Chỉ còn hai con mắt/ Trắng dã không thể dối lừa” (bài “Về một người”). Những câu thơ của Văn Cao bất giác làm tôi nhớ tới một ý thơ của Bertolt Brecht: “Làm kẻ ác thật là vất vả”. Đúng vậy, làm kẻ ác thật là vất vả, nhất là trong xã hội của chúng ta, bởi muốn tác oai tác quái hại người, họ phải… đeo mặt nạ.

Cách đây ngót hai chục năm, trong lời bình bài thơ “Sự sống thật” của Văn Cao (in trên Báo Người Hà Nội số ra ngày 20/9/1992), tôi đã có đoạn kết như sau: “Thơ ông có bài mang cái hay của “thơ họa”, có bài là “thơ nhạc”. Còn bài này thì đúng thực là “thơ thơ”. Bởi cái lối tư duy hình tượng kiểu ấy, vốn là khả năng rõ rệt nhất thường thấy – ở các thi sĩ”. Đến nay, với thơ Văn Cao, tôi vẫn giữ nguyên cách nhìn nhận như vậy. Và tôi cho rằng, không chỉ thể hiện ở “Sự sống thật”, lối tư duy hình tượng độc đáo của Văn Cao còn được bộc lộ ở nhiều bài thơ khác, qua những liên tưởng rất tạo sự ám ảnh:

Thời gian qua kẽ tay Làm khô những chiếc lá Kỷ niệm trong tôi Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn

(bài “Thời gian”)

Mắt anh và mắt tôi Một lớp tro đang dòng dòng kéo sợi Như tơ nhện trong không gian đầy nước Phủ các đồ vật cũ Phủ lên cả chúng ta

(bài “Đôi bạn”, viết tặng Nguyễn Tuân).

Chính khả năng liên tưởng mạnh đã giúp thơ Văn Cao trở nên kiệm lời hơn (bởi có những liên tưởng tự thân nó đã thay lời dẫn chuyện, tự thân đã tạo nên cấu tứ cho bài thơ). Thơ Văn Cao vì thế cũng hàm súc hơn, cô đọng hơn.

Không có cái cuốn hút đến độ “nhập đồng” của giai điệu. Cũng không có cái mỡ màng của chữ nghĩa non tươi, thơ Văn Cao thoạt cho ta cảm giác như một thứ hạt giống khô được cất giữ kỳ công nhưng lại có khả năng làm nảy nở trong tâm trí người đọc những hạt tư duy lung linh màu sắc…

P.K.

@ Nhạc sĩ Văn Cao – Từ khúc tình đắm đuối đến khí thiêng sông núi __________________________________ PHAN THẾ CẢI

Nhắc đến Văn Cao là nhắc đến một nghệ sĩ tài hoa trên cả 3 lĩnh vực: thơ, nhạc, họa. Riêng về âm nhạc, Văn Cao đã được hàng triệu người dân Việt Nam biết đến với bài Tiến quân ca (Quốc ca). Tài năng âm nhạc Văn Cao nảy nở sớm và cho đến những năm cuối đời, ông vẫn không ngừng sáng tạo những tác phẩm đi cùng năm tháng.

Thiên Thai và Trương Chi là 2 ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Văn Cao từ nửa thế kỷ trước. Dòng chảy của âm nhạc êm như mái chèo lướt sóng trên dòng sông xanh được dựa trên 2 cốt truyện văn học dân gian. Thiên Thai kể về việc Lưu Nguyễn lạc vào “cõi bồng lai”; Trương Chi nhắc tới thân phận tủi buồn, cô liêu của chàng ngư dân có tiếng hát hay nhưng tình yêu không tới bến.

Thiên Thai mở ra êm lướt như cánh én mùa xuân: Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng… Thiên Thai là gì? Là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi. Âm thanh, màu sắc tiên cảnh, ấy là chất bột tinh túy nhất để nghệ sĩ tài hoa Văn Cao nhào nặn nên âm hưởng nghệ thuật sâu lắng…

Trương Chi tái hiện nét chấm phá của người họa sĩ Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ, rồi dẫn dắt con người đến với một thế giới mơ hồ với giai điệu không gian mới rung thành tơ. Cứ tịnh tiến như vậy, con người được đưa tới vẻ đẹp thẩm mỹ, ôi tiếng cầm ca thu tới bao giờ. Tương quan giữa tiếng cầm ca và thu tới bao giờ đó là mối quan hệ biện chứng giữa thẩm mỹ của âm nhạc với thực tại đã tạo dựng sức sáng tạo đến tột đỉnh cái đẹp bức tranh của đất trời.

Những tình khúc đầu mùa của Văn Cao là Thu cô liêu, Buồn tàn thu (1939), Cung đàn xưa, Bến xuân (1942), Suối mơ (1943) đã ghi lại những thành công trong thời kỳ “phôi thai” của nhạc mới, những năm 40 của thế kỷ XX và bây giờ vẫn còn nhiều người yêu thích.

Văn Cao là một người có tầm tư tưởng lớn, cũng là người nhạy cảm với thời đại, thở hơi thở của thời đại một cách hào sảng trong âm nhạc. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, cờ đỏ sao vàng bừng sáng khắp non sông, rồi toàn quốc kháng chiến. Những bài hát Mùa xuân về, Giữa chiến hào xa... rạo rực, phơi phới với 2 mối tình lớn: đất nước và người yêu. Xuân kháng chiến cũng là “Xuân trăng mật”. Bài hát Làng tôi là hồn cốt quê hương, đằng sau sự đằm thắm, giản dị giữa tình quân dân là sức sống bất diệt của một dân tộc, là cuộc sống thanh bình mà ai cũng ước mơ.

Làng tôi là tình khúc thiết tha, dịu mát. Trăng mật của lứa đôi tỏa sáng lung linh vào quê hương yêu dấu:

Làng tôi xanh bóng tre

Từng tiếng chuông ban chiều

Tiếng chuông nhà thờ rung

Đời đang vui đồng quê yêu dấu

Bóng cau với con thuyền, một dòng sông.

Tuy là một ca khúc chiến đấu, Làng tôi theo đoàn quân du kích… nhưng âm hưởng lưu lại như hương lúa mùa gặt, lung linh như ánh mắt thôn nữ, có lúc rộn lên với Ngày mùa náo nức, dồn dập: Ngày mùa vui thôn trang, lúa reo như hát mừng.

Với hình tượng lý tưởng súng tì tay anh đứng, em ngừng liềm trông sang, đưa chúng ta tới miền ký ức những gian lao của những năm chống Pháp.

Với Trường ca Sông Lô, Văn Cao bằng năng lượng dồi dào của người nghệ sĩ đã thâm nhập được từ những hy sinh, gian khổ và quyết liệt của cả dân tộc trong kháng chiến. Ông đã tạo nên một âm thanh đa sắc mà hùng tráng, tự tin đến thắng lợi huy hoàng:

Sông Lô sóng ngàn, Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u

Thu ru bến sóng vàng

Từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu.

Những nét đạm thanh ẩn hiện trên nền màu mờ nhạt, khi nhịp điệu câu ca loang dần ra xa; những hình ảnh liên tục tạo ra không gian mênh mông, huyền ảo và lặng lẽ tưởng như tẻ nhạt và trống vắng, bỗng bừng lên ánh sáng ngọn lửa.

Sông Lô sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa. Âm hưởng mênh mông, ánh sáng ngày mới ấy đã lay thức ý chí con người. Bài hát như chiếu ánh sáng cách mạng vào tâm hồn mỗi con người.

Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô,

để rồi cả Tổ quốc bỗng chan hòa âm thanh, bao la, rộn rã của tiếng sóng réo vi vu… gió lá vi vu:

Sông mênh mông như bát ngát hát

Bao rừng thu như bát ngát cười

Văn Cao vẫn bám vào hiện thực, trong chiến thắng hân hoan, ông nghĩ ngay đến đời sống thường nhật của người dân buông lưới. Phan Lương vui bóng chuyền, lều dựng lên ven sông. Phút vẻ vang, phút hùng tráng không phải là nội tâm của tác giả nữa mà nội tâm của hàng triệu con người.

Dòng sông Lô trôi

Mùa Xuân tới

Nước băng qua ngàn

Nước in ven bờ xanh ôm bóng tre

Trường ca Sông Lô được xem như là đỉnh cao trong sự nghiệp Văn Cao. Ông đã vượt lên khỏi những tiết tấu đơn giản của ca khúc, đi tới một hợp tấu dài hơi, với nhiều tầng lớp, nhịp độ khác nhau, lôi cuốn chúng ta theo điệu nhạc, lời thơ, màu sắc, như một dòng sông lớn.

Dường như dòng thác cách mạng đã giục giã trái tim người nhạc sĩ này nhanh chóng Tiến về Hà Nội:

Năm cửa ô đón mừng đoàn quân trở về

Như đài hoa đón mừng

Nở năm cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh

Ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu

Những bông hoa ngày mai

Đón tương lai vào tay.

Giọng ca đã khác với bóng xưa ngàn năm, hồ phai khi tàn mơ. Nhưng vẫn sắt đá một niềm tin, Ơi! Thăng Long ngày mai, xây đắp dưới vinh quang bằng chí anh hùng.

Nhắc tới Văn Cao, mỗi công dân Việt Nam từ trẻ tới già không thể không nhớ bài Quốc ca mà nguyên mẫu là bài Tiến quân ca: “Đoàn quân Việt Nam đi. Chung lòng cứu quốc, bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…”. Trong hồi ký của ông, nhạc sĩ cũng không ngờ rằng, bài hát này lại linh thiêng tới vậy, lại được Bác Hồ chọn làm Quốc ca. Bài hát ấy khi cất lên khiến ông trào nước mắt và ông đã tâm sự: “Lúc đó, tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát, tôi chưa biết chiến khu. Tôi chưa được gặp các chiến sĩ của chúng ta trong khóa quân chính đầu tiên ấy như thế nào. Tôi đang nghĩ, viết một bài hát thật giản dị cho họ có thể hát được. Thế rồi, giai điệu Tiến quân ca bật lên”.

Từ nhận xét này, chúng ta có thể nới rộng tầm nhìn vào tác phẩm Văn Cao, về nhạc, họa cũng như thơ. Một kho tàng trí tuệ phong phú, đa dạng mà lúc nào cũng đặc sắc, chung thủy với một phong cách riêng. Gắn bó với thời đại, Văn Cao thường gắn nỗi đau của mình với nỗi đau nhân thế, vỡ òa niềm vui của mình với niềm vui bất tận của dân tộc.

Bình thường, Văn Cao là ông già giản dị với “Tuổi già tóc bạc cái râu bạc”, có khi rất trầm tư bên chén rượu nồng. Nhưng đằng sau sự lặng im ấy là Văn Cao của thơ, nhạc, họa, cuồn cuộn trào dâng như con sóng của đại dương vỗ bờ. Khó có thể gọi âm nhạc Văn Cao là lửa hay là hoa, là trăng hay hương đồng thơm ngát của quê hương? Chỉ biết rằng, sự nghiệp và di sản của ông neo đậu mãi cùng hậu thế.

Phan Thế Cải

@ Đôi dòng suy nghĩ khi đọc bài thơ “Những Bó Hoa” của Văn Cao ________________________________

Vũ Chí Thành, S.J.

Cảm giác được tán dương thật dễ chịu. Thế nên tâm lý con người không ai lại không thích được khen ngợi. Tuy nhiên, có phải lúc nào lời chúc tụng cũng là những bó hoa tươi thắm và vô hại? Nhà thơ Văn Cao gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ khi ông thể hiện sự ý thức của mình về những tác động không tốt của lời khen qua bài thơ “Những Bó Hoa.”

“Những bó hoa mang tới

Chúc tụng

Thành công một con người

Hàng ngày hàng ngày

Xây thành cái mồ chôn

Con người thành công ấy

Người ta đôi khi bị giết

Bằng những bó hoa”

Trong đời sống thường nhật, những bó hoa có tác dụng là một quà tặng nói lên tâm tư, tình cảm của người trao dành cho người nhận hoa. Trong bài thơ trên, Văn Cao mượn hình ảnh những bó hoa để nói đến những lời khen ngợi dành cho “thành công một con người.” Những bó hoa ấy mỗi ngày được trao tặng một cách đều đặn, thường xuyên, “hàng ngày hàng ngày.” Tuy nhiên, tác giả cũng đề cập rằng những bó hoa hay lời khen ấy cũng có thể là tác nhân gây nên cái “chết” của người thành công đó. Cái chết ở đây không hẳn là cái chết về mặt thể lý, nhưng hơn hết, nó mang ý nghĩa của sự suy tàn, sụp đổ.

Theo thói quen ở đời, người ta thích được khen ngợi vì những tác động tích cực mà lời khen có thể mang lại. Khi ta khen một người tức là ta đã động viên, khích lệ người ấy. Đó hẳn là “Những bó hoa mang tới chúc tụng thành công một con người.” Lời khen ấy biểu lộ sự đồng tình, ca ngợi. Không phải ai cũng có đủ can đảm để khen ngợi người khác vì khi ấy, họ phải bỏ đi cái tôi của mình để thừa nhận thành công của người khác.

Mặc dù lời khen có những giá trị tích cực như vừa nêu, “những bó hoa” ấy lại thể hiện tác động không mong muốn khi bị lạm dụng. Tuân Tử có nói: “người khen ta mà khen phải là bạn ta, người nịnh bợ là kẻ thù của ta.” Câu nói ấy ám chỉ rằng nếu ta lặp lại thường xuyên những lời khen ngợi mà không có chủ ý tốt thì ta đang nịnh bợ hơn là khen tặng. Đó là sự thổi phồng thực tế để mưu cầu lợi tư, làm vừa lòng người khác. Bên cạnh đó, chính người được khen cũng chịu ảnh hưởng xấu từ việc khen ngợi không đúng mực của người khác. Nếu “những bó hoa” lời khen “hàng ngày hàng ngày” được sử dụng bất chấp thực tế không tương xứng thì chúng sẽ ru ngủ người nhận trên những thành công nhất thời của họ. Thực vậy, người bị nịnh hót dễ có cám dỗ ảo tưởng về bản thân, tưởng mình là tài giỏi nhất. Nếu để mình bị cuốn vào tư duy quy kỷ ấy, người tiếp nhận lời khen thái quá sẽ lầm đường, thôi nỗ lực phấn đấu, sinh ra kiêu căng ngạo mạn. Đương nhiên, kết quả là người ấy sẽ nhanh chạy đến với sự thất bại, cô đơn, lạc lõng. Như vậy là họ “bị giết chết,” bị “bị xây mồ chôn” bởi chính “những bó hoa” không chân thành được dâng tặng “hàng ngày hàng ngày” kia.

Bên cạnh đó, ta cũng cần suy xét rằng lời khen tác động tích cực hay tiêu cực cho ta thế nào thì chúng cũng có tác động tương tự trên người khác. Vậy nên trong cuộc sống, ta cần giữ chừng mực trong lời nói, tránh dễ dãi đưa ra lời khen tặng kẻo gây ra điều không mong muốn cho mình và người xung quanh.

Việc khen ngợi là để nâng đỡ người khác, nhóm lên tia sáng trong họ khi họ gặp khó khăn, hay khích lệ họ khi họ đạt được thành công. Lời khen ngợi còn nhờ đó mà giúp thắt chặt những mối quan hệ. Tuy nhiên, nếu khen không đúng cách sẽ gây nên những hệ quả tiêu cực cho cả người trao lẫn người tiếp nhận chúng. Cho nên, như Mạnh Tử có nói “danh dự vượt quá thực tình là điều quân tử lấy làm hổ thẹn” thì ta cũng cần suy xét về chính mình và về lời khen để đưa ra thái độ sống tích cực, tránh được việc bị ru ngủ bởi những lời khen thái quá cho bản thân và cho cả người khác. Đây cũng là điều nhà thơ Văn Cao gửi gắm trong bài “Những Bó Hoa,” điều mà mỗi người trong chúng ta cần ý thức mỗi ngày.

Vũ Chí Thành, S.J.

@

THỜI GIAN: MỘT TRIẾT LÝ NHÂN SINH . ____________________________ __ CAO THỊ HỒNG

Thời gian

Thời gian qua kẽ tay Làm khô những chiếc lá Kỷ niệm trong tôi Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn Riêng những câu thơ còn xanh Riêng những bài hát còn xanh Và đôi mắt em như hai giếng nước

(Văn Cao)

Bài thơ Thời gian ra đời vào mùa xuân năm 1987. Lúc này nhạc sĩ / thi sĩ Văn Cao đã để lại phía sau cuộc đời mình với biết bao trải nghiệm vui buồn… Dù chỉ có 7 câu, 12 dòng, 42 chữ, nhưng chất triết luận cùng những thông điệp mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc của bài thơ đã lắng lại trong tâm hồn người đọc, gợi nhiều suy ngẫm về con người và cuộc sống, mặc cho dòng thời gian trôi chảy không ngừng.

Mở đầu bài thơ ta bắt gặp một hình ảnh được “lạ hóa”: Thời gian qua kẽ tay – hình ảnh thơ gợi liên tưởng đến sự tương phản giữa cái hữu hình và vô hình, cái hữu hạn và vô hạn. Như một tất yếu, sự hiện hữu của thời gian trong cuộc đời mỗi người là hữu hạn, bởi thời gian ấy so với cái “vô thủy vô chung” của vũ trụ thì hư ảo, mong manh, ngắn ngủi vô cùng! Chính vì vậy, thi nhân tự bao đời đã ngậm ngùi xa xót trước bước đi của thời gian và sự vô nghĩa của phận người… nên Nguyễn Gia Thiều đã cảm nhận đầy chua chát trong Cung oán ngâm khúc nổi tiếng của ông :

“Trăm năm nào có gì đâ Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”

Như một quy luật hiện sinh, thời gian qua đi là miên viễn không bao giờ trở lại. Sự nghiệt ngã ấy chính là bi kịch của phận người, con người không thể nào nắm giữ, níu kéo được được thời gian. Triết gia Heraclite đã xác quyết: “không ai có thể tắm hai lần trên cùng dòng sông”, cuộc đời mỗi người không thể sống hai lần…Mỗi bước đi, thời gian luôn làm biến đổi từng sát na hiện hữu, sức tàn phá của thời gian là khôn lường:

Làm khô những chiếc lá Kỷ niệm trong tôi Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn

Những chiếc lá xanh rồi cũng tàn tạ theo thời gian. Những được mất trong cuộc đời rồi cũng nhạt nhòa theo năm tháng. Có chăng, cái còn lại trong cuộc đời này là giọt giọt những kết tinh kỷ niệm…những kỷ niệm – như hạt ngọc quý giá ngày càng lắng sâu trong tâm thức khi con người ngày càng chạm đến cõi vĩnh hằng. Và những kỷ niệm ấy rồi sẽ theo con người lìa xa cõi sống để sang phía bên kia miền miên viễn…mọi ái, ố, hỉ, nộ rồi cũng sẽ tan biến theo dòng chảy của thời gian… Bài thơ, vì thế, đã thức nhận cho chúng ta cái ý nghĩa nhân sinh tưởng như bình thường mà không phải ai cũng nhận biết được khi con người luôn đắm chìm trong quá nhiều tham vọng của cuộc sống…Ý niệm về thời gian trong bài thơ của Văn Cao, vì thế mang tư tưởng hiện sinh tích cực. Thông điệp toát lên từ hình tượng nghệ thuật của bài thơ mang giá trị nhân văn sâu sắc: khi nhận thức được qui luật nghiệt ngã của thời gian con người phải biết trân quý sự hiện hữu của mình. Chúng ta phải làm thế nào để mỗi phút giây hiện hữu của đời người là mỗi phút giây sống chứ không phải là tồn tại!? Câu hỏi đầy tính chất tự vấn này sẽ không bao giờ là điều xưa cũ trong tâm thức hiện sinh của nhân loại trên con đường khám phá những giá trị vĩnh hằng để vượt qua sự khắc nghiệt của thời gian. Vậy những giá trị vĩnh hằng chỉ có thể là gì? Văn Cao – người nghệ sĩ đích thực, với cảm thức tinh tế trên từng bước đi của thời gian đã khẳng định một hệ giá trị mà ở đó sự tàn phá của thời gian cũng không thể làm mất đi phẩm tính của nó. Đó là:

Riêng những câu thơ còn xanh Riêng những bài hát còn xanh Và đôi mắt em như hai giếng nước

Trong dòng chảy nghiệt ngã của thời gian, mọi sự vật, hiện tượng có thể lụi tàn và tan biến vào hư không. Nhưng có những giá trị không thể mất mà mãi mãi “còn xanh”, đó là những giá trị thuộc về nghệ thuật và cái đẹp được kết tinh từ những câu thơ, những bài hát và đặc biệt là từ đôi mắt em. Âm hưởng bài thơ chuyển đổi bất ngờ: từ trầm buồn, u uẩn sang thanh thoát, thổn thức, mơ màng; hình ảnh thơ mang ý nghĩa biểu tượng cao. Từ “riêng” được lặp đi lặp lại vừa như muốn minh định, vừa như muốn xác quyết một chân lý muôn đời không thể phủ định: Nghệ thuật và Tình yêu luôn khác biệt và luôn vượt lên mọi thứ tầm thường, tự thân nó luôn mang một sức mạnh trường tồn, vĩnh cửu bởi nó là hiện thân của cái Đẹp. Điều này quả đúng như Cyprian Norwid đã nói: “Thế giới này rốt cuộc chỉ còn lại hai thứ, chỉ hai thứ thôi: Thi ca và lòng nhân ái… không còn gì khác”…Câu kết của bài thơ để lại một dư âm da diết nhưng không bi lụy: Và đôi mắt em / như hai giếng nước… Đôi mắt em phải chăng là nơi Tình yêu bắt đầu và cũng là nơi Tình yêu mãi mãi lên ngôi…!

Thời gian dẫu vẫn trôi “qua kẽ tay” nhưng bài thơ Thời gian của cố nhạc sĩ / thi sĩ Văn Cao vẫn nguyên xanh trong lòng bạn đọc. Độ nén, sự giản dị, hàm súc của câu chữ trong bài thơ cho thấy sự tài hoa và tinh tế của một thi sĩ tài năng. Vì vậy, tôi tin, những thông điệp nhân văn vang lên từ bài thơ vẫn luôn vẫy gọi các thế hệ bạn đọc tri âm, đồng sáng tạo cùng tác giả. Và đây cũng là một hệ giá trị để bài thơ vượt lên qui luật khắc nghiệt của thời gian, mãi mãi tồn sinh như sự vĩnh hằng của Nghệ Thuật – Tình Yêu và Cái Đẹp….

Xóm Bến, mùa đông 2014 CAO THỊ HỒNG

@ BÀI THƠ VỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT CỦA VĂN CAO ________________________________ Nguyễn Trọng Tạo

Bảo tàng lịch sử quốc gia VN vừa trưng bày triển lãm về “Cải cách ruộng đất 1946-1956”, để chứng minh là cuộc cải cách đúng đắn vì “dân cày có ruộng”. Bây giờ hàng triệu dân cày đâu còn ruộng nữa, thì sao? Thật trớ trêu cho câu chuyện đang cố vùi đi, lại bới lên như một niềm tự hào? Bảo tàng lịch sử quốc gia VN vừa trưng bày triển lãm về “Cải cách ruộng đất 1946-1956”, để chứng minh là cuộc cải cách đúng đắn vì “dân cày có ruộng”. Bây giờ hàng triệu dân cày đâu còn ruộng nữa, thì sao? Thật trớ trêu cho câu chuyện đang cố vùi đi, lại bới lên như một niềm tự hào? Tôi đã được Nhà thơ-Nhạc sĩ Văn Cao cho công bố bài thơ về Cải cách ruộng đất của ông, “Đồng chí của tôi”, như một bi kịch mà ông giữ mãi trong sổ tay cho đến khi từ biệt cõi đời… Giữa quá nhiều bất trắc cuộc đời, tiếng thơ Văn Cao chẳng bao giờ đổi giọng. Chữ nghĩa của ông như được viết ra từ ngòi bút kim cương chứ không phải bút lông bút sắt. Và khi tiến hành chọn bản thảo tập thơ Lá, Văn Cao rất vui lòng ủy thác cho Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo và tôi tuyển chọn. Hầu như ông hoàn toàn yên tâm về việc đó. Ông nói: “Ba thằng mày bảo được là được!”. Dù là trong thời kì “đổi mới” rất mạnh mẽ, chúng tôi vẫn thấy ông có một bài thơ mà nhà xuất bản khó lòng chấp nhận, đấy là bài Đồng chí của tôi viết năm cải cách ruộng đất (1956). Bài thơ tràn đầy lòng tin vào chủ nghĩa xã hội mà cảnh tỉnh những sai lầm của hiện tại, nó là tiếng lòng thống thiết của người cộng sản bị xử bắn oan gửi tới các đồng chí của mình. Không trung thực với Đảng, không có lòng can đảm của một đảng viên, không chan chứa một trái tim nhân đạo… không thể viết được một bài thơ rớm máu như thế. Nhưng 30 năm và hơn thế nữa, nó vẫn chỉ là bài thơ của riêng ông. Chúng tôi biết điều đó, và đề nghị ông “để lại”, ông đồng ý ngay. Đầu năm 1995, tôi nhắc lại với ông bài thơ ấy, và thấy đã đến “thời” bài thơ có thể in được rồi, nhưng ông nói sau khi nhấp một ngụm rượu: “Thôi, cứ để sau khi mình chết rồi in cũng chưa muộn”. Ngày ông qua đời, tôi bỗng mở sổ tay xem lại bài thơ ấy, và tôi đã khóc.

Nguyễn Trọng Tạo

*

ĐỒNG CHÍ CỦA TÔI

Người ta các đồng chí của tôi Treo tôi lên một cái cây Đợi một loạt đạn nổ Tôi sẽ dẫy như một con nai con Ở đầu sợi dây Giống như một nữ đồng chí Một anh hùng của Hà Tĩnh Tôi sẽ phải kêu lên Như mọi chiến sĩ bị địch bắn Đảng Lao động Việt Nam muôn năm Cho mọi người hiểu khi tôi chết Vẫn còn là một đảng viên Cho mọi người hiểu khi tôi chết Máu của tôi vẫn còn là máu của Việt Nam

Ở dưới gốc cây có các cụ già các bà mẹ đã nuôi cách mạng Các em nhỏ từ ba tuổi đứng nhìn tôi dẫy chết Có mẹ tôi Ba lần mang cơm đến nhà tù Hãy quay mặt đi Cho các đồng chí bắn tôi

Tôi sợ các cụ già không sống được Bao năm nữa Để nhìn thấy xã hội chủ nghĩa Của chúng ta. Chết đi mang theo hình đứa con Bị bắn

Tôi sợ các em còn nhỏ quá Sẽ nhớ đến bao giờ Đến bao giờ các em hết nhớ Hình ảnh tôi bị treo trên cây Bị bắn

Hãy quay mặt đi Cho các đồng chí bắn tôi… Nước mắt lúc này vì Đảng nhỏ xuống Dòng máu lúc này vì Đảng nhỏ xuống Đảng Lao động Việt Nam muôn năm Đảng Lao động…

Văn Cao (1956)

@ trăng vàng vỡ nửa hay là chất bi tráng ở Văn Cao ________________________________ VƯƠNG TRÍ NHÀN

Văn Cao là một tài năng đa dạng. Không chỉ viết nhạc, vẽ tranh, sáng tác kịch, mà ông còn làm thơ. Và nếu như có một tuyển tập thơ Việt Nam sau Thơ mới, ghi nhận những tìm tòi mang tính cách thi pháp của thơ Việt Nam sau cái model chuẩn, mode tối ưu một thời là Thơ mới, thì bên cạnh những Trần Mai Ninh, Nguyễn Đình Thi, Trần Dần, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng…, người ta phải dành một vị trí cho Văn Cao, với những tìm tòi đã trở nên thuần thực trong Những người trên cửa biển (1956) hoặc trong chừng mực nào đó, không chín bằng, nhưng vẫn khá độc đáo, trường hợp tập Lá về sau.

Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu, Văn Cao đã đi tới ngay được những thành tựu xuất sắc đó. Trước khi làm cái hành động về mặt thi pháp tạm gọi là phá cách, ông cũng có những bước xuất phát như mọi người.

Bài thơ Anh hùng ca, in trên Tiểu thuyết thứ bảy số ra 3-10-1942 (số 433) minh chứng cho điều đó.

Hoài Thanh từng viết trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941: giữa lúc thơ Pháp đang gây ảnh hưởng rộng rãi thì một số nhà thơ trong phong trào Thơ mới lại quay về với thơ Đường. Ngoài Quách Tấn, Đông Hồ, Thái Can, và trong chừng mực nào đó, cả Huy Cận nữa…, phải lưu ý riêng hai trường hợp Trần Huyền Trân và Thâm Tâm. Đây là thơ Trần Huyền Trân trong bài Hết cố nhân:

Ta trở về đây không gối chăn Một mình ly rượu rét căm căm Không là lính thú sầu lên ải Cũng thấy lòng chia dưới cát lầm

Và bài Phạm Ngũ Lão: Mặt trận đêm nay mừng đắc thắng Rượu nồng sôi máu đỏ – ô hay Men buồn nhẹ bốc trong lòng vắng

Thoáng Đầy kinh sương muộn mang tang tóc bóng ai trong cốc rượu đầy Đâynữa, thơ Thâm Tâm trong bài Vạn lý trường thành:

Trăng thấm nghìn đêm lệ chửa khô Nghìn muôn vợ trẻ nhớ trai phu

Chia khắp lòng dân oán toả mờ Mưa rửa nghìn đêm máu chửa phai Nghìn muôn trai tráng sống còn ai Trăm thân già héo trăm chiều xế Lặng kiếm hồn con xuất ải dài.

Thơ Văn Cao trong Anh hùng ca là đi vào cái mạch ấy. Cũng những chi tiết thường thấy trong thơ biên tái đời Đường: lính thú, quan ải, thê nhi, đá vàng, máu, rượu. Cũng những chữ Hán đã quá quen thuộc: thiên bôi đối ẩm, quan san, trùng dương hận, khuê nữ… Cũng những đau đớn, bất lực, tạo nên những kìm nén, những bi phẫn toát ra trong cách ngắt câu, cách tạo giọng điệu. Và sau hết là cái cảm giác chung về một đời sống bức bách, khi mà giữa cái sống cái chết chỉ còn một khoảng cách vô nghĩa lý; và người ta chỉ còn cách tìm quên lãng trong chén rượu, mà cũng không quên nổi!

Chúng ta nhớ bài thơ in ra tháng 10-1942. Chỉ vài năm sau là nổ ra cuộc Cách mạng tháng Tám lịch sử, trong đó, sự có mặt của Văn Cao là sự có mặt của một chiến sĩ với nghĩa đích thực của chữ ấy.

Cũng nên chú ý tới mối liên hệ giữa Anh hùng ca với lời ca bài Tiến quân ca Văn Cao viết trong cao trào Việt Minh – Thề phanh thây uống máu quân thù … Từ baolâu ta nuốt căm hờn … Tiến lên cùng thét lên Hoặc lời ca trong các bài Bắc Sơn, Không quân Việt Nam…

Là ca sĩ của những Suối mơ, Thiên Thai, đồng thời Văn Cao lại còn là ca sĩ của những hành động anh hùng, hành động siêu việt nữa.

Anh hùng ca Mắt sáng ngời lên như ánh dương, Rượu hồ, da đỏ, khách ly hương. Thiên bôi đối ẩm nhìn quan ải: Quằn quại cờ bay trong gió sương.

Lắng nhe dòng máu ta đang sôi! Say nữa! Say lên tráng sĩ ôi! Lòng thép vang rền: xương gẫy rạn, Sa trường: than ôi là tơi bời!

Chuyện thê nhi: Bẻ trâm vàng đi! Khăn lụa người cho lau máu đi! ảnh tặng giấu vào trong ngực áo! Trở về? – Không! Chỉ có ra đi!

Quan san xa cách trùng dương hận. Cười ré lên nào! Rú nữa lên! Da đỏ trời ơi là máu! Máu! Bên ngoài quan ải lính thay phiên.

Đập vỡ cho ta hồ rượu này! Chén thù uống cạn nhớ đêm nay; Trăng vàng vỡ nửa, gương tình lỗi Khuê nữ đâu say hơn rượu đầy?

Anh em! Anh em! Hãy cố say! Mai gặp nhau chăng hay gặp thây? Da cổ ví dầy đầu đỡ rụng, Thây anh rồi lấp với thây này.

Xót đời lính thú không tên tuổi, Cả một nghìn thây đổi lấy thành, Nói đến cuộc đời còn chẳng tiếc, Tiếc gì nước mắt đón đưa, anh?

Văn Cao

Anh có nghe thấy không VĂN CAO (Gửi một nhà thơ xưa đã nổi tiếng)

Cửa đóng lại từ chín giờ Không một cuốn sách chờ đợi Dù những ngôi sao đang nở trên trời Dù đêm mùa xuân bắt đầu trở lại

Tất cả hướng về biển Bọt cứ tan trên bãi cát xa Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở

Bao giờ nghe được bản tình ca Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật Bao giờ Bao giờ chúng nó đi tất cả

Những con người không phải của chúng ta Vẫn ngày ngày ngày ngang nhiên sống

Chúng nó còn ở lại Trong những áo dài đen nham hiểm Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người

Chúng nó còn ở lại Trong những tủ sách gia đình Ở điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm Từng bước chân các cô gái Từng con đường từng bãi cỏ từng bóng tối Mắt quầng thâm còn nhỡ mãi đêm

Chúng nó còn ở lại Trong những tuổi bốn mươi Đang đi vào cuộc sống Như nấm mọc trên những thân gỗ mục

Người bán giấy cũ Đã hết những trang tiểu thuyết ế Những trang báo ngày xưa Đang bán đến những trang sách mới Những bài thơ mới nhất của anh

Anh muốn giơ tay lên mặt trời Để vui da mình hồng hồng sắc máu Mấy năm một điệu sáo Như giọng máy nước thâu đêm chảy

Chung quanh còn những người khôn ngoan Không có mồm Mắt không bao giờ nhìn thẳng

Những con mèo ngủ yên trên ghế Trong một cuộc dọn nhà

Những con sên chưa dám ló đầu ra Những cây leo càng ngày càng, tốt lá

Một nửa thế giới Một nửa tâm hồn Một nửa thế kỷ Chưa khai thác xong

Bây giờ không còn những tiểng nổ to Nhưng còn những tiếng rạn vỡ Có thể thu hết những khẩu súng phản động

Nhưng vẫn còn Những khẩu súng đưa người tự tử.

Anh có nghe thấy không Chỗ nào cũng có tiếng Chưa nói lên

Những người của chúng ta Đang mờ mờ xuất hiện Le lói hy vọng Trên những cánh đồng lầy

Nghìn năm cũ phủ mất nhiều giá trị Đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời

Vào một cuộc đấu tranh mới Với những người không phải của chúng ta Anh có nghe thấy không

Vào một cuộc đấu tranh mới Để mở tung các cánh cửa sổ Mở tung các cửa bể Và tung ra hàng loạt hàng loạt Những con người thật của chúng ta.

VĂN CAO

@ Văn Cao – 20 năm không xa ___________________________________ Nguyễn Thụy Kha

Kể từ ngày ông vĩnh viễn ra đi, mỗi khi nghe Quốc ca là cảm thấy ông vẫn ở đâu đây trong đời sống thường nhật của chúng ta

Đến bây giờ, tôi vẫn có cảm giác Văn Cao chưa hề xa. Ông vẫn ở đâu đây trong đời sống thường nhật của chúng ta. Đấy là mỗi sớm đầu tuần, nghe hát Quốc ca ở một nhiệm sở nào đó, dù ở Lạng Sơn hay ở Mũi Cà Mau. Đấy là những trận đấu bóng đá, trước giờ khai cuộc, Quốc ca Việt Nam lại vang lên. Đấy là khi các vận động viên Việt Nam đoạt huy chương vàng, ngay trong kỳ SEA Games mới đây. Cảm thấy bài Quốc ca Việt Nam căng đầy trong cơ thể “kình ngư” Ánh Viên khi cô khoác Quốc kỳ Việt Nam đứng trên bục cao nhất. Và quốc thiều Tổ quốc ngân nga…

Nhớ mãi nụ cười nhẹ nhõm

Vẫn như còn nguyên cái ngày cuối cùng khi tôi đưa nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo đến thăm ông ở Bệnh viện Hữu Nghị – Hà Nội. Ông ngồi đấy, tóc trắng, râu trắng, tường trắng, nụ cười trắng và hoa sen trắng chưa nở. Ông thầm thì bên tai: “Đang còn một thằng “Giôn đen” nhưng nóng quá. Tuần sau sang mùa mưa. Sẽ uống…”. Nhưng không bao giờ còn cái ngày đầu tuần mới, uống chai mới nữa. Ngày thứ hai đầu tuần 10-7-1995 đã trở thành ngày ghi khắc mãi vào từng con tim người Việt Nam. Ngày Văn Cao chuyển cõi.

Trước đó 10 năm, một ngày cuối đông buốt giá năm 1985, tôi cùng Văn Cao thắp hương trước linh cữu Xuân Diệu, cũng đúng ở nơi ấy. Mười năm sau, cũng nơi ấy, căn gác hai 51 Trần Hưng Đạo (Hà Nội), nơi một thời cố vấn Vĩnh Thụy trải qua những ngày tháng độc lập đầu tiên của đất nước và nghe Quốc ca Việt Nam vang lên, cũng là nơi đưa tiễn tác giả bản Quốc ca hùng thiêng này về cõi xa xăm.

Tôi mãi mãi biết ơn giải thưởng thơ Báo Văn Nghệ năm 1982. Nhờ nó, nhờ bài thơ “Những giọt mưa đồng hành” đoạt giải B, Văn Cao đã ngỏ ý thông qua Đặng Đình Hưng muốn gặp tôi. Đấy là một hạnh ngộ mà cả đời tôi chẳng bao giờ trả hết. Ra Hà Nội làm nghề văn học và âm nhạc từ năm 1978, tôi đâu dám bén mảng tới chiếu rượu của ông. Tôi chỉ là một thằng bé con đang chập chững vào nghề. Nhờ gặp ông, được ông nhận làm học trò, cho làm bạn vong niên cùng uống rượu. Hạnh ngộ ấy đã cho tôi có cái tên hôm nay.

Từ sau lần đầu được ngồi uống rượu với ông và Đặng Đình Hưng, tôi và ông hình như không lúc nào rời nhau. Cho cả đến bây giờ. Dù đã 20 năm xa. Còn nhớ mãi nụ cười nhẹ nhõm của ông khi trở lại vị trí ủy viên chấp hành Hội Nhạc sĩ Việt Nam mùa thu 1983. Đấy là một mùa thu thăng hoa, báo hiệu một điều gì sẽ đổi thay của đất nước. Nhớ nhất là cái đêm ông cùng Trịnh Công Sơn, Trần Long Ẩn, Thu Bồn uống rượu ở căn gác 60 Hàng Bông nhà tôi và sau đó là cuộc tổ chức long trọng 60 năm ngày sinh của ông tại Hội Nhạc sĩ Việt Nam do Tổng Thư ký Huy Du chủ trì. Huy Du nói với tôi: “Nhờ ông anh viết “Thiên Thai” mà mình mê nên mới có sáng tác đầu tay “Sóng nước Ngọc Tuyền”. Ơ kìa! Mênh mông chèo khua nước Ngọc Tuyền mà”. Hôm đó, cả Trịnh Công Sơn và Trần Long Ẩn đều hát say sưa những sáng tác của các anh mừng thọ Văn Cao.

Từ đấy, ông và tôi cùng bạn bè có những tháng ngày lãng du tuyệt vời. Cuối năm 1983, về Nhà máy Toa xe Hải Phòng. Chuyến ấy, ông viết “Hành khúc công nhân toa xe”: “Một vùng trời vang sóng vỗ biển Đông/ một vùng trời luôn thắp sáng ngàn sao/ vùng rộn ràng trong tiếng búa nhà máy/ dù giặc thù bom đánh phá đêm ngày…”. Mùa thu 1984, trở lại trung du vùng núi Thắm. Lần đó, ông viết “Tình ca trung du” – ca khúc cuối cùng của nghiệp âm nhạc: “Một cánh tay sông Hồng/ một cánh tay sông Lô/ hai cánh tay như ôm trung du …”.

Một bản lĩnh thơ

Cuối xuân 1985, vào Quy Nhơn. Đấy là dịp ông viết bài thơ về Quy Nhơn 3: “Từ trời xanh – rơi – vài giọt tháp Chàm…”. Cũng đợt ấy, Văn Cao đã đi đến nơi xa nhất trong cuộc đời mình – TP Cần Thơ. Sau chuyến đi, lần đầu tiên, thơ Văn Cao được in trở lại trên Báo Văn Nghệ. Đó là chùm ba bài thơ “Quy Nhơn” sau 29 năm không in thơ ông trên tuần báo này, mà chỉ xuất hiện với những hình minh họa ký chữ Văn. Giữa những chuyến đi cùng tôi ngày đó, Văn Cao có chuyến đi riêng vào Huế và Đà Nẵng với lời mời của nhà văn Phan Tứ, khi ấy là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng. Cũng là một lần trở lại để có “Về Huế xưa”, “Đêm phá Tam Giang”… những bài thơ cực ngắn, cực hay: “Lưới là cái cuối cùng/ Hất tôi xuống biển”.

Năm 1986, hình như linh cảm điều đổi thay đất nước đã tới gần, Văn Cao cùng tôi lần mò những bài thơ của ông làm trong các cuốn sổ tay đã hoen màu thời gian từ năm 1956 đến lúc đó để tập hợp thành một tập thơ. Ông đặt tên là “Lá”. Năm ấy, hầu như ngày nào tôi cũng ngồi làm biên tập cùng ông. Và tất nhiên là cùng uống rượu. Tập thơ hòm hòm thì cũng là thời điểm Đại hội Đảng phất cao ngọn cờ đổi mới. Ông yêu cầu tôi viết lời giới thiệu. Và bài “Văn Cao một bản lĩnh thơ” đã được tôi hoàn thành để giao bản thảo cho Nhà Xuất bản Tác Phẩm Mới. Năm 1988, cùng với việc diễn ra “Đêm nhạc Văn Cao”, từ đầu năm là tập thơ “Lá” được ấn hành tuy không in lời giới thiệu của tôi. Nhưng bù lại, Nhà Xuất bản Trẻ lại ấn hành tập thơ – nhạc – họa của ông mang tên “Thiên Thai”.

Đấy là những năm tháng thăng hoa trong sự phục sinh của Văn Cao. Ông lại tiếp tục có những chuyến giao lưu ở TP HCM, ở các tỉnh miền Nam. Buồn nhất là chuyến lên Tây Nguyên theo ước nguyện của ông nhưng không thành. Tiền vé máy bay của anh em Tây Nguyên mời biến thành cái tủ mới ở nhà ông.

Tháng 3-1995, chuẩn bị Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam, tôi phát hiện ban chấp hành cũ mang Trại sáng tác Quảng Bá ra liên doanh với nước ngoài xây khách sạn. Tôi đem chuyện buồn này kể với ông. Ông trầm giọng nói: “Sao lại bậy bạ thế. Phải lên tiếng nhé. Đừng sợ. Sẽ có những người ủng hộ chân lý”. Nghe lời ông, tôi đăng đàn giành lại mảnh đất thiêng liêng này và được đại hội ủng hộ. Sau đại hội, tôi đến báo cáo kết quả. Ông cười mãn nguyện: “Đã đến lúc không phải sợ gì nữa”. Bữa đó, ông “lì xì” tôi một chai Macallan.

Khi ấy, ông đã yếu nhiều. Chứng ung thư phổi bắt đầu có triệu chứng tăng trưởng. Nhưng ông vẫn uống rượu và hút thuốc lào như thường. Chẳng hiểu sao, sau đại hội Hội Nhạc sĩ Việt Nam, ông cho bà Bằng (vợ Văn Cao) đến gặp Tổng Thư ký Trọng Bằng. Ông đã sớm dọn dẹp cho mình một cách đi bằng những lời di nguyện. Ông đề nghị khi mất, Hội Nhạc sĩ Việt Nam chủ trì tang lễ. Còn điếu văn thì tôi viết, anh Trọng Bằng đọc.

Văn Cao là người trung chính nên dù bị ung thư nhưng ra đi nhẹ nhàng như một trích tiên. Mới thế mà đã 20 năm…

Hà Nội, ngày 9-7-2015. Nguyễn Thụy Kha

@ Có một Văn Cao – nhà thơ ____________________________________ XUÂN THANH

Trong những ngày cô đơn, khi nhạc không thể cất lời, nhạc sĩ Văn Cao đã gửi gắm tất cả nỗi niềm thân phận, sự suy tư về thời cuộc… ở trong thơ. Tiếc thay, cái hào quang âm nhạc dường như đã vô tình che mờ đi những giá trị sáng tạo thơ ca của ông.

Người Việt gần như ai cũng biết đến các nhạc phẩm của nhạc sĩ Văn Cao (1923 – 1995), thế nhưng ít người biết rằng ông còn là một nhà thơ, họa sĩ rất tài hoa. Cũng vì thế, nhiều người gọi ông là “ba đỉnh núi sương mù”, “dòng sông ba nhánh”, bậc “tài danh thế kỷ”… Những cách tôn xưng ấy không hề quá lời bởi trong lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại hình như chỉ có 2 người hội tụ cùng một lúc cả 3 món thơ – nhạc – họa, đó là Văn Cao và Trịnh Công Sơn.

Từ sông ra biển

Văn Cao đến với văn học nghệ thuật khá sớm, ở tuổi 16 ông đã có những bài thơ đầu tay. Năm 1940, khi bản nhạc Buồn tàn thu bắt đầu nổi tiếng, Văn Cao làm một cuộc viễn du vào xứ Huế mộng mơ. Vẻ đẹp của sông Hương núi Ngự, nét cổ kính thành quách lâu đài của chốn kinh kỳ, cùng tiếng hát của những người kỹ nữ đã hút hồn chàng trai đất Bắc. Dấu vết của những ngày tháng ấy còn in đậm trong thơ – nhạc của ông mà bài thơ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế là một minh chứng. Bài thơ về mối tình tri âm tri kỷ giữa người ca kỹ và văn nhân ấy đã bộc lộ một tài thơ sáng giá: Em cạn lời thôi anh dứt nhạc/Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh/Một đêm đàn lạnh trên sông Huế/Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh. Sau một đêm đàn hát giao cảm, đồng vọng tri âm, kẻ ở – người đi đều mang trong mình một nỗi nhớ thấm vào trong tim, một nỗi sầu cô quạnh đến “lạnh” cả tâm hồn… Bài thơ khép lại nhưng cái dư ba vẫn còn vang mãi như sóng vỗ mạn thuyền.

Chỉ với Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Văn Cao đã xứng đáng được gọi là nhà thơ. Nhưng ông không dừng lại ở đó, bởi trong người ông luôn khát khao sáng tạo cái mới mà như trong tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ (năm 1957) ông đã viết: “Đến với cuộc đời, nhà thơ không chịu đựng một sự may rủi mà phải chủ động thành lập nên sự thẩm mỹ mới cho người đọc…”, “cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn, càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng”. Và ông đã chấp nhận đi trên con đường đó. Chỉ vài năm sau, với Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc và Ngoại ô mùa đông năm 46, thơ của ông đã thoát khỏi ảnh hưởng của Thơ Mới, vươn tới địa hạt của chủ nghĩa hiện thực. Với những câu thơ đi đến tận cùng hiện thực, sống động như cuốn phim tư liệu, Văn Cao đã làm bật lên cái thảm họa khủng khiếp của nạn đói năm 1945 và khí thế cách mạng của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến…

Bước ngoặt trong hành trình thơ Văn Cao chỉ đến 10 năm sau đó, khi ông cho ra đời trường ca Những người trên cửa biển, đứa con tinh thần được sinh thành từ tình yêu của nhà thơ với đất cảng mà như ông thổ lộ: Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại/Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi. Với những câu thơ cuồn cuộn cảm xúc, ý tứ sắc sảo, cùng những hình ảnh đầy tính ẩn dụ, nhà thơ Văn Cao đã tái hiện quá trình “lột xác”, rũ bỏ lại lịch sử tối tăm trong những năm dưới chế độ thực dân để đi đến hòa bình, tự do của Hải Phòng. Trong niềm vui chung, ông đã mơ về một ngày mai tươi đẹp: Lòng tôi nghe lại tiếng võng đưa/Như mới sinh ra giữa cuộc đời tươi đẹp/Mẹ ru tôi những ca dao thuở trước/Quê hương chúng ta giờ đã có Hải Phòng/Không có đồng lúa thơm nhưng đã có trăm nhà máy/Con ngày nay thật đã thấy chân trời”. Vui với đời sống mới, nhưng với một tâm hồn nhạy cảm, ý thức của một kẻ sĩ, Văn Cao đã lên tiếng cảnh báo về những hiểm họa đến từ bên trong: Đất nước đang lên da lên thịt/Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày/Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải/Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuốn; Kẻ thù của chúng ta xuất hiện/Những con rồng đất khi đỏ khi xanh/Lẫn trong hàng ngũ/Những con bói cá đậu trên những dây buồm/Đang đo mực nước/Những con bạch tuộc bao tay chân/Cố dìm một con người. Trong những ngày đó, ông đã nhìn thấy những bi kịch cá nhân thầm lặng: “Không có tiếng vỡ trong không gian/Sao có tiếng vỡ trong lòng âm vang rền rĩ”… Có thể nói, với trường ca Những người trên cửa biển, ông đã hoàn tất hành trình đi từ sông ra biển lớn, xác lập được vị trí của mình trong làng thơ.

Vịn câu thơ mà đứng dậy

Những năm tiếng nhạc lặng im, ngồi đổ bóng trên căn gác nhỏ ở 108 Yết Kiêu, Hà Nội, tất cả những suy nghĩ, tâm tư của ông được dồn nén lại trong thơ. Văn Cao làm thơ như độc thoại với chính mình, mỗi câu thơ là một cuộc truy vấn: Đoàn người đi qua để lại sóng/Đoàn tàu đi qua để lại tiếng/Đoàn người đi qua để lại bóng/Tôi không đi qua tôi, để lại gì.

Càng về sau, thơ của Văn Cao càng giàu tính biểu trưng, ẩn dụ nhiều hơn mà tiêu biểu là bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật và Ba biến khúc tuổi sáu lăm. Trong đó, Ba biến khúc tuổi sáu lăm dường như là một ẩn dụ về số phận nghiệt ngã của chính ông, số phận của một người “tôi rơi vào mạng nhện/mạng nhện cuốn lấy tôi/không còn cách gì gỡ ra được”. Những vần thơ suy tư về thân phận con người trong những ngày cô đơn đã giúp Văn Cao có những bước tiến dài trên con đường thơ ca. Thơ của ông càng về sau càng súc tích, thiên về nghĩa bóng, buộc người đọc phải suy nghĩ mới có thể hiểu được thâm ý sâu xa của ông. Nói cách khác, thơ của ông liên tục gợi mở, nó lung linh, sống động và biến hóa theo sức cảm nhận của người đọc. Một điều đáng quý nữa là, dù chịu nhiều bất trắc trong cuộc đời nhưng không bao giờ ông đổi giọng. Những lời thơ của ông cũng chính là suy nghĩ thật của ông mà như nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng nhận xét: “Thơ của ông đẹp một cách quyết liệt. Thơ của ông thật đến siêu thực. Thơ của ông mới bất ngờ như mầm cây mới vừa đội đất trồi lên”.

Cuộc đời Văn Cao chỉ có hơn 60 bài thơ, chỉ mới xuất bản một tập thơ “Lá” (Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1987) mỏng manh như tên gọi của nó. Thế nhưng, những người am hiểu về thơ đều thừa nhận Văn Cao là một tài thơ sáng giá, người đã đi từ thơ ca lãng mạn, hiện thực đến địa hạt tượng trưng, mở ra cả một cánh cửa cho thơ Việt đương đại. Mới đây, Nhà xuất bản Hội Nhà văn cho biết sẽ xuất bản tập thơ Văn Cao với nhiều bài thơ chưa được công bố. Hy vọng với tập thơ này, người đọc sẽ hiểu hơn về nghệ sĩ tài danh này.

XUÂN THÀNH

.

@ Hành trình thơ Văn Cao _______________________

Lê Thiếu Nhơn –

Cuộc đời 72 năm của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với Việt Nam thế kỷ 20 nhiều biến động, để lại cho thế hệ sau nhiều câu hỏi không dễ trả lời.

Câu hỏi rộn ràng về cống hiến nhọc nhằn, câu hỏi cồn cào về thế sự ngổn ngang, câu hỏi mịt mờ về mệnh kiếp lênh đênh. Một Văn Cao đa tài không thể che chở một Văn Cao lận đận. Một Văn Cao danh vọng không thể bênh vực một Văn Cao cay đắng. Một Văn Cao hào hoa không thể an ủi một Văn Cao cô độc. Những ngày tháng Văn Cao đã sống, cứ đổ cái bóng gầy hắt hiu và trắc ẩn vào lòng công chúng, mà những bài hát của ông không lý giải được, những bức tranh của ông cũng không lý giải được.

Chỉ còn lại thơ, xoa dịu và tỏ bày giùm ông.

Từ những bài thơ đầu tiên viết năm 1939 đến bài thơ cuối cùng Tôi ở viết tháng 8/1994, Văn Cao có di sản khoảng chừng 60 bài, nhưng vẫn hiển lộ đầy đủ một chân dung nhà thơ khắc khoải với khát vọng lớn lao “tới bao giờ tôi gặp được biển?”. Trong sự mến mộ của công chúng phổ thông, chân dung nhạc sĩ Văn Cao luôn khỏa lấp chân dung nhà thơ Văn Cao, bởi lẽ cảm giác xao xuyến thường lấn lướt nhận thức sâu xa.

Ngoài những phút giây phiêu lãng với giai điệu, Văn Cao cũng lắm lúc rạo rực với sắc màu qua vài bức tranh giàu cá tính thẩm mỹ. Tuy nhiên lúc chăm chú quay lại với thi ca, Văn Cao có tiểu luận: “Mấy ý nghĩ về thơ” nghiêm trang và khơi gợi: “Cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn, càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng”. Con đường thơ của Văn Cao đã chuyển dịch đúng như vậy.

Khởi nguồn thơ Văn Cao qua đôi bài Ly khách hay Linh cầm tiến mang dấu vết của Đường thi tùy hứng hoặc Đường thi ứng họa, như những câu: “Thiên bôi đối ẩm nhìn quan ải/ Quằn quại cờ bay trong gió sương”, hay: “Tâm sự chừ như trường giang vũ khúc/ Lãng đãng sương buông cổ độ mờ”.

Sự nghiệp sáng tạo của Văn Cao chỉ nên tính từ khi thơ và nhạc cùng đồng hành để tạo nên phong cách Văn Cao. Thưởng thức một cách tỉ mỉ, không mấy khó khăn để thấy được, tâm hồn nghệ sĩ của Văn Cao biến động qua ba giai đoạn với ba nét đẹp riêng biệt: giai đoạn mềm mại đắm đuối, giai đoạn lạc quan hào sảng và giai đoạn can trường sắc sảo. Và qua ba giai đoạn có trình tự trước sau, có thể khám phá được thế giới nội tâm của ông.

Giai đoạn mềm mại đắm đuối, âm nhạc Văn Cao có Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi, Buồn tàn thu… thì thơ Văn Cao chỉ có dăm vần điệu trễ nải: “Chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống/ Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa”, lúc thảng thốt Ai về Kinh Bắc, hoặc: “Thuyền vào nằm ngủ trong mưa/ Trên con sông vắng lập lờ bóng trăng”, lúc bùi ngùi Đêm mưa. Có lẽ đã dồn mọi tinh lực để thăng hoa ca khúc, thơ Văn Cao lác đác chớp sáng vài câu thơ lộng lẫy như: “sông trắng bờ xa lộ bóng nhà” và “ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi”. Thơ Văn Cao dường như bị say nắng Thơ Mới, cái rạo rực “quê lòng rộng mở đường cho sạch/ đón những bàn chân trắng nuột nà” cứ nhang nhác Xuân Diệu, còn cái sầu não “Đường ở đây mưa ướt đất trơn/ Nắng lên không kịp kẻ kia hờn” cứ từa tựa Lưu Trọng Lư.

Giai đoạn lạc quan hào sảng, âm nhạc Văn Cao bùng nổ với Tiến quân ca, Làng tôi, Chiến sĩ Việt Nam, Ngày mùa, Sông Lô, Bắc Sơn, Tiến về Hà Nội… thì thơ Văn Cao nhen nhóm chia tay Thơ Mới. Trên gác trọ xóm cô đầu Vạn Thái nhìn về phía Ô Cầu Dền, Văn Cao viết Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc vào năm 1945 bằng ngọn gió run rẩy khác lạ. Tuy vẫn còn chút hơi hướng cổ trang: “Ta đi giữa đường dương thế/ Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây”, nhiều chữ có hồn cốt mạnh mẽ kiểu Văn Cao đã xuất hiện như: “ta lả nhìn cửa sổ mắt mờ rồi”, như: “nhà ta thuê mái gục tự mùa thu”, như “ta về gác chiếu chăn gào tự tử”. Nhấn thêm một bước, bài thơ Ngoại ô mùa đông 1946 đánh dấu thơ Văn Cao trưởng thành, với những câu chưa từng có trong Thơ Mới như: “ai kẻ dìu hoa chống phường Dạ Lạc” hay “một dãy phố nghiêng cả thành Hà Nội”.

Và trong sự thay đổi bút pháp, có cả sự thay đổi tư tưởng, từ thái độ lưỡng lự “khăn lụa che ngang mày thét nhạc/ gót chân xanh khép giọng Tỳ Bà” sang hành động dứt khoát “đập tan đàn khi nhạc mới mênh mông”. Tuy nhiên, bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc và bài thơ Ngoại ô mùa đông 1946 chỉ tạo đà cho khoảnh khắc nhảy vọt trong thơ Văn Cao, đó là sự ra đời của trường ca Những người trên cửa biển viết vào mùa xuân 1956, giúp cán cân thơ – nhạc có thành tựu tương đương.

Với bốn chương chia làm 16 khổ thơ, trường ca Những người trên cửa biển được viết trên tinh thần “Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại/ Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi”.

Cái riêng hòa vào cái chung, Những người trên cửa biển như một “tổng phổ” về những năm tháng tận tụy của Văn Cao với thành phố cảng, từ sự thủ thỉ “quê mẹ quê cha cách một vườn trầu” đến sự san sẻ “kíp thợ đêm lê về đến xóm/ nghe rét mùa đông nổi cuối sông” và bất chợt hân hoan “những năm đầu chính quyền cách mạng/ giấc mơ của Hải Phòng/ như bóng cò trắng bay về lòng tôi thuở nhỏ”.

Thử thách thể loại trường ca đòi hỏi sức cảm sức nghĩ phi thường, cũng chính là cơ hội phô diễn một Văn Cao tài năng cồng kềnh. Hít thở không khí xứ sở độc lập tự chủ, Văn Cao khẳng định: “có người hàng năm mặt trời không thấy mọc/ khép đùi xếp phách tiễn đêm đi/ hôm nay ngồi chép bài ca mới/ hương cốm mùi rơm ngát giếng đình” để mường tượng hòa bình đích thực “chúng ta sẽ trả về những bà mẹ Pháp/ núi hài cốt cuộc chiến tranh bẩn thỉu/ cũng như những người mẹ chúng tôi/ tiếc những dòng sữa, những cái hôn đã mất” và nghe được những va đập mỏng mảnh “tiếng thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc/ những con người gần ánh sáng chưa quen”.

Mặt khác, với ý thức kẻ sĩ đau đáu với vận mệnh dân tộc, Văn Cao lập tức cảnh tỉnh: “đất nước đang lên da lên thịt/ đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày/ ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải/ đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống”, và không ngần ngại vạch mặt mối hiểm nguy “hãy dừng lại/ những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc/ những tên muốn ôm cây to che cớm mầm non”.

Đánh giá một cách cẩn trọng, trường ca Những người trên cửa biển đã xác lập một vị trí nhất định trong nền thơ Việt Nam thế kỷ 20, bởi tình yêu mảnh đất: “mỗi người dân Hải Phòng thật kiếm ăn từ nhỏ/ mỗi người dân Hải Phòng đều biết đổ mồ hôi” đã dựng được hình tượng nhà thơ Văn Cao chung thủy với thời đại “cuộc đời ôm tôi như trong một cái bình/ một tiếng vang vang cả lòng cả đáy”.

Giai đoạn can trường sắc sảo, âm nhạc Văn Cao chìm vào im lặng, chỉ vụt lên một Mùa xuân đầu tiên nôn nao cùng non sông thống nhất năm 1975. Tất cả tâm tư Văn Cao dồn hết vào thơ “tung ra hàng loạt hàng loạt/ những con người thật của chúng ta”. Hơn 30 năm âm thầm trong căn phòng khiêm nhường ở 108 Yết Kiêu – Hà Nội, thơ Văn Cao chắt lại như “tiếng kêu của một khúc thép đỏ/ trong chậu nước” để đối diện với nghịch cảnh “có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được”. Hai bài thơ viết cho mùa thu ở hai cột mốc thời gian khác nhau vẫn không mấy khác nhau về xao xác, mùa thu 1968 “những bóng người loang trên Hồ Tây” và mùa thu 1992 “có tà áo trắng loang qua khung cửa” chứng tỏ ảo giác đơn lẻ hụt hẫng kéo dài qua vùng thơ ưu phiền. Bài thơ Thức dậy vỏn vẹn hai câu ít nhiều thể hiện được cứu cánh thi ca đối với Văn Cao: “Khi đêm tối tất cả người tôi thức dậy/ Những đam mê quên ngủ suốt ngày”.

Bơ vơ và chịu đựng, Văn Cao chỉ có nguồn động viên duy nhất “những ngày đau khổ ấy/ khuôn mặt em/ như mảnh trăng những đêm rừng cháy” để tiếp tục tin cậy nhân gian xuôi ngược “trên đường đi/ anh đặt em trên dốc núi/ để tìm lại những đường mềm của núi”.

Lời đề từ bài thơ “Ba biến khúc tuổi 65”, Văn Cao viết “những ngày buồn không nói được, tôi chỉ tìm ra sự sống của tôi”. Do vậy, có thể hình dung giai đoạn viết trường ca Những người trên cửa biển, Văn Cao không khác gì một hiệp sĩ sử dụng trường kiếm, trong vô chiêu lẫn hữu chiêu đều tung tẩy kiếm ý và kiếm khí, còn thơ Văn Cao giai đoạn này đã quay sang sử dụng đoản đao nhăm nhăm những đòn dứt điểm.

Không phải cuộc chơi nghệ thuật nữa, thơ Văn Cao trở thành cuộc truy vấn số phận. Truy vấn số phận về sự khốn đốn “tôi rơi vào mạng nhện/ mạng nhện cuốn lấy tôi/ không cách gì gỡ được”, truy vấn số phận về sự được mất “con thuyền đi qua/ để lại sóng/ đoàn tàu đi qua/ để lại tiếng/ đoàn người đi qua/ để lại bóng/ tôi không đi qua tôi/ để lại gì?” và truy vấn số phận về cả những Giấc mơ chập chờn: “Dưới mái nhà/ Một người đang ngủ/ Với giấc mơ của những vì sao/ Những vì sao đang kể chuyện/ Giấc mơ của mái nhà/ Giấc mơ của một người đang ngủ”.

Nhờ cuộc truy vấn số phận miệt mài, Văn Cao được tự do tái sinh những trải nghiệm, từ trải nghiệm thua thiệt cá nhân “bỗng nhiên/ bóng của người ấy chia mất/ nửa mặt tôi/ một nửa mặt của tôi/ của tôi nửa mặt trắng/ miệng tôi nửa miệng đắng/ một con mắt tôi/ lặng lẽ lấp lánh/ sau bóng đen người ấy”, đến trải nghiệm lầm lạc ân tình “những bó hoa mang tới/ chúc tụng/ thành công một con người/ hàng ngày hàng ngày/ xây thành cái mồ chôn/ con người thành công ấy/ người ta đôi khi bị giết/ bằng những bó hoa”.

Thơ hóa giải tủi hờn và bất trắc. Những câu thơ hoang mang và chấp chới tuyệt vọng của Văn Cao như: “có lúc ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt” không chỉ kháng cự khổ hạnh cho tác giả, mà còn giúp độc giả cách hiểu một giọt nước mắt, cách nghe một tiếng thở dài. Bởi lẽ, nỗi buồn không phải quan trọng nhờ được nhà thơ đắp lên những mỹ từ khoa trương, mà vì nhà thơ gõ vào trái tim mình để chứng minh nỗi buồn có ích cho việc nuôi dưỡng bản tính lương thiện của con người trước Thời gian khắc nghiệt: “Thời gian qua kẽ tay/ làm khô những chiếc lá/ kỷ niệm trong tôi/ rơi/ như tiếng sỏi/ trong lòng giếng cạn/ riêng những câu thơ còn xanh/ riêng những bài hát còn xanh/ và đôi mắt em/ như hai giếng nước”.

LÊ THIẾU NHƠN

.

@ Ba bài thơ của Văn Cao về Quy Nhơn ___________________________________________

Trần Xuân Toàn

Ba bài thơ của Văn Cao (1923-1995) viết về Quy Nhơn có thể coi là một chỉnh thể mà mỗi bài là một yếu tố đôc lập, tự đứng lấy được, vừa có quan hệ với nhau tạo nên một hệ thống hình tượng và một hệ thống cảm xúc của tác giả. Cả 3 bài thơ là môt chỉnh thể được xây dựng trên một hệ trục thời gian từ tương lai, hiện tại trở về quá khứ. Mỗi bài thơ tiêu biểu cho một thời đoạn mà tác giả dùng làm góc nhìn để “nhìn” vào chiều sâu Quy Nhơn.

Quy Nhơn I có điểm nhìn chính là tương lai nhưng là tương lai- hiện tại.

Quy Nhơn II có điểm nhìn chính là hiện tại nhưng là hiên tại- tương lai.

Quy Nhơn III có điểm nhìn chính là quá khứ nhưng là quá khứ –hiện tại.

  1. Có 2 hệ thống hình ảnh: Quy Nhơn- cảnh và Quy Nhơn- người được Văn Cao thể hiện trong 3 bài thơ của mình.

Quy Nhơn trong thơ Văn Cao như là một doi cát lớn vươn ra biển Đông, có cả những ngày tràn nắng lóng lánh lên từng lá dừa non, có cả những đêm trăng thơ mộng chuênh chuếch rười rượi gió biển. Quy Nhơn thực là như thế. Nhưng cảm nhận của Văn Cao là cảm nhận lãng mạn có tính phát hiện:

Một nửa hình con trai

ngày

lấp lánh sắc cầu vồng

một nửa mình trăng

đêm

nằm nghiêng trên bãi biển

Quy Nhơn được Văn Cao cảm nhận rất bình dị nhưng vô cùng đẹp, với tất cả vẻ đẹp vốn có của nó. Đó là Quy Nhơn với “vài dây buồm nhỏ- vài con đường phố nhỏ- vài ngôi nhà nho”. Cảnh của Quy Nhơn có hình khối, màu sắc và “những chùm chim yến lại bay về đảo”, “nắng làm khô những là dừa non”. Hơn thế nhạc điệu trầm bỗng vút lên từ những cảnh ấy. Bởi vì, cuốn hút Văn Cao còn là những tháp Chàm cổ kính huyền ảo, giống như những nốt nhạc sắc màu và âm thanh của chính Quy nhơn:

Từ trời xanh

rơi

vài giọt tháp Chàm

quanh Quy Nhơn

Từ những tín hiệu sắc màu, hình khối, âm thanh được Văn Cao miêu tả như thế- Quy Nhơn hiện hiện lên với một vẻ đẹp hư thực, trải dài suốt chuỗi thời gian từ quá khứ –hiện tại đến tương lai, với sự phát hiện mang tính lãng mạn về Quy Nhơn:

Một nửa hình con trai

ngày

một nửa mình trăng

đêm

vẫn ngày đêm lấp lánh

ngày đêm làm ngọc

Vì thế vẻ đẹp của Quy Nhơn không chỉ là ở một thời khắc nào, mà là thời-gian-vĩnh-viễn. Quy Nhơn bao giờ cũng là hằng mơ hằng nhớ, dù tác giả chưa đến: Chưa về Quy nhơn

mà nhớ em

Khuôn mặt càng dịu hiền

càng lấp lánh

lấp lánh…

“Về” chứ không phải là “đến” “đi”. Như là về nhà mình, về chốn cũ thân tình vậy.

Như vậy, Quy Nhơn có vẻ đẹp dịu hiền, hư thực và vĩnh viễn trong cảm nhận của Văn Cao. Đó là điều mà tác giả muốn và đã thông điệp cho chúng ta.

  1. Đấy là Quy Nhơn- cảnh. Còn người – Quy Nhơn thế nào?

Theo như chuyện cũ tích xưa, người ta giải thích hai từ Quy Nhơn như là nơi hội tụ của nhân tài hay là sự quy tụ của con người từ các miền đất khác nhau. Không hiểu điều đó có thật đúng hay không, nhưng với Văn Cao, nhà thơ giải thích sự sinh thành của mảnh đất này rất hình ảnh: “Từ núi xuống-từ biển vào-từ cánh đồng mọc lên – con trai – con gái”.

Quy Nhơn ngày nay như là kết quả của sự hội tụ đó. Những con người đó, lúc nhà thơ đến ,được cảm nhận như thế nào?

Một Quy Nhơn như “hằng mơ” hằng tưởng của Văn Cao phải là một Quy Nhơn- người tương ứng với một Quy Nhơn- cảnh. Phải là một Quy Nhơn như ông đã từng biết đến qua những trang thơ hay và đẹp mà ông đã từng đọc. Thế nhưng, lúc Văn Cao đến, cảm nhân về Quy Nhơn trong ông hụt hẫng. Con người ở đây hình như hờ hững đối với ông. Tất cả như im lặng và lầm lũi với nhịp sống lẳng lặng của một thanh phố nhỏ để đáp lại lời chào đầy thân tình của tác giả đã từng ấp ủ bấy lâu nay. ( Chào mẹ-các mẹ già lặng im/ Chào các em-các em nhỏ lặng im/ Chào đường phố-những đường phố lặng im-lầm lì).

Đáp lại tấm lòng nồng nhiệt của tác giả (chào mẹ/ chào các em/ chào đường phố) chỉ là sự lặng im, lầm lũi. Hờ hững tột cùng. Các từ “lặng im” “lầm lũi” được nhắc đi nhắc lại một cách tập trung và nhiều lần, làm tăng thêm sự hờ hững đó. Sự hờ hững đó còn lan rộng đến cả những hoạt động xung quanh của họ

Khuôn mặt những con thuyền cá

Những người dân lầm lũi

sau chiến tranh

những người lái xe

những xóm mọc bên đường

Đấy là những vết hằn của chiến tranh vẫn còn đâu đó trên khuôn mặt Quy Nhơn sau những năm tháng chiến tranh.

  1. Rõ ràng có sự đối lập giữa một bên là cảnh và một bên là người. Quy Nhơn cảnh đẹp, huyền ảo sống động, lấp lánh với một bên là Quy Nhơn –người lầm lũi, lẳng lặng, lầm lì , hờ hững.

Tâm hồn nghệ sĩ- thi sĩ Văn Cao như chông chênh trứơc hai hiện thực trái ngược đó của Quy Nhơn. Đó còn là sự đối lập của một Quy nhơn- thực và một Quy Nhơn –mơ trong tâm hồn Văn Cao lúc bấy giờ.

Sự thật trái ngược này làm cho Văn Cao thất vọng. Tác giả cảm thấy mình như một khách lạ, và nơi mà tưởng chừng rất quen, rất gần trong tâm tưởng hoá ra lại xa cách đến thế trong thực tại. (Không phải Quy nhơn- chỉ một thành phố lạ…Không phải Quy Nhơn đẹp- Các nhà thơ tôi đọc-Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Yến Lan ,Xuân Diệu ). Dùng điệp từ “không phải…không phải” để chối bỏ thực tại, Văn Cao đi đến chỗ thốt lên thất vọng :

một thành phố lạ

tôi đến đây làm gì…

Bởi đến cả những con yến cũng hững hờ với tác giả, “những chùm chim yến lại bay về đảo”. Người đọc cảm nhận được điều tác giả muốn nói ở đây. “Ôi Quy Nhơn hằng mơ”, chưa về thì nhớ, trực diên thì thất vọng. Đối lập từ cảnh/ người chuyển sang đối lập trong cảm xúc của tác giả là vậy.

  1. Nhưng Quy Nhơn- Bình Định còn là mảnh đất giàu có với bao sản vật và có cả một truyền thống lao động bền bỉ cần cù của người dân ở đây. Đó là “những chùm chim yến”, là “muối Sa Huỳnh” trắng tinh kết tinh từ giọt giọt mồ hôi , đó là đường ngọt như “mồ hôi đọng”, là những làng dừa xanh mát đi vào ca dao “ Công đâu công uổng công thừa/ Công đâu xách nước tưới dừa Tam Quan”. Không chỉ có thế. Mảnh đất này còn có cả truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm để gìn giữ thành quả lao động của mình. Máu đã đổ cho lúa thêm xanh, cho đường thêm ngọt, cho dừa rợp trời, và yến tự do bay…

Truyền thống đó đã có từ thuở trước (Vẳng nghe tiếng trống Quang Trung) vang vọng cho đến tận gần đây và bây giờ (Xác xe tăng bên đường Mười Chín). Tựu trung, đó là mảnh đất thấm đầy máu, mồ hôi và nước mắt (không- đất này mọc lên- từ- nước mắt).

Từ mảnh đất ấy đã vẳng lên một tín hiệu:

bỗng một ngày bà mẹ Quy Nhơn

nói với tôi một lời

một tiếng

à con!

Ôi cái tình của người Mẹ Quy Nhơn mới lạ làm sao, làm thăng bằng tất cảsự chông chênh trong tâm hồn tác giả. Văn Cao giữ mãi cái tình không phai nhạt ấy của người Quy Nhơn trong suốt cả cuộc đời mình:

Khuôn mặt càng dịu hiền

càng lấp lánh

lấp lánh…

TRẦN XUÂN TOÀN

.

@ Văn Cao (1923-1995): Khoảng lặng đời người

____________________ Lương Y Hòa

Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhạc sỹ Văn Cao (15/11/1923 – 10/07/1995), cây đại thụ của nền tân nhạc Việt Nam, DongNhacXua.com xin được phép đăng lại một bài viết cho thấy một góc nhìn khác về những ‘khoảng lặng’ trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà nhạc sỹ. Qua bài viết này, xin được đại diện cho hàng triệu người yêu nhạc thế hệ sau, DongNhacXua.com kính chúc linh hồn Nhạc Sỹ vui hưởng hạnh phúc tràn đầy nơi chốn ‘Thiên Thai’, như trong một sáng tác bất hủ khác của ông

Cố nhạc sĩ Văn Cao là một bậc kỳ tài trong nhiều lĩnh vực nhưng ông được biết đến nhiều nhất ở vai trò của một nhạc sĩ. Vẻ đẹp bảng lảng, thoát tục, giai điệu uyển chuyển của Buồn tàn thu, Thiên Thai, Trương Chi, Suối mơ,… đã làm say mê và cuốn hút bao người yêu nhạc. Cuộc đời nhạc sĩ Văn Cao có nhiều thăng trầm gắn liền với những biến thiên của lịch sử và sự khắc nghiệt trước cái nhìn của thời cuộc. Viết về ông, có lẽ cần cả một cuốn sách với cái nhìn thấu đáo. Bởi, đó là một cuộc đời lớn, cuộc đời của một thiên tài. Bài viết này chỉ là một nét phác họa về người nghệ sỹ tài hoa…

Vẻ đẹp tiên thiên trong tình ca

Đến giữa thập niên 30, nền tân nhạc Việt Nam đã có những bước tiến vững chắc. Những cái tên như Lê Thương, Đặng Thế Phong, Đoàn Chuẩn, Hoàng Quý,… đã tạo nên một diện mạo mới cho tân nhạc và gây ảnh hưởng lớn đến tinh thần thưởng ngoạn âm nhạc của giới trí thức lúc bấy giờ.

Trong dòng chảy đó, cuối năm 1939, Buồn tàn thu – ca khúc đầu tiên của nhạc sĩ Văn Cao ra đời. Năm đó ông vừa tròn 17 tuổi. Đầu năm 1940, Buồn tàn thu được chàng ca sĩ mê xê dịch Phạm Duy (nhạc sĩ Phạm Duy sau này) “gieo buồn đi khắp chốn” và tạo nên một hiệu ứng trong giới yêu nhạc thời ấy. Dù còn phảng phất sự ảnh hưởng của Lê Thương và Đặng Thế Phong nhưng Buồn tàn thu, với lời ca đầy chất thơ, tứ nhạc phong phú, nét nhạc thanh thoát đã hứa hẹn một tài năng. Quả vậy, sau đó ít lâu, Thiên Thai, Trương Chi, Suối mơ, Bến xuân, Thu cô liêu của Văn Cao qua tiếng hát Phạm Duy đã thổi một làn gió mát vào lòng người yêu nhạc, ngày ấy và cả bây giờ.

Ngay từ thời còn đi học, tài năng âm nhạc của Văn Cao đã sớm được bộc lộ. Văn Cao họ Nguyễn, bạn bè vẫn thường gọi ông bằng cái tên thân thuộc – anh Văn. Ông cất tiếng khóc chào đời vào ngày 15/11/1923 tại bến Bính, bên dòng sông Cấm, Hải Phòng. Cha (có tài liệu ghi là anh) của ông làm cai của nhà máy bơm nước ở bờ sông đó nên suốt thời niên thiếu, ông sống cùng tiếng ồn ào của cái máy bơm rất lớn nằm chình ình giữa nhà suốt ngày đêm hút nước từ dưới sông lên. Ông học tiểu học tại trường Bonnal, trung học ở trường Saint Joseph và được học nhạc sơ lược ở đây. Về sau, ông có học thêm nhạc lý ở lớp Tạ Phước nhưng lúc mới bắt đầu soạn nhạc, ông tự học và… bắt chước nhạc ngoại quốc! Sau này, bình nhạc Văn Cao, nhiều nhà chuyên môn cho rằng ông còn vài điểm kém về nhạc lý, nhạc điệu nhưng hết thảy đều công nhận ông thực sự là một bậc kỳ tài.

Cũng cần “Phải thừa nhận rằng, nếu không có giọng hát của Phạm Duy, nhạc Văn Cao cũng khó mà phổ biến; trái lại nếu không có Văn Cao, chưa chắc Phạm Duy đã sáng tác! Cả hai hỗ trợ nhau, cùng dìu nhau đi vào bất tử!” (Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đi qua đời tôi). Cố nhạc sĩ Phạm Duy, trong các bài viết sau này cũng nhiều lần nhắc đến tài năng của nhạc sĩ Văn Cao bằng sự kính trọng hết mực. Với giá trị hiển nhiên, nhạc Văn Cao đã vượt thoát qua cửa ải được trấn giữ lâu ngày bởi những đàn anh đi trước và đặt nền móng cho những thế hệ đi sau.

Tinh hoa phát tiết

Tài hoa của Văn Cao còn phát động sang nhiều lĩnh vực khác, nói như nhà văn Vũ Bằng thì, cái gì Văn Cao cũng biết, từ đàn ca, hát xướng cho đến vẽ vời. Trong đó, bên cạnh âm nhạc thì đáng chú ý hơn hết thảy là thơ ca và hội họa. Theo họa sĩ Tạ Tỵ, Văn Cao tuy chỉ học có hai năm ở trường Mỹ thuật Đông Dương với tư cách là sinh viên dự thính, nhưng lại có một tài họa kỳ lạ, hứa hẹn rất nhiều. Bức Cuộc vũ của những người tự sát theo trường phái lập thể được ông trưng bày trong “Cuộc triển lãm độc nhất” (Salon unique) hồi 1943 cùng hai bức Cây đàn đỏ và Đường cấm trong triển lãm tự do tại Liên khu ba vào năm 1949 đến giờ vẫn được nhiều họa sĩ nhắc đến. Văn Cao còn phát hành tuyển tập nhạc do ông tự tay trình bày bìa bằng những bức tranh avant garde rất độc đáo mà lúc đó chưa ai nghĩ ra cách như vậy. Tiếc là, qua nhiều dâu bể, những tác phẩm này chỉ còn lại trong ký ức của bè bạn ông.

Văn Cao, trong ký ức của bạn bè, rất tài hoa mà cũng quá đỗi tài tử. Sinh thời, ông mê rượu và thuốc lào. Một lần, nhà thơ Phùng Quán đang ngồi quán uống trà thì thấy Văn Cao cùng một người bạn liêu xiêu từ quán rượu bước ra. Văn Cao hỏi mượn Phùng Quán năm đồng, Phùng Quán vét sạch túi đưa hết cho ông ba đồng. Lát sau thì thấy bà Băng (vợ nhạc sĩ Văn Cao) hớt hãi đi tìm ông. Thì ra, ông đã để người khách từ Hà Giang xuống nhờ vẽ cái nhãn chè với thù lao 50 đồng và 10 gói chè loại I chờ dài cổ! Hôm sau, Phùng Quán hỏi, Văn Cao lắc đầu: “Mình cần tiền nhưng cũng vô cùng chán tiền!” Con người tài hoa, trong hoàn cảnh túng thiếu, thà vay mượn để thỏa cái sở thích của mình chứ không chấp nhận đem tài năng ra bán buôn, đổi chác !

Năm 1944, Văn Cao gia nhập Cách mạng và được giao soạn một bài hát nhân ngày kháng Nhật. Tháng 11 năm 1944, Tiến quân ca được hoàn thành nhưng mãi đến ngày 17/8/1945, nó mới thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình. Trong buổi mít-tinh của công chức tại Nhà hát lớn Hà Nội, Tiến quân ca được Phạm Duy “cướp micro” hát lần đầu tiên trước quần chúng. Sau 19/8, tên tuổi Văn Cao nổi như cồn. Đầu năm 1946, trong kỳ họp Quốc hội khóa đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quốc hội đã quyết định chọn Tiến quân ca làm Quốc ca của nước ta. Tiếp theo Tiến quân ca, nhạc sĩ Văn Cao hầu như chỉ viết những bản nhạc hùng ca Chiến sĩ Việt Nam, Bắc Sơn, Sông Lô, Tiến về Hà Nội,… duy có Ngày mùa và Làng tôi (1947) mang đậm âm hưởng dân ca.

Theo Vũ Bằng, khi Văn Cao nổi tiếng về nhạc, người ta mới giở lại những bài thơ của Văn Cao được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ Bảy cùng vài tờ báo khác. Đến lúc đó người ta mới thấy thơ Văn Cao hay cũng như nhạc của ông. Vậy là thơ Văn Cao được đưa ra mổ xẻ và ca ngợi ầm lên, Văn Cao thành ra một thứ “sản phẩm trác tuyệt của những năm bốn mươi”! Theo thời gian, thơ Văn Cao vẫn có chỗ đứng riêng, vì giá trị thực của nó chứ không lóe lên chỉ vì sự tung hô nhất thời với những bài thơ đậm chất thời sự như Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa đông 46, Những người trên cửa Biển cùng nhiều bài thơ khác được in trong tập Lá, xuất bản năm 1988.

Một khoảng lặng…

Sau 1954, nhạc sĩ Văn Cao hầu như không viết nhạc nữa (hiếm hoi có Mùa xuân đầu tiên được ông viết vào năm 1976). Nguyên nhân sâu xa của việc này là do ông cảm thấy ám ảnh sau việc bắn Đỗ Đức Phin – tay mật thám của Nhật vào năm 1945 tại Hải Phòng. “Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại căn nhà ấy, thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công hay phải nói một điều gì khác? Nên tôi im lặng, và chỉ viết nhạc-không-lời.”

Khi xảy ra vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm vào năm 1958, Văn Cao cũng như nhiều văn nghệ sỹ có liên quan bị đẩy vào bóng tối. Bản Tiến quân ca, vì thế cũng chịu nhiều thăng trầm như người viết ra nó. Tuy nhiên, với giá trị tất yếu, Tiến quân ca vẫn là Quốc ca của nước ta cho đến ngày hôm nay cũng như vị trí vững chắc của nhạc sĩ Văn Cao trong lòng người yêu nhạc. Năm 1983, lần đầu tiên sau nhiều năm, những nhạc phẩm của nhạc sĩ Văn Cao được hát trở lại. Năm năm sau, cái án Nhân văn được dở bỏ. Ba mươi năm, đủ để bãi bể hóa nương dâu, đủ dằng dặc để thui chột mọi sự sáng tạo, đủ khủng khiếp để gò ép một tinh thần. Vết xước xưa khó lành nhưng ít nhất cũng có những thứ được trả về đúng với giá trị vốn có của nó.

Ngày 10/7/1995, nhạc sĩ Văn Cao ôm giấc mơ đời người về với cõi thiên thai…

Viết về ông, với cái nhìn của một người trẻ lớn lên trong sự bùng nổ của rất nhiều trào lưu âm nhạc, tôi chợt nhớ đến một câu thơ trong bài Hoàng hạc lâu của thi sĩ Thôi Hiệu: Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản. Con người ấy – với sự vĩ đại của một thiên tài, như nhà báo Nguyễn Thụy Kha nhận xét “Văn Cao là trời cho” và một nhân cách đáng trọng – cũng như một loài chim quý, ra đi không bao giờ trở lại và cũng không có sự lặp lại, mang theo bao sự vấn vương, ngưỡng mộ và đồng vọng của hậu thế.

LƯƠNG Y HOÀ

@ Ngôn ngữ nghệ thuật thơ Văn Cao ___________________________________________

Hà Thị Hoài Phương

Văn Cao là một thi sĩ đích thực từ quan niệm đến tác phẩm. Trong tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ đăng trên tập san Văn nghệ tháng 7 năm 1957, Văn Cao đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tư tưởng trong thơ, đồng thời ông cũng cho rằng: “Tư tưởng, cảm xúc và cảm giác của nhà thơ phải thể hiện tinh vi. Câu thơ như vào trong óc để gợi sự suy nghĩ và trong tình cảm để xúc động và như vào trong da thịt để khêu gợi!” [1]. Có nghĩa, ngôn ngữ thơ phải giàu sức gợi, dồn nén, chắt lọc và dư ba. Ngôn ngữ thơ Văn Cao vì thế không nghiêng về trau chuốt cầu kì mà giản dị, gọn sắc và sâu nặng tình ý – một kiểu ngôn ngữ thơ đọc để thấm, không phải đọc cho vang.

  1. Ngôn ngữ thơ giản dị, hàm súc

Trước hết, ngôn từ trong thơ Văn Cao ít hoặc không có cái mỹ lệ thường thấy trong thi ca cổ điển. Văn Cao chủ yếu sử dụng lớp từ ngữ thuần Việt mộc mạc, giàu sức gợi. Đặc biệt là hệ thống từ láy tượng hình, tượng thanh, từ láy miêu tả cảm giác, tâm trạng giàu tính biểu cảm. Trong bài Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, ông sử dụng rất nhiều từ láy: “Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa”, “Chập chờn ảo hóa tà ma”, “Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường”, “Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây”, “Đảo điên…mê say…Thể phách chia lìa”, “Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch”, “Đầm đìa rả rích phương Đông”, “Mang mang thở dài hồn đất trích”, “Lưỡi thép trùng trùng khép cố đô”, “Đêm đêm đài canh tan tác”, “Run rảy giao duyên khối nhạc trầm trầm”, “Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc”… Mật độ từ láy xuất hiện rất dày đan xen với những thi ảnh siêu thực gây ấn tượng mạnh về một cõi người sống chết mong manh, gợi ám ảnh khôn nguôi về nạn đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945. Trong nhiều bài thơ tiêu biểu khác, Văn Cao cũng tận dụng tối đa sức biểu đạt của từ láy nhằm gia tăng sức gợi và tính biểu cảm cho thơ. Chẳng hạn: Ngoại ô mùa đông năm 1946 (28 từ), Bến Ngự trên thương cảng (21 từ), Những người trên cửa biển (75 từ). Việc sử dụng nhiều từ láy vừa tạo nên tính nhạc, tính họa cho thơ, vừa có sức truyền cảm lớn thấm sâu vào hồn.

Càng về sau, ngôn ngữ thơ Văn Cao càng giản dị, gần với lời nói bình thường. Lối diễn đạt có thành phần trạng ngữ chỉ nơi chốn thường chỉ xuất hiện trong văn xuôi lại được Văn Cao sử dụng trong thơ hết sức nhuần nhuyễn. Rất nhiều câu thơ, bài thơ của ông được viết ra tự nhiên như lời nói: “Những tư tưởng sâu như lòng mỏ/ Những khát vọng mênh mông không đáy mong manh/ Trong mỗi con người nhỏ bé những hạt bụi/ Trong lòng vũ trụ không đáy rộng mênh mông…” (Trên đường); “Tiếng kêu ở trong tôi/ Có xót xa có cả vui mừng/ Tiếng kêu của một khúc thép đỏ/ Trong chậu nước” (Cạn); “Kỉ niệm trong tôi. Rơi/ như tiếng sỏi/ trong lòng giếng cạn” (Thời gian); “nắng chuyển dần/ trên thềm đá cũ/ mùa thu năm nay/ không mưa ngâu” (Mùa thu); “Tôi ở/ Một căn nhà bên đầu ngọn suối” (Tôi ở)… Sự giản dị của ngôn từ không đồng nghĩa với sự giản đơn về ngữ nghĩa. Những không gian được gợi ra qua các từ ngữ trên vừa cụ thể vừa không cụ thể, vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng, vừa là không gian đời thường vừa là không gian tâm tưởng, chất chứa những tư tưởng sâu xa, không phải thoáng đọc, thoáng nghe mà hiểu được. Đó cũng chính là vẻ đẹp trí tuệ, là sức hấp dẫn của thơ Văn Cao.

Nhiều bài thơ của Văn Cao đạt đến đỉnh cao của sự giản dị như: Không nhớ, Thức dậy, Đôi bạn, Đêm quán, Không đề… Ở đó, ngôn ngữ thơ Văn Cao đã khước từ tất cả sự lấp lánh, chỉ như những lời tự thuật có sao kể vậy, tưởng là dễ hiểu đến mức không cần phải suy nghĩ. Nhưng đó lại chính là những bài thơ thăm thẳm chiều sâu ý nghĩa, khơi gợi những suy cảm không cùng. Chẳng hạn như bài Không nhớ: “Tôi không còn đủ nhớ/ Tuổi của tôi hay năm tháng bao nhiêu/ Bao nhiêu tỉnh thành bao nhiêu chỗ ở/ Bạn bè vui buồn/ Mù mịt như sương mờ/ Tôi chỉ còn thoảng nhớ… Bài thơ là lời bộc bạch vừa chân thành vừa giản dị về những năm tháng cuộc đời mà nhân vật trữ tình từng trải qua. Ẩn chứa sau những câu thơ bình dị là cả một thế giới tâm hồn trĩu nặng bao kí ức, hằn sâu những nỗi đau và tình người. Lời thơ như lời tâm sự nhưng dồn nén bao cảm xúc, đọc lên thấy rưng rưng, nghèn nghẹn… Ở Văn Cao, thơ tỏa sáng nhất là lúc ngôn từ đạt đến mức cực đại về sự giản dị.

Cùng với sự giản dị, ngôn ngữ thơ Văn Cao còn mang tính hàm súc, biểu hiện ở sự đa nghĩa, lời ít ý nhiều. Ngay từ những nhan đề cô đọng, súc tích: Quên, Chọn, Cạn, Trôi, Mẹ, Thời gian, Cuộc sống, Cánh cửa, Lòng núi, Những bó hoa, Nguyệt thực…, Văn Cao đã gợi nhiều liên tưởng và suy ngẫm sâu sắc về lẽ sống, về cuộc đời, về thế giới tâm hồn sâu kín phức tạp, cả những phù phiếm cám dỗ con người… Tính đa nghĩa của ngôn từ, hình ảnh thơ Văn Cao khiến độc giả phải miệt mài tư duy để đọc ra tầng tầng lớp lớp ý nghĩa bên trong nó. Những hình ảnh: “một hồ nước – trên họng một ngọn núi cạn lửa” (Cạn), một người bạn “im lìm như một bức tranh” (Về một người bạn), “Cái bức tường lê từng bước một” (Với Nguyễn Huy Tưởng), “Những mặt nạ giấy bồi” (Năm buổi sáng không có trong sự thật), “Những vết roi còn nằm trong da thịt nhiều năm” (Không nhớ)… đều là những ẩn ngữ đòi được giải mã. Đọc thấu những ẩn ngữ đó mới thấy hết độ nén và sự phong phú về ngữ nghĩa trong thơ Văn Cao.

Tính hàm súc còn được tạo ra bởi những khoảng trống giữa ngôn từ. Khi ý thơ bị dồn nén, đứt đoạn, nhảy cấp thì bài thơ càng có nhiều khoảng trống, khoảng lặng. Đó là khoảnh khắc “thử thời vô thanh thắng hữu thanh” (Bạch Cư Dị). Bài thơ Có lúc của Văn Cao cũng là một bài thơ có nhiều khoảng trống, khoảng lặng như thế:

Có lúc/ một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ Có lúc/ ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt Có lúc / nước mắt không thể chảy ra ngoài được

Bài thơ gồm 3 khổ, mỗi khổ thực chất chỉ là một câu nhưng được ngắt thành 2 dòng. Khoảng trống, quãng lặng không chỉ nằm giữa các khổ thơ mà còn ngay sau từ: “Có lúc”. Đó là khoảnh khắc nghẹn lại khi cái tôi thành thực đối diện với chính mình, thấm thía nỗi cô đơn và nỗi đau chạm đáy. Cái tôi ấy mang tính lưỡng phân – vừa can trường vừa yếu đuối – phản chiếu một thế giới tâm hồn nhiều uẩn khúc không dễ tỏ bày của Văn Cao. Nhiều bài thơ khác của ông như Không đề, Quán bia, Thức dậy, Phố Phái, Nguyệt thực, Sự sống thật… đều là những file nén như thế, đòi hỏi người đọc giải mã bằng cả tâm cảm và trí tuệ.

  1. Ngôn ngữ thơ giàu chất nhạc, chất họa

Theo các nhà nghiên cứu, nhạc tính trong thơ được thể hiện ở ba mặt cơ bản. Đó là sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng điệp. Cân đối là có sự tương xứng, hài hòa giữa các dòng thơ, khổ thơ, đoạn thơ, giữa các âm thanh hay hình ảnh. Trầm bổng là cách hòa âm bằng sự hiệp vần, cách phối thanh giữa các nhóm thanh điệu cao thấp. Trùng điệp là lối điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc trong từng dòng, từng khổ, từng đoạn của bài thơ.

Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài. Âm nhạc, hội họa và thơ của ông đều là những dòng chảy nghệ thuật đầy màu sắc nhưng chúng không tách rời mà xuyên thấm vào nhau trong tư duy mĩ cảm. Đặc biệt, thơ là lĩnh vực tích hợp tài năng của Văn Cao. Chất nhạc, chất họa cùng tồn tại trong thơ tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho những thi phẩm của người nghệ sĩ tài hoa này.

Thơ Văn Cao chủ yếu là thơ tự do không vần nên nhạc tính ít bộc lộ ở khía cạnh cân đối, hài hòa dòng, khổ hay sự hiệp vần du dương mà nghiêng về lối trùng điệp. Văn Cao sử dụng nhiều thủ pháp trùng điệp: Điệp âm, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc. Bài thơ Thu cô liêu có thể xem là một trong những bài tiêu biểu cho lối trùng điệp ngữ âm và cấu trúc cú pháp của Văn Cao: “Thu cô liêu/ Tịch tiêu/ Cô thôn chiều/ Ta yêu thu/ yêu thu/ yêu mùa thu/ Vàng hoen đáy nước/ Son rỏ đường đi/ Một mùa thi/ Một mùa thi/…Một chiều êm/ Một chiều êm”. Ngoài sự hiệp vần, nhạc tính của bài thơ còn được tạo nên bởi sự trùng điệp các âm tiết mang thanh bằng. Cả bài thơ có 46/66 âm tiết mang thanh bằng, trong đó có những dòng thơ liên tiếp những âm tiết mang thanh bằng không dấu (thanh ngang): “Cô thôn chiều/ Ta yêu thu/ yêu thu/ yêu mùa thu”, và những dòng thơ được lặp lại hoàn toàn: “Một mùa thi/ Một mùa thi/…Một chiều êm/ Một chiều êm”. Nhịp thơ đã thành nhịp lòng bồi hồi, tha thiết với mùa thi, với mùa thu. Nhạc điệu chơi vơi, dìu dặt kết hợp với những hình ảnh “vàng hoen đáy nước/ son rỏ đường đi…lá rơi rơi rụng…trăng ấp lạnh non…” gợi một vẻ đẹp buồn lãng mạn rất đặc trưng của mùa thu và tâm hồn cô đơn giàu xúc cảm của thi sĩ.

Ở những bài thơ dài, Văn Cao đã sử dụng thủ pháp trùng điệp như một hình thức kết cấu đặc biệt nhằm liên kết các ý thơ, đoạn thơ.

Trong bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, các câu thơ bắt đầu với cụm từ “Ngã tư nghiêng nghiêng…” được lặp lại 3 lần ở 3 đoạn thơ, xoáy vào tâm trí người đọc hình ảnh ngả đường chết chóc cùng hành trình lặp lại từng đêm, từng đêm của chiếc xe chở thi hài người đói. Những câu hỏi tu từ với chủ thể phiếm định cũng được láy lại như một niềm trăn trở nhức nhối: “Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ”, “Ai hủy đời trên tang trống nhỉ?”, “Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe”. Trong bài Bến Ngự trên thương cảng, Văn Cao cũng dùng thủ pháp trùng điệp để kiến tạo bài thơ, làm nên tính nhạc độc đáo: “Nhà ta hờ ơ trên bến Ngự”, “Nhà ta hờ ơ không đỏ lửa”, “Nhà ta hờ ơi trên thương cảng”, “Nhà ta hờ ơi không củi lửa”. Những câu thơ thất ngôn với 5/7 tiếng thanh bằng gợi nỗi buồn lê thê về một mái nhà hoang lạnh với những kiếp sống bấp bênh, mỏi mòn trên bến Ngự. Sự lặp lại câu thơ ở đầu mỗi đoạn như một điệp khúc – một kí ức không phai về những năm tháng đói nghèo, buồn thảm.

Xuất phát từ cái gốc tâm trạng nhiều suy tư, trăn trở nên Văn Cao đã sử dụng thủ pháp trùng điệp như một sự láy đi láy lại những day dứt trong lòng. Có khi là điệp từ bộc lộ niềm mong mỏi thiết tha, cháy bỏng: “Bao giờ nghe được bản tình ca/ Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật/ Bao giờ/ Bao giờ xóa đi tất cả/ Những con người không phải của chúng ta” (Anh có nghe không); có khi là điệp ngữ, điệp cấu trúc thể hiện những trăn trở khôn nguôi về sự sống: “Con thuyền đi qua/ để lại sóng/ đoàn tàu đi qua/ để lại tiếng/ đoàn người đi qua/ để lại bóng/ tôi không đi qua tôi/ để lại gì?” (Không đề); có khi bộc lộ những suy tư sâu thẳm về cuộc đời: “Tôi thả con thuyền giấy/ con thuyền giấy trôi/ Tôi thả một bông hoa/ bông hoa trôi/ Tôi thả một chiếc lá/ chiếc lá trôi/ Tôi giữ chặt em/ em vẫn trôi…” (Trôi). Sự trùng điệp trong những câu thơ trên là sự trùng điệp ngữ nghĩa, gợi những suy tư thuận nghịch, mở rộng trường liên tưởng trong óc người tiếp nhận. Chất nhạc trong thơ Văn Cao vì thế không đơn thuần là sự nhịp nhàng, trầm bổng du dương giữa những dòng thơ mà còn lắng sâu chất nghĩ. Nói cách khác, đó là sự ngân rung của nhịp trí tuệ, nhịp tâm hồn – những điều mà âm nhạc và hội họa không thể nói hết được. Chất nhạc đó một mặt thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ thơ sinh động, đầy biến hóa, mặt khác phản chiếu thế giới tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, giàu suy tư và ước vọng của Văn Cao.

Thơ Văn Cao không chỉ giàu chất nhạc mà còn đậm chất họa. Là một họa sĩ nên Văn Cao có sự dẫn đường của con mắt hội họa và điều đó chi phối cả những sáng tác thơ của ông. Nghệ sĩ Thái Bá Vân cho rằng, trong thơ Văn Cao, “đời sống chữ nghĩa được sử dụng theo quy luật hội họa khá nhiều. Ta dễ dàng nhận ra những sáng tối tương phản, những đậm nhạt thầm lặng, những đường viền nặng nề rồi bỏ quãng trôi chìm vào bóng tối, những chữ sắc nét như dao trổ, những hình tượng đẩy dồn về phía trước, những không gian tượng trưng…” (2). Nhận định trên đã nói lên được nét riêng trong sự thâm nhập, giao thoa giữa thơ và họa của Văn Cao.

“Thi trung hữu họa” vốn xuất hiện từ xa xưa – thuở thơ ca Đường Tống. Tuy nhiên, chất họa trong thơ xưa thường bộc lộ ở việc tả cảnh, qua cảnh mà gửi gắm tâm tình của thi sĩ. Đó thường là những nét bút màu sắc, giàu tính tạo hình, có khả năng tái hiện sống động hình tượng thiên nhiên, hình tượng con người. Thơ Văn Cao cũng không ngoại lệ nhưng điều khác biệt là ở Văn Cao có cả chất hội họa cổ điển (nghiêng về màu sắc, đường nét) và cả chất hội họa ấn tượng hiện đại (nghiêng về bố cục, tạo hình và sự tương phản). Những bài thơ được sáng tác ở giai đoạn đầu nghiêng về chất hội họa cổ điển với màu sắc, đường nét sinh động. Có khi đó là bức tranh mùa thu với sắc vàng quen thuộc: “Trông qua song cửa: trời vàng úa/ Mấy lá bàng rơi nhắc nhở thu! Chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống/ Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa” (Ai về Kinh Bắc); có khi là hình ảnh dòng sông – con thuyền – vầng trăng với nét vẽ thanh đạm mờ ảo: “Thuyền vào nằm ngủ trong mưa/ Trên con sông vắng lập lờ bóng trăng”, có khi là khung cảnh mộng mơ đầy lãng mạn như ở cõi thiên thai của chốn sơn thủy hữu tình: “Suối mơ bên rừng vắng/ Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng/…Bờ xanh ngát bóng đôi cây thùy dương/…Hoa lừng hương gió ngát/ Đàn ai đùa trong khóm lá vàng tươi” (Bài thơ bên suối). Những câu thơ vẽ nên dáng nét mềm mại của con suối, “bờ xanh”, “lá vàng” quyện trong hương hoa, chìm đắm trong tiếng đàn du dương, trong trẻo… Chất nhạc, chất họa in đậm trong những dòng thơ, gợi một vẻ đẹp thanh tao, thoát tục gần như tiên cảnh.

Từ bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, ngôn ngữ thơ Văn Cao có sự chuyển hướng nghiêng về chất hội họa ấn tượng. Ông ít tả cảnh thiên nhiên mà chủ yếu miêu tả bức tranh đời sống con người với những khoảng sáng tối đan xen, vừa cụ thể, vừa trừu tượng: “Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa/ Chập chờn ảo hóa tà ma/ Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa/ Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục”. Nhà thơ đã dùng từ ngữ để chớp lấy cái thần của cảnh, gợi nhiều hơn tả, gây ấn tượng về một không gian ma quái, chết chóc với ánh sáng mờ ảo, với những hình người không rõ nét, siêu thực và đầy ám ảnh.

Đặc biệt, ngôn ngữ thơ Văn Cao có khả năng chạm khắc được thế giới tâm hồn con người vốn sâu kín, vô hình với nhiều cung bậc cảm xúc, tâm trạng. Có khi là nỗi đau nhỏ máu của cuộc đời nô lệ lầm than: “Ôi Hải Phòng vết thương miền Bắc/ Cổ họng chúng ta ngày đêm rỏ máu/ Hải Phòng những đêm tối đen như hầm than đá”, có khi là những tình yêu khát khao hi vọng đọng thành hình, thành khối: “Tất cả tình yêu khát khao hi vọng/ Bốc lên trong lòng/ Rơi xuống những giọt nước mắt”, có khi là những ước vọng lớn lao, bộn bề: “Có người mang rất nhiều mộng lớn/…Quanh quẩn suốt nửa đời/ Óc hôm nay thành một xưởng đóng tàu buôn” (Những người trên cửa biển). Những suy tư, trăn trở, giằng xé giữa tốt – xấu, sống – còn, được – mất bên trong con người vốn không dễ nói thành thơ cũng được Văn Cao vẽ lại bằng ngôn ngữ: “Trở về mây đen và bóng tối/ Lãng đãng qua trong mỗi tâm hồn người” (Những người trên cửa biển), “Những tư tưởng sâu như lòng mỏ/ Những khát vọng mông mênh không đáy mong manh” (Trên đường), “Tiếng kêu ở trong tôi/ Tiếng kêu của một khúc thép đỏ/ Trong chậu nước” (Cạn). Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh đã cụ thể hóa cái trừu tượng khiến thế giới tâm hồn hiện lên sống động như thể nhìn thấy, chạm đến được. Sự u tối của tâm hồn được phủ bóng mây đen; chiều sâu của tư tưởng, của khát vọng được đo bằng lòng mỏ, đại dương; những xung đột bên trong con người được diễn tả bằng hình ảnh và tiếng kêu của khúc thép đỏ trong chậu nước. Đó là những ngôn từ sắc nét, ấn tượng, có sức khơi gợi mãnh liệt.

Văn Cao còn có biệt tài vẽ chân dung bè bạn bằng thơ. Ông viết về các nghệ sĩ Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Tường, mỗi người một vẻ, một tạng riêng. Dù có chung một tình bằng hữu trìu mến thân thương nhưng cái thần của mỗi chân dung thì không lẫn vào đâu được. Với Nguyễn Huy Tưởng, Văn Cao đã phác thảo một đời văn nghiệp bằng những nét vẽ tỉ mỉ: “Ngày ngày anh viết lên Hà Nội/ Tôi nhớ những ngón tay anh/ Đang nhặt một hạt cát/ Sờ soạng từng căn nhà/ Từng con người anh biết/ Chắt chiu lại cho tác phẩm cuối cùng…/ Những giọt mực của anh/ Chấm vào những năm chiến đấu/ Nhỏ từng giọt máu” (Với Nguyễn Huy Tưởng). Với những chi tiết nghệ thuật giàu chất hội họa, Văn Cao đã khái quát được chân dung tâm hồn của Nguyễn Huy Tưởng – một nhà văn chuyên tâm, cần mẫn với nghề, gắn bó với nhân dân và lịch sử bằng một tình yêu máu thịt. Văn Cao cũng đặc tả thế giới tinh thần của Nguyễn Tuân – tác giả tùy bút Sông Đà – qua không gian sống cũ kĩ, đầy bụi, đặc biệt là qua đôi mắt: “một lớp tro đang dòng dòng kéo sợi/ Như tơ nhện trong không gian đầy nước…” (Đôi bạn). Đôi mắt ấy phủ đầy sương, đôi mắt ẩn chứa nỗi buồn sâu kín, nói lên bao tâm sự không thổ lộ thành lời. Đọc thấu tâm sự qua đôi mắt ấy chứng tỏ Văn Cao hiểu bạn như hiểu chính mình. Những tình cảm ấy vừa mang tính chất riêng tư, vừa thấm đẫm nỗi ưu tư thời thế. Văn Cao cũng đã tóm được cái thần của sự nghiệp hội họa của họa sĩ Bùi Xuân Phái để hạ bút viết những câu thơ để đời: “Không người ở/ Không số nhà/ Không tên phố/ Tôi gửi bài thơ về/ Phố Phái/ Người đưa thư sẽ tìm đến phố anh” (Phố Phái). Phố Phái không phải là một trong ba mươi sáu phố phường Hà Nội cổ, nhưng tranh của Bùi Xuân Phái về phố cổ Hà Nội lại làm nên một thế giới nghệ thuật riêng, “tồn tại vĩnh viễn”, xứng danh được gọi là Phố Phái. Bùi Xuân Phái vẽ Hà Nội cổ, Văn Cao vẽ lại Bùi Xuân Phái bằng thơ. Ông phát hiện ra một Phố Phái. Với câu hỏi chơi vơi cuối bài: “Đến lúc nào phố anh có người thêm”, Văn Cao đã khẳng định tài hoa có một của Bùi Xuân Phái trong việc gợi lại vẻ đẹp của ba mươi sáu phố phường Hà Nội cổ. Bằng ngôn ngữ chạm khắc, Văn Cao đã dựng nên chân dung những văn nghệ sĩ tài hoa bậc nhất của nền nghệ thuật Việt Nam thế kỉ XX với tất cả sự đồng cảm, thấu hiểu và trân trọng .

Ngôn ngữ thơ Văn Cao không chỉ nói lên sự xuyên thấm của nhạc và họa trong thơ ông, mà còn phản ánh tài năng sáng tạo và cá tính của người nghệ sĩ trong hành trình lao động nghệ thuật vinh quang và khổ hạnh. Dẫu còn những chỗ ngôn từ được mã hóa mang tính siêu thực, có phần khó hiểu nhưng xét một cách toàn diện, ngôn ngữ thơ Văn Cao đã bộc lộ tư duy đa chiều cùng những trăn trở nhân sinh, trăn trở của người nghệ sĩ giàu ý thức trách nhiệm với đời sống và nghệ thuật./. ———————————————–

  1. Nhiều tác giả (2013), Văn Cao – Tác phẩm thơ, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội. 2. Thái Bá Vân (1996), “Như một viên gạch kỳ cựu nung ở độ lửa già”, Văn Cao cuộc đời & Tác phẩm, Nxb. Văn học, Hà Nội.

@ VĂN CAO, MỘT LỐI THƠ RIÊNG _____________________________ VŨ NHO

. Chúng ta đều biết Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài. Trong tư cách nhạc sĩ, Trịnh Công Sơn đã coi ông “sang trọng như một ông hoàng” * với những ca khúc trữ tình như Thiên thai, Suối mơ, Làng tôi, Mùa xuân đầu tiên,… những ca khúc hùng tráng như Tiến quân ca, Chiến sĩ Việt Nam, Tiến về Hà Nội,… và bản nhạc lớn Trường ca sông Lô.Trong tư cách họa sĩ, Văn Cao đã vẽ tranh, minh họa báo và làm bìa sách. Nhà nghiên cứu nghệ thuật Thái Bá Vân khẳng định “cái nhìn hội họa” của Văn Cao “có địa vị dẫn đường và chi phối”, “Có thể nói Văn Cao đã lập được trường phái minh họa và bìa sách”. Trong tư cách nhà thơ, Văn Cao có 64 bài thơ trong tập Văn Cao tác phẩm thơ. Nhiều người đã đánh giá rất cao thơ ông. Thái Bá Vân cho rằng “Có nhiều người sành, nhận xét rằng trong ba thứ đó (thơ, nhạc, họa – V.N), thơ Văn Cao là hay nhất”. Chúng tôi không muốn so sánh nhạc với thơ, nhưng chắc chắn thơ Văn Cao là một lối thơ riêng. Nhận xét của nhạc sĩ, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo về thơ Văn Cao là xác đáng: “Thơ ông đẹp một cách quyết liệt. Thơ ông thật đến siêu thực. Thơ ông mới bất ngờ như mầm cây vừa đội đất trồi lên”.

Đọc bài viết Mấy ý nghĩ về thơ do Văn Cao viết năm 1957, thấy rõ khuynh hướng thơ của ông nhất quán từ bài thơ đầu tiên viết năm 1939 cho đến bài thơ viết tháng 8 năm 1994 trước ngày ông đi vào cõi thiên thai một năm. Văn Cao thừa nhận và khuyến khích sự đa dạng của phong cách thơ: “Có người nói thẳng tới cái vô cùng tận của trời xanh qua cái rộng của biển, cũng có người thấy trời xanh vô cùng tận qua bát nước và cũng có người chỉ nói tới một giọt ánh sáng để tìm thấy cái vô cùng tận của trời xanh. Có người phải tìm con đường lớn mới thấy dấu xe mà có người tìm thấy dấu xe trong một hạt bụi”. Nhưng dù khác nhau, các nhà thơ cũng đều phải “tìm riêng lấy một cách thể hiện”. Tìm riêng lấy một cách thể hiện đó là mong muốn của Văn Cao trong bất cứ lĩnh vực nghệ thuật nào dù là nhạc, họa hay thơ. Chúng ta đã thấy tinh thần cách tân của Văn Cao. Tuy nhiên, có thể thấy ông không cực đoan như nhiều người trẻ bây giờ. Văn Cao mong muốn thơ phải có tư tưởng mới: “Chúng ta đã qua một thời kì dài thiên về cảm xúc và một thời kì cảm giác. Cái thời kì thiên về tư tưởng có phải đang bắt đầu không?”. Nhà thơ chỉ yêu cầu thiên về tư tưởng thôi. Nghĩa là thơ vẫn cần phải có cảm xúc, cảm giác, và phải có tư tưởng, đậm nhiều hơn tư tưởng. Và không chỉ có thế, Văn Cao mong muốn thơ không chỉ phục vụ cho hôm nay, mà thơ phải hướng đến “ngày sau”, phải lo đến tương lai. “Người thành công nhất ngày nay là phải lo đến cái thất bại ngày sau và người lo thất bại ngày nay cũng phải lo đến cái thất bại ngày sau. Nếu không có sự lo lắng đó, một nhà thơ không nghĩ tới trách nhiệm của mình khi viết, hoặc chỉ viết cho người bây giờ mà không có trách nhiệm đến người sau”. Viết lời giới thiệu cho tập thơ Lá chín của họa sĩ Văn Hải, nhà thơ Văn Cao cũng đòi hỏi “Với bạn trẻ làm thơ, tôi muốn tìm một phong cách mới”.

Để tìm một lối thơ cho riêng mình, Văn Cao rất ít viết thơ lục bát. Bởi vì nhà thơ biết rất rõ lục bát là “một thể thơ dễ làm và cũng khó làm”, rất dễ bị “nhàm tai” (Giới thiệu tập thơ Lá chín của Văn Hải, Nxb Văn học, 1993). Những dòng lục bát ít ỏi của Văn Cao trong hai bài Đêm ngàn và Đêm mưa rất mới mẻ và hiện đại:

Vi vu… Rừng lại sang rừng

Xa xôi tiếng đáp cũng ngừng xa xôi

Nương nương qua tiếng đồi đồi

Áo chàm nàng thổ pha phôi sắc chàm

(Đêm ngàn)

Thuyền vào nằm ngủ trong mưa

Trên con sông vắng lập lờ bóng trăng

(Đêm mưa)

Ngay từ những bài thơ đầu tiên xuất hiện trên thi đàn, Văn Cao đã thể hiện một lối thơ tinh tế, hiện đại như các chủ soái Thơ Mới bằng cách đem “con mắt của một người hội họa” (chữ của Văn Cao) nhìn cảnh vật và thấu thị sự vật bằng cảm nhận:

Trông qua song cửa: trời vàng úa

Mấy lá bàng rơi nhắc nhở thu!

Chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống

Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa

(Ai về Kinh Bắc – 1941)

Thơ làm hoa lá rung rinh thở

Nhựa ở thân cây se sẽ dâng

Sương ở đầu cành thâm thấm lá

Và dần dần thấm đất vươn xuân

(Ngâm thơ – 1942)

Nhà văn Vũ Bằng đã rất công tâm và chính xác khi đánh giá rằng: “Văn Cao quả là một người tài hoa có một. Đến lúc Văn Cao nổi tiếng về nhạc và vụ ám sát Đỗ Đức Phin, người ta mới giở lại những bài thơ anh đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy và một loạt tờ báo khác, và đến lúc ấy người ta mới thấy thơ Văn Cao cũng hay như nhạc của anh. Chẳng qua chỉ vì Văn Cao không quan niệm cái gì là quan trọng, không kéo bè kéo đảng để đưa nhau lên, suy tôn nhau là thi hào “lớn”, văn sĩ “lớn” nên lúc bước vào làng văn nghệ anh không được quảng cáo nhiều, do đó thơ anh bị chìm”.

Văn Cao đã viết trường ca Những người trên cửa biển năm 1956. Sau này trên thi đàn của ta một độ nở rộ những trường ca. Nhưng có thể thấy Văn Cao đã sớm là một người khai sơn phá thạch ở thể loại này.

Những bài thơ đặc sắc của Văn Cao được mọi người nhắc đến, phẩm bình là Năm buổi sáng không có trong sự thật, Những bó hoa, Nguyệt thực, Sự sống thật, Khuôn mặt em, Quy Nhơn, Thời gian, Khúc biến tấu tuổi 65,… Có biết bao người làm thơ về tháp Chàm, nhưng chỉ đến khi Văn Cao đem con mắt hội họa nhìn thì chúng ta mới có một tháp Chàm độc đáo về kiến trúc trong thơ:

Từ trời xanh

rơi

vài giọt tháp Chàm

quanh Quy Nhơn

Thơ cần thiên về tư tưởng, thì những bài thơ như Những bó hoa, Nguyệt thực, Chọn, Về một người bạn, Trôi,… chứa đầy tư tưởng trong hình thức cô đúc, ngắn gọn.

Văn Cao mong muốn “Qua một bài thơ, người ta thấy ngay con người của nhà thơ đang sống thực” (Mấy ý nghĩ về thơ). Không ít các bài thơ dài, ngắn của Văn Cao cho người đọc thấy điều đó.

Bài thơ Có lúc (1963) là một ví dụ:

Có lúc

một mình một dao trong rừng

không sợ hổ

Có lúc

ban ngày nghe lá rụng sao

hoảng hốt

Có lúc

nước mắt không thể chảy

ra ngoài được

Và bài thơ Khúc biến tấu tuổi 65 là một ví dụ khác về cuộc sống của nhà thơ sau những biến cố.

Có thể nói rằng toàn bộ sáng tác thơ của Văn Cao là những tìm tòi không mỏi mệt cho một lối thơ riêng, in đậm dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ đa tài. Những lời tuyên ngôn và hành động sáng tạo của nhà thơ luôn nhất quán. Văn Cao viết thơ cho hôm nay nhưng cũng luôn ý thức viết cho “ngày sau”. Thơ của ông sẽ đồng hành cùng bạn đọc đến tương lai, vì ông đã “tìm riêng lấy một cách thể hiện”, đã “can đảm biết làm nổ để mở đường”

VŨ NHO

.

@ Đọc “thời gian” của Văn Cao ___________________________________

NGUYỄN NHO KHIÊM

THỜI GIAN

Thời gian qua kẽ tay Làm khô những chiếc lá Kỷ niệm trong tôi Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn Riêng những câu thơ còn xanh Riêng những bài hát còn xanh Và đôi mắt em như hai giếng nước

VĂN CAO

Nhạc sỹ Văn Cao – tác giả “Tiến quân ca” – còn là một nhà thơ. Thơ và nhạc hợp thành đôi cánh nâng tâm hồn ông bay cao, kể cả khi thể xác ông không con nữa. Vào tháng 2/1987 khi tuổi đã xế chiều, Văn Cao viết bài thơ “Thời gian” giãi bày tâm sự về cuộc sống, nghệ thuật và tình yêu sau một chặng đường dài buồn vui đã trải qua.

Đối với Văn Cao, thời gian không vô hình mà là một khối vật chất có thể cân đo đong đếm, có thể cầm được trên tay. Thời gian là chiều thứ 4 của không gian, được phân bổ cho mỗi người không nhiều lắm:

“Thời gian qua kẽ tay Làm khô những chiếc lá”

Cứ cho cuộc sống của mỗi người trung bình là 80 năm, mỗi người đều có thể cầm quỹ thời gian ấy trên tay để sử dụng. Quỹ thời gian như nhiên liệu cho chiếc xe đời người, trái tim còn đập trong lồng ngực là nhiên liệu mất dần. Mỗi ngày thời gian trôi qua kẽ tay một ít. Thời gian càng trôi qua thì thể xác như những chiếc lá sẽ khô, sẽ bị huỷ diệt.

Câu thơ ngắn gọn, hiình tượng ẩn dụ có tính khái quát cao hé mở một góc nhìn về thời gian vaö cuộc sống nghiệt ngã của đời người mà ai cũng phải trải qua, đấy là quy luật của sinh và tử.

Đoạn cuối cuộc đời nhìn lại cuộc sống chỉ còn lại những kỷ niệm “kỷ niệm là những gì còn lại trong trí óc hiện tại về những sự việc đáng ghi nhớ đã qua” (Từ điển Tiếng Việt – Viện Ngôn ngữ học). Kỷ niệm ấy có tồn taị không?:

“Kỷ niệm trong tôi Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn.”

Những viên sỏi kỷ niệm đã hiện về nhưng không để lại âm thanh gì vì lòng giếng đời người đã cạn. Khi lòng giếng bị lấp đầy cũng là lúc kỷ niệm biến mất cùng khói sương.

Cuộc sống của mỗi người có hạn, sự sống luôn tiếp diễn. Ý nghĩa của cuộc sống ở đâu, người đi trước tồn tại ở người đi sau cái gì? Đó là điều trăn trở muôn thuở của nhân loại. Văn Cao gói ghém quan niệm của mình qua 3 câu thơ cuối của bài “ thời gian”:

Riêng những câu thơ còn xanh Riêng những bài hát còn xanh Và đôi mắt em như hai giếng nước.

Những câu thơ, những bài hát sẽ thoát khỏi thể xác Văn Cao, của những người sáng tạo ra cái đẹp sẽ xanh mãi trên cây đời, toả bóng mát, toả hương thơm trong vô tận của thời gian .

Thời gian làm khô chiếc – lá – đời – người nhưng lại làm tươi xanh chiếc – lá -thơ chiếc – lá – nhạc. Tại sao Thơ và Nhạc (cái đẹp) laị có sức sống vượt thời gian? Có lẽ con người dù sống trong không gian, thời gian nào cũng hướng tới cái đẹp, và cái đẹp được nuôi dưỡng sinh sôi mãi trong những thế hệ đi sau : “và đôi mắt em như hai giếng nước”. Nếu không có những ”giếng nước” của các thế hệ đi sau chăm tưới thì làm sao cây – thơ, cây – nhạc mãi xanh!

Bài thơ “Thời gian” có 7 câu thơ chia thành 12 dòng như một bức tranh thuỷ mạc với những nét chấm phá ngoạn mục. Với tranh Thủy Mạc hồn của bức tranh nằm ở những khoảng trống do nét chấm phá tạo ra. Bài thơ “thời gian” cũng vậy, điều tác giả muốn nói đều nằm ở bên ngoài con chữ, phía sau những hình ảnh do con chữ tạo ra.

Mỗi người tự nghiệm lại đời mình, tự cảm đời mình cũng là một cách hiểu thời gian của Văn Cao.

Nguyễn Nho Khiêm

.

@ Hành trình thơ Văn Cao ____________________________ NGUYỄN THỊ HỒNG

Từ những bài thơ đầu tiên viết năm 1939 đến bài thơ cuối cùng “Tôi ở” viết tháng 8/1994, Văn Cao có di sản khoảng chừng 60 bài, nhưng vẫn hiển lộ đầy đủ một chân dung nhà thơ khắc khoải với khát vọng lớn lao “tới bao giờ tôi gặp được biển?”.

Cuộc đời 72 năm của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với Việt Nam thế kỷ 20 nhiều biến động, để lại cho thế hệ sau nhiều câu hỏi không dễ trả lời.

Câu hỏi rộn ràng về cống hiến nhọc nhằn, câu hỏi cồn cào về thế sự ngổn ngang, câu hỏi mịt mờ về mệnh kiếp lênh đênh. Một Văn Cao đa tài không thể che chở một Văn Cao lận đận. Một Văn Cao danh vọng không thể bênh vực một Văn Cao cay đắng. Một Văn Cao hào hoa không thể an ủi một Văn Cao cô độc. Những ngày tháng Văn Cao đã sống, cứ đổ cái bóng gầy hắt hiu và trắc ẩn vào lòng công chúng, mà những bài hát của ông không lý giải được, những bức tranh của ông cũng không lý giải được.

Chỉ còn lại thơ, xoa dịu và tỏ bày giùm ông. Từ những bài thơ đầu tiên viết năm 1939 đến bài thơ cuối cùng Tôi ở viết tháng 8/1994, Văn Cao có di sản khoảng chừng 60 bài, nhưng vẫn hiển lộ đầy đủ một chân dung nhà thơ khắc khoải với khát vọng lớn lao “tới bao giờ tôi gặp được biển?”. Trong sự mến mộ của công chúng phổ thông, chân dung nhạc sĩ Văn Cao luôn khỏa lấp chân dung nhà thơ Văn Cao, bởi lẽ cảm giác xao xuyến thường lấn lướt nhận thức sâu xa.

Ngoài những phút giây phiêu lãng với giai điệu, Văn Cao cũng lắm lúc rạo rực với sắc màu qua vài bức tranh giàu cá tính thẩm mỹ. Tuy nhiên lúc chăm chú quay lại với thi ca, Văn Cao có tiểu luận: “Mấy ý nghĩ về thơ” nghiêm trang và khơi gợi: “Cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn, càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng”. Con đường thơ của Văn Cao đã chuyển dịch đúng như vậy.

Khởi nguồn thơ Văn Cao qua đôi bài Ly khách hay Linh cầm tiến mang dấu vết của Đường thi tùy hứng hoặc Đường thi ứng họa, như những câu: “Thiên bôi đối ẩm nhìn quan ải/ Quằn quại cờ bay trong gió sương”, hay: “Tâm sự chừ như trường giang vũ khúc/ Lãng đãng sương buông cổ độ mờ”.

Sự nghiệp sáng tạo của Văn Cao chỉ nên tính từ khi thơ và nhạc cùng đồng hành để tạo nên phong cách Văn Cao. Thưởng thức một cách tỉ mỉ, không mấy khó khăn để thấy được, tâm hồn nghệ sĩ của Văn Cao biến động qua ba giai đoạn với ba nét đẹp riêng biệt: giai đoạn mềm mại đắm đuối, giai đoạn lạc quan hào sảng và giai đoạn can trường sắc sảo. Và qua ba giai đoạn có trình tự trước sau, có thể khám phá được thế giới nội tâm của ông.

Giai đoạn mềm mại đắm đuối, âm nhạc Văn Cao có Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi, Buồn tàn thu… thì thơ Văn Cao chỉ có dăm vần điệu trễ nải: “Chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống/ Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa”, lúc thảng thốt Ai về Kinh Bắc, hoặc: “Thuyền vào nằm ngủ trong mưa/ Trên con sông vắng lập lờ bóng trăng”, lúc bùi ngùi Đêm mưa. Có lẽ đã dồn mọi tinh lực để thăng hoa ca khúc, thơ Văn Cao lác đác chớp sáng vài câu thơ lộng lẫy như: “sông trắng bờ xa lộ bóng nhà” và “ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi”. Thơ Văn Cao dường như bị say nắng Thơ Mới, cái rạo rực “quê lòng rộng mở đường cho sạch/ đón những bàn chân trắng nuột nà” cứ nhang nhác Xuân Diệu, còn cái sầu não “Đường ở đây mưa ướt đất trơn/ Nắng lên không kịp kẻ kia hờn” cứ từa tựa Lưu Trọng Lư.

Giai đoạn lạc quan hào sảng, âm nhạc Văn Cao bùng nổ với Tiến quân ca, Làng tôi, Chiến sĩ Việt Nam, Ngày mùa, Sông Lô, Bắc Sơn, Tiến về Hà Nội… thì thơ Văn Cao nhen nhóm chia tay Thơ Mới. Trên gác trọ xóm cô đầu Vạn Thái nhìn về phía Ô Cầu Dền, Văn Cao viết Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc vào năm 1945 bằng ngọn gió run rẩy khác lạ. Tuy vẫn còn chút hơi hướng cổ trang: “Ta đi giữa đường dương thế/ Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây”, nhiều chữ có hồn cốt mạnh mẽ kiểu Văn Cao đã xuất hiện như: “ta lả nhìn cửa sổ mắt mờ rồi”, như: “nhà ta thuê mái gục tự mùa thu”, như “ta về gác chiếu chăn gào tự tử”. Nhấn thêm một bước, bài thơ Ngoại ô mùa đông 1946đánh dấu thơ Văn Cao trưởng thành, với những câu chưa từng có trong Thơ Mới như: “ai kẻ dìu hoa chống phường Dạ Lạc” hay “một dãy phố nghiêng cả thành Hà Nội”.

Và trong sự thay đổi bút pháp, có cả sự thay đổi tư tưởng, từ thái độ lưỡng lự “khăn lụa che ngang mày thét nhạc/ gót chân xanh khép giọng Tỳ Bà” sang hành động dứt khoát “đập tan đàn khi nhạc mới mênh mông”. Tuy nhiên, bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc và bài thơ Ngoại ô mùa đông 1946 chỉ tạo đà cho khoảnh khắc nhảy vọt trong thơ Văn Cao, đó là sự ra đời của trường ca Những người trên cửa biển viết vào mùa xuân 1956, giúp cán cân thơ – nhạc có thành tựu tương đương.

Với bốn chương chia làm 16 khổ thơ, trường ca Những người trên cửa biển được viết trên tinh thần “Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại/ Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi”.

Cái riêng hòa vào cái chung, Những người trên cửa biển như một “tổng phổ” về những năm tháng tận tụy của Văn Cao với thành phố cảng, từ sự thủ thỉ “quê mẹ quê cha cách một vườn trầu” đến sự san sẻ “kíp thợ đêm lê về đến xóm/ nghe rét mùa đông nổi cuối sông” và bất chợt hân hoan “những năm đầu chính quyền cách mạng/ giấc mơ của Hải Phòng/ như bóng cò trắng bay về lòng tôi thuở nhỏ”.

Thử thách thể loại trường ca đòi hỏi sức cảm sức nghĩ phi thường, cũng chính là cơ hội phô diễn một Văn Cao tài năng cồng kềnh. Hít thở không khí xứ sở độc lập tự chủ, Văn Cao khẳng định: “có người hàng năm mặt trời không thấy mọc/ khép đùi xếp phách tiễn đêm đi/ hôm nay ngồi chép bài ca mới/ hương cốm mùi rơm ngát giếng đình” để mường tượng hòa bình đích thực “chúng ta sẽ trả về những bà mẹ Pháp/ núi hài cốt cuộc chiến tranh bẩn thỉu/ cũng như những người mẹ chúng tôi/ tiếc những dòng sữa, những cái hôn đã mất” và nghe được những va đập mỏng mảnh “tiếng thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc/ những con người gần ánh sáng chưa quen”.

Mặt khác, với ý thức kẻ sĩ đau đáu với vận mệnh dân tộc, Văn Cao lập tức cảnh tỉnh: “đất nước đang lên da lên thịt/ đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày/ ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải/ đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống”, và không ngần ngại vạch mặt mối hiểm nguy “hãy dừng lại/ những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc/ những tên muốn ôm cây to che cớm mầm non”.

Đánh giá một cách cẩn trọng, trường ca Những người trên cửa biển đã xác lập một vị trí nhất định trong nền thơ Việt Nam thế kỷ 20, bởi tình yêu mảnh đất: “mỗi người dân Hải Phòng thật kiếm ăn từ nhỏ/ mỗi người dân Hải Phòng đều biết đổ mồ hôi” đã dựng được hình tượng nhà thơ Văn Cao chung thủy với thời đại “cuộc đời ôm tôi như trong một cái bình/ một tiếng vang vang cả lòng cả đáy”.

Giai đoạn can trường sắc sảo, âm nhạc Văn Cao chìm vào im lặng, chỉ vụt lên một Mùa xuân đầu tiênnôn nao cùng non sông thống nhất năm 1975. Tất cả tâm tư Văn Cao dồn hết vào thơ “tung ra hàng loạt hàng loạt/ những con người thật của chúng ta”. Hơn 30 năm âm thầm trong căn phòng khiêm nhường ở 108 Yết Kiêu – Hà Nội, thơ Văn Cao chắt lại như “tiếng kêu của một khúc thép đỏ/ trong chậu nước” để đối diện với nghịch cảnh “có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được”. Hai bài thơ viết cho mùa thu ở hai cột mốc thời gian khác nhau vẫn không mấy khác nhau về xao xác, mùa thu 1968 “những bóng người loang trên Hồ Tây” và mùa thu 1992 “có tà áo trắng loang qua khung cửa” chứng tỏ ảo giác đơn lẻ hụt hẫng kéo dài qua vùng thơ ưu phiền. Bài thơ Thức dậy vỏn vẹn hai câu ít nhiều thể hiện được cứu cánh thi ca đối với Văn Cao: “Khi đêm tối tất cả người tôi thức dậy/ Những đam mê quên ngủ suốt ngày”.

Bơ vơ và chịu đựng, Văn Cao chỉ có nguồn động viên duy nhất “những ngày đau khổ ấy/ khuôn mặt em/ như mảnh trăng những đêm rừng cháy” để tiếp tục tin cậy nhân gian xuôi ngược “trên đường đi/ anh đặt em trên dốc núi/ để tìm lại những đường mềm của núi”.

Lời đề từ bài thơ “Ba biến khúc tuổi 65”, Văn Cao viết “những ngày buồn không nói được, tôi chỉ tìm ra sự sống của tôi”. Do vậy, có thể hình dung giai đoạn viết trường ca Những người trên cửa biển, Văn Cao không khác gì một hiệp sĩ sử dụng trường kiếm, trong vô chiêu lẫn hữu chiêu đều tung tẩy kiếm ý và kiếm khí, còn thơ Văn Cao giai đoạn này đã quay sang sử dụng đoản đao nhăm nhăm những đòn dứt điểm.

Không phải cuộc chơi nghệ thuật nữa, thơ Văn Cao trở thành cuộc truy vấn số phận. Truy vấn số phận về sự khốn đốn “tôi rơi vào mạng nhện/ mạng nhện cuốn lấy tôi/ không cách gì gỡ được”, truy vấn số phận về sự được mất “con thuyền đi qua/ để lại sóng/ đoàn tàu đi qua/ để lại tiếng/ đoàn người đi qua/ để lại bóng/ tôi không đi qua tôi/ để lại gì?” và truy vấn số phận về cả những Giấc mơchập chờn: “Dưới mái nhà/ Một người đang ngủ/ Với giấc mơ của những vì sao/ Những vì sao đang kể chuyện/ Giấc mơ của mái nhà/ Giấc mơ của một người đang ngủ”.

Nhờ cuộc truy vấn số phận miệt mài, Văn Cao được tự do tái sinh những trải nghiệm, từ trải nghiệm thua thiệt cá nhân “bỗng nhiên/ bóng của người ấy chia mất/ nửa mặt tôi/ một nửa mặt của tôi/ của tôi nửa mặt trắng/ miệng tôi nửa miệng đắng/ một con mắt tôi/ lặng lẽ lấp lánh/ sau bóng đen người ấy”, đến trải nghiệm lầm lạc ân tình “những bó hoa mang tới/ chúc tụng/ thành công một con người/ hàng ngày hàng ngày/ xây thành cái mồ chôn/ con người thành công ấy/ người ta đôi khi bị giết/ bằng những bó hoa”.

Thơ hóa giải tủi hờn và bất trắc. Những câu thơ hoang mang và chấp chới tuyệt vọng của Văn Cao như: “có lúc ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt” không chỉ kháng cự khổ hạnh cho tác giả, mà còn giúp độc giả cách hiểu một giọt nước mắt, cách nghe một tiếng thở dài. Bởi lẽ, nỗi buồn không phải quan trọng nhờ được nhà thơ đắp lên những mỹ từ khoa trương, mà vì nhà thơ gõ vào trái tim mình để chứng minh nỗi buồn có ích cho việc nuôi dưỡng bản tính lương thiện của con người trướcThời gian khắc nghiệt: “Thời gian qua kẽ tay/ làm khô những chiếc lá/ kỷ niệm trong tôi/ rơi/ như tiếng sỏi/ trong lòng giếng cạn/ riêng những câu thơ còn xanh/ riêng những bài hát còn xanh/ và đôi mắt em/ như hai giếng nước”.

Nguyễn Thị Hồng

/

@ Văn Cao – một gương mặt thơ cách tân. ___________________________________ Phương Thúy

“Với thơ, Văn Cao có một cách đi riêng so với những người bạn đồng hành cùng thời, đó là lời gọn và ý sắc với hình ảnh giàu ý nghĩa đời sống”. Đó là nhận định của các nhà thơ, nhà phê bình văn học tại tọa đàm và giới thiệu tập: “Văn Cao- tác phẩm thơ” diễn ra sáng nay (30/12) tại Hà Nội nhân kỉ niệm 18 năm ngày mất của ông.

Văn Cao chỉ được biết nhiều với tác giả của “Tiến quân ca”, “Trường ca sông Lô” và rất nhiều bài hát tiền chiến xuất sắc khi ông mới 20 tuổi như “Thiên thai”, “Buồn tàn thu”, “Suối mơ”, “Cung đàn xưa”…

Theo nhà thơ Vũ Quần Phương, đánh giá về cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao phải nhìn nhận toàn diện với 3 lĩnh vực là âm nhạc, hội họa và thơ.

Về âm nhạc, theo giới nghiên cứu âm nhạc thì nhạc sĩ Văn Cao là số 1 của thế kỉ 20, vượt qua Trịnh Công Sơn và Phạm Duy. Tranh của ông không còn lưu lại nhiều nhưng tác phẩm tranh hay minh họa bìa sách do Văn Cao vẽ bao giờ cũng đặt ra lối mới. Với những người làm thơ thì Văn Cao có một vị trí khá lớn nhưng đối với bạn đọc, ông không được biết nhiều bởi nhiều lý do khách quan.

Nhà thơ Vũ Quần Phương cho biết: “Tôi rất phục cách dùng chữ trong thơ Văn Cao, bởi vì chữ ông dùng không câu nệ vần điệu, không dùng những chữ quen mà toàn dùng những chữ mới. Nó vừa dễ hiểu nhưng để ngẫm hết ý thì lại khó. Có bài “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc” viết năm 1945 về nạn đói khiến người ta nhớ mãi. Còn những bài viết theo không khí tiền chiến thì được xếp vào những bài thơ hàng đầu của tiền chiến”.

Cuốn sách “Văn Cao- tác phẩm thơ” tập hợp 64 bài thơ của nhà thơ Văn Cao

Chính vì những lối làm thơ mới ấy, Văn Cao được xem là một gương mặt thơ có nhiều cách tân. Nhà báo Vũ Bằng từng nói “Văn Cao viết cho hôm nay nhưng cũng có ý thức viết cho ngày sau”. Còn nhà thơ Trần Ninh Hồ cho rằng: thơ của Văn Cao đầy tính nhạc, họa và luôn mới trong tư tưởng và cảm xúc. Các bài thơ của ông thường ngắn, không vần, gần như một lời độc thoại nhưng khiến cho người đọc nhớ được là do ấn tượng, với “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế”, “Khuôn mặt em”, “Ai về Kinh Bắc”…

“Càng nghĩ về vấn đề cách tân trong thơ thì càng phải nghĩ về Văn Cao nhiều hơn. Ông không phải cách tân theo một phong trào hay giai đoạn mà đó là sự cách tân thường nhật, theo từng cảm xúc. Văn Cao là trường hợp của tuổi trẻ giữa thế kỉ 20. Dưới 20 tuổi, ông đã viết những bài thơ ghê ghớm. 22 tuổi ông viết “Tiến quân ca”. Tuổi trẻ thời ấy – giữa thế kỉ 20 là tuổi trẻ vô cùng đáng kinh ngạc” – nhà thơ Trần Ninh Hồ cho biết.

Kỉ niệm 18 năm ngày mất nhà thơ, nhạc sĩ Văn Cao, tập sách “Văn Cao- tác phẩm thơ” vừa được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành bao gồm 64 bài thơ trong cả cuộc đời cầm bút của Văn Cao./.

Phương Thúy @ VĂN CAO LÁ KHÁT VỌNG

___________________________

Đặng Tiến

Chân dung Đặng Tiến (Văn Cao)

Lá, cho đến hôm nay, là tập thơ duy nhất của Văn Cao, xuất bản năm 1988 khi nhà thơ đã sáu mươi sáu tuổi, và đã sáng tác không ngừng nghỉ non nửa thế kỷ trong nhiều bộ môn: nhạc, hoạ, truyện và thơ.

Lá gồm có hai mươi tám bài thơ ra đời rải rác vào nhiều thời kỳ khác nhau, từ 1941 đến 1987, chủ yếu là những bài làm từ 1956 về sau, quan trọng nhất có trường ca Những người trên cửa biển. Nói là chủ yếu, vì năm bài thơ làm trước đó còn âm hưởng nhiều trường phái thi ca khác nhau trong thơ cũ. Từ 1956 những tác phẩm làm trong phong trào Nhân văn – Giai phẩm đã khẳng định cá tính thơ Văn Cao, mới lạ trong cấu trúc và sâu sắc tư duy. Hai mươi tám bài thơ: con số có lẽ là một trùng hợp tình cờ; không có gì chứng tỏ Văn Cao đặt rung cảm mình vào khuôn sáo nhị thập bát tú.

Thơ Văn Cao trĩu nặng tâm sự và khát vọng thời đại, và đất nước, nhưng nhan đề sao mà nhẹ nhàng, một chữ ngắn: Lá. Phải chăng đây là nhan đề ngắn nhất trong các tập thơ Việt Nam? Ngắn nhưng không gọn, giản dị mà không giản lược, vì buộc người đọc phải suy nghĩ lao lung.

Lá là một hình tượng thiên nhiên xuất hiện từ lâu trong nghệ thuật, vì gần gũi với con người từ buổi hoang sơ. Kinh Thi đã rậm lá, lá quyền, lá hạnh; thơ cổ điển đầy những lá trúc, lá ngô. Thơ nôm Nguyễn Trãi có lá sen, lá chuối. Thơ mới rợp lá bàng, lá phượng, lá me… Nhưng vẫn là một loại lá gì đó, trong một trạng thái nào đó, khi vàng, khi đỏ, khi xanh, lúc “che ngang mặt chữ điền”, lúc “dệt áo mơ phai”. Trong tác dụng tượng trưng hàm súc nhất: một chiếc lá vàng cũng đủ báo hiệu cho “ thiên hạ cộng tri thu”, thì lá vẫn có tên, có tích, ấy là lá ngô đồng. Trái lại Lá của Văn Cao là một hiện tượng thiên nhiên đơn lẻ trần trụi: lá của Văn Cao là cuộc sống, trong khi các loại lá rải rác trong thi ca, chỉ là những âm sắc, tính cách cục bộ nào đó, phân tách ra khỏi đời sống.

Là sự sống trong hình thái đơn giản và thiết yếu, lá hô hấp khí trời và mặt nhật để chuyển động ánh sáng thành màu xanh lục diệp và chuyển màu xanh thành dưỡng khí. Là cuộc sống mà cũng là nguồn sống. Là ngoại vật, lá chuyển nhập vào nội tạng con người qua những con đường từ thô thiển đến tinh vi. Lá góp từng tế bào vào cơ thể ta rồi tiếp tục nuôi dưỡng từng tế bào bằng dưỡng khí. Lá hèn mọn, lá phôi pha, lá vô danh. Sinh âm thầm, chết lặng lẽ. Thơ Văn Cao nói về những sự thật, những ân tình và bạc bẽo ấy.

Lá là nét cân đối trong không gian dưới mắt người hoạ sĩ, lá là những nét ký hoạ mà vũ trụ đã ghi lại hằng ngày trên nhật ký của mặt đất. Trong quá trình sinh trưởng, lá từ nhựa sống vươn đến một cấu trúc cân đối (symétrie) để rồi, từ đó dần dần mất dần cân đối (asymétrie) với thời gian, trong quá trình huỷ hoại: đó cũng là định mệnh con người từ bản thể chạm vào cơn gió của lịch sử. Lá là con người đương đầu với biến cố. Riêng chiếc lá Việt Nam, thân xác mong manh vùi dập đạn bom, với bột “khai quang”, là một đau thương khác, không thể bình luận về mặt triết học, văn chương.

Claude Levi-Strauss nhà bác học đã góp phần xây dựng nền cấu trúc luận, chi phối nhiều khoa học hiện đại, có kể lại rằng: ông ý thức được rõ rệt khái niệm cấu trúc, khi một buổi sáng chủ nhật ngắm nhìn một đoá hoa bồ công anh (pissenlit, dent de lion), một loại hoa đồng cỏ nội màu vàng, thông thường nhỏ bé. Nét hài hoà của đoá hoa, trong tương quan dị đồng với những loài hoa khác, đã đưa tư duy Levi-Strauss từ cảm xúc đến suy diễn, đến nghiên cứu, và lập thuyết. Hành trình của một tư trào lớn, có lẽ cũng là hành trình của một bài thơ, một bức hoạ. Dường như Văn Cao cũng có một ý nghĩ như thế khi anh viết: “ Cũng có người thấy trời xanh vô cùng trong bát nước, và cũng có người chỉ nói tới một giọt ánh sáng để thấy cái vô cùng tận của trời xanh. Có người cần phải tìm con đường lớn mới thấy dấu xe mà có người tìm thấy dấu xe trong hạt bụi”. Ở đây Văn Cao muốn trình bày thao tác trí thức, về khoa học cũng như về nghệ thuật, như là một sinh hoạt tổng thể, đi từ cảm giác, đến trực giác và suy diễn, lý luận, hay sáng tạo: “Chỉ riêng cái phần giác quan của nhả thơ cũng nói được cái hướng biểu hiện, hoặc thiên về tư tưởng, hoặc thiên về cảm xúc, hoặc thiên về cảm giác” (trong Một vài ý nghĩ về Thơ, Văn Nghệ, số 3-1957, Hà Nội).

Thơ Văn Cao giàu thị giác, thiên về tư tưởng, đòi hỏi cái mới, cái hiện đại. Nhưng anh cũng chấp nhận kinh nghiệm người đi trước

Nếu không có đường mòn Ai biết mà tìm nhau …Chỉ từ những đường mòn Rừng mở ra vạn lối.

Văn Cao cương quyết đi tìm những lối mới, cho hình thể hội hoạ, cho ngôn ngữ thơ ca. Anh ý thức rằng dân tộc cần những con đường mòn, cần truyền thống, để tự khẳng định, để giữ gìn bản sắc, nhưng lại cần những nhảy vọt để tiến bộ, để phát huy bản sắc ấy trong một thế giới đang thay đổi. Những thể nghiệm về hội hoạ trừu tượng năm 1945, về quan điểm thơ không vần 1949, là những cố gắng làm mới nghệ thuật. Nhưng Văn Cao cũng nhận ra rằng không thể có nghệ thuật mới, nếu không có tư tưởng mới và hoàn cảnh mới. Cuộc chiến tranh chống Pháp có tác dụng đổi mới tư duy, cũng như mọi cuộc chiến tranh, nhưng nó là vệ quốc nên, trong một chừng mực nào đó, đẩy lùi tư duy dân tộc về lại quá khứ với “ nam đế cư”. Nam đế ở đây không còn là vua Lý vua Trần, nhưng là nhiều thứ vua khác, mà về sau Văn Cao sẽ ví von với “ những con rồng đất khi đỏ khi xanh”. Không những “lẫn trong hàng ngũ” mà còn len lỏi vào tư tưởng và tình cảm của mỗi người. Cái giá rất đắt của gian khổ và chiến thắng mà dân tộc ta phải trả là tinh thần bảo thủ. Tiến bộ là niềm an ủi của những dân tộc chiến bại, Nhật và Đức. Thơ không vần là tự hào của một tâm lý thất bại, Thanh Tâm Tuyền là một ví dụ. Thơ vần hay không vần, tuy chỉ là một vấn đề kỹ thuật, nhưng là một khâu có tác động trên cả guồng máy. Phải đợi sau khi hoà bình lập lại, 1956, Văn Cao mới làm thơ trở lại, không vần, thơ mới.

Tôi muốn tìm hiểu cuộc đời Như lấy bàn tay dò mạch giếng chảy.

Thơ Văn Cao là cuộc tra vấn thường xuyên cuộc sống và con người, về thân phận, về ước vọng. Đề tài thơ Văn Cao không nhiều: vài ba kỷ niệm, với dăm người bạn, vài thành phố nhưng lúc nào cũng là những câu hỏi dằn vặt. Về Bùi Xuân Phái, anh nhắc đến những bức tranh Phố Phái:

Không người ở Không số nhà Không tên phố

để cuối cùng tự hỏi:

Đến lúc nào phố anh có người thêm ?

Với Nguyễn Tuân thân thiết, anh chỉ giữ lại cái nhìn:

Mắt anh vả mắt tôi Một lớp tro đang ròng ròng kéo sợi

Với Nguyễn Huy Tưởng, anh nói về ám ảnh cái chết:

Bức tường lê từng bước một Đến gần chân chúng tôi hằng ngày … Chúng ta đều sợ một cái gì nhanh quá

Khi vĩnh biệt Nguyên Hồng:

Riêng anh niềm xúc động của tôi … Nơi anh nơi tôi hai xóm nghèo được sống

Các cụ ngày xưa đã tiết kiệm tâm tình, mà cũng có lúc oà vỡ thành tiếng khóc, như Nguyễn Khuyên khóc Dương Khuê. Ở Văn Cao không có những nức nở đó, mà chỉ có những nhức nhối thu lại trong nội tâm, trong im lặng “Có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được”. Thơ Văn Cao, chủ yếu, là những phút im lặng giữa những khoảng tối và sáng trong ngôn ngữ.

Hà Nội vào thu, trong thơ Văn Cao không có những màu mơ sắc mộng, mà nhắc nhở những hy sinh:

Máu bao nhiêu người thấm đất Để người ta mãi nhớ Phố phường Hà Nội Lúc vào thu

Hà Nội ban đêm:

Xa xa xa Đêm động tiếng còi tàu Hà Nội càng thêm cũ Gió cuối năm luồn vào phố hẹp Ruột phố Hà Nội cũ Nhớ một cánh buồm

Cũng một u hoài, nhưng không vỗ về mà quặn thắt. Đọc Văn Cao mệt.

Khi nhìn những con người Hà Nội trên hè phố uống bia, lẽ ra anh phải cho mình cái thảnh thơi phơi phới, cái phè phỡn với đám đông, cái phút tự quên trong ầm ĩ. Thì không, mình vẫn phải chứng kiến bề trái cay đắng phi lý đằng sau bề mặt rộn rã:

Họ đến đây đông lắm Uống rỗng những thùng bia Uống hết một ngày đang hết Uống hết một năm sắp hết Còn li ếm môi Họ thèm bia hay thèm sống Thèm đám đông.

Những thành phố thân yêu khác cũng là những đau đớn: Huế là “ Từng m ặt gương đau / Từng mảnh gương tan”. Quy Nhơn là một dấu hỏi:

Mẹ ơi Nghĩa Bình từ đâu phải từ máu thắm… Không đất này mọc lên từ nước mắt!…

Nhưng sâu lắng nhất là hình ảnh Hải Phòng, thành phố của tuổi thơ, nơi tiếng sóng đong đưa “tiếng hát mẹ chiều ru võng”… Và Hải Phòng trong trường ca “ Những người trên Cửa Biển ” còn là hình tượng cuộc sống toàn diện, bềnh bồng trên lịch sử gian nan của một dân tộc, một đất nước:

Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi

Cái tôi ở đây của Văn Cao là con người nói chung, đặc biệt người Việt Nam:

Bao tình yêu khát khao hy vọng Là tiếng con sông mảnh đất viên đá Hải Phòng … Cuộc đời Dĩ vãng Thời gian Bỏ neo trên mặt bến

Hải Phòng, cửa khẩu lâu đời, đã ngàn năm làm lá phổi, là đôi mắt của tổ quốc, là “cổ họng chúng ta ngày đêm rỏ máu”. Hải Phòng: phòng tuyến trên mặt biển, là một vị trí chiến đấu, từ thời bà Lê Chân, danh tướng của Hai Bà Trưng đến ba lần phá quân Hán quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, nhưng gian nan nhất là thời kỳ chống xâm lược từ phương Tây: chúng ta không thể đóng cọc chống lại những tàu chiến và những pháo đài bay hiện đại. Chiến tranh Việt Pháp nổ ra tại Hải Phòng ngày 20.11.1946, một tháng trước ngày toàn quốc kháng chiến, rồi kéo dài qua thời kỳ chống Mỹ, đến cuối 1972, một tháng trước hoà ước Paris. Văn Cao đã gợi lại “ những năm tháng Hải Phòng đầy biến động” cho đến 1956, với những chấn động xã hội và chính trị theo sau. Hình ảnh Hải Phòng dưới đôi mắt trẻ thơ thời thuộc Pháp:

Đâm lên khoảng mây giữa tỉnh Tháp chuông nhà thờ An ủi những người khổ sở Chung quanh Hoả lò, trại lính Cha tôi nghe tiếng chuông đổ đầu tiên Giữa buổi chiều không cơm cháo Bàn tay mẹ tôi quờ trong thạp gạo…

Thời đó thực dân mộ phu phen gửi vào miền nam hay sang Tân Đảo:

Xóm tôi càng nghèo xơ nghèo xác Đàn gà không kiếm ăn được trên đống rác Hàng trăm ngàn người lại theo tàu ra biển Ai biết cao su đất đỏ là đâu Thỉnh thoảng một xác trôi về bến…

Người chết trong giông bão, chết vì bị đánh giết, vì đói, vì dịch, và Văn Cao đã thốt lên câu hỏi thống thiết, hiện đại, hiện sinh:

Giê su Sao người chết mãi không thôi

Có cả những cuộc hành quyết, những Nguyễn Đức Cảnh (1931), Lương Khánh Thiện (1941):

Có năm Hoả Lò dựng lên máy chém Cả Hải Phòng sau những án đau thương Không ai dám nhìn một con gà bị giết

Ảm đạm kéo dài tuổi thơ dưới thời Nhật thuộc:

Có năm những đoàn ngựa Nhật đi vào tỉnh Xóm tôi không còn một buồng chuối chín Có năm bom Mỹ đổ xuống quanh nhà Chỉ còn tiếng kêu trời khóc ra máu

Những ngày “cửa biển về ta / Những năm đầu chính quyền cách mạng” lướt qua rất nhanh trong thơ Văn Cao “ như bóng cò trắng bay về lòng tôi thuở nhỏ” có lẽ vì đã có nhiều thơ về giai đoạn này, đặc sắc là bài 19.11.1946 của Trần Huyền Trân. Thời đó, 1946, ta đã có chính quyền nhưng quân Pháp đã đổ bộ và Tàu Tưởng còn đóng quân tại miền Bắc; vấn đề chủ quyền đặt ra, khắp nơi trên nguyên tắc, như gay gắt và cụ thể tại Hải Phòng: ai kiểm soát hải quan? Vậy là quân Pháp nổ súng, sát hại hàng ngàn người dân vô tội trong thành phố: cuộc chiến tranh Việt Pháp thực sự bắt đầu tại Hải Phòng.

Khi nhắc đến “giấc mơ ủ kín lòng Hải Phòng tạm chiếm “, Văn Cao gợi lên cuộc kháng chiến chống Pháp trong kích thước quốc gia, vượt ra khỏi tầm một thành phố, với những mất mát không còn hàn gắn lại được:

Chúng ta nhớ gì nhữ ng ngày kháng chiến Mất cả mùa xuân mất cả tình yêu Mất đôi mắt thật trong, mất rất nhiều rung cảm Mất rất nhiều đồng chí Nhưng chúng ta làm chủ được Hải Phòng Tiếng cười khóc trên Hải Phòng suy nghĩ Những mái nhà xưa đếm lại thiếu người.

Hiệp định Genève tái lập hoà bình, thì Hải Phòng chứng kiến cảnh chia ly nam bắc, với những chuyến tàu đi:

Vợ xa chồng Anh xa em Chiều Nam chiều Bắc cùng sầu

Di cư xong. Tập kết xong. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thời điểm tháng 2 năm 1956: những nhà máy Hải Phòng bắt đầu nhả khói. Tố Hữu làm thơ “ hớn hở mùa xuân… Giữa mùa xuân, vững bước tới tương lai… Tôi vui đi, mê mải… một… hai”. Văn Cao cũng làm thơ, kết thúc trường ca Hải Phòng với “ Những ngày báo hiệu Mùa Xuân”. Mới báo hiệu, nghĩa là… chưa có mùa xuân. Đã thế, anh lại còn cao giọng tố cáo:

Trong những ngày khó khăn chồng chất Kẻ thù chúng ta xuất hiện Những con rồng đất khi đỏ khi xanh Lẫn trong hàng ngũ

Những con bói cá Đậu trên những dây buồm Đang đo mực nước Những con bạch tuộc Bao tay chân cố dìm một con người

… Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải Đã thấy loài sâu nằm trong cuống … Hãy dừng lại, Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc Những tên muốn làm cây to che cớm mầm non

Những rồng đất, bói cá, bạch tuộc, những con sâu, những tên nọ tên kia là ai? Văn Cao không nói rõ, nhưng doạ “sẽ vạch từng tên từng mặt”. Rồi dòng thơ Văn Cao tuôn ào thác lũ:

Con đường ta đi tự hào 1ực 1ượng Con đường nước nguồn thành sông biển Con đường ta đi tự hào duy nhất Con đường đi trái đất quanh mặt trời.

Dĩ nhiên là không dẫm lên vết chân “mê mải… một… hai…” của người kia. Họ ức Văn Cao cũng là điều dễ hiểu.

Hải Phòng, hòn máu của lịch sử, còn là tế bào của xã hội, một xã hội công nghiệp đang thành hình. Hải Phòng là một chiến luỹ xưa, nhưng là một thành phố mới, phát triển với xã hội thuộc địa. Tuy rằng kế thừa sinh hoạt bến Vân Đồn thời Trần hay Phố Hiến thời Lê, Hải Phòng bây giờ mới mở mang từ đầu thế kỷ, càng ngày càng sầm uất:

Đầu những ngọn sông những lá thuyền trút xuống Đoàn lũ tàu đang hồng hộc chạy về đây Đổ đầy Hải Phòng tiền rừng bạc biển Ngập đường ngập phố Ngập kè đá đường goòng.

Của cải ở đây là của thực dân Pháp và một ít tư sản địa phương câu kết với Pháp. Người Việt cung cấp dịch vụ và giải trí cho thuỷ thủ và lính viễn chinh. Một ít thợ thuyền làm trong các xưởng sửa chữa tàu thuỷ và nhiều nhất là phu khuân vác. Nguyên Hồng đã mô tả đầy đủ Hải Phòng qua bộ truyện dài Cửa Biển, đặc biệt trong tập Sóng gầm, về cuộc sống phu phen vào những năm 1936-1939. Lực lượng thợ thuyền ấy có khả năng và truyền thống tranh đấu, bãi công, như vào những năm 1919, 1926, 1928 và 1929. Do đó, trong Những người trên cửa biển, Hải Phòng làm biểu tượng thành phố thợ thuyền, đối lập với làng mạc nông thôn, và trong một chừng mực nào đó, cái mới đối lập với cái xưa cũ, phù hợp với tầm nhìn của Văn Cao. Dân Hải phòng là “người góp”, gồm có “ hàng vạn người không ruộng cày ra biển”

Ai biết Hải Phòng là đâu Từ giã bờ tre mái rạ Đến đây là chỗ cùng đường

Khác với người dân tỉnh lỵ, hay Hà Nội, họ là người nghèo, mất liên hệ với nông thôn, sống không có truyền thống, chung đụng với những người khác nguồn gốc:

Người dân thành phố Mồ hôi còn nước mặn phù sa Dầu mỡ bụi than Sống như muối đọng lấy bờ lấy bãi Sống chắt chiu đùm bọc yêu thương Che chở nắng mưa, đỡ đần b uổỉ gạo Đoàn thuyền nát buộc vào nhau ngày bão Chưa quá ba đời sống trong một xóm Chưa đầy chục người chết trong một mái nhà thuê Bạn bè quen thuộc Các giống người Từ chân trời bốn phương đi lại

Họ an phận thủ thường trong kiếp sống than bụi, trong khi Văn Cao mơ mộng:

Thuở nhỏ lòng tôi hướng mãi Theo những con tàu biển ra đi Đến những đất đai tưởng tượng

Đến đây, chúng ta đã đi vào chiều sâu trong cấu tứ, tạo thành thi pháp Văn Cao. Văn Cao ít làm thơ và sáng tác khó khăn, nhưng gặp đề tài Hải Phòng, sức sáng tạo tuôn trào, lời thơ lai láng mà vẫn súc tích. Anh sáng tạo như trong một cơn say: chếnh choáng đề tài, ngất ngây cước sống. Tâm linh lồng lộng trang giấy một mạch năm trăm câu, cấu trúc chặt chẽ, các cụ gọi là “ nhất khí quần hạ”. Dù rằng anh có lao động chi li, sửa đi sửa lại thì nguồn thơ nguyên thuỷ vẫn là nền chính.

“Một tiếng vang vang cả lòng cả đáy”, bài trường ca là hợp xướng cuộc đời lao động cùng khổ, đối lập với giấc mơ một xã hội công nghiệp tân tiến và những chân trời mới. Cùng trong năm 1956, anh còn làm bài thơ quan trọng khác, Anh có nghe không, nổi tiếng vì tính cách tố cáo và phản kháng. Nhưng bài này đọc kỹ, chỉ là trường ca Hải Phòng thu gọn lại, với chung một nguồn rung cảm, cấu tứ, tạo hình. Về sau, những bài thơ ngắn hơn, dù đặc sắc vẫn là những mảnh vỡ của Hải Phòng. Đặc biệt Quy Nhơn, qua ba bài thơ làm mười năm sau (1985), sao mà giống… Hải Phòng quá.

Hải Phòng, thành phố công nghiệp, trong than bụi đã hứa hẹn một xã hội mới “không có lúa đồng thơm nhưng có trăm nhà máy”. Đất nước sẽ thoát ly ra khỏi những ràng buộc của thiên nhiên trong chế độ nông nghiệp:

Đất nước ngày nay về tay người thợ Quê hương những người nghèo khổ chúng ta Sức tự hào của những người ở biển Không sợ thiên nhiên, không sợ cuộc đời Lòng rộng bao la nhiều chân trời cửa biển

Thơ Văn Cao rất ít hình ảnh nông thôn, tuy rằng thế hệ anh gắn bó dài lâu với đồng quê. Thậm chí trong lời nhạc cũng vậy. Hình ảnh làng mạc chỉ là những nét ký hoạ, tốc hoạ, “ bóng cau với con thuyền, một dòng sông”. Âm vang đồng nội còn lại “ tiếng chuông nhà thờ rung”. Tâm lý nông dân thô thiển: “ dân làng vui như tết – Qua mùa này không lo”. Trong Những người trên cửa biển, hình ảnh đồng quê khuôn sáo:

Tôi nghe tiếng hát mẹ chiều ru võng Những ca dao của đồng lúa quê hương Những dáng cò lặn lội

Bản thân Văn Cao nhận rằng mình “ không có quê hương” hiểu theo nghĩa làng mạc gốc tích, dường như anh không muốn có. Người Việt Nam thường hỏi nhau về gốc tích – dù bản thân không mấy liên hệ. Nhưng Văn Cao thì nói phăng:

Tôi không có quê hương Nghe đâu như Thái Bình Hà Nam Phủ Lý Như Nam Định Ruộng đất mênh mông trong tiếng hát Quê mẹ quê cha cách một vườn trầu.

Quê hương, nếu có, chỉ là những hình ảnh mông lung, bàng bạc dọc theo những dòng sông hay quây quần chung quanh giếng nước, nơi trí tuệ dừng chân nghỉ ngơi và nghĩ ngợi, trước khi phóng cái nhìn về những chân trời mới. Do đó mà từ một Hải Phòng rách nát, nguồn rung cảm Văn Cao vẫn dạt dào hứng khởi. Những người trên cửa biển gọi là trường ca, vì nó ngợi ca cuộc sống, nó ca hát những đau thương để hướng về cái mới, cái cao cả mai sau.

Nó ca hát trước hết bằng nghệ thuật. Hải Phòng là khởi điểm của nghệ thuật.

Bắt đầu là âm nhạc: “Hải Phòng dựng lên âm nhạc”. Đúng thôi, vì nền tân nhạc Việt Nam bắt đầu từ Hải Phòng những năm đầu 1940 với ban nhạc Đồng Vọng; nhưng ý Văn Cao khởi đầu từ lịch sử âm nhạc không dừng lại đó, anh muốn rằng “Nhạc đang biến thành sự thực quanh ta”. Nhạc là biểu tượng của hạnh phúc – dù khi diễn tả khổ đau. Nhạc là cuộc đời đã thăng hoa thành âm hưởng; trước kia nó là Thiên Thai, là Suối mơ, là Ngày mùa. Nay, nhạc là hạnh phúc trong cuộc đời còn lem nhem than khói: “Hải Phòng dựng lên hội hoạ – Những bức tranh tăng dân số chúng ta”. Một câu thơ khó hiểu. Ý Văn Cao có lẽ là hội hoạ tạo cho chúng ta một không gian khác, do đó tăng kích thước đời sống cho chúng ta; hội hoạ dạy ta cái đẹp – dù là cái đẹp sẵn có trong trời đất và trong nội tâm:

Có người không biết trăng là đẹp Bỗng nhiên chiều đứng ngắm trăng lên Trên đầu nhà máy Nghe như ai hát trong lòng

Đây là tuyên ngôn nghệ thuật của Văn Cao, người đã góp công xây dựng nền nhạc mới, nền hoạ mới. Và nền thơ mới. Trong lịch sử, Văn Cao đã hoạt động, đã bạo động, và sau đó biết rằng anh không thể cứu người trong lịch sử; mà chỉ có thể cứu họ trong nghệ thuật, khi sáng tạo ra một trần gian khác, trước đó là Thiên Thai, bây giờ là một nghệ thuật hiện đại.

Có người hằng năm mặt trời không thấy mọc Khép đùi xếp phách tiễn đêm đi Hôm nay ngồi chép bài ca mới Hương cốm mùi rơm ngát giếng đình

Hải Phòng đã dựng nên thơ Những câu thơ thành thời sự

Hương cốm, mùi rơm thì có gì làm mới? Nhưng nghệ thuật làm cho nó mới, cũng như làm cho thời sự thành thơ. Cái gì trong cõi đời này mà không mới, không thơ, không là nghệ thuật? Nhiệm vụ của tác phẩm là tạo nên cái nhìn thẩm mỹ. Con người nguyên thuỷ, thoạt tiên đâu có yêu trăng lên, chiều xuống, lá rụng, hoa tàn. Nghệ thuật biến phôi pha thành vẻ đẹp miên viễn của trần gian. Nghệ thuật giúp con người vượt khỏi thời gian, làm chủ thời gian:

Thời gian làm trẻ lại chúng ta Khi thời gian là của chúng ta

Nghệ thuật là cảm xúc vươn lên Trí Tuệ:

Hải Phòng dựng lên Tư Tưởng Làm nhựa dẫn trong tôi

vì từ bến cảng

Tâm hồn ta tràn theo sóng ra khơi

Với Văn Cao, Hải Phòng, qua những biến động và phát triển, là sự hình thành của nghệ thuật và ý thức thẩm mỹ. Có lẽ đối với Nguyên Hồng cũng thế: tác phẩm lớn của anh xoay chung quanh cuộc sống Hải Phòng. Trong bút ký “ Hải Phòng qua vài trang sử mở ” (1973), Nguyên Hồng viết: “Tôi càng nghĩ về Hải Phòng, tôi càng thấy Hải Phòng thật là mối tình đầu của tôi, và tôi mắc một món nợ lớn, thiêng liêng vô cùng, phải cố sao mà trả dù chỉ phần muôn một. Phải! chỉ phần muôn một, nếu không, trọn đời làm gì cũng không yên tâm”.

Nhấn mạnh vào biểu tượng thành phố Hải Phòng, nguồn cấu tạo thơ Văn Cao, chúng tôi muốn nói rằng: đề tài một bài thơ, những ý tưởng, tình cảm ẩn hiện, và chữ nghĩa thân xác bài thơ đó là một duy nhất. Văn Cao làm thơ về Hải Phòng, Nguyên Hồng viết truyện về Hải Phòng cũng như Xuân Diệu làm thơ về tình yêu, Hàn Mạc Tử làm thơ về đức tin, Huy Cận làm thơ về vũ trụ. Đề tài không phải là đối tượng, nó không nằm ngoài tác giả, mà nó là chủ thể, nó là tác giả, thậm chí làm chủ tác giả khi là nguồn cảm hứng có tiềm lực cấu tứ. Lúc đó, đề tài lái dẫn bàn tay, ngòi bút chỉ làm việc sắp xếp, sửa đổi. Nói về hội hoạ, Văn Cao có lần bảo tôi: vẽ gì thì cũng vẽ chính mình mà thôi. Hải Phòng là bản thân Văn Cao.

Một Văn Cao truân chuyên, cay đắng, nhưng tin tưởng và độ lượng – tin tưởng vì độ lượng. Văn Cao tin ở cuộc đời, ở vũ trụ, tin vào một thiên nhiên nuôi dưỡng con người,

Từ xa về hạt giống rải qua sông Mảnh đất nơi đây vùi nông cũng sống

Nếu có lúc con người phải chiến đấu chống trả thiên nhiên, “ngày đêm vét nước nối đê” “ ngăn từng cơn gió muối”, thì có lúc thiên nhiên bảo vệ con người bằng những “ngọn sú ven sông… bãi sú vô danh… bãi sú bồi thành bến” chống trả với biển cả. Cây sú là một loại cây dại, mọc dọc biển, có tác dụng gìn giữ đất liền tại Bắc Bộ, giống như cây đước, cây vẹt ở miền Nam, đặc biệt Rừng Mắm trong truyện Bình Nguyên Lộc. Trong thơ về Hải Phòng, Huy Cận có nói đến “ bãi sú mặn khô dần thành phố xá” , và Nguyễn Đình Thi:

Ta nhớ lò vôi bên bãi sú Giọt máu tươi rỏ xuống bùn loang

Văn Cao tin vào lẽ tuần hoàn của vũ trụ “ mùa này nhạn bay ra biển – Chim yến từ biển bay về”, “Những con chim cứ sáng lên là hót”. Văn Cao tin vào sức sống con người “những con cá ném lên trời cũng sống”, và tin vào trí tuệ dũng cảm, kinh nghiệm chế ngự thiên nhiên của

Những kẻ chài quen biển Thấy ngọn lửa quay đầu Biết bão táp quen trở mình trên mặt sóng

Con người khoẻ mạnh, minh mẫn và trong sáng ấy phải có hạnh phúc, xứng đáng hạnh phúc. Thơ Văn Cao, dù cay đắng, vẫn lạc quan. Trường ca Hải Phòng khởi đi từ “đầu nhà có trồng cây mận”, chứng nhân những đau thương ở đoạn giữa “bạn cha tôi về chết bên cây mận”, nhưng cuối cùng, cây mận sẽ chứng kiến hạnh phúc:

Nhu nhú trên những cành mận non Những nụ hoa đang nở hồng hồng Mát hai vai dưới rặng cây bóng lá Đôi lứa thanh niên đến tự tình

… Im lặng Đêm tắt đi tiếng ồn ào náo động Cho đôi 1ứa yêu nhau Những gìờ phút ngày xưa chưa có Những cái hôn mới Cái hôn đầu tiên

Đây là những lời thơ ngợi ca tình yêu tế nhị và đằm thắm nổi bật lên ở cuối một trường ca dài nặng chĩu đau thương và khúc mắc. Thơ Văn Cao là nghệ thuật đích thực vì nó đã hoá giải đau thương thành hạnh phúc: truyện Kiều cũng vậy, lời ai oán của cô cung nữ, lời thở than của nàng chinh phụ, đều như vậy. Tấm lòng Văn Cao, nghệ thuật anh và nghệ thuật nói chung, là khát vọng mênh mông của nhân loại tìm cái đẹp, niềm vui, như kết từ của trường ca Những người trên cửa biển:

Tôi giờ đây liếm môi nóng bỏng Nhìn ra biển bao la Lòng hãy còn nhiều khát vọng còn rất nhiều khát vọng Biển thành người khổng lồ kêu khát suốt ngày đêm Suốt ngày đêm kêu khát Những ngọn sóng trên cát khô sủi bọt Ngày đêm Mãi mãi Dưới chân tôi

Nước ngọt của ngàn sông Bao giờ đổ đầy lòng biển

Những âm thanh cuối cùng vang vọng trong thế giới Văn Cao từ một Hải Phòng xa xôi. Hải Phòng, khởi đầu, là một quê hương – một câu trả lời. Nhưng câu trả lời buộc lương tâm con người phải đặt ra câu hỏi. Và câu hỏi lại thách thức một giải đáp khác; rồi cứ thế, tâm hồn Văn Cao đong đưa những lời vấn đáp giữa con người và xã hội, con người trong vũ trụ, con người trước định mệnh. Những đợt hỏi – trả lời liên hồi lớp lớp, như sóng gầm trên cửa biển, có lúc lắng xuống thành tiếng sóng vàng trên bãi dài ngô lau núi rừng âm u, có lúc chỉ lanh canh trong đáy cốc:

Cuộc đời ôm tôi như trong cái bình Một tiếng vang vang cả lòng cả đáy

Vang vang hạo nhiên và ngang nhiên như con đường tự hào duy nhất – Con đường đi trái đất quanh mặt trời. Niềm tin của Văn Cao đi từ những giấc mơ thét gào thực tại, là những rạn vỡ đòi lại toàn bích, là chiếc lá gào gọi trời xanh. Thơ Văn Cao, đời Văn Cao là “một tiếng vang vang cả lòng cả đáy”, của não trong sọ, của tuỷ trong xương, của máu trong mạch, của khát vọng khôn nguôi.

Đặng Tiến

@ Văn Cao, thơ của những giấc mơ

_______________________________________ Nguyễn Mạnh Trinh

Văn Cao sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923, mất ngày 10 Tháng 7 năm 1995

Với riêng tôi, Văn Cao vừa quen và vừa lạ.

Quen, bởi vì những bản nhạc nghe hàng ngày, những Ðàn Chim Việt, những Suối Mơ, những Buồn Tàn Thu,… từ lúc vừa mới lớn ở quê nhà đến cả những lúc sống ở đây. Quen, bởi vì biết ông là một nghệ sĩ đa tài, nghệ thuật văn, nhạc, họa độc đáo, là một người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm và bị chế độ đương thời đầy ải, trù dập suốt cả cuộc đời mặc dù là tác giả của bản quốc ca “Tiến Quân Ca.” Và, cũng quen là những hành khúc hùng tráng mà tôi đã cùng với bạn bè đồng ngũ hát vang lên trên thao trường, trên binh lửa, những “Không quân Việt Nam,” những “Chiến sĩ Việt Nam” của những bài hát mà chúng tôi nghĩ đã nợ từ lòng ái quốc, từ sự hy sinh của thế hệ cha anh đi trước.

Còn lạ, bởi vì trong thế hệ những người sinh ra và lớn lên trong khoảng thập niên 40, 50 và trưởng thành ở miền Nam như chúng tôi, ông vẫn chỉ được biết đến từ một vài chi tiết không đầy đủ và có lẽ chứa khá nhiều chất huyền thoại, không giống với những nhạc sĩ khác như Phạm Duy hoặc Trịnh Công Sơn có nhiều nét sống thực gần gũi hơn.

Có một nhà văn bây giờ cũng đã quá cố, nhà văn Xuân Vũ, đã so sánh hai khuôn dáng Văn Cao và Phạm Duy:

“hai người cùng khởi hành cùng một đường một lúc hai người cùng đến đích nhưng mỗi người một nơi cách nhau một đường tơ xa nhau một sợi tóc.”

Tuy tơ tóc cách nhau nhưng là thẳm biệt nghìn trùng. Văn Cao đã mất, nhưng tác phẩm và tư cách vẫn còn sống. Không phải chỉ một mình Xuân Vũ, mà cả Thụy Khuê trong bài viết “Văn Cao – Phạm Duy, trần gian và tiên cảnh” cũng có ý mang hai người, hai phong cách, ra đối chiếu. Nhưng, đó là bài viết lúc mấy năm trước. Còn, bây giờ, Phạm Duy đã đổi khác …

Tôi quen thuộc thêm với Văn Cao khi xem cuốn video do Ðinh Anh Dũng quay “Giấc mơ một đời người.” Những hình ảnh đã gây thật nhiều ấn tượng. Một ông già tóc bạc trắng, lê cái gậy chậm bước trên ngõ phố Hà Nội, trên ruộng đồng với cái phông của núi rừng ẩn hiện xa xa. Những vỉ tường loang lở, những mái ngói rêu phong, những cầu thang khuất khúc, nơi ấy, người nghệ sĩ già đã sống, đã làm việc, đã chịu đựng những nỗi đau thầm kín của một kẻ sĩ không gặp vận thời. Căn phòng nghèo nàn, cỗ dương cầm cũ kỹ, những bước tranh treo trên mảnh tường xám xịt, đã hơn một lần là những hình ảnh của tạp chí quốc tế National Geographic cho một bài viết về một nghệ sĩ tài hoa Việt Nam cả về hội họa, âm nhạc và thi ca. Những hình ảnh ấy, mở ra một cuộc sống, mà nghệ thuật là một cái nghiệp nặng nề đeo đuổi lên không những với một người mà cả một gia đình, một dòng tộc. Những vết nhăn khắc khổ trên khuôn mặt phong trần, những bước đi chông chênh tựa trên cây gậy, những lời nói tâm sự đằm thắm, tất cả, làm đậm nét thêm chân dung của một người đã sáng tác ra bản quốc ca đã hơn nửa thế kỷ, dù có lúc, chế độ ấy muốn thay thế, mở ra những cuộc thi để tìm kiếm một bản quốc ca khác. Mà lý do, xem ra khá cá nhân vì một số các quan chính quyền và quan văn nghệ không ưa tác giả!!!

Nguyễn Thụy Kha, một nhà văn khá thân cận với Văn Cao, đã từng chứng kiến cũng như chia sẻ những khốn khó của cuộc đời ông, viết:

“Hòa bình. Chỉ sau khi ấn hành trường ca “Những người trên cửa biển” một thời kỳ hết sức nghiệt ngã đã ập xuống đầu Văn Cao cũng như một số đồng nghiệp văn nghệ khác. Suốt mấy chục năm, Văn Cao phải lặng lẽ âm thầm sáng tạo trong đớn đau, trong cảnh túng quẫn. Dường như ông không viết bài hát nữa mà chuyển vào những tiểu phẩm nhạc không lời như “Hàng dừa xa,” “Sông tuyến,” “Biển đêm.” Ông dằn lòng viết những câu thơ không in, vẽ minh họa để kiếm chút “tiền còm” bởi thúc bách của đời sống thường nhật. Dù được nhìn nhận như là một trong những người làm minh họa và bìa sách sang trọng Văn Cao vẫn gắng bơi qua những nhạc phim và một tổ khúc “Anh bộ đội cụ Hồ” cho dàn nhạc. Nhưng túng quẩn vẫn luôn luôn rình rập trước số phận Văn Cao, luôn đe dọa dập tắt mọi ý nghĩa sáng tạo. Ðỉnh điểm của thời kỳ này là “cuộc vận động sáng tác quốc ca mới” nhằm thay thế quốc ca cũ. Ðã có đến 17 bài nhạc lọt vào vòng sơ khảo, được ấn hành và được phát thanh liên tục trên làn sóng điện. Nhưng chính khi ấy, năm 1982, sau cơn đau dạ dày hiểm nguy, Văn Cao lại được mời sang Ðức (Cộng Hòa Dân Chủ Ðức lúc đó) với tư cách là tác giả bản Quốc ca. Cùng trong thời gian đó, ở Ðại Hội Nhạc Sĩ Việt Nam lần thứ ba, Văn Cao được trúng trở lại trong Ban Chấp Hành. Tuy nhiên cảnh túng quẩn vẫn triền miên vì cả hai ông bà đều đã về hưu từ mấy năm trước. Quốc ca vẫn được cất lên trong các buổi chào cờ, trong các cuộc đón tiếp quốc tế long trọng, còn tác giả của nó thì vẫn chật vật với đời sống chật vật…”

Khó khăn đời sống bắt đầu từ trường ca “Những người trên cửa biển” viết về thành phố cảng Hải Phòng được in trong tập thơ chung của bốn người được nhà xuất bản Văn Nghệ ở Hà Nội phát hành năm 1956: Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần, Lê Ðạt, mà ngày hôm nay, Thanh Thảo đã cho là một tác phẩm quan trọng của văn học Việt Nam sau hơn nửa thế kỷ bị vùi dập, tiêu hủy từ chế độ.

Trong trường ca ấy, có một đoạn thơ được trích đăng trong Nhân Văn Giai Phẩm Mùa Thu tập II Tháng Mười năm 1956 “Những ngày báo hiệu mùa Xuân” có những câu thơ như những lời tố cáo, dõng dạc đầy chất chính luận:

“Chúng tôi đêm ngày vét nước nối đê Tưới ngọt lại ruộng đồng, dựng lại từng thôn xóm Tìm lại những nụ cười ở môi người sống sót Lửa đỏ đêm đêm trên bãi biển bập bùng Trong những ngày khó khăn chồng chất. Kẻ thù của chúng ta xuất hiện Những con rồng đất khi đỏ khi xanh Lẩn trong hàng ngũ Những con bói cá Ðậu trên những chiếc dây buồm Ðang đo mực nước Những con bạch tuộc Bao nhiêu tay chân dìm chết một con người Ðất nước đang lên da lên thịt Ðất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải Ðã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hy vọng. Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người Chúng nó ở bên ta, trong ta lén lút Ðào rỗng từng kho tiền gạo thuốc men Tôi đã thấy từng mặt từng tên xâu chuỗi Tôi sẽ vạch từng tên, từng mặt Hãy dừng lại Những tên muốn ôm cây mùa Xuân không cho mọc Những tên muốn làm cây to che cớm mầm non Con đường ta đi tự hào lực lượng Con đường nước nguồn thành sông thành biển Con đường ta đi tự hào duy nhất Con đường đi trái đất quanh mặt trời…”

Những câu thơ ấy, có phải xuất phát từ một tâm cảm xúc động trước những biến cố của quê hương? Tâm cảm ấy, bàng bạc trong bài viết “Mấy ý nghĩ về thơ” in trên tạp chí Văn Nghệ một năm sau:

“ Người làm thơ phải đi tìm những tư tưởng cảm xúc và cảm giác trên kia trong thực tế ở những con người đang hàng ngày túi bụi xây dựng. Càng tới gần cái cuộc sống đầy mâu thuẫn đấu tranh là càng như đi gần lại một kho thuốc nổ. Có người dao động và sợ hãi quay lưng lại. Có người vụng về mà làm nổ. Nhưng cũng có người can đảm biết làm nổ để mở đường. Hôm nay con đường lớn nhất của chúng ta là mở cho tất cả những giấc mơ, những khát vọng tự do phát triển bay đi xe mật về ổ. Mở cho những giấc mơ, những khát vọng tự do phát triển bao nhiêu là tập trung tất cả giấc mơ và khát vọng của con người làm thành mũi nhọn kéo lê đi phía sau cái thực tế chậm chạp…”

Thuốc nổ đã cháy và bùng lên, nhưng, thay vì để mở đường cho một vận hội tốt cho đất nước lại là làm nghẽn lối cho nhà thơ. Và, tâm trạng thất bại ấy biểu lộ rõ trong bài thơ “Có lúc”

“có lúc một mình, một dao giữa rừng đêm không sợ hổ có lúc ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được.”

Những loài rồng đất đổi thay màu da, những con bói cá rình mò, những tay bạch tuộc nhớt nhúa, … dẫy đầy trong chế độ và là những kẻ cầm quyền tự tung, tự tác ngự trị trên đầu trên cổ nhân dân. Thi sĩ, vật vã với khốn khó, im lìm trong nỗi đau, thoi thóp trong suy tưởng. Nhưng, vẫn còn hy vọng. vẫn còn chút mơ ước, bởi vì:

“anh có thấy không chỗ nào cũng có tiếng chưa nói lên”

Phùng Quán cũng viết về cái tâm trạng não nề của một người đầy hùng khí mà biến thành một người dửng dưng câm lặng nuốt hết những nhọc nhằn mà không tránh được tiếng rên:

“Cả tiểu đội tôi chỉ còn mắt với răng Như một đồng ca chúng tôi lên cơn sốt rét Lên cơn sốt rét Chúa Trời cũng phải rên! Nhưng chúng tôi không rên Chúng tôi hát Bao chiến sĩ anh hùng Có một điều anh không bao giờ ngờ được Chúng tôi đã cài biên khúc quân hành bão táp của anh Thành nhạc không lời Thành một điệu rên”

Phải rồi, cái dũng khí chiến trường có giúp gì trong cuộc sống cơ cực nheo nhóc. Chiến đấu với cái đói, cái thiếu không phải cho riêng mình mà cả một gia đình sao khó nhọc đến thế. Và, để đổi lấy áo cơm, là những nhạc không lời, những tranh vô ngôn, những bìa sách không nói. Những chế độ chuyên chính đã có phương cách kiến hiệu nhất để bắt nhân dân tuân phục. Như, ở miền Bắc, những Trần Ðức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường,à trí thức sâu sắc, Nguyễn Tuân ngang ngạnh lãng mạn, Quang Dũng hào sảng ngông nghênhà phải tối mặt với đời thường và mai một đi những sở đắc của mình mà chế độ cho rằng có ngày sẽ thành động lực để triệt hủy sự thống trị của họ…

Hai mươi năm, Văn Cao không làm thơ. Nhưng, thơ lại là những trang nhật ký, viết trong cuốn sổ tay chi chít chữ, hay những mảnh giấy vụn, những bao thuốc bỏ đi. Thơ, là những phân tử máu của cuộc sống. Thơ là cái nhìn, cái nghe, cái thở, cái khóc, để nén vào thẳm sâu, để ghi lại và phác thảo chính cái hình của mình, cái bóng của mình trong một thời đại mà sự nghi kỵ và rình mò lẫn nhau trở thành quen thuộc bình thường.

Sau khi đổi mới, có sự nới tay “cởi trói,” tập thơ Lá của Văn Cao được xuất bản. Tập thơ mỏng, trình bày sơ sài, in giấy xấu. Tuy vậy, cũng là một vừa ý miễn cưỡng. Nguyễn Trọng Tạo, nhà văn “biên tập” Lá viết:

“ Những bài thơ chi chít trong những cuốn sổ tay nhỏ xíu úa màu thời gian vàng vọt. Những bài thơ viết trên vỏ bao thuốc lá nhặt được trong quán rượu. Có bài thơ được ghi lại không phải nét chữ của ông mà là chữ của vợ ông, bà sợ ông quên đi mất nên bà bắt ông đọc để bà chép lại. Năm 1987, Nguyễn Thụy Kha đã lần mò chép lại những bài thơ trong cặp bản thảo nhòe mờ ấy của ông rồi đưa cho tôi đọc. Giữa quá nhiều bất trắc của cuộc đời, tiếng thơ Văn Cao chẳng bao giờ đổi giọng.Chữ nghĩa của ông như được viết ra từ ngòi bút kim cương chứ không phải là bút lông, bút sắt. Và khi tiến hành chọn bản thảo tập thơ Lá, Văn Cao rất vui lòng ủy thác cho Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo và tôi tuyển chọn hầu như ông hoàn toàn yên tâm về việc đó. Ông nói: “Ba thằng mày bảo được là được.”

Tập thơ Lá của ông được in ra không đúng như chúng tôi đã chọn dưới sự ủy thác của ông, 5 bài thơ ông tâm đắc bị bỏ ra, và thay vào mấy bài thơ ông in báo thời kháng chiến chín năm. Tuy không được hài lòng lắm, nhưng ông cũng mỉm cười sau 30 năm trở lại thi đàn. Ông tiếp tục viết những bài thơ mới. Vẫn là Văn Cao tươi ròng không tuổi…”

Lá là một tập thơ gồm 28 bài. Trong đó có không gian của Hà Nội, Hải Phòng, Qui Nhơn, có thời gian những ngày rất đặc biệt của đất nước lúc chế độ Cộng sản vừa tiếp thu đến khi dằng dặc cuộc chiến tranh đau xót. Ở đó, cũng có tình yêu, với đất nước ruộng đồng, với phố thị quen thân, có những giấc mơ và có những hiện thực đời thường nhói buốt. Ở đó, âm nhạc và hội tụ vào, để những nốt nhạc trầm đến mức thành vô thanh, để những nhát cọ mảnh và tinh tế đến thành không dáng. Thơ là kết tinh của những nỗi niềm, là men rượu trắng “cuốc lủi” len sâu vào dòng máu, là là những tân toan tủi cực nén sâu vào trong tâm dù vẫn còn thoi thóp vài tia hy vọng.

Thơ là “Giấc Mơ,” giấc mơ của những vì sao tuy lung linh nhưng biệt thẳm hay hiện thực như những mái nhà của cơn ngủ mệt mỏi:

“dưới mái nhà một người đang ngủ với giấc mơ của những vì sao những vì sao đang kể truyện giấc mơ của mái nhà giấc mơ của một người đang ngủ”

Thơ là Hải Phòng, của trường ca “Những người trên cửa biển,” là nỗi tình tự quê hương hòa với nỗi đau thời thế:

“Tôi hay ngủ trên cầu sương Nửa đêm thức giấc Thấy mình bay cùng tinh tú Ngày đến lòng tôi xếp cánh Sao chim bay bướm lại bay lên Tất cả tình yêu khát khao hy vọng Bốc lên trong lòng Rơi xuống những giọt nước mắt Có tuổi thanh niên Như cây mùa Xuân mới mọc Bị tước dần vỏ non Mất chim mất bướm mất chân trời. Lòng không biết nghĩ điều gì Như con sơn ca bị bẫy Thấy mắt lưới nào sáng cũng nháy ”

Thơ là Quy Nhơn, là:

“từ trời xanh rơi vài giọt Tháp Chàm quanh Quy Nhơn tôi như đứa nhỏ yêu huyền thoại ”

Như một bức tranh tĩnh vật, giọt Tháp Chàm rơi trên trời xanh, trong cái “tĩnh” của lặng lẽ lại chứa đựng cái “động” ghê gớm của nội tâm. Và, từ “giọt” Tháp Chàm ấy, mở ra biết bao huyền thoại…

Thơ, còn là Hà Nội của “Chiếc xe xác qua phường dạ lạc,” của những bức tranh “phố Phái” với những hình ảnh và gam màu tượng hình bằng ngôn ngữ thi ca. Thơ còn là Huế của “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế.” Và thơ, còn là Kinh Bắc với lời nhắn:

“Hỡi người cưỡi ngựa về Kinh Bắc Tôi gửi thư đưa hộ mẹ già Cố thét song lời tôi yếu quá Ngựa đều chân chạy, nhạc càng xa ”

Thơ Văn Cao, là quê hương, là những nốt nhạc và nét vẽ chen nhau để phác họa trung thực và sống động tâm cảm của cả một thời. Trong ánh nến của hoài nhớ, trong rung động của tiềm thức, thơ chắt lọc tháng ngày trong đau đớn nhân sinh để tượng hình nỗi khắc khoải của bức tượng phù điêu tạc trong những cơn mê đắm của lãng mạn mơ mộng. Thơ Văn Cao là thơ, là tinh tuyền của nỗi hoang sơ, của Thơ viết hoa, của những dòng chữ chở chuyên cả một vùng trời biển. Thơ là…

Viết về Văn Cao, muốn đầy đủ phải đầy một tập sách. Nguyên Văn Cao nhạc sĩ, với bao nhiêu bản nhạc, từ quân hành ca đến tình ca, từ nhạc quê hương đến tụng ca lịch sử, từ bản quốc ca đến trường ca “Sông Lô,” bao nhiêu đề tài, bấy nhiêu ý tưởng, bấy nhiêu chữ nghĩa… Rồi cuộc đời ông, trải dài theo những tháng năm biến động, từ vai trò của một người ám sát hoạt động nội thành, rồi tham gia Nhân Văn Giai Phẩm, viết quốc ca, đến những cảnh khốn khó cùng túng trong cái bóp nghẹt từ sinh kế đến tư tưởng của chế độ chuyên chính đương thời.

Những đề tài ấy, quả là mênh mông biết bao. Làm sao chuyên chở cho hết trong một vài bài.

Tôi là một người yêu thơ. Nên trong dịp kỷ niệm ngày mất của ông, 10 Tháng Bảy năm 1995, viết một đôi dòng mạo muội về thơ của một người nghệ sĩ lớn, hoàng đế của nhiều vương triều nghệ thuật như thơ-nhạc-họa. Dù tôi lớn lên ở miền Nam, nhưng không vì thế mà thấy xa lạ với một chân dung của một Văn Cao trong trí tưởng. Cái địa chỉ 108 phố Yết Kiêu có lẽ quen thuộc lắm. Những mái nhà phủ rêu, khuôn cửa sổ nhìn ra một mảnh trời, dốc cầu thang cổ lỗ, bờ tường loang vôi , tất cả, có lẽ sáng lên trong ánh nắng của miền đất kỷ niệm của một hoàng hôn tưởng nhớ…

Nguyễn Mạnh Trinh

.

Tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao __________________________________________ Trần Hoài Anh

Trong bài thơ Đêm ngàn của Văn Cao viết năm 1941, có mấy câu thơ thật ấn tượng mà mỗi lần đọc lên tôi có cảm giác mọi thứ quanh mình đều chông chênh, chao đảo, huyễn hoặc

Sương buông chừng núi vấn vương

Tiếng chim lạ cất tiêu thương buồn trời

Cái gì cũng thấy chơi vơi…

(Đêm ngàn)

“Cái gì cũng thấy chơi vơi”. Phải chăng, đó là cảm giác bồng bềnh của tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao mà nếu đối sánh với khí hậu của thơ ca lãng mạn đương thời, ta thấy đây là một giọng thơ mang âm hưởng lạ.

Cái cảm giác “chơi vơi” nầy như một dự báo về thân phận của thi nhân. Và đó là căn tính tạo nên tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao. Một tâm thức với cái nhìn vô định về cuộc đời như chiếc thuyền bềnh bồng trôi dạt.

Khuya rồi ốc rục trong làng

Thuyền ai vơ vẩn trôi sang bên nầy

(Đêm mưa)

Đó là cảm giác trôi trong nỗi lo sợ trước cuộc sống đầy bất an đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm thức thi nhân. Nên:

Có lúc

ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt

có lúc

nước mắt không thể chảy ra ngoài được

(Có lúc)

Và dường như tâm trạng hốt hoảng này là căn duyên xô dạt nhà thơ trôi trong nỗi cô đơn chất ngất của phận người.

Chúng tôi hai người

Một bóng…

(Đôi bạn)

Để rồi từ trong nỗi cô độc ấy, mọi hiện hữu chỉ còn là một thực tại trống rỗng. Nên tâm thức của nhà thơ đã trôi trong khoảng trống hư vô. Và mọi sự vật đều rơi vào một khoảng không bất định.

Một cái bình vỡ

Một khoảng trống

Một người đi xa

Một khoảng trống

mênh mông…

(Khoảng trống)

Có thể nói cái tâm thức “trôi” trong hư vô, bất định này đã trở thành một sự ám ảnh miên viễn như một dòng sông vô thức chảy suốt hành trình thơ Văn Cao. Đó là hình ảnh cánh cửa mở ra sau “một tiếng động” nhưng không có con người. Mà:

Chỉ thấy

Một chiếc cầu thang nhà trên gác

Và ánh sáng

Không động đậy

(Cánh cửa)

Hay hình ảnh “người đi dọc biển”, không để lại “dấu chân”. Tất cả như bị cuốn trôi vào cái mênh mông của biển cả bao la. Và phải chăng, đó chính là hiện thân của sự mỏng manh kiếp người trước hư vô !

Người đi

dọc biển

không để lại

dấu chân

(Người đi dọc biển)

Bởi lẽ, như chính Văn Cao đã nói “Cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng” (1)

Có phải vì những bài thơ của Văn Cao đều gợi cho chúng ta cái cảm giác bồng phiêu, trôi dạt và mỏng manh như thế mà Tạ Tỵ khi cảm nhận về Văn Cao cho rằng: “Văn Cao vẫn hiện diện trong tôi với hình dáng một tinh cầu giá lạnh, với cô đơn dằng dặc ở cuối khung trời ngăn cách” (2). Còn Trần Văn Nam trong bài viết “Văn Cao, dòng sông ba nhánh sương mù” thì cho rằng: “Tâm hồn Văn Cao có nhiều cảm hứng về sự huyền ảo” (3). Phải chăng chính căn tính của tâm hồn thi nhân luôn sống trong nỗi “cô đơn dằng dặc” của “một tinh cầu giá lạnh” đã tạo nên cái tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao.

Rõ ràng, đi vào thế giới thơ Văn Cao là đi vào thế giới của sự huyền hoặc, linh diệu, trống không. Và trong một chừng mực nào đó chúng ta lại bắt gặp trong thơ ông cái triết lý vô thường của nhà Phật. Cảm thức vô thường ấy hiện hữu trong thơ Văn Cao như hơi thở, như không khí trong đời sống. Đọc lên ta thấy hiển hiện bóng dáng của thơ thiền, của thơ Haiku.

Gió cứ như không

Trôi qua cửa sổ

Một mảnh trời xám

Xuống dần

Xuống dần

Có tà áo trắng

Loang qua khung cửa

Mùa thu phai đi

Màu hoàng lan

(Mùa thu)

Và đây nữa, bài thơ “Không đề” cũng là một thông điệp đầy chất thiền mà Văn Cao gởi đến chúng ta.

Con thuyền đi qua

để lại sóng

Đoàn tàu đi qua

để lại tiếng

Đoàn người đi qua

để lại bóng

Tôi không đi qua tôi

để lại gì

(Không đề)

Tôi không đi qua tôi / để lại gì. Câu thơ như một lời phản tỉnh đối với mỗi con người sống trên cõi đời. Một sự phản tỉnh vừa có ý nghĩa như một giá trị của hiện hữu lại vừa như một giá trị của hư vô. Hiện hữu mà hư vô, hư vô mà hiện hữu. Cái cảm giác ấy chính là cội nguồn của tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao, giúp ông vượt lên những tai ương, hoạn nạn, những cám dỗ để không đánh mất mình trong vũng lầy của lợi danh, dục vọng mà nhiều khi đó là nguyên nhân đẩy ta vào bi kịch. Bởi nói như Đặng Tiến: “Thơ Văn Cao là cuộc tra vấn thường xuyên cuộc sống và con người, về thân phận về ước vọng” (4). Có lẽ cái tâm thức “tra vấn thường xuyên” ấy không phải chỉ có ở Văn Cao mà đó là một phẩm chất, một ý thức trong nhân cách của những nghệ sĩ lớn. Đây chính là một hệ giá trị làm cho tác phẩm của họ vượt không thời gian để trở thành bất tử.

Cuộc đời là thế đó. Tất cả rồi cũng trở về với cát bụi, cũng trôi theo thời gian và tan chảy vào cõi hư vô. Thân phận con người chỉ là một cánh bèo bồng bềnh trôi trên dòng nước, là con thuyền trôi trên đại dương mênh mông, vô định, là ánh chớp mỏng manh cuối trời… cái số kiếp ấy, cái tâm thức ấy đã kết tinh trong thơ Văn Cao như một giá trị mà bài thơ “Trôi” là một điển hình.

Tôi thả con thuyền giấy

Con thuyền giấy trôi

Tôi thả một bông hoa

bông hoa trôi

Tôi thả một chiếc lá

chiếc lá trôi

Tôi ôm em trong tay

em vẫn trôi

(Trôi)

Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài. Người ta biết đến Văn Cao không chỉ có thơ, mà còn có nhạc, hoạ, kịch… Thành công của Văn Cao chưa hẳn là thơ nhưng chính thơ lại góp phần hiển lộ tính chất đa tài của Văn Cao. Và cũng chính thơ đã cho thấy sự nhất quán trong tư tưởng nghệ thuật của ông. Đó là tư tưởng của một nghệ sĩ luôn phóng chiếu sự sáng tạo của mình trên đôi cánh của chủ nghĩa siêu thực và hiện thực.

Tâm thức “trôi” trong Thơ Văn Cao chính vì thế cũng chính là tâm thức “trôi” trong hoạ, trong nhạc với những tình khúc bất tử như Buồn tàn thu, Bến xuân, Trương Chi, Suối mơ, Thiên thai… Nhiều lời trong các bài nhạc của ông cũng đầy chất thơ mà mỗi khi hát lên luôn tạo cho ta cảm giác nao lòng như đang trôi trong cõi phiêu bồng vô định của cuộc đời.

“Thiên thai, ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian“

…….

“Thiên thai chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian

Có một mùa đào đông ngày tháng chưa tàn phai một lần

(Thiên thai)

“Suối mơ, bên rừng thu vắng

Giòng nước trôi lững lờ ngoài nắng

Ngày chưa đi sao gió vương?

Bờ xanh ngắt bóng đôi cây thuỳ dương”

(Suối mơ)

Lamartine cho rằng: “Những tiếng hát hay nhất là những tiếng nấc”. Quả thật, nhạc Văn Cao là những tiếng nấc của sự thổn thức, của những khát vọng yêu thương nồng cháy đối với cuộc sống và con người. Chính vì vậy cùng với nhạc, hoạ, thơ Văn Cao đã góp phần hoàn thiện thế giới nghệ thuật và chân dung tinh thần của mình, một nghệ sĩ đa tài mà thiên năng của ông đã làm rạng rỡ nền nghệ thuật dân tộc. Bởi nói như Tạ Tỵ “Ở Văn Cao, mỗi lời thơ là một hạt ngọc, mỗi tiếng nhạc là mỗi sợi tơ, mỗi màu sắc là một vùng hào quang diễm lệ” (5). Tìm đến với thơ Văn Cao là tìm đến một giòng sông dịu êm, yên bình, tự tại của một tâm thức “trôi” trong những dòng chảy cuộc đời mà chính ông đã trải nghiệm. Tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao, vì vậy là tâm thức của một sự nghiệm sinh. Thơ ông là dòng ý thức về sự hiện hữu của phận người mà sự tồn sinh của ông đã minh chứng cho sự hiện hữu đó.

Song tâm thức “trôi” trong thơ Văn Cao tuy nhuần thấm lẽ vô thường và bồng bềnh trong hư vô bất định nhưng không bao giờ lạc hướng. Ngược lại ông luôn thể hiện chủ kiến của mình trước cuộc đời. Với lẽ sống cao đẹp của người nghệ sĩ, ông luôn nêu cao ý thức trách nhiệm công dân trước xã hội và nhân dân. Và đây chính là cảm hứng chủ đạo để Văn Cao viết những bài thơ mang hơi thở nóng hổi của hiện thực cuộc sống như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa Đông 1946, Quy Nhơn 3, trường ca Những người trên cửa biển… Đồng thời đó cũng là tiếng gọi thao thiết từ trong tâm cảm, để ông trở thành một nghệ sĩ luôn dấn thân vì dân tộc:

Những năm tháng Hải Phòng đầy biến động

Đời tôi như cái phao trên mặt biển

………

Tôi giờ đây liếm môi nóng bỏng

Nhìn ra biển bao la

Lòng hãy còn nhiều khát vọng

còn rất nhiều khát vọng

Biển thành người khổng lồ kêu khát suốt

ngày đêm

( Những người trên cửa biển )

Vì vậy, thi nhân luôn ước mong “gặp được biển” để tắm mình trong lòng biển mênh mông vô tận, thẳm sâu như một biểu tượng của khát vọng tự do.

Tôi sống

Nhìn những chiếc lá trôi theo dòng suối

Đến mùa gió Nam thổi

Tôi lại đi theo những chiếc lá

Phiêu du

Tới bao giờ tôi gặp được biển

(Tôi ở)

Bởi vì, hơn ai hết Văn Cao là người luôn ý thức về giá trị của sự sống mà ông đã chọn lựa như một tâm thức hiện sinh

Giữa sự sống và sự chết

Tôi chọn sự sống

Để bảo vệ sự sống

Tôi chọn sự chết

(Chọn)

Chú thích:

(1) Văn cao, “Mấy ý nghĩ về thơ” Tuyển tập thơ Văn Cao, Nxb Văn học, Hà Nội, 1994, tr.153

(2) (5) Tạ Tỵ, Mười khuôn mặt Văn Nghệ, Tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1970, tr.187, tr.179

(3) Trần Văn Nam, “Văn Cao dòng sông ba nhánh sương mù” Văn học số 114 ra ngày 1/11/1970, Sài Gòn, tr.70

(4) Đặng Tiến, Thơ thi pháp và chân dung, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2009, tr.269

.

@ Nhân Văn Giai phẩm Thơ Văn Cao _______________________ THỤY KHUÊ

Sau khi hoà bình lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa. Đang khi trở lại với hội họa thì Hoàng Cầm đến mời ông viết bài cho Giai Phẩm Mùa Xuân. Văn Cao nhận lời, ông làm thơ, vì chỉ có thơ mới nói được những bi đát chìm sâu trong nội cảnh của tâm hồn. Với sự “đốc thúc” của Hoàng Cầm, Văn Cao dành cả mùa xuân để sáng tác trường ca Những người trên cửa biển. Lần này trở lại, Văn Cao, người anh cả, đứng lên chỉ mặt bọn người đã làm cho nghệ sĩ phải điêu đứng trong sáng tác. Tác giả quốc ca hỏi tội: “Bao giờ nghe được bản tình ca Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật Bao giờ Bao giờ chúng nó đi tất cả” “Chúng nó” đây là những khuôn mặt đã tạo dựng nên cái xã hội có nửa mặt: “Một nửa thế giới Một nửa tâm hồn Một nửa thế kỷ Chưa khai thác xong”. “Chúng nó” đây là những con người: “…những con người khôn ngoan Không có mồm Mắt không bao giờ nhìn thẳng” “Chúng nó” đây là những vi khuẩn đã len lỏi vào sự sống của con người: “Chúng nó còn ở lại Trong những tủ sách gia đình Ỏ điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm Từng bước chân các cô gái Từng con đường từng bãi cỏ từng bóng tối Mằt quầng thâm còn nhỡ mãi đêm” Và một lần nữa tác giả Tiến quân ca kêu gọi mọi người đứng lên bảo vệ Tự do như đã từng bảo vệ Tổ quốc: “Vào một cuộc đấu tranh mới Để mở tung các cánh cửa sổ Mở tung các cửa bể Và tung ra hàng loạt hàng loạt Những con người thật của chúng ta.” (Anh có nghe thấy không, Giai phẩm mùa xuân) Những lời kêu gọi thiết tha trên đây của Văn Cao làm rung động tất cả những tâm hồn yêu tự do, yêu nghệ thuật và yêu đất nước. Chỉ riêng những kẻ cảm thấy mình bị gọi là “chúng nó” mới động lòng. Xuân Diệu thốt lên những lời tàn nhẫn: “Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. (…) Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. (…) Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình mình trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề: Ngồi đây ta gõ mạn thuyền Ta ca trái đất còn riêng ta! (…) Những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của lòng yêu nước. Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát: Ta là đàn chim bay trên mây xanh Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan… … Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng Ta không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó còn thấp. Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền thân của cái lối “Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của “không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ! Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan rã, như bài “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”, hay như bài “Ngoại ô mùa đông 46” (Văn nghệ số 2, tháng 4-5/1948): Ta đi trong nhà đổ Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh Còn xiêm hài dành hương phấn cũ… … Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp Gió lạnh khi qua viện tàng thư Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche… (…) Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? Đối lập với ai là “chúng ta”? Bao giờ nghe được bản tình ca Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật Bao giờ Bao giờ chúng nó đi tất cả (…) Trên đất nước ta, “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy (…) Những con người của chúng ta, từ Cách mạng tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái đất cũng biết chúng ta vĩ đại!” (Xuân Diệu, Dao có mài mới sắc Nxb Văn học, Hà Nội 1963, tr. 101-114. Bản điện tử do Lại Nguyên Ân cung cấp, tài liệu Talawas)

Bài Xuân Diệu chứng chứng minh những điều Văn Cao viết về “chúng nó” là đúng. Xuân Diệu còn gián tiếp cho biết: Đảng chưa bao giờ hiểu nghệ thuật của Văn Cao. Tất cả những sáng tác tuyệt vời của Văn Cao đều bị Đảng coi là “thuốc độc”. Tóm lại, Đảng chỉ lợi dụng bài Tiến quân ca. Nhưng Văn Cao không thuộc về Đảng. Văn Cao là nghệ sĩ của dân tộc.

Nếu nhạc của Văn Cao đưa con người vào cõi mộng, thì thơ Văn Cao xoáy vào thực tại cuộc đời: phần đời thực với Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa đông 1946, Những người trên cửa Biển và phần nội tâm sâu xé của con người mất tự do, trong các bài thơ ngắn, cô đọng và đau thương, như những giọt nước mắt không rơi ngoài tim mình như lời thơ Thanh Tâm Tuyền. Là nhạc sĩ kỳ tài, Văn Cao còn là nghệ sĩ tiên phong trong hội họa và thi ca. Ngày nay chúng ta không còn nhiều họa phẩm của Văn Cao nhưng theo Tạ Tỵ, Văn Cao đã tự trình bày bìa những bản nhạc của mình bằng những bức tranh avant garde. Nếu tìm lại được những ấn bản đó, ta có thể có ý niệm về hội họa tiên phong của Văn Cao. Riêng về thơ, Văn Cao âm thầm tiếp tục con đường tân tạo. Mỗi chặng sống, ông viết những tác phẩm giá trị. Cúi xuống những lầm than của kiếp người, Văn Cao là người duy nhất để lại những hình ảnh kinh hoàng của trận đói tháng ba năm Ất Dậu. Nếu không có Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, thì chúng ta không thể hình dung cảnh xe xác lăn trong xóm cô đầu của một Hà Nội bán linh hồn: “Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa Chập chờn ảo hoá tà ma… Đôi dẫy hồng lâu mở cửa phấn sa Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục Tình tang… Não nuột khóc tàn sương Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường Từng mỹ thể rạc rời đèn phù thế Ta đi giữa đường dương thế Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây… Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ (…) Ta về gác chiếu chăn gào tự tử Trên đường tối đêm khoả thân khiêu vũ Kèn nhịp xa điệu múa vô luân Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc Kiếp người tang tóc Loạn lạc đòi nơi xương chất lên xương Một nửa kêu than, ma đói sa trường Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc!” Bài Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc song hành với Tiến quân ca, là những tiếng bi thương và hùng tráng, báo hiệu cho sự đồng lòng nhất trí của dân tộc đứng lên trong ngày toàn quốc kháng chiến. Ngoại ô mùa đông 1946 viết về ngày toàn quốc kháng chiến, với một bút pháp độc đáo, kinh hoàng, gây hoang loạn: “Phố chết rồi vài mảnh rêu ngơ ngác The thé thất thanh giọng kêu tàn ác Quạ dăm con, chập choạng cánh dơi xa Lơ láo tường vôi, than bụi dui nhà Với dáng cỏ khô dấu chìm xe ngựa

Xưa lê la đàn ròi bọ Đục trong máu mủ ung thư Của một phường Hà Nội cổ Vàng son che đậy hương thừa Bao người bệnh tật thời xưa Từng sống rạc rài viễn phố Bao người ấy bây giờ Súng gươm giữ từng đường phố … Lời gọi cha già Ôi đoàn thể Bấy nhiêu người đói khổ đã vươn cao Cửa ô cần lao Cửa ô trụy lạc Cửa ô trầm mặc … Mấy bức tường hồng rơi xuống cùng trâm Một dẫy phố nghiêng cả thành Hà Nội Dòng ngõ chợ xưa máu dâng ngập lối Mấy xác quân thù bên cống tanh hôi Sọ nứt toang óc chảy lẫn với ròi … Xóm âm u thành khối đen đặc quánh Ơi ai ngâm mình hố lạnh Gió mùa rú ghê người Trăng đông dầm khe rãnh Lưỡi lê đậu sương rơi…” (Ngoại ô mùa đông 1946) Kháng chiến không chỉ là hào hùng, là hoa treo đầu súng. Kháng chiến còn là chiến tranh, chết chóc, tàn phá, kinh hoàng… Ngoại ô mùa đông 46 là bài thơ khốc liệt nhất viết về toàn quốc kháng chiến. Trong những năm đầu, người nghệ sĩ còn được tự do sáng tác, mới có thể có Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc và Ngoại ô mùa đông 1946, in trên báo Tiền Phong. Trường ca Những người trên cửa biển, là bài ca lịch sử của Hải Phòng, gắn liền với lịch sử Văn Cao, từ lúc sinh trong đói khổ dưới thời Pháp thuộc, đến cuộc kháng chiến đẫm máu mà Văn Cao đã phụng sự hết mình. Văn Cao chờ đợi một mùa xuân khi hoà bình lập lại. Nhưng ngày dứt chiến tranh cũng là ngày chia đôi đất nước, ngày những con bạch tuộc hiện hình:

Vợ xa chồng Anh xa em Chiều Nam chiều Bắc cùng sầu Tiếng thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc … Gió bão tới đâu cũng không một lúc Rụng hết lá vàng Ngày báo hiệu mùa xuân mầm nở mầm tàn Có người tự nhiên tiếc bàn tay đã mất Từng đêm đau nhức vết đạn trên mình …

… Trong những ngày khó khăn chồng chất Kẻ thù của chúng ta xuất hiện Những con rồng đất khi đỏ khi xanh Lẫn trong hàng ngũ Những con bói cá Đậu trên những dây buồm Đang đo mực nướng Những con bạch tuộc Bao tay chân cố dìm một con người … Tôi sẽ vạch từng tên từng mặt (Những ngày báo hiệu mùa xuân, trong trường ca Những người trên cửa biển, Giai phẩm mùa thu tập II, tháng 10/56). Văn Cao trở lại vị trí chiến sĩ trừ gian. Lần này cuộc cách mạng sẽ xẩy ra trên mặt trận tư tưởng, bằng ngòi bút. Và những kẻ sợ Văn Cao vạch mặt, chỉ tên đã hoảng loạn tinh thần, viết nên những điều cuồng dại.

Sau Nhân Văn, Văn Cao vẫn làm thơ. Lần này thơ ông đi sâu vào nội tâm con người. Một con người: Có lúc một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ có lúc ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được” (Có lúc)

Con người bị cầm tù tư tưởng âm thầm nhìn cái chết chậm, như bức tường vô tri, nhích dần, nhích dần trên thân xác mình: Cái bức tường lê từng bước một Đến gần chân chúng tôi hàng ngày Chúng tôi nhìn chậm chạp Châm chạp một cái chết Thời gian đang héo thời gian đang rụng (Với Nguyễn Huy Tưởng) Bài thơ khóc Nguyễn Huy Tưởng, nhưng là điếu tang những người bị mất tự do. Bài thơ bị cấm trong ba mươi năm. Kiên trì, Văn Cao vẫn tiếp tục vẽ bằng thơ. Lần này ông phác họa chân dung một kẻ xưa kia là bạn: Tôi đã gặp lại anh Im lìm như một bức ảnh Người anh dẹt như một con dao Gây nhiều vết thương cho bạn hữu Anh mang trong tôi nhiều bộ mặt Đâu là cái cuối cùng Chỉ còn hai con mắt Trắng dã không thể lừa dối (Về một người)

Bài Ba biến khúc tuổi 65, tổng kết cuộc đời Văn Cao trong một tình thế chính trị không lối thoát. Biến khúc I viết về thời kháng chiến trừ gian: Một người cho tôi con dao găm Không biết dùng làm gì đêm nhìn qua cửa sổ một khoảng trống đen tôi ném vào khoảng trống … bỗng nhiên có tiếng ngã ngoài sân một người trúng tim đã chết tôi không hề biết người ấy tôi là kẻ không muốn giết người chỉ biết bóng tối mà tôi đã ném dao. Những lời tự họa đớn đau của Văn Cao đã gặp những lời tự phán kinh hoàng của Nhất Linh trong Giòng sông Thanh Thủy: Khi anh đã lọt vào guồng máy, anh sẽ phải giết người, anh sẽ có bàn tay bẩn (JP Sartre). Biến khúc II viết về bi kịch của người Nhân Văn: Tôi đi trên phố bỗng nhiên mọi người nhìn tôi một ai đó kêu lên: thằng ăn cắp tôi chạy tôi chạy tại sao tôi chạy? tôi không hiểu tôi cả phố đuổi theo tôi xe cộ đuổi theo tôi tôi chạy bạt mạng gần hết đời tới chỗ chỉ còn gục xuống tỉnh dậy mồ hôi chảy tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội

Chạy hết trọn đời, nhưng người Nhân Văn không tìm ra lối thoát. Biến khúc III, viết về mạng lưới công an trị: Tôi rơi vào mạng nhện mạng nhện cuốn lấy tôi không còn cách gì gỡ được… muốn phá cái mạng nhện tôi không đủ tay (Ba biến khúc tuổi 65)

Sau Nhân Văn, người ta vẫn không dám đối xử với tác giả Tiến quân ca như những thành viên khác của NVGP. Họ đành đưa Văn Cao vào bóng tối. Không nhắc tới. Không cho in. Không cho hát. Không cho vẽ. Trong ba mươi năm. Nhưng Văn Cao vẫn hiện diện. Hiện diện bằng sự vắng mặt: Người dân miền Nam vẫn nghe những tuyệt tác của Văn Cao qua tiếng hát những ca sĩ thượng thặng Thái Thanh, Hà Thanh, Khánh Ly… Và người dân miền Bắc mỗi lần chào cờ là một lần hội ngộ với Văn Cao. Sau này, khi đất nước ra khỏi chế độ toàn trị, lá cờ đỏ sao vàng gắn liền với với Đảng Cộng sản sẽ không còn lý do tồn tại. Nhưng Tiến quân ca là xương thịt của một nghệ sĩ thiên tài, suốt đời đóng góp cho nghệ thuật chân chính và tranh đấu cho tự do của đất nước, sẽ mãi mãi còn lại. Bởi khó có tác phẩm nào thay thế được Tiến quân ca trong lòng dân tộc Việt Nam.

THỤY KHUÊ

@ Nhân Văn Giai Phẩm – phần XIII : Văn Cao

_______________________________________________________ Thụy Khuê

Cuộc đời Văn Cao gắn bó với toàn bộ sinh hoạt văn nghệ Việt Nam trước kháng chiến, trong kháng chiến và sau kháng chiến. Văn Cao ở trong cả ba bộ môn: thơ, nhạc, họa, cho nên được giới nghệ thuật ba ngành kính phục. Là tác giả quốc ca, nhưng Văn Cao suốt đời bị chính quyền nghi ngờ, tác phẩm bị trù dập, phân biệt đối xử. Sau này, khi đất nước ra khỏi chế độ toàn trị, lá cờ đỏ sao vàng gắn liền với một đảng sẽ không còn lý do tồn tại. Nhưng Tiến quân ca là xương thịt của một nghệ sĩ thiên tài, suốt đời đóng góp cho nghệ thuật chân chính và tranh đấu cho tự do của đất nước, sẽ mãi mãi còn lại. Bởi khó có tác phẩm nào thay thế được Tiến quân ca trong lòng người Việt Nam. Cuộc đời Văn Cao gắn bó với toàn bộ sinh hoạt văn nghệ Việt Nam trước kháng chiến, trong kháng chiến và sau kháng chiến. Văn Cao ở trong cả ba bộ môn: thơ, nhạc, họa, cho nên được giới nghệ thuật ba ngành kính phục. Là tác giả quốc ca, nhưng Văn Cao suốt đời bị chính quyền nghi ngờ, tác phẩm bị trù dập, phân biệt đối xử. Tìm hiểu cuộc đời của Văn Cao cũng là tìm hiểu giai đoạn lịch sử 45-46, mà các văn nghệ sĩ xuất thân từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, nhiều thành phần chính trị và phi chính trị khác nhau đã theo Việt Minh để tranh đấu cho một lý tưởng: chống Pháp. Những Văn Cao, Phạm Duy, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn Đình Thi, Lưu Hữu Phước,… đã có một thời hoạt động chung vai sát cánh, nhưng rồi chính trị sẽ phân lìa mỗi người một con đường, một chiến tuyến. Tìm hiểu Văn Cao, tức là tìm hiểu tại sao có sự chia cắt tinh thần và thể xác Việt Nam. Tìm đến nguồn cội phát xuất hận thù: Sự tranh bá đồ vương giữa các đảng phái chính trị trên con đường giành độc lập. Để giải toả cho nhiều thế hệ, thoát khỏi cái nhìn một chiều về lịch sử: lịch sử phân biệt ta-địch. Tìm hiểu Văn Cao là để tìm đến nguồn cội của vấn đề: Văn hoá Việt nam là một toàn khối, không thể chia đôi. Tâm hồn Việt Nam là một toàn khối, không thể phân liệt. Toàn khối ấy đã thể hiện trong cuộc kháng chiến từ 1945 đến 1950: Hầu hết các văn nghệ sĩ ở mọi khuynh hướng đều cùng nhau chung lòng cứu quốc. Văn Cao, Phạm Duy hai khuôn mặt điển hình nhất của nền Tân nhạc Việt Nam: cùng theo kháng chiến từ phút đầu. Cùng có công đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp. 1951, Phạm Duy vào thành, Văn Cao ở lại, mỗi người một giới tuyến. Nhưng tác phẩm của họ, mãi mãi sẽ là của toàn thể dân tộc Việt Nam. Tiểu sử Văn Cao Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923 tại làng Lạch Trai (gần Hải Phòng) mất ngày 10/7/1995 tại Hà Nội. Nguyên quán làng An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Học tiểu học trường Bonnal, trung học trường dòng Saint-Joseph, tại đây ông được học thêm âm nhạc. Cha là Nguyễn Văn Tề làm cai máy nước. Vì cha bị mất việc, Văn Cao phải bỏ học, làm điện thoại viên ở Nhà bưu điện Hải Phòng. Được một tháng, bỏ việc. Cuối 1939, Văn Cao viết ca khúc đầu tiên Buồn tàn thu, ảnh hưởng Lê Thương. Đầu năm 1940, bản nhạc được Phạm Duy đem đi hát ở khắp nơi. 1940, Văn Cao đi Hà Nội, Huế, Sài gòn. Trong chuyến đi này, Văn Cao có dịp tiếp xúc với phong cảnh nên thơ và âm nhạc trữ tình của Huế, thi ca của Hàn Mặc Tử ở Sàigòn. Từ điển văn học ghi: “1940, vào Nam kiếm sống, làm họa sĩ trang trí nội thất cho cho một hãng tư nhân ở Sài gòn, gần một năm. Bị chủ quỵt tiền công nên bỏ việc ra Bắc” (Nguyễn Huệ Chi, Vân Long). Điểm này không thấy ghi ở các tài liệu khác. Thời kỳ 1940-1943, Văn Cao sáng tác sung mãn nhất, song song với những ca khúc lịch sử là những ca khúc lãng mạng trữ tình: Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc, Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Bến Xuân, Suối mơ, Thiên Thai, Trương Chi… Cũng trong khoảng 1940-1943, một sự cộng tác văn nghệ và hoạt động cách mạng gắn bó hai nhân tài: Văn Cao-Phạm Duy. Năm 1942, Văn Cao lên Hà Nội học dự thính (auditeur libre) trường Mỹ Thuật Đông Dương, và thơ văn của ông được Vũ Bằng đăng trên Tiểu thuyết thứ bẩy. 1943, triển lãm tranh lần đầu ở Salon Unique (Triển lãm Độc đáo). Tác phẩm Les Suicidés (Những kẻ tự sát) của Văn Cao gây tiếng vang trong giới hội hoạ, đã có ý thức cách mạng (theo Tạ Tỵ). 1944, Văn Cao được Vũ Quý, quyền bí thư Thành Ủy Hà Nội, giác ngộ vào Việt Minh, giao công tác viết bài hát cho khoá Quân chính kháng Nhật, Văn Cao sáng tác Tiến quân ca. 1945, Văn Cao vào Đội Trừ Gian. Tháng 7/45, bắn chết Đỗ Đức Phin [bị Việt Minh coi là gián điệp cho Nhật] ở Hải Phòng. Bắn hụt Cung Đình Vận và Võ Văn Cẩm tại Hà Nội. Làm báo Lao Động (bí mật). Văn Cao tự tay chép lời và nhạc Tiến quân ca vào đá (litho), in trên Lao Động số 1, tháng 11/1944. 1945, sáng tác Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc (thơ), in trên Tiên Phong số 9, tháng 4/46, và một loạt các ca khúc: Chiến sĩ Việt Nam, Chiến sĩ Hải quân, Chiến sĩ Không quân, Bắc Sơn. Bài Không quân Việt Nam, đăng trên Tiên Phong tháng 8/1946, sau này trở thành bài đoàn ca của Không quân Việt Nam Cộng Hoà. Ngày 17/8/1945, trong buổi mít-tinh của công chức, bài Tiến quân ca được Phạm Duy “cướp micro” hát lần đầu tiên và duy nhất tại nhà Hát Lớn, Hà Nội (theo Văn Cao). Ngày19/8/1945, Việt Minh “cướp chính quyền”, dàn đồng ca của Thiếu niên Tiền phong do Văn Cao điều khiển hát bài Tiến quân ca tại quảng trường Nhà hát lớn. Giữa tháng 9/1945, Vũ Quý bị chết trong một hoàn cảnh bí mật. Đầu năm 1946, Quốc hội khoá I công nhận Tiến quân ca là Quốc ca Việt nam. 1946, Văn Cao sáng tác bài thơ Ngoại ô mùa đông 46, in trên Văn Nghệ số 2, tháng 4/1948. heo Tạ Tỵ và Vũ Bằng, Văn Cao có vợ trước cách mạng tháng Tám. Nhưng có lẽ chỉ mới đính hôn, sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/46), Văn Cao và gia đình Thúy Băng rời Hà Nội ra chợ Đại (gần Hà Đông, thuộc Liên Khu Ba) mới chính thức làm lễ cưới ở thôn Ba Thá. Ở Liên Khu Ba không được bao lâu, Văn Cao nhận được chỉ thị lên Phú Thọ, rồi lên Lào Cai, mở Quán Biên Thùy trá hình làm tình báo trong Liên Khu 10, từ xuân 1947 đến thu 1947. Phạm Duy có lên hát ở đây. Mùa thu 1947, Văn Cao được lệnh về Vĩnh Yên làm báo Độc Lập. Rồi lại được lệnh trở lên Việt Bắc. Trên đường ngược sông Lô lên Phú Thọ, Văn Cao mục kích chiến địa hoang tàn: Tháng 10/47, quân Pháp, gồm mười lăm tiểu đoàn, chia làm nhiều đạo tấn công Việt Bắc, mục đích tiêu diệt Bộ chỉ huy kháng chiến, nhưng không thành. Cụ Nguyễn Văn Tố (Bộ trưởng không bộ) bị chết. Ngày 7/10, Pháp chiếm Sơn Tây. 12/10, Việt Minh kêu gọi triệt để áp dụng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến. 13/10 quân Pháp chiếm Bắc Cạn, Cao Bằng. 20/10 Pháp chiếm Yên Bái. 21/10 Pháp chiếm Chapa. 30/10/47 Pháp chiếm Lao Cai. [Bản thảo Kiều Loan của Hoàng Cầm bị mất, vì phải ném xuống hồ Ba Bể cùng các bản thảo khác]. Theo Phạm Duy, sau chiến thắng sông Lô, Cục Chính trị điều động các nhạc sĩ viết về Sông Lô để kích động tinh thần chiến sĩ: Lương Ngọc Trác sáng tác Lô Giang; Văn Cao, trường ca Sông Lô (mùa đông 1947, in trên Văn Nghệ số 1, tháng 3/48); Đỗ Nhuận: Du kích sông Thao; Nguyễn Đình Phúc: Bến bình ca; Phạm Duy: Tiếng hát trên sông Lô (Tuyên Quang, 1947). Trường ca Sông Lô được Phạm Duy đánh giá là “tác phẩm vĩ đại, chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của loại nhạc cổ điển Tây Phương” (Hồi ký II, trang 122). Tháng 3/1948, Văn Cao được kết nạp vào Đảng. Sáng tác Ngày mùa. Cuối năm 1948, Văn Cao được lệnh về Liên Khu Ba. Gặp lại Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Lương Xuân Nhị… Sáng tác Tiến về Hà Nội. Tổ chức triển lãm chung, bức tranh Cây đàn đỏ của Văn Cao bị phê bình. Giữa năm 1949, Văn Cao lại được lệnh trở lên Việt Bắc (Theo Hoàng Văn Chí, vì sợ gia đình Văn Cao về thành, Việt Minh điều động Văn Cao lên Việt Bắc). Chuyến đi rất gian nan nguy hiểm (theo Nguyễn Thụy Kha). Đầu 1950, Pháp đánh Liên Khu Ba, Đống Năm (Thái Bình) bị phá nát. Văn nghệ sĩ, người thì vào Liên Khu Tư vùng tướng Nguyễn Sơn, người thì về thành. Trong số những người về thành có: Vũ Bằng, Kim Tiêu, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Phan Tại, v.v… Tại Việt Bắc, Văn Cao tham gia chiến dịch biên giới. Phụ trách giảng dạy ở trường Âm Nhạc Việt Bắc. Sáng tác: Tiểu đoàn Lũng Vài, Ca ngợi Hồ Chủ Tịch, Công nhân Việt nam, Toàn quốc thi đua… 1952, Văn Cao được cử đi Mạc Tư Khoa trong phái đoàn văn hoá Trần Huy Liệu. Theo Hoàng Văn Chí, Trong dịp này Văn Cao được gặp nhà nhạc sĩ số một Liên Xô là Chostakovitch”. Nhưng trong các tài liệu khác, không thấy nói đến cuộc gặp gỡ này. Có thể vì Chostakovitch là người có “vấn đề”, số phận cũng trầm luân, tương tự Văn Cao? Hoàng Văn Chí viết tiếp: “Tuy nhiên sau khi đi Mạc Tư Khoa về, Văn Cao bắt đầu tỏ ý thất vọng: Liên Xô không phải là thiên đường như ông vẫn tưởng tượng. Thêm vào đấy, khi ông về nước thì cuộc đấu tố địa chủ cũng vừa bắt đầu, ông được cử đi tham quan mấy vụ đấu tố điển hình ở Việt Bắc”. (Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, trang 221) Nguyễn Thụy Kha, viết về chuyến đi Liên Xô như sau: “Được chọn đi thăm Liên Xô trong phái đoàn của ông Trần Huy Liệu, Văn Cao lần đầu tiên xuất ngoại, lần đầu tiên mở mắt nhìn ra thế giới của chủ nghiã xã hội -một lý tưởng mà chàng tôn thờ, đeo đuổi suốt tuổi trẻ (…) Ngay sau cách mạng tháng Tám thành công, cái chết đầy bí hiểm của Vũ Quý -người giác ngộ chàng, dẫn dắt chàng vào con đường cách mạng- đã làm chàng choáng váng. (…) Sang Liên Xô, tận mắt nhìn thấy, tiếp xúc với “thành trì của chủ nghiã xã hội”, “Thiên đường của loài người”, Văn Cao mới vỡ lẽ ra nhiều” (Nguyễn Thuỵ Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang 64-65). Có thể nói, chuyến đi Liên Xô 1952, đối với Văn Cao tương tự như chuyến đi Liên Xô 1936 đối với André Gide: nhìn thấy mặt thật của “thiên đường”. 1954, hoà bình lập lại, Văn Cao phụ trách ban nhạc của đài Phát thanh Hà Nội. 1956, tham gia Nhân Văn Giai Phẩm với bài thơ Anh có nghe không, đăng trên Giai phẩm mùa xuân. Sáng tác trường ca Những người trên cửa biển, một đoạn in trên Giai phẩm mùa thu, tập II. 1958, bị kỷ luật, nhưng không nặng như các thành viên chính, chỉ phải đi thực tế Điện Biên cùng Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng. Đến Hai Lót, Văn Cao bị đau dạ dày, được đưa về bệnh viện Lai Châu. Sau Nhân Văn, người ta đã định chọn Bài ca cách mạng tiến quân của Đỗ Nhuận để thay thế, nhưng rồi Tiến quân ca vẫn được giữ lại. Các tác phẩm khác của Văn Cao bị cấm. Chìm vào quên lãng trong ba mươi năm, Văn Cao sống cô đơn và gian khổ như các thành viên NVGP khác. Để sống, ông vẽ bìa sách, minh họa cho các báo, trang trí sân khấu, làm nhạc đệm cho một số phim… Sau ngày thống nhất đất nước, Văn Cao sáng tác Mùa xuân đầu tiên (1976), không được hát, có lẽ vì những câu “Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu người”. 1980, Hiến Pháp mới không ghi Tiến quân ca là quốc ca. Trong các buổi chào cờ, người ta cử nhạc. Không lời. 1981, một cuộc “vận động sáng tác quốc ca” được tổ chức quy mô, có thi tuyển, kéo dài trong 2 năm, nhưng cuối cùng vẫn không chọn được bài nào thay thế. 1983, lễ mừng Văn Cao 60 tuổi được tổ chức. Các bản nhạc Thiên Thai, Trương Chi, Suối Mơ… được tình diễn trở lại. 1988, Văn Cao được chính thức “phục hồi” cùng các thành viên NVGP. Tập nhạc Thiên Thai và tập thơ Lá được phép xuất bản. 18/8/1991, trên báo Tiền Phong chủ nhật số 26, xuất hiện bài viết: Tiến quân ca có hai tác giả? của Tô Đông Hải. Lập luận: Văn Cao chỉ viết phần nhạc, lời của Đỗ Hữu Ích. Văn Cao trả lời, trong bài phỏng vấn của Nguyễn Thụy Kha ngày 7/10/91. (Văn Cao vui và buồn sang tuổi cổ lai hy, đăng lại trên Văn Cao cuộc đời và tác phẩm, nxb Văn Học, trang 423). 1993, Quốc hội xác định: Tiến quân ca là quốc ca Việt Nam. Văn Cao mất ngày 10/7/1995, tại Hà Nội.

Tác phẩm : Ca khúc: Buồn tàn thu (1939), Thiên Thai (1941), Suối mơ (1942), Thu cô liêu (1942), Bến Xuân (1942-1945, sửa lời và đổi thành Đàn Chim Việt), Cung đàn xưa (1942), Trương Chi (1942), Vui lên đường, Gió núi, Anh em khá cầm tay, Chiều buồn trên Bạch Đằng Giang (1941), Gò Đống Đa (1942), Thăng Long hành khúc ca (1943), Tiến quân ca (1944), Chiến sĩ Hải quân (1945), Chiến sĩ Không quân (1945) Bắc Sơn (1945), Chiến sĩ Việt Nam (1945), Làng tôi (1947), Sông Lô (1947), Ngày mùa (1948) Tiến về Hà Nội (1949), Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1949). Mùa xuân đầu tiên (1976)… [Thời điểm sáng tác nhiều tác phẩm không chính xác vì các tài liệu ghi khác nhau].* Đã in : Thiên Thai, tuyển tập nhạc Văn Cao (nxb Trẻ 1988), Lá (nxb Tác Phẩm Mới, 1989) 28 bài. Tuyển tập Văn Cao, (nxb Văn Học, 1994) gồm các bài đã in trong Lá, thêm 20 bài nữa. Văn Cao có để lại hồi ký không? Viết về Văn Cao, câu hỏi đầu tiên là: Văn Cao có để lại hồi ký không? Có hai cuốn sách đáng chú ý: Văn Cao, người đi dọc biển của Nguyễn Thụy Kha (nxb Lao Động 1991), trình bày như lời “ký thác” của Văn Cao. Và cuốn Nhạc sĩ Văn Cao, tài năng và nhân cách của Bích Thuận, (nxb Thanh Niên, 2005), trình bày như lời “ký thác” của bà Văn Cao Nghiêm Thúy Băng. – Nguyễn Thụy Kha là một trong những cây bút trẻ, được gần gụi Văn Cao lúc cuối đời. Tác phẩm viết giọng tự thuật, như Văn Cao kể lại chuyện mình, đã nói lên được phần nào tâm sự của Văn Cao. Tuy nhiên, có những nhược điểm: Không rõ đâu là lời Văn Cao, đâu là lời Thụy Kha. Không rõ chỗ nào thực, chỗ nào tác giả thêm vào. Thí dụ, đoạn viết về Tiến quân ca, nếu so sánh với bản hồi ký đích thực của Văn Cao tựa đề Bài Tiến quân ca (Sông Hương số 26 tháng 7/1987) thì đã bị cắt xén rất nhiều. Những chỗ có tên Ph. D (Phạm Duy) đã biến mất. Có đoạn sửa đi và thêm vào mấy chữ mơ hồ cho người ta hiểu đó là Nguyễn Đình Thi. Ví dụ, Thụy Kha viết: “Căn gác số 171 phố Mông-grăng, Hà Nội chợt lặng phắc như vừa qua bão tố. Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi đã đi chỉ còn lại Văn Cao với bản nháp bài “Tiến quân ca”. Mới ít phút trước, căn gác còn vang lên giọng hát trầm ấm của Văn Cao trong nhịp hành khúc rắn rỏi này. Vẫn còn nguyên gương mặt xạm đen của Vũ Quý. Đôi mắt và nụ cười lấp lánh. Nụ cười thật hài lòng. Vẫn còn nguyên gương mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi và nụ cười hồn nhiên khi nhẩm xướng âm bài hát. Thi còn nói với Văn Cao: “Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về mật trận Việt Minh xem sao” (trang 29) Trong đoạn này, Nguyễn Thụy Kha kín đáo cho biết Nguyễn Đình Thi (và Vũ Quý) là người chứng kiến sự ra đời của Tiến quân ca. Nhưng Văn Cao không viết vậy. (Xin đọc toàn bài của Văn Cao trong phần phụ lục ở dưới). Văn Cao cho biết khi ông sáng tác Tiến quân ca thì Phạm Duy ở cùng và : “Anh [Phạm Duy] rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến quân ca” Và ở đoạn sau, ông viết: “Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và nhiều hy vọng. Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm, đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó. Thi nói với tôi: – Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận Việt Minh xem sao?” Đọc Văn Cao thì hiểu là khi lên Việt Bắc ông mới đưa tác phẩm cho hai đồng chí Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi. Cũng không thấy Văn Cao nói đến khuôn mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi. Như thế, chỉ cần thay đổi vị trí một vài câu chữ trên văn bản, hoạc thêm vào vài chữ, là ý nghĩa của văn bản có thể hoàn toàn thay đổi. – Bài hồi ký tựa đề Bài tiến quân ca của Văn Cao trên Sông Hương năm 1987, được cắt ngắn, thành bài Tại sao tôi viết Tiến quân ca, (in trong Thiên thai, tuyển tập nhạc Văn Cao, nxbTrẻ, 1988, in lại trong Văn Cao cuộc đời và tác phẩm, trang 86). Bản sau, đề ngày viết 7/7/76 để có vẻ như viết trước bản Sông Hương. Nhưng so sánh hai văn bản, thì ngoài việc cắt bỏ, sửa các lỗi in trong bản Sông Hương, câu văn cũng được “biên tập” lại: ngắn gọn hơn, thêm chấm phẩy, làm mất thi tính trong nguyên tác. Câu “những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim” của Văn Cao được sửa thành “Những băng cờ đỏ sao vàng đã thay cho những băng vàng bẩn thỉu của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Văn Cao không viết như vậy. Một người tự trọng không viết như vậy. Huống hồ tác giả Tiến quân ca không thể không biết rõ lịch sử, biết rõ công việc của chính phủ Trần Trọng Kim. – Cuốn sách của Bích Thuận có ý lãng mãn hoá và tô điểm cho Văn Cao trở thành nhà cách mạng trung thành với Bác và Đảng. Một điểm đáng lưu ý, chỗ bà trích một đoạn hồi ký của Văn Cao, viết về bài Tiến Về Hà Nội, có câu: “Văn Cao viết trong hồi ký: “Tôi còn nhớ trong một buổi họp ở chi bộ Liên Khu Ba, tôi đã hứa với các đồng chí Khuất Duy Tiến, Lê Quang Đạo là tôi sẽ viết một ca khúc về Hà Nội. Tối hôm ấy, tôi đã cùng ăn cơm với anh Lê Quang Đạo. Anh Đạo đã nắm chặt tay tôi và nói…” Trích đoạn này dài hơn một trang (trang 77-78). Nhờ câu “Văn Cao viết trong hồi ký”, của bà, mà chúng ta biết Bích Thuận đã được đọc hồi ký của Văn Cao, ít nhất là một mảng, ngoài Bài Tiến quân ca, in trên Sông Hương. Cuốn sách của Nguyễn Thụy Kha, đoạn mô tả Văn Cao lùng “Việt gian” V.V.C, có những chi tiết mà ngoài Văn Cao không ai biết được. Rồi những câu như: “Sông Hương, quả là một lưỡi kiếm dựng giữa trời xanh – Tiếng nước rơi bán âm – Chợt xé ra một nỗi nhớ sông Hương trong cảm xúc, v.v…”, xem ra rất Văn Cao, lác đác trải dài trong tác phẩm. Vậy nguồn của những câu, những chữ ấy là đâu? Nếu từ những trang hồi ký đích thực của Văn Cao, thì hiện giờ chúng ở đâu? Nguyễn Thụy Kha và Bích Thuận đã “làm việc” như thế nào với những trang hồi ký ấy? Để ghi lại chân dung một người, không gì bằng in thẳng những điều người ấy viết, trước hết, vì tôn trọng sự thật của tác giả và nhất là khi người ấy có bút pháp độc đáo như Văn Cao, vì tôn trọng văn chương của tác giả. Nhưng đây là sự kiện thường hay xẩy ra cho các tác phẩm in ở Việt Nam. Phát xuất từ những lý do: – Chính sách thô bạo của chính quyền đối với những chữ, những câu, những tác phẩm không đi đúng đường lối của Đảng (kiểm duyệt, tịch thu, cách chức Tổng biên tập, v.v…) – Sự sợ hãi và sự tự kiểm của nhà xuất bản. – Sự an phận và đồng tình của giới văn học (kể cả một số người ở ngoài nước về in trong nước) qua lập luận “nước mình nó thế!”. Biết nó thế thì phải hành động làm sao cho nó thay đổi đi. Nhưng không. Chấp nhận tất cả. Lý lẽ: thà bị cắt, nhưng in được, còn hơn không được in gì! – Sự sợ hãi của tác giả, hoặc thân nhân (nếu tác giả đã qua đời). Đặc biệt, đối với những gia đình NVGP, sau gần nửa thế kỷ bị trù giập, không mấy ai còn muốn đối đầu. Họ muốn xoá “dấu chàm” trên trán để có thể sống bình thường. Muốn được chính quyền “nhìn nhận”. Các giải thưởng, huân chương, chính là sự “nhìn nhận” ấy. Những người Nhân Văn “được” giải thưởng lúc cuối đời, đứng trước lựa chọn: gia đình hay khí phách. Họ đã chọn gia đình. Nhận giải thưởng không vì tùng phục, mà vì thương gia đình, muốn con cháu thoát nạn Lý lịch ba đời mấy đứa con thơ, như lời Lê Đạt. – Những điều đã bị bỏ, bị sửa, dưới mắt người kiểm duyệt và người bị kiểm duyệt, có thể chỉ là những “chi tiết không quan trọng”. Nhưng nhiều “chi tiết không quan trọng”, bị đục bỏ, thêm thắt, xuyên tạc có thể thay đổi hẳn cục diện tác phẩm. Bằng chứng trước mắt là văn bản Bài Tiến quân ca của Văn Cao. Đó là một hình thức ngụy tạo tác phẩm, ngụy tạo sự thật. Nhiều tác phẩm ngụy tạo sẽ dựng nên một lịch sử ngụy tạo. – Một câu hỏi đặt ra: Tại sao báo Sông Hương, tháng 7-8 năm 1987, do Tô Nhuận Vỹ làm tổng biên tập và và Nguyễn Khắc Phê làm phó tổng biên tập, đã “dám” in đầy đủ bài của Văn Cao, không cắt xén. Và sau này, không ai “dám” in lại văn bản này? Tóm lại, tình trạng chung của các sách viết ở miền Bắc trước 1975 và cả nước sau 1975, về văn học hay lịch sử cận đại, là đương nhiên phải gạt bỏ những người bị chính quyền coi là “phản động”, là “ngụy”, nghĩa là một nửa nước, ra ngoài. Vì vậy, khó có thể dựa vào những văn bản như thế để nghiên cứu văn học và lịch sử. Sớm muộn gì rồi Việt Nam cũng sẽ thoát ra khỏi tình trạng hiện tại. Người nghiên cứu, nếu muốn cho tác phẩm của mình tồn tại sau thời kỳ toàn trị, thì không thể cứ viết mãi về một nửa nước. Không ai cần biết Nguyễn Du, Xuân Hương… có “trung thành” hay “phản động” đối với Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh. Nhưng một cuốn sách viết về văn học thời kỳ Nguyễn Huệ-Nguyễn Ánh mà gạt Nguyễn Du, Xuân Hương… ra ngoài, sẽ là vô dụng.

Văn Cao trước kháng chiến

Người viết hay nhất và đầy đủ nhất về Văn Cao là Phạm Duy. Phạm Duy có thói quen ghi chép khá cặn kẽ những sáng tác hay của các bạn. Riêng với Văn Cao, Phạm Duy chép từ những bản nhạc hướng đạo, ít người biết, đến những lời hai, tuyệt vời, nhưng ca sĩ lười không hát, của tác phẩm nổi tiếng như Trương Chi. Tạ Tỵ viết: “Phải thừa nhận rằng, nếu không có giọng hát của Phạm Duy, nhạc Văn Cao cũng khó mà phổ biến; trái lại nếu không có Văn Cao, chưa chắc Phạm Duy đã sáng tác! Cả hai hỗ trợ nhau, cùng dìu nhau đi vào bất tử!” (Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, nxb Thằng Mõ, Hoa Kỳ 1990, trang 39). Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu năm nào? Theo Phạm Duy, là khi ông theo gánh hát Đức Huy-Charlot Miều xuống Hải Phòng, nhưng chỗ ông ghi 1943, chỗ 1944, chắc là nhầm. Đọc kỹ những chi tiết trong hồi ký Phạm Duy, thì biết lúc đó Văn Cao còn “đang thất nghiệp” và đã sáng tác những bản Buồn tàn thu, Thu cô liêu, Cung đàn xưa… vậy họ gặp nhau sớm hơn, và chắc chắn trước khi Văn Cao sáng tác Suối mơ và Bến xuân [1942], bởi vì “Khi 2 nhạc phẩm được in ra, tên Phạm Duy xuất hiện lần thứ nhất trước công chúng, bên cạnh tên Văn Cao” (Tạ Tỵ, Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Văn Sử học, Sàigòn 1971, trang 47). Sở dĩ có sự lộn xộn về ngày tháng, có thể vì Phạm Duy vác đàn đi khắp đất nước, riêng Con đường cái quan (xuyên Việt) ông đi về ít nhất 5 lần trong kháng chiến. Văn Cao viết trong hồi ký: “Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm”. (Văn Cao, Bài tiến quân ca, Sông Hương số 26, tháng 7/1987). Cuối cùng, trở lại với lời tâm sự của Văn Cao khi ở Huế năm 1940: “Đầu năm nay [1940] nó xuống Hải Phòng. Và “Buồn tàn thu” đã được nó lôi đi hát vang lên trên các nẻo đường xứ Bắc. Và thế là người yêu nhạc chốn Hà Thành đã biết có một Văn Cao tiếp sau Đặng Thế Phong” (Nguyễn Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang 17). Vậy chúng tôi tạm cho rằng Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu năm 1940 là hợp lý hơn cả, và từ đó phát xuất một tình bạn lâu dài trong sáng tác và hoạt động cách mạng. Phạm Duy viết: “Văn Cao là tên thật, họ Nguyễn, ra đời sau tôi vài năm tại bến Bính, bên dòng sông Cấm. Cha (hay anh ruột, tên là Tú) làm cai của nhà máy bơm nước ở bờ sông đó nên suốt thời niên thiếu, anh sống trong nhà máy nước này. Học tiểu học tại trường Bonnal, trung học ở trường Saint Joseph, Văn Cao đã có khiếu văn nghệ ngay từ khi còn đi học. Ăn ở trong một căn nhà nhỏ có cái máy bơm rất lớn nằm chình ình giữa nhà suốt ngày đêm hút nước từ dưới sông lên không lúc nào ngưng nghỉ, Văn Cao còn vất vả hơn nữa là phải lấy một tấm phản kê lên máy bơm để làm bàn học. Sau này nhớ tới “giọng máy bơm nước”, Văn Cao sẽ có câu thơ: Anh muốn giơ tay lên mặt trời Để vui da mình hồng hồng sắc máu Mấy năm một điệu sáo Như giọng máy nước thâu đêm chảy… (Anh có nghe không, trong Lá, tuyển tập thơ Văn Cao). Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà “xổ chữ nho”. Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngã vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng” (Phạm Duy, Hồi ký I, Thơ Ấu Vào Đời, trang 234-235). Nhận xét về thơ Văn Cao, Phạm Duy viết: “Vào năm 1941 mà anh đã có những câu thơ nghe như thơ Huy Cận: Sông chầm chậm chảy trong mưa Nghe chừng cô gái đã thưa nhát chèo Mưa trong trăng tiếng nhỏ đều Bến mờ mịt: mấy mái lều bơ vơ (Đêm mưa) Chưa gặp Văn Cao nhưng tôi đã biết tài soạn nhạc qua mấy bài nhạc hùng của anh rồi. Khi tới Hải Phòng, sau khi gặp Hoàng Quý tôi tìm đến Văn Cao. Cũng như tất cả thanh niên “mỏ trắng” (blanc bec) thời đó, Văn Cao đang thất nghiệp sau một tháng làm việc tại Nhà Bưu Điện. (…) Gặp tôi đang lập cuộc đời mới trong một gánh hát thì kết thân ngay. Lúc đó, tôi đã tập toẹ đánh đàn với các nhạc sĩ trong ban nhạc Tây của gánh Đức Huy (…) Và tôi đã hát cho Văn Cao nghe. Nghe xong, Văn Cao vội vàng đưa cho tôi dăm ba bài anh ta mới làm xong. Lúc đó bên cạnh hai đứa chúng tôi còn có Đỗ Hữu Ích, con ông chủ bán đồ sắt phố Hàng Đồng, soạn lời ca rất hay. Đa số những bản đầu tay của Văn Cao đều đã được Đỗ Hữu Ích giúp đỡ phần lời ca.” (Phạm Duy, Hồi ký I, trang 236-237) Phạm Duy không nhắc đến việc ông phụ giúp bạn làm lời các bài Suối mơ, Bến xuân. Ngược lại, ông nhắc nhiều đến công của Đỗ Hữu Ích. Có thể vì Phạm Duy đã có một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ Ngàn lời ca, với 45 ca khúc trong 6 năm kháng chiến, trong khi Đỗ Hữu Ích không mấy ai biết đến. Phạm Duy cũng giải thích việc bạn bè phụ giúp Văn Cao: “Có đôi khi Văn Cao không hoàn tất vài ba sáng tác của mình, có thể vì anh là người vung vãi tài hoa nhưng thiếu tự tin. Bạn bè ở bên anh có cơ hội giúp anh hoàn thành những gì anh bỏ dở. Cũng nên biết rằng những bài hát đầu tiên của Văn Cao, về phần lời ca, còn có thêm sự phụ giúp rất hữu hiệu của một anh bạn khác là Đỗ Hữu Ích”. (Hồi ký II, Cách mạng kháng chiến, trang 49-50). “Bạn bè” ở đây có cả Hoàng Quý, Kim Tiêu… những người chơi thân với Văn Cao lúc bấy giờ. Việc tranh chấp sau này về lời bản Tiến quân ca, dường như cũng ở trong bối cảnh tương tự: có thể Đỗ Hữu Ích đã phụ giúp ý kiến. Bởi nếu Đỗ Hữu Ích làm cả lời ca, thì tại sao ông lại không “kiện” Văn Cao, ít nhất là từ sau 1954, khi hoà bình lập lại, mà lại để đến năm 1991 mới lên tiếng? Hình như người ta muốn hạ bệ Văn Cao một lần nữa, vào thời điểm 1991 này. Về tính nhút nhát của Văn Cao, Phạm Duy viết: “Lúc đó, Văn Cao đã nổi danh vì những bản nhạc thanh niên và hướng đạo nhưng nếu có ai hỏi anh có phải là nhạc sĩ Văn Cao hay không thì không hiểu vì sao cu cậu cứ trả lời là không!” (Phạm Duy, Hồi ký II, trang 49) Văn Cao cũng xác nhận sự nhút nhát này: “Mày ơi! Vì sao mày đưa nàng đến để cùng tập những bài hát đầu tay của tao (…) Tao chỉ là một Văn Cao hết sức nhút nhát trước phái yếu. Nhút nhát đến gàn dở. Tuyết đến rồi qua nhanh khi Sài gòn lùi lại sau lưng. Mày đã biết rồi đấy, tao bao lần không dám nhận mình là Văn Cao” (Nguyễn Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang 23). Phạm Duy đặt Văn Cao trong bối cảnh Tân Nhạc Việt Nam trước kháng chiến với hai loại Nhạc hùng và nhạc tình, và ông xác định sự đóng góp của Văn Cao trong mỗi thể loại: “Vào năm 1944 này, Tân Nhạc Việt Nam đã qua giai đoạn chuẩn bị với những bài ta theo điệu tây và bước vào giai đoạn thành hình với hai loại nhạc tình và nhạc hùng. Nhạc hùng đã được hai nhóm là Tổng Hội Sinh Viên ở Hà Nội và Đồng Vọng ở Hải Phòng làm cho khởi sắc với những bản hùng ca của hai người cầm đầu hai nhóm là Lưu Hữu Phước và Hoàng Quý. Trước đó, đã có những bài hát hướng đạo cũng như những bài lịch sử ca soạn ra để cổ võ lòng yêu nước của thanh niên (cho nên được gọi là thanh niên- lịch sử ca), như : Vui ca lên nào anh em ơi! Hát cho đời thắm tươi… (Linh Mục Thích) Anh hùng xưa nhớ hồi là hồi niên thiếu Dấy binh lấy lau làm cờ (Hoàng Đạo Thúy) Bây giờ hai nhóm Tiếng gọi sinh viên và Đồng Vọng tung ra những bài như Vui Xuân, Bạn Đường, Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước, Đêm Trong Rừng, Bóng Cờ Lau, Nước Non Lam Sơn của Hoàng Quý. Đều là những bài hát hay nhưng chỉ hay một cách bình thường. Văn Cao đóng góp vào loại nhạc hùng này với những bài như Vui Lên Đường, Gió Núi, Anh Em Khá Cầm Tay, Đống Đa, Thăng Long Hành Khúc…Theo tôi, những hướng đạo ca và thanh niên-lịch sử ca của Văn Cao có nhiều souffle (hơi thở) hơn trong câu nhạc và có nhiều tính thơ hơn trong lời ca. Trong những bài ca hướng đạo Anh Em Khá Cầm Tay, Gió Núi ta đã thấy manh nha những phóng bút tuyệt vời của Chiến Sĩ Việt Nam, Bắc Sơn hay Thiên Thai, Trương Chi sau này (…) Về phần nhạc hùng thì bài Đống Đa với câu ca:”Tiến quân hành khúc ca, thét vang rừng núi xa… nó phải dẫn tời bài Tiến quân ca của Cách Mạng Tháng Tám” (Hồi ký I, trang 237-239). Về nhạc tình của Văn Cao, Phạm Duy viết: “Vào đầu thập niên 40, nhạc tình ở Hà Nội nằm trong tay nhóm Myosotis (Hoa Lưu Ly) với những bài như Thuyền Mơ, Khúc Yêu Đương, Hồ Xưa… của Thẩm Oánh, Tâm Hồn Anh Tìm Em của Dương Thiệu Tước và trong tay nhóm Tricéa với những bài như Đoá Hồng Nhung, Bóng Ai Qua Thềm của Văn Chung, Bẽ Bàng của Lê Yên, Cô Lái Thuyền, Biệt Ly của Dzoãn Mẫn. Nhạc tình đang phổ biến dữ dội lúc đó cũng còn là của một người Nam Định, Đặng Thế Phong với ba bài hát mùa Thu: Đêm Thu, Con Thuyền Không Bến và Giọt Mưa Thu… Ở Hải Phòng, nhạc tình là địa hạt của Lê Thương với những bài đầu tay rất hay như Bản Đàn Xuân, Một Ngày Xanh (hay Bên Bờ Đà Giang), Nàng Hà Tiên… Nhất là với bài Thu Trên Đảo Kinh Châu soạn trên âm giai Nhật Bản và đang rất thịnh hành (đến độ đi vào nhạc mục của Hát Quan Họ ở Bắc Ninh). Trong không khí nhạc tình lãng mạn toàn nói về mùa Thu như vậy, chàng tuổi trẻ Văn Cao cũng soạn ra những bài hát mùa Thu như Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu… nhưng chưa bao giờ anh có cơ hội để phổ biến. Tôi sẽ là người đầu tiên đem nhạc của Văn Cao đi – nói theo lời Văn Cao đề tựa trong một bài hát – gieo buồn khắp chốn. Danh từ người du ca đầu tiên cũng do chính Văn Cao đã gán cho tôi với một sự thèm sống cuộc đời “xướng ca vô loài” như tôi lắm lắm” (Hồi ký I, trang 240-241) Sau khi phân tích giá trị từng tác phẩm của Văn Cao, Phạm Duy xác định: “Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của 50 năm Tân Nhạc thì những bài Suối Mơ, Bến Xuân là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam. Sẽ không bao giờ có những bài ca lãng mạn như thế nữa! Sẽ có nhạc tình cảm tính, nhạc tình não tính, nhạc tình nhục tính và ảo tính nhưng không thể có thêm những bài nhạc tình lãng mạn nào hay hơn nhạc Văn Cao” (…) Khi Thiên Thai và Trương Chi ra đời, với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt ta tới đỉnh cao nhất của ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của khổ đau với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thủa”. (Hồi Ký I, trang 247- 249) Phạm Duy cũng không quên nhắc đến vai trò của Kim Tiêu trong việc truyền bá ca khúc Văn Cao: “Trong đám nam ca sĩ lúc đó, tôi cho rằng Kim Tiêu là người hát hay nhất. Trong khi tôi vác bài Buồn tàn thu đi lưu diễn ở trong Nam thì ở Hà Nội, chính nhờ giọng hát Kim Tiêu mà những bài Thiên Thai, Trương Chi của Văn Cao được nổi tiếng”. (Hồi ký II, trang 56- 57) Về số phận người danh ca này, Tạ Tỵ cho biết: Kim Tiêu về thành trước ông nhiều tháng, nhưng sau chống đối, bị Pháp bắt và buộc tội là Việt Minh: “Vào tù, anh vẫn không sợ, dù bị đánh đập tra khảo thế nào, anh cứ coi thường. Pháp nhốt anh vào xà-lim (Cellule), anh vẫn ca hát, những bài hát của Việt Minh. Sáng nào, anh cũng nắm chặt tay vào song sắt hát bản Tiến quân ca của Văn Cao để đánh thức mọi tù nhân khác dậy. Từ ngoài khu kháng chiến, Văn Cao được tin, cảm động lắm, làm một bài thơ bí mật đem vào Hà Nội, rồi nhờ các cán bộ tình báo nội thành đưa vào Hoả Lò cho ca sĩ Kim Tiêu. Tôi có được đọc cả bài thơ, nhưng lâu ngày, bây giờ chỉ nhớ vài câu: …Người danh ca ấy nằm trong ngục Hà Nội nhớ tôi, hát bài ca cũ Tiếng ca như buổi sớm trong Tiếng ca vang vang phá phách Xà-lim nổ tung ra Cả Hoả Lò vỡ toang thành khối nhạc!… Câu chuyện về ca sĩ Kim Tiêu, tôi chỉ biết tới đấy, còn sau này, Kim Tiêu sống hay chết trong tù, tôi không hay” (Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, trang 114). Trong đoạn viết về Bến Xuân, Nguyễn Thụy Kha có nhắc đến người ca sĩ giọng vàng, nhưng không (dám?) nêu tên, và sau cùng có câu “Và đau đớn nhất là chàng đã chết trong cơn đói không thể nào sống được” (trang 28). Tại sao? Tìm kỹ thì chúng tôi thấy trong tạp chí Âm nhạc, Minh Hiền viết: “Kháng chiến, Kim Tiêu ở lại hoạt động vùng địch. Ông đã bị bắt. Trong tù, Kim Tiêu vẫn hát vang những bài cách mạng. Khi được thả, ngay giữa Hà Nội tạm chiếm, trong một liên hoan sinh viên, Kim Tiêu đã hát Sông Lô của Văn Cao mà không hề sợ sệt chút nào. Rất tiếc, sau hoà bình, do bị nghi ngờ được thả ra tù vì đã khai báo, Kim Tiêu buồn chán đi lang thang. Càng buồn ông càng hát hay. Kim Tiêu đã hát đến hơi thở cuối cùng ở Ga Hàng Cỏ” (Minh Hiền, Những giọng vàng một thủa, tạp chí Âm Nhạc số 3-4-5, 1994, trang 43-44). Bi kịch của Kim Tiêu chắc hẳn còn nhiều u uẩn. Cần được tìm hiểu sâu xa hơn nữa.

Văn Cao, hội họa lập thể, trước kháng chiến

Sự cách tân trong hội họa của Văn Cao, sẽ được Tạ Tỵ nhận định Tạ Tỵ, sinh năm 1921 tại Hà Nội, là họa sĩ Việt Nam đầu tiên vẽ theo lối lập thể từ 1940. Tạ Tỵ theo kháng chiến từ những ngày đầu. Tháng 5/1950, sau khi bức tranh lập thể Mưa núi, bị phê bình gay gắt, ông quyết định về thành. Năm 1951, ông tổ chức cuộc triển lãm tranh lập thể đầu tiên với 60 tác phẩm tại Hà Nội. Năm 1953, bị động viên đi lớp Sĩ quan Thủ Đức. Ông tiếp tục sự nghiệp hội họa tại Sàigòn, với hai cuộc triển lãm lớn năm 1956 và 1961. Tạ Tỵ phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà, cấp bậc sau cùng là Trung Tá. Sau 1975, ông bị đi cải tạo và đưa ra Bắc. 1981 được tha về. 1982, cùng gia đình vượt biển. Viết hồi ký Đáy Điạ ngục (nxb Thằng Mõ, 1985, Hoa Kỳ). Năm 2004, sau khi vợ ông từ trần, Tạ Tỵ trở lại sống tại Sài gòn và mất ngày 24/8/2004. Tạ Tỵ, như Vũ Bằng nhận xét là “một nghệ sĩ “trọn vẹn”, ngoài môn vẽ, viết, thơ ca, anh lại còn có tài về nhạc và trình diễn”. Ông để lại những trang hồi ký giá trị về sinh hoạt văn nghệ Việt Nam, từ tiền chiến đến thập niên 80.

Phạm Duy học Mỹ thuật Đông Dương một năm (40-41) với các thày Nam Sơn, Georges Khánh, Tô Ngọc Vân… và cùng lớp với Võ Lăng, Đinh Minh, Mai Văn Hiến, Bùi Xuân Phái, Phan Kế An, Quang Phòng, Phan Tại, Nguyễn Thanh Đức, Tạ Thúc Bình, Trần Phúc Duyên… Phạm Duy viết: “Học trước chúng tôi vài năm là Tạ Tỵ, Phạm Văn Đôn, Trần Văn Lắm, Nguyễn Thị Kim… (…) Tạ Tỵ vẽ dessin hoặc vẽ tranh sơn dầu theo lối cổ điển hay ấn tượng (impressionisme) rất thành công, nhưng anh lại chọn con đường lập thể (cubisme) của Picasso. Ngoài Tạ Tỵ ra tôi không thấy có họa sĩ Việt Nam nào dám đi vào loại tranh đó cả. Tạ Tỵ còn đi xa hơn nữa khi anh đi vào loại tranh vị lai (futurisme)” (Phạm Duy, Hồi ký I, trang 183). Tạ Tỵ viết về Văn Cao trong bối cảnh hội họa của thập niên bốn mươi: “Vào những năm 40-41, tôi học chung với nhiều bạn nhưng chỉ có vài người có tinh thần tiến bộ như Nguyễn Đăng Trí, Bùi Xuân Phái và Nguyễn Sáng. Cả ba đều học dưới tôi vài lớp. (…) Bùi Xuân Phái người Hà Nội, có đôi mắt to sáng, vầng trán cao với bộ râu đỏ hoe và nụ cười khinh bạc (…) Anh thích vẽ phố vì nhà anh ở gần phố Hàng Thiếc, Hàng Điếu, Hàng Hòm là những con phố cổ của Hà Nội ngày xưa (…) Do vậy, về sau anh em thường gọi đùa là “Phái Phố” ! Tôi và Bùi Xuân Phái sau này còn rất nhiều dịp sống gần nhau để tạo nên kỷ niệm (…) Còn Nguyễn Sáng, người miền Nam, tình tình nóng nẩy. Sáng cũng có vầng trán thật cao, thân xác khỏe mạnh như lực sĩ (…) Nguyễn Sáng khéo tay lắm, nhất là tranh thiếu nữ vẽ trên lụa (…) “Phạm Duy và Văn Cao cũng có một thời gian theo học Mỹ Thuật cũng như Phan Tại, nhà đạo diễn kịch sau này, nhưng cả ba đều bỏ ngang, có lẽ vì không thích hợp. Chỉ riêng Văn Cao vẫn vẽ, có vài tác phẩm được trưng bày tại Salon Unique năm 1943 do chính phủ Pháp tổ chức. Tác phẩm mang tựa đề “Những kẻ tự sát” (Les suicidés) với bút pháp phong phú gây được nhiều thiện cảm của giới yêu mỹ thuật lúc ấy. Qua tác phẩm này, ý thức cách mạng đã có ở Văn Cao nhưng chưa ai biết (…) Văn Cao khi ở Hải Phòng, khi lên Hà Nội, mỗi lần có mặt ở thành phố, Văn Cao thường đến tìm tôi mời lại căn nhà ở trong con ngõ nhỏ đường Hàm Long để khoe tranh mới. Trong khoảng thời gian từ 42 đến 45, tôi đâu biết Văn Cao đã dấn thân vào cách mạng, hoạt động bí mật cho Mặt Trận Việt Minh. Quả thật tôi không để ý đến cách mạng và chính trị nên thường có những lập luận đối nghịch với Văn Cao về sáng tác. Văn Cao cho rằng nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ cho số đông và một bức tranh đẹp phải truyền cảm, gây được ấn tượng tốt cho người xem tranh. Còn tôi cho rằng nghệ thuật, bất cứ ở bộ môn nào, trước hết, phải có bản sắc cũng như đặc tính của nghệ phẩm. Một bức tranh đẹp không cần sự giải thích, chỉ cần sự cảm thông giữa người xem tranh và tác phẩm (…) Nhưng tuy miệng nói vậy, chứ Văn Cao vẽ cũng mới lắm; những bản nhạc như Buồn Tàn Thu, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi, v.v… được in ra đều do Văn Cao trình bày bìa đi rất gần với trường họa lập thể, mà hồi đó chưa có một bản nhạc nào, cuốn sách nào trình bày dưới hình thức đó”. (Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, trang 18-34). Tạ Tỵ còn gặp lại Văn Cao nhiều lần trong kháng chiến và cũng chính ông là người sẽ thuật lại sinh hoạt hội họa trong kháng chiến. Bây giờ hãy tìm hiểu về giai đoạn cách mạng tháng Tám, giai đoạn Tiến quân ca và những ngày lịch sử.

Tiến quân ca và những ngày lịch sử

Năm 1945, là thời điểm bản lề, phát xuất sự phân chia quốc-cộng, phân chia Nam-Bắc, phân chia chiến tuyến. Theo Lại Nguyên Ân thì người nghiên cứu ngoài Bắc có rất ít tư liệu văn học về thời kỳ này, phải nhờ đến những bài báo của Vũ Bằng trên Trung Bắc chủ nhật, mà ông vừa tìm lại, ông mới biết được những sự việc như: “Học giả Trần Trọng Kim trong vai trò thủ tướng; việc khôi phục Hà Nội trong quy chế một thành phố của nước Việt Nam độc lập; việc Hà Nội khôi phục đền Trung Liệt thờ những bậc quản thủ đã tử tiết vì thành phố…” (Lại Nguyên Ân, Đôi lời dẫn giải, Vũ Bằng, các tác phẩm mới tìm thấy, Vietstudies).

1945 là năm sôi động nhất của lịch sử cận đại và Tiến quân ca lần đầu tiên đến với quần chúng.

Để giúp bạn đọc theo dõi tiến trình hành động và sáng tác của Văn Cao và các văn nghệ sĩ thời đó, chúng tôi xin nhắc lại một số mốc lịch sử: 4/2/1945, Hội nghị tối cao Đồng Minh họp tại Yalta, chia thế giới làm hai khu vực: vùng ảnh hưởng Nga và vùng ảnh hưởng Anh Mỹ. Tháng 3/1945 (năm Ất Dậu), nhiều ngàn người chết đói ở Bắc. 9/3/45, Pháp đầu hàng Nhật. 10/3/45, Nhật tuyên bố: ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Đông Dương. 11/3/45, Viện cơ mật Huế thông báo: hủy bỏ hiệp ước bảo hộ 1884. Việt Nam khôi phục lại chủ quyền. 17/3/45: Vua Bảo Đại tuyên chiếu: đích thân cầm quyền theo nguyên tắc Dân vi quý. 17/4/45: Bảo Đại ủy Trần Trọng Kim lập chính phủ, thành phần: Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Trịnh Đình Thảo, Trần Đình Nam, Hồ Tá Khanh, Lưu Văn Lang, Trần Văn Chương, Nguyễn Hữu Thi. Dùng cờ quẻ LY (cờ vàng ba sọc đỏ) làm quốc kỳ và tiếp tục lấy Đăng đàn cung làm quốc ca. Học giả Trần Trọng Kim giải thích: “Nước Việt Nam đã là một nước tự chủ thì phải có quốc kỳ và quốc ca. Bài quốc ca thì từ trước vẫn dùng bài “Ðăng Ðàn” là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng bài ấy. Còn lá quốc kỳ, mỗi người bàn một cách, chúng tôi định đem hỏi mọi người trong nước và ai có ý kiến gì, thì vẽ kiểu gửi về. Có kiểu lá cờ vàng có quẻ ly ở giữa là có ý nghĩa hơn cả. Chúng tôi định lấy kiểu ấy làm quốc kỳ. Lá cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách Quốc Sử Diễn

Triệu Ẩu nổi lên đánh quân Tàu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu rằng “Ðầu voi phất ngọn cờ vàng”. Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với cái ý cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ ly là vì trong lối chữ tối cổ của ta có tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ bốn phương chính và bốn phương bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ ly chủ phương nam. Chữ LY còn có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn phương. Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ ly là hợp với vị trí nước nhà lại có nghĩa chỉ một nước văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ vàng quẻ ly có đủ các ý nghĩa”. (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi (hồi ký), chương 4, đã có trên Internet) 20/7/45 Nhật trả chính phủ Việt Nam các cựu nhượng địa Pháp: Hà Nội, Hải Phòng Đà Nẵng. 1/8/45 Đốc lý Trần Văn Lai cho phá các tượng Pháp ở Hà Nội: tượng Paul Bert, Jean Dupuis, Đầm Xoè ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm lính Khố Xanh, Khố Đỏ. 9/8/45 Nagasaki bị ném bom nguyên tử. 13/8/45 Đảng Cộng sản Đông Dương nhóm họp tại Tuyên Quang, quyết định: Tổng khởi nghiã, đoạt khí giới quân Nhật, chiếm chính quyền trước khi quân Đồng Minh đến Đông Dương, lập chế độ Dân chủ cộng hòa. 14/8/45 Nhật trả Nam Bộ cho triều đình Huế. 15/8/45 Nhật hoàng kêu gọi quân đội đầu hàng. De Gaulle cử Leclerc làm tư lệnh Lục quân Pháp tại Đông Dương. 17/8/45 Công chức Hà Nội biểu tình, biểu dương ý chí bảo vệ đất nước, cuộc biểu tình biến thành cuộc biểu tình ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Phạm Duy cướp micro hát Tiến quân ca “lần đầu tiên và duy nhất” tại nhà Hát lớn Hà Nội. 19/8/45 Biểu tình lớn trước nhà Hát lớn, để nghe tuyên bố của Mặt trận Việt Minh. Bài Tiến quân ca được đoàn Thanh niên đồng ca. 22/2/45 Vua Bảo Đại thoái vị. 23/8/45 Thành lập chính phủ lâm thời với Hồ Chí Minh, chủ tịch. 2/9/45 Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Độc Lập tại Ba Đình. Vũ Hoàng Chương làm bài thơ Ngày Độc Lập, đăng trên Tiên phong số 24, ngày 1/12/46. 9/9/45 Quân đội Trung Hoa bắt đầu tới Hà Nội để giải giới quân Nhật. 5/10/45 Leclerc tới Sàigòn, tuyên bố sẽ bình định Nam Bộ 22/12/45 Hồ Chí Minh ký thỏa ước với Việt Quốc và Việt Cách (Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội, Việt Nam Quốc dân đảng và Đại Việt) lập chính phủ liên hiệp. 13/1/46 Vệ Quốc Quân tấn công bộ đội Việt Quốc tại Việt trì. Quân Pháp chiếm xong Nam Bộ, tiếp tục đánh ra Bắc. 2/3/46: Thành lập chính phủ liên hiệp với Hồ Chí Minh, chủ tịch; Nguyễn Hải Thần, phó chủ tịch; Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Nội vụ, Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng Ngoại giao… 6/3/46 Hồ Chi Minh ký hiệp định Sơ bộ, thừa nhận Việt Nam là quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp. 16/3/46 Cố vấn Vĩnh Thụy sang Trùng Khánh 17/4/46 Khai mạc hội nghị Việt Pháp tại Đà Lạt với Nguyễn Tường Tam làm trưởng phái đoàn. Hội nghị thất bại. Từ tháng 4/46, trở đi, tình hình rối loạn: quân Tưởng đánh nhau với quân Pháp. Bộ đội Việt Minh đánh nhau với bộ đội Việt Quốc. Nguyễn Tường Tam sang Tàu. 6/7/46 Khai mạc hội nghị Fontainebleau, với Phạm Văn Đồng làm trưởng phái đoàn. Chương trình nghị sự: Việt Nam và Liên bang Đông dương. 10/9/46, Hội nghị thất bại. 14/9/46 Đang đêm, chủ tịch Hồ Chí Minh thân hành đến nhà riêng của Bộ trưởng Marius Moutet ký thoả ước tạm thời. 2/11/46 Hồ Chí Minh lập chính phủ mới, không còn tính cách liên hiệp. 19/12/46 Chiến tranh Việt Pháp bùng nổ.

Tóm tắt công việc của chính phủ Trần Trọng Kim trong hơn ba tháng cầm quyền (từ 17/4 đến đầu tháng 8/45): bỏ Bộ Quốc Phòng, lập Bộ Thanh Niên do Phan Anh đảm nhiệm: Bỏ chiến tranh, rèn luyện tuổi trẻ. Hoàng Xuân Hãn (Bộ trưởng giáo dục và mỹ thuật) soạn thảo một chương trình giáo dục mới. Tiếp nhận các phần lãnh thổ bị Pháp chiếm: Nam Bộ và các thành phố Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nội (Theo Phan Anh, việc này không dễ dàng, vì Nhật không muốn trả). Tổ chức đại lễ kỷ niệm Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ Yên Bái tại vườn Bách Thảo. Phá những tượng đài của thực dân Pháp tại Hà Nội. Đặt lại tên Việt cho các đường phố Hà Nội, v.v… Về phía các đảng phái, sự đoạn tuyệt đã rõ ràng từ khi bộ đội Việt Minh và Việt Quốc đánh nhau ở Việt Trì. Phe quốc gia, gồm những đảng đối lập với cộng sản, có khuynh hướng khác nhau: thân Tàu (Tưởng Giới Thạch), thân Nhật hoặc thân Pháp. Phe cộng sản: thân Nga, thân Tàu (Mao Trạch Đông).

Nhưng Việt Minh đã thành công trong việc cổ động toàn dân theo Cách mạng tháng Tám. Riêng về phía văn nghệ sĩ, gần như hầu hết những người không cộng sản cũng tham gia kháng chiến: Tạ Tỵ viết khẩu hiệu cho Việt Minh. Phạm Duy cướp micro hát Tiến quân ca. Vũ Hoàng Chương sáng tác Ngày độc lập với những câu thơ:

“… Hai cuộc tang thương tủi đọa đầy Núi sông còn có buổi hôm nay Kinh kỳ tám mặt reo đoàn kết Sóng đỏ gầm quanh ngọn bút này … Ngoài kia dừng chén mà coi Núi lay xiềng khoá, sông đòi tự do Lắng nghe dân tộc reo hò Bốn phương thét lớn gào to: dân quyền…”

Tạ Tỵ thuật lại việc ông viết khẩu hiệu như sau: “Trước ngày 19/8/1945 là ngày Việt Minh cướp chính quyền, Lê Quốc Lộc đến tìm tôi nói về tình hình chính trị: “Chúng mình không thể ngồi chờ được nữa, phải hành động!” Tôi hỏi: “Hành động cái gì?” Anh nhìn thẳng vào mắt tôi như dò xét: “Tôi nói hành động tức là phải tham gia cách mạng”. – “Cách mạng nào?” Lộc trả lời với một giọng rắn chắc: “Tôi nói thực với cậu, tôi đang hoạt động cho Mặt Trận Việt Minh; tình thế đã chín mùi rồi. Nếu cậu bằng lòng, tôi mời cậu tham gia Mặt Trận”. Tôi đang phân vân chưa biết trả lời ra sao, Lộc nói tiếp: “Công tác cũng nằm trong khả năng của tụi mình thôi, nghiã là chuyên môn”. Tôi ậm ừ trả lời: “Nếu cậu làm được tôi cũng làm được”. Lộc cười, cặp mắt một mí của anh hơi nheo trông giống như hai sợi chỉ kéo thẳng: “Vậy chúng ta bắt tay vào việc nhé!” (…) Chừng nửa giờ sau, Lộc mang vải, sơn đến với một tờ giấy nhỏ: “Cậu viết dùm mấy khẩu hiệu này”. Nói xong Lộc đi ngay. Tôi mở tờ giấy ra coi, thấy mấy tiếng: “Hoan hô Mặt Trận Việt Minh. Chào mừng Cách Mạng thành công”. (…) Sáng sớm hôm sau Lộc đến nhà tôi thật sớm. Hai tấm khẩu hiệu, Lộc cho vào chiếc bao bột mì, buộc gọn vào yên xe rồi ngồi lên trên, đạp nhanh như có chuyện gì gấp lắm. Ngay buổi chiều hôm đó, nhân có cuộc mít tinh của công chức và dân chúng, Mặt Trận Việt Minh lợi dụng ngay dịp đó, bắn mấy phát súng chỉ thiên và trương cờ đỏ sao vàng cùng khẩu hiệu. Thế là xong! Trang sử Việt Nam đã lật, nhưng nước Việt Nam còn phải kinh qua nhiều giai đoạn nhục nhằn ở mỗi hoàn cảnh đấu tranh để làm nên lịch sử” (…) Mấy tháng sau, Tôi được Lê Quốc Lộc giới thiệu vào cơ quan tuyên truyền để vẽ những tấm tranh cổ động. Tiền công cũng đủ sống qua ngày. Trong lúc tôi làm công tác trên thì Nguyễn Sáng được tuyển dụng vào công việc vẽ giấy bạc “cụ Hồ”. Sáng vốn khéo tay và cần cù, rất thích hợp với tài năng. Tôi không biết ai đã giới thiệu Nguyễn Sáng với Bộ Tài Chánh của Việt Minh. Nguyễn Sáng làm việc với một ông cụ tuy già nhưng kẻ chữ còn tinh vi lắm (…) Tất cả mọi loại giấy bạc tiêu dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đều do Nguyễn Sáng vẽ.” (Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, trang 41 và 47). Mấy dòng hồi ký của Tạ Tỵ phản ảnh khá rõ tâm trạng và tình thế những người đi theo kháng chiến. Nguyễn Huy Tưởng trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô và Văn Cao trong Bài tiến quân ca cũng có những cái nhìn tương tự.

Ngày 17 và 19 tháng tám 1945 và Tiến quân ca

Tiến quân ca được viết từ mùa thu năm 1944, nhưng đến tháng tám năm 1945, mới có vai trò lịch sử. Chủ động trong hai ngày 17 và 19/8/45. Vậy những tác nhân chính viết gì về những ngày lịch sử đó? Phạm Duy viết: “Sau khi Nhật đầu hàng, Quân Đội Nhật ở Việt Nam trao trả phủ Toàn Quyền cho phủ Khâm Sai Bắc Bộ. Để tỏ ý chí bảo vệ đất nước, vào ngày 17 tháng 8, công chức Hà Nội được lệnh của vị Khâm Sai Phan Kế Toại đứng ra tổ chức một cuộc mít tinh ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc mít tinh của các ông các bà công chức đang diễn tiến thì bỗng nhiên một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn được thả từ bao lơn của Nhà Hát xuống, rồi một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Thế là cuộc biểu tình của Tổng Đoàn Công Chức bỗng nhiên biến thành cuộc biểu tình của Mặt Trận Việt Minh. Hai ngày sau, tức là 19 tháng 8, Việt Minh đích thân đứng ra tổ một cuộc mít tinh khổng lồ cũng ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Sau đó đoàn người biểu tình kéo đến bao vây Bắc Bộ Phủ. Ông Khâm Sai Phan Kế Toại đầu hàng ngay. Coi như cướp được quyền hành chánh rồi, đoàn người kéo luôn qua trại Khố Xanh ở đường Đồng Khánh để cướp quyền quân sự. Một ngàn lính Bảo An ở trong trại không kháng cự. Cờ quẻ ly được hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên. Thế là cuộc tổng khởi nghĩa thành công tại Hà Nội. Một Ủy Ban Nhân Dân được thành lập ngay hôm đó. Đồng thời tại nhiều địa phương, các đoàn võ trang tuyên truyền được gọi là “Dân Quân Giải Phóng” cũng tới chiếm chính quyền trong tay các tỉnh trưởng hay quận trưởng của một chính phủ mà ông Thủ Tướng là Trần Trọng Kim đã từ chức” (Hồi Ký II, trang 30-31). Trong đoạn hồi ký trên, Phạm Duy viết ngắn và rất chi tiết, nhưng ông không hề nhắc đến vai trò của mình trong ngày 17/8/1945, chỉ ghi một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao và trong cuốn hồi ký, ông cho biết những ngày ấy ông ở trong Nam. Điều đó dễ hiểu vì Phạm Duy không thể công khai nhìn nhận mình có “vai trò lịch sử trong những ngày Việt Minh cướp chính quyền” cũng như Lê Đạt không thể công khai nhận mình đã theo Quốc Dân Đảng.

Nhưng Văn Cao ghi lại rõ ràng như sau: “Tôi ở lại một mình trên căn gác vắng [171 phố Mongrand nay là số 45 Nguyễn Thượng Hiền] vào những ngày đầu thu năm 1944. Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc mất đứa cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể nó đã nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn đêm mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu. Căn gác được thêm một người ở. Anh Ph. D. là bạn thân của tôi từ Hải Phòng lên. Anh mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa hai tỉnh Hà Nội và Hải Phòng. Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D là người của đoàn thể, và thường chú ý giúp đỡ tôi. Tôi nghĩ làm cách mạng là phải bỏ văn nghệ, con đường của người làm cách mạng là phải thoát ly phải hy sinh như gương chiến đấu của các đồng chí mà tôi đã được biết qua sách báo. Nhưng tôi vẫn có thể làm khác với việc thoát ly -tôi chỉ hiểu tổ chức đến thế- có thể là bằng sáng tác, bằng những hành động mà tôi dễ làm nhất như nhận dạy hát cho một đoàn thanh niên về những bài ca yêu nước, hay tham gia những buổi biểu diễn giúp đỡ người nghèo v.v… Tôi chỉ biết sáng tác một số ca khúc về đề tài lịch sử, kêu gọi xa xôi lòng yêu nước. Tôi chưa dám làm một bài ca cách mạng. Và cũng chỉ có thế thôi, thanh niên học sinh và anh em hướng đạo đã khuyến khích tôi. Sự khuyến khích ấy đẩy tôi vào nghề nhạc sau này. Lần này, Ph. D. lên ở với tôi vào giữa lúc tôi đã muốn bỏ tất cả hội họa, thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả giấc mơ sáng tạo thường đêm đêm đan mãi đan mãi cái vành mũ triền miên trên đầu như một vòng ánh sáng thần thánh. Một hôm, Ph. D. nói với tôi: – Văn có nhớ anh Vũ Quý không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội? Văn có muốn gặp anh ấy không? Tôi biết đồng chí Vũ Quý trong những ngày còn là vận động viên bơi lội ở Hải Phòng. Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm. Từ khi biết anh bị mật thám Pháp bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người cộng sản ấy vẫn hoạt động tại Hà Nội. Anh ấy vẫn nhớ đến tôi. Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng, và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một hiệu ăn, ở đấy quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện của chúng tôi thật hết sức đơn giản. – Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa? – Được. – Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng. Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định công tác. Ngày đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi. Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác: – Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, nên phải dùng những điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta.

Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen cố tìm một cái gì để nói, tìm một âm thanh đầu tiên. Nhưng đường phố quen thuộc ấy thường không vang một âm thanh gì hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Hôm nay phố đông người hơn và lòng tôi thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo hiểm hy sinh chứ không chuẩn bị để lại quay về làm bài hát. Thật khó nghĩ tới nghệ thuật lúc này. Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc. Không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định – Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay đi. Đêm ấy về gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân Ca. Những ngày ấy, Ph. D. sống chung với tôi. Thỉnh thoảng anh về Hải Phòng và mang tiền bán tín phiếu do các cơ sở gửi lên. Quần chúng ủng hộ Việt Minh ngày càng nhiều. […] Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn đèn dầu, bộ mặt ngăm ngăm đen của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm lặng. Anh rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh của từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca. […] Ngày 17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc mít-tinh của công chức Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài “Tiến quân ca” đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên vang theo những đoạn sôi nổi. Ở những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một lúc, nhưng tờ bướm in “Tiến quân ca” được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự mít-tinh. Tôi đã đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà Hát Lớn. Tôi đã nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph. D. qua loa phóng thanh. Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát. Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần duy nhất.” (trích “Bài tiến quân ca” hồi ký của Văn Cao, đăng trên Sông Hương số 26, tháng 7/1987) Đoạn hồi ký này xác định những sự kiện quan trọng: – Bà mẹ Văn Cao vì đói khổ, phải đưa các cháu từ Nam Định ra Hải Phòng, giữa đường bị lạc mất đứa cháu lên ba. Việc này Hoàng Văn Chí có ghi lại tương tự như thế. – Phạm Duy là người nhắc Văn Cao đến với Vũ Quý. Và ông ở trong “tổ chức” trước Văn Cao (điều đó dễ hiểu vì Phạm Duy khi học trường Thăng Long là học trò của Võ Nguyên Giáp). – Phạm Duy là người “chứng kiến sự ra đời của bài Tiến quân ca” và Phạm Duy là người “buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát trước quần chúng lần đầu tiên” với “sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng” trong ngày 17/8/1945. Trước kháng chiến, câu “Tương tiến nhạc sĩ Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn” của Văn Cao đã trở thành huyền thoại. Lần này, Văn Cao muốn trả lại vai trò lịch sử của Phạm Duy đối với cách mạng tháng Tám. Vai trò đã bị lịch sử một chiều cuốn đi, cướp mất. Văn Cao muốn cái gì của César phải trả về cho César.

Không khí ám sát thủ tiêu

Tìm hiểu Văn Cao không thể bỏ qua giai đoạn ông hoạt động trừ gian. Nhưng muốn hiểu rõ hành động ấy, lại phải tìm hiểu không khí thanh trừng giữa Việt minh và các đảng phái đối lập. Vũ Bằng viết về không khí thời ấy: ” Bầu không khí ấy là bầu “không khí cảnh sát” mà Việt Minh vừa mới nắm được chánh quyền đã tạo được liền: thu hút dân vì lẽ dám đứng ra đánh thực dân diệt phát xít cứu quốc, nhưng đồng thời cũng cho tiêu luôn các đảng phái không đi một con đường với họ. Lúc ấy chưa có những chữ rùng rợn như “Đầm Đùn”, “Lý Bá Sơ” nhưng người ta đã mang máng nghe thấy những vụ át các bỉnh bút báo “Việt Nam” ở Hàng Bún Dưới, báo “Sao trắng” đường Bô-Nan Hải-Phòng, hay vụ Ôn Như Hầu có hàng trăm cái xác ôm nhau mà chết… Sức mấy mà không sợ? Sức mấy mà phòng ngừa được bọn cán bộ bịt mắt bưng đi? Nhưng cùng tắc biến, biến tắc!.. liều, đã liều thì liều cho trót, chúng tôi cứ đả kích Trần Huy Liệu [Bộ Trưởng Thông Tin] và những sơ hở của guồng máy chánh quyền phôi thai của Việt Minh. Và rồi cũng chẳng làm sao hết” (Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, trang 160). Trong tiểu thuyết Giòng Sông Thanh Thủy, Nhất Linh viết về Thanh và Ngọc, cán bộ Việt Minh và Việt Quốc, cả hai đều nhận được lệnh phải thủ tiêu nhau, nhưng họ rơi vào tình yêu, tình yêu đến chết. Nhất Linh mô tả rất rõ bối cảnh “Họ rình nhau như những con thú dữ mà người nào cũng vì một lý tưởng mình cho là cao đẹp”. Nhất Linh đã viết những trang lạnh lùng và rùng rợn về tội ác của con người, nhân danh Cách Mạng. Các nhân vật tự hỏi: “Tại sao mình lại làm một việc độc ác như thế này”. Tại cái “guồng máy”: Họ ở hai guồng máy khác nhau. Đất nước là của chung, nhưng cách phụng sự đất nước của hai đảng, hai guồng máy chỉ đạo, khác nhau. Tác phẩm của Nhất Linh giải thích hành động của Văn Cao trong kháng chiến: Văn Cao làm việc cho tình báo của Việt Minh, trong Quán Biên Thùy năm 1947. Và Quán Biên Thuỳ, theo sự mô tả của Phạm Duy, có không khí rất Giòng sông Thanh thủy:” “Vào khoảng đầu mùa hè của năm 1947 tôi tới Lào Cai và thấy ở đây có một phòng trà với cái tên là Quán Biên Thùy, bề mặt là một nơi giải trí nhưng bề trong là một tổ chức tình báo. Lúc đó, đối diện với Lào Cai vẫn còn là vùng Trung Hoa Quốc Gia chưa bị nhuộm đỏ hoàn toàn. Tôi gặp Văn Cao ở đây và được mời ở lại hát cho phòng trà này. (…) Quán Biên Thùy đông nhân viên lắm. Tất cả đều là dân Hà Nội. Tôi không để ý nhiều tới hoạt động tình báo của quán này, chỉ ngờ rằng vùng Lao Kai còn khá nhiều đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau khi bị Việt Minh tảo thanh từ vùng trung du, Việt Quốc tập trung ở đây để sẽ lánh sang Trung Hoa. Nhân viên tình báo của Quán Biên Thùy này đang đi lùng Việt Quốc để báo cho Công An tới bắt hay báo cho bộ đội tới tiêu diệt. Tôi biết rằng Việt Quốc trước đây sống nhờ ở tiền thuế của sòng bạc Cốc Lều, nay sòng bạc này phải đóng thuế cho Việt Minh (…) Trong thời gian ở Lào Kai, tôi còn có cái thú tới hút thuốc phiện tại dinh của một lãnh chúa người Nùng là Hoàng A Tưởng (…) Thuốc phiện chẳng bao giờ làm tôi say cả nhưng thứ thuốc phiện được hạ thổ lâu năm của Hoàng A Tưởng lần nào cũng đánh gục hai “anh hùng” kháng chiến là Văn Cao và Phạm Duy.” (Phạm Duy, Hồi Ký II, trang 105- 107). Không khí thanh trừng này nằm trong quỹ đạo trừ gian của Văn Cao những ngày đầu cách mạng: ám sát Đỗ Đức Phin. Bi kịch xẩy ra năm 1945, khi ông hoạt động trong đội “Biệt động vũ trang”.

Văn Cao bắn Đỗ Đức Phin

Tại sao Văn Cao vào đội biệt động vũ trang? Giả thuyết của Vũ Bằng: “… Cho tới một ngày kia, lúc Nhật đổ bộ vào Đông Dương, tôi mới lại nghe nói đến Văn Cao hai lần nữa. Đó là lần Nghiêm Xuân Huyến báo tin cho tôi biết con gái anh sắp lấy chồng, mà người chồng đó là Văn Cao và một lần sau khi Việt Minh “át” cô Nga “giao du” với một sĩ quan Nhật bị bắn chết liền, ở Hải Phòng lại xẩy ra vụ bắn Đỗ Đức Phin mà lúc đó ai cũng bảo người bắn là Văn Cao. Nghiêm Xuân Huyến, sước hiệu [biệt hiệu] là Voi đen (…) Tôi đi lại thường xuyên nhà Voi đen vì anh có ra một tờ tuần báo mười hai trang – tờ Rạng Đông. Sau này (…) anh ra tờ tuần báo trào phúng tên là Con ong do Tam Lang Vũ Đình Chí chủ biên. (…) Xa nhau được ít lâu, tôi nghe thấy Nghiêm Xuân Huyến bị Nhật bắt và “xin âm dương” cho đến chết ở nhà lao. Anh em hồi đó bảo rằng anh bị Nhật giết vì nhà in của anh in truyền đơn cho Việt Minh. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu cái vụ Nhật bắt và đánh đập tàn nhẫn Huyến cho đến chết có liên quan gì đến vụ con gái Huyến lấy Văn Cao hay không, hay là Văn Cao có liên quan gì đến việc in truyền đơn đó hay không -nếu quả có in truyền đơn tại nhà in của Huyến- chỉ biết sau đó Văn Cao im lìm, không ai biết hành tung ra sao hết cho đến lúc xẩy ra vụ ám sát Đỗ Đức Phin trong một tiệm hút ở Hải Phòng. (…) Cái tên Văn Cao nổi bật lên từ đó. Đối với một số anh em văn nghệ, có một số anh em nói cho đúng, đã lấy làm hãnh diện về điểm đó. Sau ngày 19/8 tiếng của Văn Cao nổi như cồn”. (Vũ Bằng, Văn Cao – Một nghệ sĩ tài hoa, Sàigon 1970, in lại trong Văn Cao cuộc đời và tác phẩm, trang 173)

Doãn Tòng, bạn đồng hành với Văn Cao trong đội trừ gian, thuật lại các sự kiện: “Năm 1945, ở Hải Phòng có Đỗ Đức Phin là một tên mật thám cho Nhật – nó đã phá hoại nhiều cơ sở của ta, trên có lệnh phải trừ khử nó. Tháng 7-1945, Văn Cao trừ Đỗ Đức Phin. Việc này được đồng chí Nguyễn Khang -Xứ ủy Bắc Kỳ đồng ý. Nguyễn Đình Thi giao cho Văn Cao khẩu súng 7165. Tổ phân công cho em Trần Liễn là cô Liên thăm dò đường đi lối lại của Đỗ Đức Phin. Cô Liên chơi với em vợ Đỗ Đức Phin, nên rất tiện cho việc điều tra. Văn Cao, Trần Liễn có lần đã đến lớp học tiếng Nhật do Đỗ Đức Phin tổ chức nên biết mặt hắn. Hắn nghiện thuốc phiện, hay hút ở tiệm số nhà 51 phố Đông Kinh. Nắm chắc được cách đi lại ăn ở của hắn, tổ bắt đầu hành động. Vào khoảng 6 giờ chiều một ngày tháng 7 năm 1945, trời nhá nhem tối, anh em cải trang cho Văn Cao thành một anh cai xe bận quần đen, áo va rơi, đầu đội mũ cát dầy, đeo đôi kính gọng. Hoá trang vào không ai nhận ra Văn Cao nữa. Văn Cao đạp xe đến phố Đông Kinh, vào ngồi ở một quán nước, đưa mắt quan sát. Khi Trần Khánh ra hiệu bằng cách nhẩy lò cò: có ý là Đỗ Đức Phin đang ở trên, Văn Cao bắt đầu hành động. Anh lên gác thấy rõ Đỗ Đức Phin đang nằm hút thuốc phiện. Bên cạnh là người bồi tiêm. Văn Cao bắn một phát vào đầu Đỗ Đức Phin, tên này gục xuống. Tên bồi tiêm sợ quá, nhẩy qua ban công bám vào ống máng tụt xuống chạy biến. Một số đồng bào nghe tiếng súng nổ, chạy đến nhốn nháo. Văn Cao bình tĩnh nói:” Xin mọi người ngồi im. Tôi chỉ diệt một tên Việt Nam bán nước thôi”. Nói rồi dưới ánh dêm mờ mờ, Văn Cao nhẩy lên xe đạp đi về nhà tôi thay quần áo. Sau đó Văn Cao lên Hà Nội hoạt động, tôi ở Hải phòng”. (Doãn Tòng thuật lại, theo ghi chép của Bích Thuận, sđd, trang 197-198) Hành động “trừ gian” này sẽ ở lại trong thơ Văn Cao như một lương tâm trầm uất suốt đời.

Tại sao Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa?

Sau ngày hòa bình lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa, lý do sâu xa được ghi trong bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường:

” Đêm ấy, trong cuộc tâm tình nghệ sĩ của Văn Cao với những ngư phủ trên phá Tam Giang, tôi muốn biết một điều mà với tôi là một bí ẩn thuộc về đời ông: – Tại sao sau kháng chiến chống Pháp, anh vẫn vẽ, vẫn làm thơ, nhưng người ta không nghe anh hát nữa? – Hồi nhận lời viết Tiến Quân Ca, tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài hát, mà là một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viện biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng, vào một thành phố để giết một người. Tôi đã làm xong việc ấy. Đó là chiến tranh và căm thù, đơn giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại căn nhà ấy, thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công hay phải nói một điều gì khác? Nên tôi im lặng, và chỉ viết nhạc-không-lời. Giữa tiếng sóng ồ ạt vỗ quanh tàu, dưới đêm sao, tôi vẫn nghe rõ giọng nói dịu dàng của Văn Cao, sâu thẳm đến lạnh người, như thể là tiếng nói đến từ một biển khác. Trời ơi, tôi đã dại dột chọc tay vào vết thương. Nhưng tôi nghĩ, chỉ có những nghệ sĩ lớn mới nuôi cho mình những bi kịch như vậy” (trích Cảm nhận Văn Cao của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hợp Lưu số 8, số đặc biệt Văn Cao, tháng 12/1992). Nhiệm vụ của Văn Cao đã được Nhất Linh làm sống lại với nhân vật Ngọc trong Giòng Sông Thanh Thủy. Vết thương của Văn Cao cũng là vết thương của Nhất Linh. Nhất Linh viết Giòng Sông Thanh Thủy hai năm trước khi tự vận, như một chúc thư văn học và chính trị gửi lại đời sau: cuối cùng trên dòng Xích Bích, Tào Tháo, Chu Du không còn nữa, chỉ còn lại tiếng thơ Tô Đông Pha, chỉ còn lại tiếng thơ, cho muôn đời…

Lưu Hữu Phước và Tiếng gọi thanh niên

Viết về Tiến quân ca của Văn Cao, không thể không nhắc đến Tiếng gọi thanh niên của Lưu Hữu Phước, bài quốc ca của miền Nam trong thời kỳ chia đôi Nam Bắc. Lưu Hữu Phước sinh ngày 21/9/1921 tại Cái Răng (Cần Thơ). Học nhạc từ nhỏ. 1940, ông ra Hà Nội học y khoa. Khoảng thời gian từ 1940-44, Lưu Hữu Phước nổi tiếng với những ca khúc lịch sử như Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hát Giang trường hận, Hồn Tử sĩ, Hờn Sông Gianh, Hội Nghị Diên Hồng… và một loạt hành khúc cho sinh viên như: Ta cùng đi, Tiếng gọi thanh niên, Bài hát của thiếu sinh, Bài hát của thiếu nữ Việt nam, Việt nữ gọi đàn… Sau Cách mạng tháng Tám, Lưu Hữu Phước sáng tác Khúc khải hoàn, Ca ngợi Hồ chủ Tịch… Ca khúc của Lưu Hữu Phước có ảnh hưởng rất lớn đối thanh niên từ thập niên bốn mươi đến ngày nay. Trong cuốn sách của Mai Văn Bộ tựa đề Lưu Hữu Phước con người và sự nghiệp (nxb Trẻ 1989) không thấy ông nhắc đến hoạt động Quốc dân đảng của Lưu Hữu Phước. Điều đó dễ hiểu. Nhưng trong tiểu thuyết Giòng sông Thanh Thuỷ của Nhất Linh, có một đoạn đáng chú ý, viết về nhân vật Ngọc (Quốc dân đảng) dẫn Tứ và Nghệ (Việt minh) đến chỗ Ngọc sẽ đầu độc hai người kia. Trên đường xuyên núi rừng, phong cảnh hùng vĩ, Ngọc vừa đi vừa hát: “Chàng cất tiếng hát cao giọng, đi thật mau cho bước chân ăn nhịp với bài hát mà chàng cố hát thật mau: Hồn nước muôn năm sống cùng non nước! Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng,

Dù khó thế mấy quyết cùng nhau bước, Làm cho vang tiếng cháu con nòi giống Tiên Long. Chàng chuyển sang điệp khúc: Mau, mau đồng lòng, tay cầm tay, trông cờ nước, ta đều bước, Tuốt gươm, thề với núi sông … Hồn nước muôn năm sống cùng … Bài hát ấy là của Lưu Hữu Phước, đảng viên Việt Quốc trong thời kỳ bí mật từ trong nước truyền ra, do Ninh dạy chàng. Ninh có nói là thay đổi lời đi đôi chút cho nó mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Trời bắt đầu nắng mỗi lúc một gắt; Nghệ và Tứ không biết là bài hát gì nhưng vì nhịp quyến rũ nên cũng cố bước theo cho đúng nhịp.” (Giòng Sông Thanh Thuỷ, tập 1, trang 214) Chính Nhất Linh đã sửa lời bài Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước cho mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Lời gốc của Lưu Hữu Phước như sau: Hồn nước vẫn sống với trời, non, nước Ngày nay, ta noi tấm gương anh hùng Dầu khó thế mấy, quyết cùng nhau bước! Làm cho rõ biết cháu con nòi giống Tiên Long! Nhưng điều đó không quan trọng, điều quan trọng là Nhất Linh xác nhận: Lưu Hữu Phước theo Quốc dân đảng. Từ đó, đưa đến một số nghi vấn khác: trong thời kỳ kháng chiến, Lưu Hữu Phước sáng tác rất ít, tại sao? Lưu Hữu Phước là người của Việt Quốc hay Việt Minh? Nếu ông là người cộng sản, tại sao, Tiếng gọi thanh niên lại được chính phủ Nguyễn Văn Xuân (của Bảo Đại) chọn làm quốc ca? (Tiếng gọi thanh niên sáng tác tháng 4/1941. Ngày 2/6/1948, được chính phủ Nguyễn Văn Xuân chọn làm quốc ca, và tiếp tục là quốc ca của Việt Nam Cộng Hoà sau 1954). Sau ngày thống nhất đất nước, Lưu Hữu Phước, Bộ trưởng Thông tin văn hoá, ký ba Thông tri cấm lưu hành các sách báo “phản động”. Bản đầu mang số 218/CT. 75, ngày 20/8/75, trong đó có danh sách 130 tác giả bị cấm toàn bộ, với những tên tuổi như: Hồ Hữu Tường, Nguyễn Vỹ, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Tạ Tỵ, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Mặc Đỗ, Nguyễn Mạnh Côn, Chu Tử, Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, Tuý Hồng, Phan Nhật Nam… (Bản Thông tri và toàn bộ danh sách các tác phẩm, tác giả bị cấm, in trong Văn hoá Văn nghệ… Nam Việt Nam của Trần Trọng Đăng Đàn (nxb Thông Tin, 1993), phần Phụ Lục II, từ trang 697 đến 754). Tất nhiên Lưu Hữu Phước chỉ thi hành chính sách của Trung Ương. Nhưng người nghệ sĩ, khi ký những công hàm tiêu diệt tác phẩm văn học của nửa phần đất nước, hẳn không thể không suy nghĩ, hẳn không thể không biết rằng tên mình sẽ đi vào văn học sử với một vị trí không thuận tiện. Và người Việt di tản khi hát bài Tiếng gọi thanh niên cũng nên nhớ đến tác giả trong toàn bộ hành động chính trị, văn nghệ của ông.

.

@ Vai trò của nhạc sĩ Văn Cao trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm (phần 9) ___________________________________

Nguyễn An.

Kỳ trước, chúng tôi đã điểm qua tình hình một số văn nghệ sĩ từng tham gia Nhân Văn Giai Phẩm sau khi nhóm này bị đánh. Không chỉ những người chủ chốt bị đầy đoạ và đặt ra ngoài lề xã hội, mà cả những văn nghệ sĩ không tham gia nhiều, nhưng có khuynh hướng sáng tác theo chiều hướng của Nhân Văn Giai Phẩm cũng bị đánh.

Người bị nhẹ nhất có lẽ là nhạc sĩ Văn Cao, một người viết nhạc được yêu mến bởi những ca khúc trữ tình, nhưng đồng thời cũng là tác giả của bài quốc ca. Chúng tôi dành riêng bài hôm nay để nói về người nhạc sĩ tài hoa này. Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh tại Hải Phòng ngày 15 tháng 11 năm 1923, nhưng quê quán gốc ở Nam Định. Sinh trưởng trong một gia đình viên chức nghèo, lại mồ côi cha từ sớm, ông phải ra đời tự lực mưu sinh sau khi học hết năm thứ hai bậc thành chung. Cuộc đời sáng tác của nhạc sĩ Văn Cao bắt đầu thăng hoa khi ông từ giã Hải phòng lên Hà nội vào năm 1941, 42. Trước đó, ông đã sáng tác ca khúc Buồn tàn thu. Trong hai năm 41, 42, ông sáng tác Thiên Thai, Bến Xuân và sau đó là một số hùng ca. Nhạc sĩ Phạm Duy đã vinh danh Văn Cao là “người đẻ ra thể loại Hùng Ca và trường ca Việt Nam” sau khi là “người viết tình ca số một”, còn giáo sư Đặng Thái Mai thì khen ngợi Văn Cao là “một viên ngọc trên bức khảm Văn hoá nghệ thuật của dân tộc Việt Nam”. Chúng tôi mong mỏi nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung từ quý vị và các bạn nghe đài, nhất là những người mà Nhân Văn là một cơn ác mộng. Mọi email xin gửi về Vietweb@rfa.org Ông liên quan vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm tại Hà nội trong năm 1956, nhưng đến tháng bẩy năm 1958, ông mới phải chịu đựng đợt kỷ luật đầu tiên, là “cho rút khỏi ban chấp hành hội nhạc sĩ” và sau đó đi thực tế lao động, như lời nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý kể lại: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên) Từ đó cho đến khi qua đời tại Hà nội vào năm 1995, ông không còn sáng tác được gì nữa. Mời quý thính giả theo dõi cụôc trao đổi giữa phái viên Việt Hùng của ban Việt ngữ với ông Văn Thao, con trai nhạc sĩ Văn Cao sau đây: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên) Nỗi u sầu của Văn Cao được nhạc sĩ Tô Vũ tả lại như sau: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên) Và để kết thúc bài này, xin gửi đến quý thính giả lời nhà thơ Hoàng Cầm, bạn thân của Văn Cao nói về bạn mình, mà cũng là tâm sự của chính ông khi nhìn lại mấy chục năm trời bị xã hội ruồng bỏ. Trong chín kỳ vừa qua, chúng tôi đã điểm qua những nét chính trong phong trào cũng như vụ án Nhân Văn Giai Phẩm xẩy ra 50 năm trước đây tại miền bắc Việt Nam, lúc đó là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Kỳ tới, cũng là kỳ chót của loạt bài này được dành để tìm hiểu những hậu quả của vụ án đầy oan khuất này. Mong quý thính giả đón nghe. Theo dòng câu chuyện: – Nhận định của những nhà nghiên cứu về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 10) – Hình thức kỷ luật trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm (phần 8) – Những nhân vật trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm (phần 7) – Sắc lệnh Báo chí bóp chết các tờ Trăm Hoa, Giai Phẩm, và Đất Mới không kèn không trống (phần 6) – Giai Phẩm Mùa Thu ra đời với những bài vở nặng về chính trị hơn (phần 5) – Ông Nguyễn Minh Cần kể tiếp về diễn tiến của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (phần 4) – Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 3) – Phỏng vấn ông Trần Gia Phụng về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 2) – Mở lại bộ hồ sơ vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 1)

Nguyễn An.

@ Nhà thơ Văn Cao: “Còn những tiếng rạn vỡ” __________________________________________________ THIÊN SƠN

Giờ nhìn lại sự nghiệp thơ Văn Cao, ta không khỏi ngạc nhiên, khi chỉ trong hơn 10 năm kể từ khi có tác phẩm thơ đầu tiên, từ một nhà lãng mạn cuối mùa, ông đã làm một hành trình dài lao thẳng vào hiện đại như một cánh chim xuyên qua bão táp của những thành kiến trong thời đại mình để trở thành một nhà tiên phong, mở ra một cánh cửa mới cho thơ hiện đại Việt Nam, mà cho đến nay chúng ta chưa đi hết cung đường mà ông đã vạch ra. Giờ nhìn lại sự nghiệp thơ Văn Cao, ta không khỏi ngạc nhiên, khi chỉ trong hơn 10 năm kể từ khi có tác phẩm thơ đầu tiên, từ một nhà lãng mạn cuối mùa, ông đã làm một hành trình dài lao thẳng vào hiện đại như một cánh chim xuyên qua bão táp của những thành kiến trong thời đại mình để trở thành một nhà tiên phong, mở ra một cánh cửa mới cho thơ hiện đại Việt Nam, mà cho đến nay chúng ta chưa đi hết cung đường mà ông đã vạch ra. Nếu như âm nhạc Văn Cao đã được khẳng định ở vị trí số một Việt Nam trong thế kỷ 20 thì các lĩnh vực sáng tác khác, là họa và đặc biệt là thơ của ông dường như chưa có sự nghiên cứu thấu đáo. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho biết, khi ông và Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo tuyển chọn tập thơ Lá của Văn Cao để in, có ít nhất 1 bài thơ của ông đã không in được, đó là bài Đồng chí của tôi nói về chuyện bất nhẫn giữa những người cùng một chiến hào đối xử với nhau. Văn Cao từ những năm 50 của thế kỷ trước đã có cái nhìn xuyên thẳng vào hiện thực, đã nói lên cả những mặt trái của cuộc cách mạng, cả những bất trắc khó lường trong đội ngũ của ông. Ngọn lửa thơ của Văn Cao sung sức và bùng cháy nhất chính ở thời điểm ông viết trường ca Những người trên cửa biển năm 1956. Cảm xúc sôi trào. Ý tứ sắc sảo. Câu thơ hoạt. Hình tượng thơ gây nhiều ám ảnh. Từ thời điểm này về trước, Văn Cao thiên về cảm xúc, cảm giác và những hình ảnh lãng mạn. Sau thời điểm này, Văn Cao chuyển dần sang ẩn dụ, tượng trưng với những hình ảnh biểu tượng hết sức sâu sắc và những suy tư mang nhiều cay đắng. Cuộc đời Văn Cao, có thể nói, cũng gặp phải những bước ngoặt ngặt nghèo từ sau khi viết Trường ca những người trên cửa biển. Trước đó, là một đoạn đời nhiều xiêu dạt, hào hùng, lãng mạn. Sau đó là những năm tù túng, bị trói buộc và chìm trong ưu tư triền miên. Văn Cao sinh ra ở Hải Phòng trong một gia đình công chức, cha của Văn Cao vốn là đốc công nhà máy nước Hải Phòng. Thuở nhỏ, Văn Cao hoc ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành chung. Qua những tác phẩm còn lại thì 16 tuổi ông đã làm thơ, viết nhạc và giành được những thành công đầu tiên. Tuy nhiên, theo nhà thơ Văn Thao, con trai ông, thì Văn Cao làm thơ lúc chỉ mới 12, 13 tuổi. Văn Cao đến với thơ trước khi đến với nhạc, họa và thơ cũng là cõi riêng ông thổ lộ những suy tư thăm thẳm về cuộc đời mình, những chiêm nghiệm trước hiện thực ngặt nghèo mấy mươi năm thăng trầm của một thế kỷ đầy bão táp. Cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ trước, phong trào thơ mới bắt đầu cạn dần dòng chảy của nó. Những sáng tác đầu tiên của Văn Cao (bài thơ đầu tiên giữ lại được ghi sáng tác năm1939) chịu ảnh hưởng của tư duy thơ mới, nhưng lối dùng chữ vẫn còn nặng về hán việt, nhạc thơ còn chưa thật nhuần nhuyễn. Nhưng, chỉ khoảng 1 năm sau, khi ông viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế (1940) thì độ điêu luyện, mượt mà đã không kém các bậc đàn anh trong thơ mới trước đó. Và cũng chỉ mấy năm sau, ông viết Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc thì không chỉ độ điêu luyện đã lên đến đỉnh, mà còn cho thấy một cách nhìn, cách miêu tả hiện thực đến tận cùng trước thảm họa khủng khiếp của dân tộc ta trong nạn đói năm 1945. Đó là thời điểm Văn Cao đã hoàn toàn vượt qua ảnh hưởng của thơ mới và nghiêng theo chủ nghĩa hiện thực. Nhưng rồi sau đó, Văn Cao chủ yếu chuyển sang nhạc, liên tiếp giành được những thành tựu lớn trong âm nhạc, còn đường thơ thì dần trở nên thưa thớt. Nhà thơ Văn Thao cho biết, hồi còn học ở trường Saint Josef, Hải Phòng, Văn Cao tham gia làm một tờ báo cùng các bạn trong lớp. Lúc ấy, ông đã tự tay trình bày báo và biên tập thơ của bạn hữu đăng lên. Văn Cao cũng tham gia hướng đạo sinh, trở thành đại biểu của tổ chức này được mời đi dự hôi nghị toàn Đông Dương tổ chức ở Huế. Sau khi gia đình sa sút, bố ông bị mất, chị gái ông lấy chồng trong Nam ra chịu tang cha, Văn Cao có thời kỳ theo chị vào Sài Gòn kiếm sống, nhưng sau đời sống khó khăn, ông không muốn phiền đến gia đình anh chị nên trở lại miền Bắc. Khoảng cuối năm 1943, đầu 1944, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội học thêm và có lúc do khó khăn phải ở nhờ một người chị từng là cô gái nhảy nổi tiếng của Hải Phòng xiêu dạt lên Khâm Thiên. Những năm lưu lạc ấy, đã giúp Văn Cao lăn lộn trong giông tố cuộc đời và hiểu thêm chuyện đời, chuyện thế sự. Nhưng rồi, như một quy luật, hầu hết những nghệ sỹ lớn hồi đó đều tham gia Việt Minh, Văn Cao cũng thế. Ông được ông Vũ Quý giác ngộ và gợi ý ông dùng tài năng của mình phục vụ cho cách mạng. Văn Cao từ 16 đến 18 tuổi đã cắm những cái mốc trong âm nhạc với Suối mơ, Trương Chi, Buồn tàn thu, thì 21 tuổi đã viết Tiến quân ca, để rồi 1 năm sau đó trở thành Quốc ca. Và cũng từ đó, ông liên tục sáng tác nên những tác phẩm hào hùng Thăng Long hành khúc ca, Trường ca sông Lô, Không quân Việt Nam, Tiến về Hà Nôi… Nửa cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, Văn Cao có vài bài thơ, mà đáng chú ý phải nói đến Ngoại ô mùa thu năm 1946. Sự biểu đạt về ngôn từ ở đây đã thoát thai ra khỏi lối ước lệ cổ điển và cập nhật những từ ngữ mới có hơi thở đời sống. Cũng phải nói rằng, chính cuộc sống chiến đấu và lao động mới sau cách mạng Tháng 8 đã giúp nhào nặn lại ngôn ngữ thơ của Văn Cao và đưa ông lên tuyền đầu với những ước mơ và khát vọng sáng tạo mới cho thơ. Trở lại với thời điểm bước ngoặt trong thơ Văn Cao, chính là khi ông viết trường ca Những người trên cửa biển. Ở trường ca này, Văn Cao lấy Hải Phòng làm một hoán dụ như “Việt Nam thu nhỏ”. Hải Phòng hiện lên trong thác lũ của chiến tranh và trong mơ ước nhào nặn lại hình hài của mình vươn đến cuộc sống mới. Và cũng chính ở đây, bên cạnh những thành công và mơ ước, Văn Cao đã không ngại ngần đề cập đến những hiểm họa khó trừ trong hàng ngũ những người cách mạng. “Kẻ thù của chúng ta xuất hiện Những con rồng đất khi đỏ khi xanh Lẫn trong hàng ngũ Những con bói cá đậu trên những dây buồm Đang đo mực nước Những con bạch tuộc Bao tay chân cố dìm một con người” “Đất nước đang lên da lên thịt Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải Đã thấy loài sâu nằm dài trong cuống…” “Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc Những tên muốn cây to che cớm mầm non”. Và ông cũng đã thấy những bi kịch lặng thầm: “Không có tiếng vỡ trong không gian Sao có tiếng vỡ trong lòng tiếng vang âm rên rỉ”. Bản lĩnh Văn Cao, sự trung thực của ngòi bút, tính dự báo sâu sắc bắt đầu được thể hiện mãnh liệt. Và hẳn nhiên, điều này làm cho không ít người có quan điểm hẹp hòi, thích che đậy lấy làm khó chịu. Cũng tại thời điểm này, Văn Cao viết bài Mấy ý nghĩ thơ như một tuyên ngôn về thơ, đặt ra những vấn đề lớn về thơ hiện đại. Văn Cao đặc biệt nhấn mạnh đến tính tư tưởng của thơ: “Chúng ta đã qua một thời kỳ dài thiên về cảm xúc và một thời kỳ cảm giác, cái thời kỳ thiên về tư tưởng có phải đang bắt đầu không?” Tuyên ngôn rồi, Văn Cao bắt đầu có những đột phá cả trong khai thác đề tài và nghệ thuật biểu hiện. Bài Anh có nghe thấy không là một cách đặt vấn đề về nội dung mới cho thơ. Trong lời đề từ Văn Cao ghi “gửi một nhà thơ”. Và ông viết: “Chỗ nào cũng có tiếng Chưa nói lên” Văn Cao không ngại ngần chỉ ra: “Chung quanh còn những người khôn ngoan Không có mồm Mắt không bao giờ nhìn thẳng Những con mèo ngủ yên trên ghế Trong một cuộc dọn nhà Những con sên chưa dám ló đầu ra Những dây leo càng ngày càng tốt lá” Kẻ thù lớn nhất của cách mạng chính là những kẻ xảo trá, cơ hội lẫn vào hàng ngũ những người cách mạng để phá hoại nó. Hiện thực mà Văn Cao cảnh báo, tiếc thay đã không được khắc phục, không được chỉnh đốn kịp thời để sau này trở thành một hiểm họa lớn. Trong cái thời sung sức ấy, Văn Cao cũng chú trọng đến cách tân hình thức. Điều đáng nói là Văn Cao đề cao sự phù hợp giữa nội dung và hình thức thơ. Trong bài Gửi những nhà thơ, ông viết: “Hãy xếp lại thang âm A ba ca Da đa la ma Ôi vần thơ nhạc điệu Trong trúc trắc nặng nề ngột ngạt Trong chua chát ngậm ngùi hàng ngày quằn quại Chết mòn chết mòn chết mòn” Ở một chỗ khác, ông cũng ví cánh thơ du dương như “chiếc máy bay của người đầu tiên tập lái”. Ông cho rằng, nhà thơ “hãy giữ lại thang âm và đôi cánh/ Trong cuộc đời cao tiếng hát du dương”. Tiếc thay, nửa cuối của thập niên 50 của thế kỷ trước, với những oan trái nặng nề, và cách xử lý vụ Nhân văn Giải phẩm có phần sai lầm đã khiến cuộc đời nhiều văn nhân rơi vào bi kịch. Văn Cao, một nghệ sỹ với tài năng sáng chói cũng bị người ta cho là có liên quan đến vụ này. Từ đó, tài năng của ông đã không còn nhiều cơ hội được thể hiện trước công chúng. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, cuộc sống của Văn Cao trở nên nặng nề, cô độc và thậm chí nơm nớp vì một sự đe dọa vô hình. Ông gần như không làm nhạc, phải vẽ minh họa cho báo hoặc vẽ bìa sách để kiếm sống và thường phải chịu cảnh đói nghèo. Ông cũng ít làm thơ. Hầu hết là những bài thơ viết và để trong sổ tay, thỉnh thoảng mới được đọc lên chia sẻ với bạn hữu trong những cuộc rượu. Mãi mấy chục năm sau, khi đất nước đã mở cửa, đổi mới thì thơ Văn Cao mới được in lại trong một tập “Lá”. Sau khi Văn Cao mất, những tuyển thơ của ông mới dần dần được in nhưng vẫn còn một số bài thơ gai góc đến giờ vẫn chưa xuất hiện chính thức trong tập nào. Càng về sau, Văn Cao làm thơ như là một cuộc độc thoại với chính mình. Trước đây có lần ông muốn hét to lên, cảnh báo về những hiện trạng nguy hiểm đang dần dần lộ diện trong đời sống, nhưng chẳng ai nghe thấy, tiếng thét của ông tựa như gặp một triền núi dựng đứng chắn lại: “Khi tôi hú lên thật to Không nghe tiếng tôi nữa Như viên đá rơi vào im lặng Những ngọn núi dựng lên đen trũi Bờ một cái vực khổng lồ Nơi cả mặt trời mặt trăng Thường lặn xuống không tiếng động”. (Lòng núi)

Đến lúc chìm trong cô độc, ưu tư, Văn Cao chua xót nhận ra: “Bỗng nhiên Bóng người ấy che mất Nửa mặt của tôi” (Nguyệt thực) Dù sao, thơ Văn Cao vẫn tiến những bước dài trong sự chiêm nghiệm về thân phận con người, về những nghịch lý của thời đại và trong nghệ thuật biểu hiện, ông đã chọn lối ẩn dụ, tượng trưng như một phương thức biểu đạt chính, tạo ra những bài thơ trùng điệp các tầng ngữ nghĩa, gợi liên tưởng và ngẫm suy không dứt. “Sự thất bại thường gặp trong một bài thơ là khép lại: Khép tất cả sự muốn nghĩ và muốn nói”. Văn Cao đã từng quan niệm như vậy, và ông đã thành công khi biến mỗi bài thơ của mình thành một tác nhân kích thích suy nghĩ của độc giả. Có thể coi mỗi bài thơ như một câu hỏi nhức buốt về sự sống, hoặc một tấm gương để độc giả soi vào và tự ngẫm suy về chính mình, về thời đại mình. Bài thơ Văn Cao vì thế không phải là một văn bản chết, cứng đờ trên giấy, nó lung linh, sống động và biến hóa tùy theo sức cảm và nghĩ của độc giả. Đó chính là sự hấp dẫn đặc biệt của thơ Văn Cao, thâm trầm, sâu sắc và liên tục gợi mở. Tính hiện đại của Văn Cao biểu lộ rõ nét ở điểm này. Nó vượt thoát khỏi dòng thơ tuyên truyền đương thời. Nó xác lập một cá tính riêng, làm phong phú thêm cho Việt và mở đường cho những dòng chảy mới của thơ sau này. Bài “Năm buổi sáng không có trong sự thật” là một thành công quan trọng trong nỗ lực hiện đại hóa thơ của Văn Cao. Bài thơ mở ra cái thế giới của tưởng tượng, của giả tưởng. Buổi sáng thứ nhất, khi tỉnh dậy bỗng “cả phố biến đâu mất” “Mặt đất đỏ màu gạch nung/ như miệng quả núi lửa”. Buổi sáng thứ hai tỉnh dậy “không nghe tiếng chim hót”, không nghe tiếng chân đi, “không ai nhìn miệng tôi gào thét”. Tất cả chỉ có im lặng. Và nhà thơ cảm thấy “Hình như nơi đây bị đày trong im lặng”. Buổi sáng thứ ba, nhà thơ thấy “không phải mình thức dậy/ một người nào đó trong tôi đang thở”, thế rồi từ đó, bao nhiêu điều khủng khiếp đã diễn ra. “Từ khi ấy, chúng tôi hai người suy nghĩ/ Hai kẻ thù nhau/Hai thái cực tâm hồn/ Hai người ấy trong một người chịu đựng/ mưu hại lẫn nhau”. Buổi sáng thứ tư, cả phố phường như mở hội. “Mọi con người đeo mặt nạ đi chơi” nhưng nhà thơ lại nhìn thấy “Nước mắt mồ hôi / chảy ra trên từng mặt nạ”. Bài thơ kết lại bằng buổi sáng thứ năm ấm áp. Trong căn phòng trong suốt thủy tinh, “Em ở đây với anh” “Da thịt em cho anh sưởi” “Chúng ta đi vào bí mật của mùa xuân”. Năm buổi sáng là năm tình huống, năm cung bậc của cảm xúc, suy tưởng, tưởng tượng. Dù nó được vẽ nên mang màu sắc giả tưởng nhưng lại không xa lạ với hiện thực. Bài thơ khép lại mà sức gợi của nó không dứt, tựa như một chất xúc tác nhào nặn lại những suy nghĩ của độc giả. Nếu như “Năm buổi sáng không có trong sự thật” hướng ngoại, mô tả những cảnh ngộ chung của nhiều người, hoặc khái quát về cái chung, thì “Ba biến khúc tuổi sáu lăm” là một lối thơ nghiêng về ẩn dụ nói lên cảnh ngộ của một con người. Biến khúc thứ nhất, kể rằng, “một người cho tôi con dao găm” và tác giả vô tình ném con dao qua cửa sổ trong đêm. Bỗng có tiếng ngã ngoài sân, “một người trúng tim đã chết”. Tác giả thanh minh: “Tôi không hề biết người ấy/ Tôi là kẻ không muốn giết người/ Chỉ biết bóng tối/ mà tôi đã ném dao”. Biến khúc thứ 2, kể về một oan khiên: “Bỗng nhiên mọi người nhìn tôi/ một ai đó kêu lên thằng ăn cắp”. Thế rồi, khi chạy hết cả cuộc đời, sắp gục xuống, “tỉnh dậy mồ hôi chảy/ tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội”. Biến khúc thứ ba, kể: “Tôi rơi vào mạng nhện/ mạng nhện cuốn lấy tôi/ không còn cách gì gỡ được”. Đây là một bài thơ đau đớn, nói về sự vô tình nghiệt ngã, sự xô đẩy của thời thế tạo nên số phận oan nghiệt của một con người. Dù tất cả hình ảnh trong bài thơ đều mang tính biểu trưng, nhưng hầu như những mâu thuẫn, những kịch tích lại khá rõ ràng và có thể hiểu được khá rõ. Trừ một số bài thơ dài, mà trường độ cảm xúc và tính khái quát không thua kém những trường ca, về cơ bản, thời kỳ những năm 60, 70 của thế kỷ trước, thơ Văn Cao trở nên ngắn gọn, cô đúc. Ông tìm sự liên kết trong ý tứ, hình ảnh, trong nhạc điệu, tức là sự liên kết từ bên trong chứ ít khi sử dụng những vần điệu vang vọng. Hình ảnh trong thơ ông thường biến nghĩa, cấu trúc câu cũng linh hoạt khơi gợi sự ngẫm ngợi. Hầu hết thơ ông quãng sau nghiêng về nghĩa bóng, mỗi bài thơ đặt ra những thách thức bí ẩn khiến người đọc phải giải mã điều thực sự nhà thơ muốn nói phía sau mỗi câu từ. Dù không sáng tác nhiều thơ (khoảng 60 bài thơ và 1 trường ca), Văn Cao cũng đã ôm chứa trong ông bước dịch chuyển lớn lao mang dấu ấn của hơn nửa thế kỷ tìm đường của thơ Việt. Từ một nhà lãng mạn, Văn Cao đã nỗ lực để trở thành một nhà thơ hiện thực, từ một nhà hiện thực, Văn Cao đã tiến thêm một bước vào lãnh địa của thơ tượng trưng. Trong thơ ông người ta tìm thấy cả dấu ấn thân phận nhà thơ, lẫn nỗi cay đắng của một lịch sử đầy gấp khúc.

.

@ Văn Cao – người nghệ sĩ tiên phong đa tài ___________________________________ TCTG

Văn Cao sinh ngày 15/11/1923 tại Hải Phòng, nhưng quê quán ở làng An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định… Lớn lên, cuộc đời Văn Cao song hành với những năm tháng đầy biến động, sục sôi bão tố cách mạng. Chịu ảnh hưởng của truyền thống gia đình, quê hương, “Văn Cao đến với cách mạng hoàn toàn chủ động bằng ý thức tự nguyện” (Văn Thao). Tham gia đội “Danh dự” Việt Minh và bằng khẩu ru-lô bạn tặng đã tận tay trừ khử một tên mật thám gian ác, tay sai phát xít Nhật ngay tại Hải Phòng. Là một chiến sĩ cách mạng, ông đã từng cùng Nguyễn Đình Thi viết và in báo Độc Lập, một tờ báo cách mạng phát hành bí mật và tham gia cướp chính quyền ở Hà Nội, tháng 8/1945. Sau đó, nhận công tác điều tra viên của công an liên khu 10, phụ trách tình báo ở vùng biên giới Lào Cai. Năm 1946, ông cùng đồng chí Hà Đăng Ấn được giao nhiệm vụ chuyên chở tiền bạc và vũ khí trên một toa tàu tiếp tế cho mặt trận Nam Bộ, trực tiếp trao cho đồng chí Nguyễn Thị Định ở Quảng Ngãi. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Văn Cao lên Vĩnh Yên tiếp tục làm báo Độc lập, rồi được Trung ương điều lên Việt Bắc tham gia thành lập Hội văn nghệ và làm báo Văn nghệ… Cuộc đời hơn nửa thế kỉ tham gia cách mạng của Văn Cao nhiều thăng trầm, nhưng tình yêu đất nước, nhân dân gắn liền với tình yêu chân thành, thủy chung lí tưởng cộng sản đã giúp ông vượt qua những ngày tháng cam go, ác liệt. Nhà văn Trần Bạch Đằng đã hỏi trong một lần gặp gỡ Văn Cao: Sức mạnh nào đã giúp anh chịu đựng trong quá khứ? Và từng rớm nước mắt khi nghe câu trả lời thốt lên tự đáy lòng Văn Cao: Tôi là Đảng viên Đảng Cộng sản. Văn Cao là người chiến sĩ cách mạng nhưng cũng là người nghệ sĩ đa tài, Văn Cao đã từng khẳng định tài năng của mình trên cả ba lĩnh vực thi ca, hội họa và âm nhạc. Ba ngọn nến sáng tạo luôn thắp sáng trong tâm hồn Văn Cao khi ông làm thơ, vẽ tranh và viết nhạc. Và hầu như ở lĩnh vực nào ông cũng là chiến sĩ tiên phong. Với năng khiếu thiên bẩm, ngay từ khi học lớp đồng ấu, Văn Cao đã được thầy học chọn trình bày báo trường và từ bước đi đầu tiên đầy hứa hẹn ấy được học tập, bồi dưỡng đã giúp Văn Cao tiến dài trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Sau khi vào học dự thính Trường Mỹ thuật Đông Dương (1943), Văn Cao đã đến với chất liệu sơn dầu. Ông tham gia trưng bày “Triển lãm Duy nhất” (Salon Unique – 1944) với ba bức tranh sơn dầu “Cô gái dậy thì”, “Cuộc khiêu vũ của những người tự tử”, “ Thái Hà ấp đêm mưa” và lập tức gây chấn động dư luận. Ba bức tranh đều được giải thưởng. Trong kháng chiến chống Pháp, lên Lào Cai, Văn Cao tiếp tục vẽ tranh thể hiện rung động nghệ sĩ của ông trước cuộc sống kháng chiến với các bức tranh “Phố lu”, “Gối mộng”, “Suối tóc”, “Lớn lên trong kháng chiến” được xem là những họa phẩm thành công… Từ sau năm 1956, Văn Cao đi vào hướng thẩm mĩ mới, ông làm bìa sách, vẽ tranh minh họa, kí họa chân dung. Hàng trăm bức tranh minh họa báo Văn nghệ, rất nhiều bìa sách ông làm cho nhà xuất bản Thanh niên, nhà xuất bản Phụ nữ, nhà xuất bản Ngoại văn, một số chân dung bạn bè văn nghệ sĩ thân quen… đã được công chúng đánh giá cao. Nhà thơ, dịch giả Dương Tường nhận xét tranh minh họa của Văn Cao “mạnh dạn xử lí nét mảng khối theo một tiếp cận lập thể”, còn nhà phê bình mĩ thuật Thái Bá Vân đánh giá: “Cái nhìn hội họa ở Văn Cao có địa vị dẫn đường và chi phối”. Họa phẩm của Văn Cao được công chúng yêu nghệ thuật mến mộ nhưng có lẽ âm nhạc mới là lĩnh vực mà Văn Cao được mọi người biết đến nhiều nhất. Văn Cao bước vào lĩnh vực âm nhạc khi mới 17 tuổi. “Buồn tàn thu” (1940) là ca khúc đầu tay của ông. Với ca từ đẹp, giai điệu buồn tha thiết, bài hát đã theo chàng du ca rất ngưỡng mộ Văn Cao – Phạm Duy Cẩn (sau này sáng tác nhạc, lấy bút danh là Phạm Duy) “gieo nhạc buồn đi khắp chốn”. Văn Cao sáng tác ca khúc và viết nhạc cho vở kịch “Nhật kí địa chất”, “Từ Trường Sơn”, “Hà Nội năm 1946” và các phim “Tiếng đàn diệu kì”, “Thạch Sanh” (phim cắt giấy)… Số ca khúc không nhiều, nhưng trong đó nhiều bài nổi tiếng, từ các ca khúc lãng mạn “Buồn tàn thu”, “Bến xuân”, “Thu cô liêu”, “Suối mơ”, “Thiên thai”, “Trương Chi”… các hành khúc “Thăng Long hành khúc ca”, “Gò Đống Đa”, “Tiến quân ca”, “Tiến về Hà Nội”, các thôn ca “Làng tôi”, “Ngày mùa”, đến chính ca “Ca ngợi Hồ ng người. Bài hát “Tiến về Hà Nội” ra đời với hào khí: “Trùng trùng đoàn quân đi như sóng. Lớp lớChủ tịch”, anh hùng ca “Chiến sĩ Việt Nam”, “Trường ca sông Lô”… đã được bao thế hệ công chúng yêu thích, ngưỡng mộ. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết: “Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng… Âm nhạc của anh là âm nhạc của thần tiên bay bổng”. Quả thế, nhạc của Văn Cao tinh tế về giai điệu, phong phú về tiết tấu, sang trọng mà rất đỗi trong sáng. Nhiều bài hát của Văn Cao đã đi vào tâm thức dân tộc, trở thành niềm kiêu hãnh của tâm hồn, trí tuệ con người Việt Nam. Giai điệu hùng tráng của bài “Tiến quân ca”, một nhạc phẩm không thể thay thế, theo thời gian càng ngày càng vang khắp thế giới. Còn “Thiên thai” với giai điệu thần tiên huyền ảo đã là một bản nhạc trong băng nhạc của các nhà du hành vũ trụ Mỹ mang theo trong hành trình vũ trụ trên con tàu Apolo. Ca khúc Văn Cao đầy ắp tính dự báo… Từ những ngày đầu cách mạng tháng Tám, nhìn các chiến sĩ Việt Nam giải phóng quân từ chiến khu về trang bị còn thô sơ, nhưng khuôn mặt vẫn ngời lên ý chí anh hùng, Văn Cao xúc động và mơ đến một ngày nào đó đất nước ta không chỉ có lục quân mà sẽ còn phải có nhiều quân, binh chủng hùng mạnh. Các bài hát “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” ra đời với lời ca hào sảng lãng mạn vẽ nên một tương lai huy hoàng về sức mạnh Việt Nam: Đôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh/Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng…Ngay từ những năm 1949, cuộc kháng chiến chống ngoại xâm khó khăn gian khổ, Văn Cao qua nhạc phẩm đã dự báo thắng lợi của cách mạng, những đội quân trùng trùng điệp điệp tiến về giải phóng thủ đô trong trống giong cờ mở, trong hân hoan háo hức của lòp đoàn quân tiến về. Chúng ta đi nghe vui lúc quân thù đầu hàng. Cờ ngày nào tung bay trên phố. Trùng trùng say trong câu hát…. “. Sau đó, ở khúc hoan ca mừng xuân đại thắng, mùa xuân đầu tiên đất nước thống nhất năm 1975, nhân dân ta từ Bắc chí Nam được sống trong thanh bình yên ấm, Văn Cao đã gửi gắm một ước mơ có ý nghĩa nhân bản, vĩnh hằng: “Từ đây người biết quê người. Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu người”… Âm nhạc của Văn Cao đã được công chúng đón nhận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét: “Những tác phẩm của anh, đặc biệt là bài Quốc ca, những bài ca hùng tráng, những bản nhạc trữ tình… sẽ sống mãi với thời gian, với dân tộc như một điểm sáng trong nền nghệ thuật Việt Nam”. Cùng với âm nhạc, hội hoạ, trong lĩnh vực thi ca, Văn Cao cũng đã để lại cho nhân thế những sáng tác nổi tiếng. Năm 1940 trong hành trình viễn du từ Bắc vào Nam, Văn Cao hoàn thành tác phẩm “Một đêm đàn lạnh trên sông Hương”. Sau đó ông còn công bố những bài thơ gây tiếng vang lớn. Thơ của Văn Cao luôn luôn có sự đổi mới, nhạy cảm với thời cuộc, nhân tình thế thái, luôn tạo cho thơ sức nặng của tầm cao tư tưởng, rũ bỏ những làn điệu êm ái, ông nhìn thảm cảnh đau thương năm Ất Dậu là những nỗi kinh hoàng, tiếng kêu xé lòng của một kiếp người, bài thơ: “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”, khẳng định sự tận số của chế độ cũ, dự báo sự tất thắng của cuộc cách mạng dân tộc vì độc lập tự do, bài thơ “Ngoại ô mùa đông năm 1946″… Thơ Văn Cao in đậm tìm tòi, cách tân trong hình thức, không theo vần điệu mà từ cung bậc của cảm xúc mang tính triết lý, nhưng đầy chất lãng mạn, trữ tình, nhằm tăng cường khả năng truyền cảm. Có thể nói, ở lĩnh vực sáng tạo nào từ nhạc đến hội hoạ và thi ca, Văn Cao cũng cho ra đời những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng nghệ thuật. Như sự đánh giá của dư luận, hoặc ngay cả lời bày tỏ của chính Văn Cao với đồng nghiệp và báo chí : “Ông vẽ và làm thơ như một thôi thúc, còn âm nhạc trước sau vẫn là lẽ sống của đời mình”. Những nhạc phẩm của Văn Cao thực sự có sức sống mãnh liệt, vượt thời gian, sẽ còn sống mãi trong tâm trí của thế hệ công chúng. Đúng như lời học giả Đặng Thai Mai đã khẳng định: “Văn Cao là một viên ngọc trên bức khảm văn hoá – nghệ thuật của dân tộc Việt Nam”… Ghi nhận những đóng góp sáng tạo của Văn Cao trong sự nghiệp Cách mạng, ngoài giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, Nhà nước đã trao tặng Ông Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Nhất, cùng nhiều huân chương, danh hiệu cao quý khác. Song đó không phải là tất cả, mà hơn thế nữa, đó chính là sự quý trọng của nhân dân, sự lưu truyền và sức sống những tác phẩm của ông trong lòng dân tộc. Tên ông được đặt tên đường phố ở Thủ đô Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Tp.Đà Nẵng, Tp Huế, Tp Đà Lạt, Tp Lạng Sơn… Cùng với thời gian, sự đóng góp của các văn nghệ sỹ, trong đó có nhạc sĩ-hoạ sĩ-nhà thơ Văn Cao với quê hương đất nước đã không chỉ góp phần khơi dậy, bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống lịch sử, văn hoá của mảnh đất Việt Nam giàu truyền thống văn hiến, mà còn thiết thực góp sức xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

@ Văn Cao – Người cô đơn giữa cuộc đời _______________________________ QUỲNH TRANG

Không phải là nhạc sĩ có ca khúc lên số trăm, số ngàn như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hay Phạm Duy, chỉ với con số trên dưới 30 ca khúc nhưng như một điều hiển nhiên Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn luôn là ba cái tên được xếp cùng chiếu, thậm chí đôi khi xét ở góc độ sự sang trọng trong giai điệu, ca từ thì nhiều tác phẩm của Văn Cao còn nhỉnh hơn hai nhạc sĩ trên. Đạo diễn Đinh Anh Dũng đạo diễn chương trình Văn Cao – 20 năm cõi thiên thai và cũng là người giữ nhiều tư liệu về nhạc sĩ Văn Cao nhất hiện nay. Những ngày Văn Cao sợ chết . Phóng viên: Anh có thể chia sẻ về ngày đầu gặp gỡ của anh cùng nhạc sĩ Văn Cao? + Đạo diễn Đinh Anh Dũng: Hồi đó khoảng năm 1977-1978, tôi là sinh viên Trường ĐH Sân khấu điện ảnh Hà Nội, thỉnh thoảng tôi có nghe một số ca khúc của nhạc sĩ Văn Cao. Sau đó một anh bạn học cùng thường rủ tôi đến nhà nhạc sĩ chơi. Đó là thời ai cũng khó khăn nhưng với gia đình ông là đặc biệt khó khăn bởi ông không kiếm được tiền khi đang dính vào Nhân văn giai phẩm. Mãi cho đến những năm 1990, khi nhiều người làm phim ca nhạc và năm 1992, tôi bắt đầu làm phim ca nhạc về ông với tựa Giấc mơ một đời người, sau đó tôi mới thật sự gần gũi ông nhiều hơn. . Vậy, ấn tượng nhất của anh về nhạc sĩ Văn Cao là gì? + Ấn tượng nhất của tôi đó là ông rất ít chơi đàn nhưng khi tôi thực hiện video nhạc Giấc mơ một đời người với 10 ca khúc của ông, ông đã chơi đàn bằng bàn tay và cả bằng cùi tay. Một ấn tượng nữa là ông rất thường uống rượu. Bình thường ông là một người dí dỏm nhưng khi ngà ngà say ông mới tâm sự về những năm khó khăn trong cuộc đời. Những lúc đó ông trầm tư lắm! Nhưng đến sau năm 1992, sau khi video ca nhạc của ông được phát hành, khi mọi quá khứ trở nên nhẹ nhàng hơn thì ông lại rất sợ chết. Ông sợ chết ở giai đoạn ông được vui trở lại, là những ngày ông thèm bia có bia uống, thèm rượu có rượu uống…, trước đó ngay cả rượu rẻ nhất ông cũng không có để uống. Mỗi lần ra Hà Nội tôi hay tặng ông rượu. Có một lần tôi đề nghị ông đi vào nghĩa trang cho tôi quay phim thì ông không đồng ý. Tôi nói mãi ông mới nói: “Tôi thấy anh thông minh sao cái này anh ngu vậy…”. Sau này vợ ông nói với tôi những người lớn tuổi kiêng vào nghĩa trang. Sự cô đơn làm Văn Cao vĩ đại . Sau Giấc mơ một đời người anh còn thực hiện bộ phim tài liệu Văn Cao – Buổi sáng có trong sự thật. Đâu là ý tưởng để anh thực hiện những video, phim tài liệu này? + Giấc mơ một đời người đến từ giấc mơ của nhạc sĩ Văn Cao khi tôi nghe ông kể về giấc mơ được biểu diễn một đêm nhạc ở Nhà hát lớn Hà Nội. Sau đó tôi suy nghĩ hoài, một người như ông không được một đêm nhạc như vậy thì quá tội! Tôi nghĩ về ước mơ đó và đặt tựa Giấc mơ một đời người. Phim bắt đầu bằng cảnh ông mơ giấc mơ một đêm nhạc ở nhà hát nhưng giật mình lại chỉ còn một mình ông. Còn với Văn Cao – Buổi sáng có trong sự thật đến từ buổi tôi cà phê bên hồ Hoàn Kiếm ngay sáng sau ngày nhạc sĩ Văn Cao mất. Đó là buổi sáng mùa hè nhưng mưa lắc rắc. Tôi nhớ đến bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật của Văn Cao và tôi làm phim bắt đầu từ bài thơ, từ sự thật là ông đã mất thật và cơn mưa là có thật. . Những hình ảnh anh kể lẫn hình ảnh của nhạc sĩ Văn Cao những ngày cuối đời thường đem đến nỗi buồn cho người xem, một ông già cô đơn giữa thời cuộc, anh có cảm nhận như vậy trong những ngày anh gặp nhạc sĩ? + Ông không phải cô đơn với thời cuộc mà cô đơn với cuộc đời; lúc nào ông cũng lặng lẽ, sống tự tại, gần như ngồi một chỗ và mọi thứ cứ trôi đi. Ông là người cô đơn giữa cuộc đời này nhưng có lẽ chính sự cô đơn đó làm ông vĩ đại. . Có điều gì anh luyến tiếc vẫn chưa làm được cho đến khi nhạc sĩ Văn Cao mất… + Nghe tin ông mất, tôi ở Sài Gòn bay ra Hà Nội ngay trong ngày. Hồi đó gia đình có bàn muốn xin phép để trong lúc hạ huyệt được hát Tiến quân ca và quan tài ông sẽ phủ lá cờ đỏ sao vàng với ý nghĩa ông là người viết Quốc ca. Tuy nhiên, điều đó đã không thực hiện được dù mộ ông được đặt ở Nghĩa trang Mai Dịch (nghĩa trang dành cho những người có đóng góp to lớn với đất nước – PV). . Trong những lần gặp có bao giờ nhạc sĩ Văn Cao nhắc với anh về việc ông từng giết người? + Có lần tôi hỏi, ông cười ông nói và tôi không hiểu thật hay đùa, rằng “Nhìn tôi tôi có thể bắn ai được không?”. Có nhiều tư liệu trái chiều về việc này nhưng với quãng đời sau tôi tiếp xúc với ông, tôi không tin ông từng là như vậy. Ông cho tôi cảm giác ông là người nhân hậu, sâu sắc. Xin cám ơn anh. QUỲNH TRANG

Văn Cao 18 năm về cõi thiên thai ____________________ Đinh Anh Dũng.

Mùa đông năm 1978, lần đầu tiên tôi được gặp nhạc sĩ Văn Cao. Lúc đó, tôi vừa ra Hà Nội học, mới hơn 20 tuổi. Nhạc của ông, tôi vẫn chưa biết nhiều, chỉ nghe loáng thoáng đâu đó vài giai điệu. Người bạn thân của tôi lại là bạn con gái ông nên khi nghe rủ đến nhà Văn Cao chơi, tôi đi cho vui thế thôi, vì tò mò là chính. Quý người trước mới đến nhạc Ấn tượng về một ông già lặng lẽ, hay ngồi tĩnh tại suy tư đã tạo nên những tình cảm lớn dần trong tôi. Trong căn phòng cũ kỹ kiến trúc Pháp, vật duy nhất có giá trị có lẽ là chiếc đàn piano màu nâu đen, còn tất cả lộ lên vẻ nghèo nàn không giấu nổi, kể cả chiếc ghế mây ông ngồi cũng vá víu bằng những sợi ni lông màu sắc khác nhau. Ông thường ngồi một mình bên ly rượu, lọt thỏm trong chiếc áo lạnh màu xám đậm. Sau này nghĩ lại, hình như tôi quý Văn Cao vì con người ông trước rồi mới đến nhạc của ông thì phải, dù cả nước biết nhạc sĩ này qua những tác phẩm bất hủ một thời. Loáng thoáng như thế 6 năm với khoảng 10 lần được gặp nhạc sĩ Văn Cao, tôi học xong và trở về TP HCM làm việc. Thỉnh thoảng, tôi ra Hà Nội có ghé thăm ông. Biết ông thích rượu, tôi thường mua tặng chai vodka Nga hoặc Ba Lan, thời đó quý lắm. Giai đoạn ấy, tôi mới được nghe ông nói chuyện nhiều. Cảm giác về một giọng nói ấm áp chậm rãi vẫn còn đậm trong tôi. Văn Cao hay gọi chúng tôi bằng “anh” và xưng “tôi” dù chúng tôi chỉ bằng tuổi con ông. Ông hay nói về Hà Nội xưa, thời ông còn trẻ. Ông hỏi thăm Sài Gòn và nhắc đến Trịnh Công Sơn, Phạm Duy. Rất ít khi ông nói về nhạc của mình. Đôi khi có ai trong chúng tôi nhắc đến, ông chỉ gật gù, nâng ly rượu trên tay khẽ mỉm cười. Đến những năm đầu thập niên 1990, khi phong trào làm video ca nhạc bắt đầu khởi sắc, tôi bước vào lĩnh vực mới mẻ này và nhạc sĩ đầu tiên tôi nghĩ đến chính là Văn Cao. Những hồi ức về ông bỗng sống dậy trong tôi, từ những chuyện kể, từ các giấc mơ không thành của ông… Đó chính là những ý tưởng khởi thủy cho bộ phim ca nhạc Văn Cao, giấc mơ một đời người. Ông đã đi cùng đoàn phim chúng tôi nhiều nơi, từ Hà Nội đến Bắc Ninh, từ chùa Thầy đến chùa Hương. Ông rất vui dù đôi khi phải “diễn” lại nhiều lần. Ông đi lại, đứng nhìn vu vơ, vài đoạn trả lời phỏng vấn hóm hỉnh khi nhắc về kỷ niệm. Có một điều thú vị là Văn Cao đứng ở đâu cũng đẹp: Mái tóc và chòm râu bạc phơ, chiếc áo cũ dài quá lưng (có lẽ là sang nhất của ông), chiếc gậy gỗ trong tay… Thế thôi mà đẹp làm sao! Có lẽ vẻ đẹp đó toát ra từ chính tâm hồn ông, cái đẹp của một nhà hiền triết. Năm 1992, khi Văn Cao, giấc mơ một đời người ra đời, báo chí thời đó nói khá nhiều về bộ phim ca nhạc này. Tôi sưu tập tất cả bài báo viết về phim này dán đầy một album mang ra Hà Nội tặng ông cùng mấy cuốn băng VHS. Ông rất vui. Hình như hôm ấy là bữa rượu tôi được uống với ông nhiều nhất. Vừa uống vừa xem băng video, mấy bác cháu cùng cười to khi thấy những cảnh ông còn lóng ngóng “diễn” chưa đạt. Rồi ông nhắc đến Thủy (biên tập), Quốc Thành (quay phim), ca sĩ Ánh Tuyết; nhắc đến những kỷ niệm lúc đi quay và tiếng cười gần như không dứt… Ước muốn còn dở dang Mùa hè năm 1995, khi tôi từ Mỹ về Việt Nam được 2 ngày thì nghe tin nhạc sĩ Văn Cao mất. Một giờ sau, tôi có mặt ở sân bay, ôm chiếc máy quay trong lòng mà vẫn ngỡ ngàng, không tin đó là sự thật. Tôi còn nhớ mùng 2 Tết năm đó, tôi đến thăm nhạc sĩ Phạm Duy ở Mỹ. Sau khi thăm hỏi một lúc, nhạc sĩ nói: “Anh chờ tôi chút nhé” rồi ông bấm máy gọi điện thoại. Tôi nghĩ chắc ông cần gọi ai đó có việc gấp, không ngờ bên kia đầu dây vang lên tiếng nói của nhạc sĩ Văn Cao. Tôi thật xúc động khi nghe giọng cười của Văn Cao qua điện thoại và câu ông nói vui với mình: “Anh đấy à? Anh làm gì mà đi ăn Tết xa thế?”. Không ngờ đó là câu nói cuối cùng của ông mà tôi được nghe. Cũng mùa hè ấy, khi tôi một mình cô đơn bên cốc cà phê Hà Nội, bất chợt gặp cơn mưa trái mùa trên hồ Hoàn Kiếm, để từ đó trong tai vang lên bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật của ông: Buổi sáng nay không nghe tiếng chim hót/ Một buổi sáng không thật/ Tôi bước đi không thấy tiếng chân đi/ Cả thành phố cùng tôi yên lặng/ Tất cả những con người/ Chỉ thấy mắt đen lay láy/ Cả tiếng xe không thành tiếng/ Tại sao? Tại sao? Từ đó, bộ phim thứ hai của tôi làm về ông Văn Cao – Buổi sáng có trong sự thật đã ra đời. Thời gian trôi nhanh quá, 18 năm rồi. Nhiều lần tôi muốn làm điều gì đó cho ông mà cứ dở dang. Dự kiến một nhà bảo tàng nhỏ trong khu du lịch tại Sài Gòn không thành, những đêm nhạc giữa ông và nhạc sĩ Phạm Duy lúc sinh thời cũng vậy. Mọi thứ cứ tiến hành rồi đành phải gác lại… Tôi thầm hứa với nhạc sĩ Văn Cao sẽ làm thêm một bộ phim nhân 20 năm ngày ông mất…

Đinh Anh Dũng

@

Văn Cao : một thiên tài, một số phận ______________________________ NGHIÊM BẰNG

“Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư….” ”—Trịnh Công Sơn Năm 2013 này là năm kỷ niệm 90 năm ngày sinh của thiên tài văn nghệ Văn Cao – người đã tự lưu đầy mình vào vĩnh cửu bằng ba tài năng lớn : hội họa, thi ca và âm nhạc. Văn Cao nhà cải cách tiền phong cả ba nghệ thuật : hội họa, âm nhạc và thi ca. Bài này chỉ nói về kiếp nhạc của Văn Cao. Không đợi khi xuân đến, tết về như dịp này, chúng tôi mới nghe lại bản nhạc bất hủ : “Mùa xuân đầu tiên” Văn Cao khởi viết cuối tháng 12-1975, hoàn thành trong dịp tết Bính Thìn năm 1976. ( Xin quý bạn đọc vào công cụ tìm kiếm : rồi đánh tên bản nhạc để có thể nghe rất nhiều ca sĩ hàng đầu hát bài : “ Mùa xuân đầu tiên” này). Đây là bài hát có số phận đặc biệt nhất trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát mang nhiều tâm trạng đối lập, hòa trộn nước với lửa : vui ít, buồn nhiều, mừng ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào nhiều, bâng khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở than nhiều, cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc nhiều, sum họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ vơ nhiều… Hầu như tất cả các trạng thái tình cảm trái ngược nhau của con người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này : ai vui hát lên thì nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát lên thấy một trời đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm đang đồng cảm cùng mình… Nghe đi nghe lại bản nhạc này, ta thấy xuất hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe bản nhạc “ Mùa xuân đầu tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng mình. Riêng lời bài hát đã là một bài thơ hay : “Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về Mùa bình thường mùa vui nay đã về mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông một trưa nắng cho bao tâm hồn. Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về Người mẹ nhìn đàn con nay đã về Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh Niềm vui phút giây như đang long lanh. ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên. ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm. Từ đây người biết quê người Từ đây người biết thương người Từ đây người biết yêu người . Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về Mùa bình thường, mùa vui nay đã về. Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.” Rất nhiều chim én, nhiều nắng gió, có nước mắt vui gặp gỡ của đàn con nay đã về, có cuộc đời êm ấm…nhưng sao hình ảnh “khói bay trên sông, gà đang gáy trưa trên sông” lặp lại hai lần làm không gian của “Mùa xuân đầu tiên” xa xôi, bơ thờ thế, xao xác thế, hoang vắng thế, hiu quạnh thế, đơn độc có phần cô đơn thế ? Chợt nhớ nỗi buồn thiếu quê hương của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng gà trưa Văn Cao nay, một khói sóng trên sông xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết : “ một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông” : Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu. (Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu? Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!) Chợt nhớ Lưu Trọng Lư “thời con nai vàng ngơ ngác” với câu thơ tiền chiến xưa sao rất đồng cảm với nỗi vui não nùng Văn Cao nay : “ Tiếng gà trưa xao xác não nùng”. Bài hát như một điệu valse bằng nước mắt; sự thướt tha, quý phái của một giai điệu bi thương; sự sang trọng của ngậm ngùi, day dứt; sự lãng mạn của một phiêu linh, xô dạt; sự mê đắm của một vu vơ; sự đoan trang của cái đẹp lỡ thì; sự liêu trai của ngơ ngác, đìu hiu; sự dịu dàng của nỗi thương đau, xót nhớ…. Chừng như đã mấy chục năm chiến tranh liên miên chưa từng có xuân về ? Chừng như gần hết cả đời người bận chuyện đấu tranh giai cấp giành giật miếng ăn chưa từng thấy chim én báo xuân ? Chừng như đã rất lâu rồi sự căm thù trùm lên xã hội không còn ai biết thương người ? Chừng như đã lâu lắm rồi ta tha hương trên chính quê hương mình ? Chừng như suốt mấy cuộc chém giết kinh hoàng mạo danh cách mạng, không còn ai biết yêu con người ? Chừng như mấy mươi năm rồi con người đã quên mình còn nước mắt ? Chừng như lâu rồi tâm hồn người không được sưởi nắng mùa xuân ? Và chừng như lâu lắm rồi Văn Cao quên không còn nhớ mình từng là nhạc sĩ lãng mạn đã có cả chục ca khúc vào hàng kiệt tác ? Chừng như cây đàn piano cũ kỹ do Hội nhạc sĩ Việt Nam cho Văn Cao thuê mỗi tháng 07 đồng, ( thuê căn gác chật hẹp cũ kỹ 108 Yết Kiêu 15 đồng) đã bị thời gian phủ bụi đầy rêu mốc ? Chừng như đôi tai Văn Cao đã bị súng đạn thời cuộc, sự hò hét xướng ca hò vè phục vụ chính trị một thời làm ù đặc, khi tất cả các kiệt tác âm nhạc của ông đều bị chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa ( Miền Bắc) cấm hát, trừ bài quốc ca ( kể cả thơ Văn Cao cũng bị cấm) ? Và chừng như toàn bộ vết thương cuộc đời Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà nhỏ xuống cây đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến những vết thương chợt mở miệng ca hát : “Mùa xuân đầu tiên” Chừng như nỗi niềm ngày 30 tháng tư năm 1975 : “ có một triệu người Việt Nam vui thì cũng có một triệu người Việt Nam buồn” ( lời ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi bài hát : “ Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao ? Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi nghe có một nửa nước vui thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn thua trận cũng trào nước mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng xé nhau, cười khóc mếu máo bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh đênh phiêu bạt thế, nức nở nghẹn ngào thế ? Có lẽ, chính vì những điều trên mà kiệt tác “ Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao sau khi được báo “Sài Gòn giải phóng” in trước tết Bính Thìn: 01- 01 – 1976, được hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy lần liền bị cấm suốt 24 năm ( 1976-2000). Sinh thời, Văn Cao không được nghe, được nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao này của mình được trình diễn. Sau khi ông mất ( 1995) 05 năm, “ Mùa xuân đầu tiên” mới ra khỏi nhà tù kiểm duyệt của chế độ. Xin quý bạn đọc hãy nghe nhà thơ, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự ra đời của bài hát này : “Sau khi bài TIẾN VỀ HÀ NỘI ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa… Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng… Tôi còn lưu giữ được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói. Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hoá” mất 30 năm thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc Việt Nam. Những ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên những ly rượu tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”. Văn Cao đã sáng tác xong ca khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn.” (trích bài “Văn Cao với ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Thao in trên “Tạp chí Sông Hương” số 179-180) Văn Thao tiết lộ tiếp rằng, bài hát bị cấm ở Việt Nam nhưng bên nước Liên Xô người ta lại dịch sang tiếng Nga, phát trên Đài phát thanh Matxcova : “Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN đã được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: “Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu.”” Qua tiết lộ trên của anh Văn Thao, con trưởng nhạc sĩ thì nhà ông Văn Cao trên căn gác nhỏ 108 Yết Kiêu suốt một thời luôn luôn có công an ngầm canh gác, ai đến đều “ bị vỗ vai” hỏi tên tuổi, xem đến nhà tên phản động “Nhân Văn” làm gì ? Người viết bài này sau năm 1975 có lần đến thăm nhạc sĩ Văn Cao để cho ông mượn cuốn tiểu thuyết vĩ đại : “Giờ thứ 25” của văn hào Romania Constantin Virgil Gheorghiu ( 1916-1992) mang ra từ Sài Gòn như đã hứa, cũng đã từng bị công an mật “vỗ vai” hỏi đi đâu ? Bèn bảo : đi phỏng vấn tác giả “Quốc ca” viết bài in báo cũng bị cấm à ? Người “ vỗ vai” hất đầu cộc lộc : “Vào đi “. Người ta đã cầm giữ Văn Cao như một tù nhân lương tâm bị giam lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân kiểu xã hội chủ nghĩa. Rằng Văn Cao bị vô hiệu hóa suốt 30 năm vì tội Nhân Văn – Giai Phẩm. Rằng suốt 30 năm ấy, nhạc sĩ Văn Cao sống rất nghèo khổ, “ bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu “. Chúng ta lại được nghe người con trai thứ của nhạc sĩ Văn Cao, nhà thơ Nghiêm Bằng kể sơ qua về sự ra đời của “ Mùa xuân đầu tiên” : “Đó là một đêm vào giữa tháng 12-1975. Chúng tôi đang sống với cha mẹ trong ngôi nhà số 108 Yết Kiêu. Mùa đông Hà Nội rét tê tái. Cha tôi đã từ lâu rồi không đàn. Vậy mà trong đêm ấy, tôi nghe có tiếng chân nhè nhẹ lần từng bước từ phòng trong ra gần chiếc đàn piano – đối diện với chiếc đivăng tôi đang ngủ. Một giai điệu khe khẽ vang lên, nó được đàn bởi một bàn tay phải. Cũng phải nói thêm là cha tôi đã đàn trên chiếc đàn vốn được Hội Nhạc sĩ VN cho thuê lại với giá 7 đồng rưỡi một tháng (lương tôi hồi đó là 63 đồng, còn tiền thuê nhà là 15 đồng); từ ngày kỷ niệm 30 năm Tiến quân ca (1974), chiếc đàn mới được tặng hẳn cho cha tôi thì cha lại rất ít có dịp dùng đến. Bài hát đã được báo Sài Gòn Giải Phóng số năm mới 1-1-1976 in trang trọng ở bìa 4 và thu thanh ngay sau đó, được phát trên sóng Đài Tiếng nói VN, nếu tôi không nhầm thì do ca sĩ Trần Khánh và đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói VN trình bày. Bài hát được phát khoảng mươi lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được truyền bá chủ yếu qua sóng phát thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như thể bị quên lãng. Như mọi lần, trong suốt mấy chục năm, cha không tỏ ra bực bội gì, chỉ hơi buồn thôi. Cha tôi nói chắc chắn bài hát sẽ có ngày được hát lại và mọi người sẽ yêu nó. Và như mọi lần, cha tôi lại đúng. Chỉ có điều lúc đó cha tôi không còn nữa. Khi bài hát lần đầu tiên được phát trên sóng truyền hình Việt Nam năm 2000, cha tôi đã mất được năm năm.” Nhà thơ NGHIÊM BẰNG THU HÀ ghi

Văn Cao và Tiến Quân Ca ___________________________ Trần Việt Trình

Văn Cao sáng tác không nhiều. Vì người ta đã cướp đi mất của ông đến 30 năm, lúc sức sáng tác của ông đang ở vào thời kỳ sung mãn nhất. 30 năm, một khoảng thời gian quá dài vùi dập một nhân tài. Văn Cao như một cây tốt trái nhưng bị cắm trên miếng đất miền Bắc cằn cỗi. Phải chi cây trái ấy được trồng ở đất miền Nam tươi tốt màu mỡ thì cây ấy đã đơm bông rực rỡ và sây trái. Phải chi Văn Cao được sống dưới chế độ miền Nam tự do, tự do văn nghệ và tự do sáng tác, thì ông đã cống hiến cho đời một kho tàng âm nhạc dồi dào hơn vậy nhiều. Dầu sao thì Văn Cao vẫn là một tác giả lớn của nền âm nhạc VN. Tiếng tăm của ông vẫn mãi là niềm tự hào vô bờ của quê hương, dân tộc, nó trường tồn, bất tử như những khúc khải hoàn ca ngân vang mãi…

* Cuối tháng 5 đầu tháng 6 vừa qua, dư luận trong nước “rộn” lên với những thay đổi. Quốc Hội của nhà cầm quyền CSVN đã nhóm họp và qua đó một loạt những thay đổi “gây sốc” đã được đề nghị và mang ra bàn thảo. Nào là dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, nào là đổi lại tên nước và đề nghị sửa đổi cả lời bài Quốc Ca.

Bài viết này không bàn đến 2 sự thay đổi lớn lao là sửa đổi Hiến pháp và thay đổi tên nước mà chỉ xoay quanh bài Tiến quân ca và kiếp nhạc của nhạc sĩ Văn Cao.

Văn Cao là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng, là một trong những gương mặt quan trọng nhất của nền tân nhạc. Ông là tác giả bài Tiến quân ca, quốc ca của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày trước và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay.

Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray, Hải Phòng Quê gốc của ông ở thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Thuở nhỏ, ông học ở trường tiểu học Bonnal, sau học trung học ở trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc.

Những năm cuối 1930, tân nhạc VN ra đời. Văn cao sáng tác ca khúc đầu tay Buồn Tàn Thu năm 1939, lúc đó ông chỉ mới 16 tuổi.

Giống như những nhạc sĩ tiền chiến khác, Văn Cao sáng tác các nhạc phẩm trữ tình ít ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà lại mang nặng âm hưởng phương Đông.

Sau ca khúc đầu tay Buồn tàn thu ông còn viết hai ca khúc khác về mùa thu là Thu cô liêu và Suối mơ. Bên cạnh đề tài mùa thu, ông còn có hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là Bến xuân và Cung đàn xưa. Ngay từ những ca khúc đầu tiên, Văn Cao đã thành công rất sớm. Buồn tàn thu được trình diễn trên các sân khấu lớn và trên đài phát thanh Sài Gòn trong những năm 1944-1945, lúc tân nhạc còn mới phôi thai. Suối mơ, Bến xuân được đánh giá là cực điểm của lãng mạn trong ca nhạc VN. Nhưng hai tình khúc của Văn Cao được đánh giá cao hơn cả là Thiên Thai và Trương Chi.

Năm 2001, khi phim Người Mỹ trầm lặng (The Quiet American) được thực hiện, Thiên Thai được sử dụng làm nhạc nền cho phim.

Năm 1942, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội sinh sống. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant, nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền, và theo học dự thính ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Văn Cao còn làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy. Năm 1943-1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu. Đặc biệt tác phẩm Le Bal aux suicidés (Cuộc khiêu vũ của những người tự tử) được đánh giá cao và gây chấn động dư luận lúc đó. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của ông không bán được. Văn Cao, cùng bạn bè, thường phải đứng bán những tác phẩm của mình trên các đường phố Hà Nội. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn.

Sau hiệp định Genève 1954, Văn Cao về lại Hà Nội. Ông làm việc cho Đài Phát thanh nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955, ông cầm bút trở lại. Tháng 2 năm 1956, bài thơ “Anh có nghe không” được đăng trên Giai phẩm mùa Xuân. Bài thơ này bị Xuân Diệu đánh giá là “lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì”. Văn Cao cùng những người bạn cầm bút của hai tờ báo Nhân Văn và Giai Phẩm khi đó chủ trương đòi hỏi tự do văn nghệ và tự do sáng tác. Đến tháng 12 năm 1956 thì cả hai tờ báo đều bị đình bản.

Như những nhân vật khác của nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm, tháng 7 năm 1958, Văn Cao phải đi học tập chính trị. Tên tuổi của Văn Cao hầu như không còn xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội nữa. Những năm sau đó, ông kiếm sống bằng nhiều công việc “vớ vẩn” như viết nhạc không lời cho các truyện phim và truyện kịch, trang trí sân khấu cho các đoàn kịch và vẽ quảng cáo cho các báo. Các ca khúc của ông không được trình diễn ở miền Bắc, trừ bài Quốc ca. Nhưng ở miền Nam, các ca sĩ hàng đầu của Sài gòn như Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thành thuở ấy thường xuyên trình bày những ca khúc của ông. Ca khúc Không quân Việt Nam ông sáng tác năm 1945 sau được sử dụng làm bài hát chính thức của Không lực Việt Nam Cộng hòa.

Người ta đã cầm giữ Văn Cao như một tù nhân bị giam lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân kiểu xã hội chủ nghĩa. Bị vô hiệu hóa suốt 30 năm chỉ vì tội Nhân Văn Giai Phẩm. Sở dĩ Văn Cao thoát tù mọt gông chẳng qua vì ông là tác giả Quốc ca. Không ai lại đi bỏ tù một người đã làm ra bài Quốc ca. Ngay sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm, nhà nước cộng sản định lấy bài hát “Cách mạng tiến quân” của Đỗ Nhuận làm bài quốc ca, thay cho bài Tiến quân ca nhưng việc không thành.

Năm 1989, tạp chí National Geographic đăng một bức ảnh của nhạc sĩ Văn Cao đang ngồi trầm tư bên chiếc đàn dương cầm của ông. Tấm hình này đã tạo cảm hứng cho nhà soạn nhạc người Mỹ tên Robert Ashley sáng tác ra bản solo cho piano mang tên Van Cao’s Meditation vào năm 1992. Cho đến khi Văn Cao qua đời Robert Ashley vẫn chưa một lần được gặp mặt tác giả của Tiến quân ca. rở lại chuyện ra đời của bài Tiến quân ca. Mùa đông năm 1944, Văn Cao gặp lại Vũ Quý, một cán bộ Việt minh. Vũ Quý thuyết phục Văn Cao thoát ly hoạt động cách mạng, và nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một bài hành khúc cho đội quân Việt Minh.

Ông nhận lời Vũ Quý, ngay hôm đó chính thức gia nhập Việt Minh và bắt tay vào việc sáng tác.

Ông bồi hồi kể lại trong hồi ký “Tại sao tôi viết Tiến quân ca” như sau:

“Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu ngày tại căn gác hẹp 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà 2 tầng, mấy làn cây và một màn trời xám.

Ở đây thường vọng lên những chiếc xe bò chở xác người chết đói về phía Khâm Thiên. Ở đây hàng đêm, mất ngủ vì gió mùa luồn vào từng khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một gia đình anh viên chức nghèo khổ, thiếu ăn, vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đây tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời. Ở đây đêm đêm có những tiếng gõ cửa, những tiếng gọi đêm không người đáp lại…

… Tin từ Nam Định lên, cho biết mẹ tôi và các em tôi đang đói. Họ đang tìm mọi cách để sống qua ngày, như mọi người đang chờ đợi một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ chiều hôm. Tất cả đang chờ đợi tôi tìm cách giúp đỡ.

Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những con đường phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi”. Bài hát Tiến quân ca của Văn Cao đã ra đời như vậy đó. Tiến quân ca được đăng trên trang văn nghệ của báo Độc Lập lần đầu tiên tháng 11 năm 1944. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Tiến quân ca được chính thức cử hành trong ngày Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình. Thật đột ngột cho Văn Cao, Vũ Quý mất trước ngày Tổng khởi nghĩa 19/8/1945. Cái chết mà sau này ông được biết là chưa được làm rõ, khi Vũ Quý trên đường anh lên dự Quốc dân đại hội Tân Trào tại Việt Bắc. Cho mãi đến năm 1972, Vũ Quý mới được truy tặng liệt sĩ. Truy tặng thì truy tặng, không ai biết rõ chuyện gì đã đưa đến cái chết của Vũ Quý! Năm 1946, Quốc hội khóa I đã quyết định chọn Tiến quân ca làm quốc ca. Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa điều 3 ghi rõ: “Quốc ca là bài Tiến quân ca”. Năm 1955, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa I đã mời tác giả tham gia sửa một số chỗ về phần lời của quốc ca. Văn Cao đã luyến tiếc vì một số chữ sửa đã làm mất khí thế hùng tráng của ca khúc.

Lần họp Quốc hội vừa qua không phải là lần đầu tiên việc thay đổi Quốc ca bị mang ra “đấu tố”. Việc này đã được thực hiện một lần rồi. Nhà cầm quyền CSVN đã đã một lần tổ chức thay đổi quốc ca vào năm 1981. Một cuộc thi được mở ra nhưng sau hơn một năm, không có tuyên bố chính thức gì về kết quả và cuộc thi này không được nhắc tới nữa. Tiến quân ca vẫn là quốc ca của nước cho tới ngày nay.

Đây là ca khúc đã đi vào lịch sử sáu bảy chục năm rồi, với đầy đủ ý nghĩa của nó. Quốc ca không chỉ là một ca khúc đơn thuần mà nó còn chứa đựng ý nghĩa lịch sử sâu xa.

Có lần Văn Cao đã nói “Thôi, giờ tôi có tiếc nuối cũng chẳng thể làm gì. Dù sao Tiến quân ca cũng chẳng phải là của riêng tôi, nó đã là của một dân tộc Việt Nam độc lập kể từ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đến nay”.

Theo như gia đình của Văn Cao thì gia đình của ông đã trao bản quyền ca khúc Tiến quân ca cho Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam. Người sửa chỉ có thể là Văn Cao. Văn Cao giờ không còn nữa, ai muốn sửa thì đi gặp Văn Cao mà yêu cầu sửa.

Ngoài Tiến quân ca, ông còn sáng tác các hành khúc khác như Thăng Long hành khúc ca và Tiến về Hà Nội. Sau khi bài Tiến về Hà Nội ra đời cuối năm 1949 ông bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó ông thề sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa.

Văn Cao ngưng sáng tác ca khúc tới hai chục năm. Cái thôi thúc ông sáng tác trở lại chính là sự kiện 30/4/1975. Hôm đó, nghe tin “đất nước thống nhất”, trong khi nhà nhà miền Bắc rộ lên tiếng reo vui thì Văn Cao lại im lặng. Ông im lặng nhưng đôi mắt ông sáng lấp lánh. Trong ông có một điều gì đang dâng trào, nghẹn ngào. Từ hôm đó, tâm trạng ông biến đổi khác hẳn.

Tới một ngày giáp Tết năm 1976, hôm đó, Văn Cao ngồi bên đàn, đôi vai gầy guộc của ông phủ xuống, đôi bàn tay khô gầy của ông lướt trên những phím đàn loang lổ, ố vàng. Tiếng đàn ngọt ngào, thánh thót, ấm áp, âm vang khắp căn phòng. cây đàn. Mái tóc ông bạc dài xõa phất phơ theo tiếng dương cầm. Một lát sau, ông lặng lẽ đứng dậy, nhẹ nhàng rời khỏi cây đàn, khuôn mặt ông bất động. Dường như tâm hồn ông vẫn còn bồng bềnh trôi theo những âm thanh của bản nhạc.

Mùa xuân đầu tiên ra đời với giai điệu mượt mà, sâu lắng, khắc sâu vào tâm hồn người thứ tình cảm chan chứa yêu thương như sau: Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về Mùa bình thường mùa vui nay đã về Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông Một trưa nắng vui cho bao tâm hồn. Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về Người mẹ nhìn đàn con nay đã về Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh Niềm vui phút giây như đang long lanh.

Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên. Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm. Từ đây người biết quê người Từ đây người biết thương người Từ đây người biết yêu người. Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về Mùa bình thường, mùa vui nay đã về Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.

Hai chữ “Từ đây” được lặp lại nhiều lần nói lên mơ ước, khát vọng, và cũng là lời nhắn nhủ của Văn Cao sau “chiến thắng vĩ đại”: con người phải biết yêu quê hương và biết yêu thương nhau.

Nước nhà thống nhất, không còn chiến tranh, đó là điều mà mọi người mơ ước và khát vọng. Nhưng Văn Cao đã nghiệm ra rằng đất nước và con người VN vừa trải qua tang thương, bể dâu, ly loạn, đã đánh mất nhiều giá trị truyền thống, nhân bản. Nghiệt ngã đã ảnh hưởng sâu rộng đến từng từng thân phận, từng gia đình. Vết thương đất nước chưa lành, nhân tâm còn bất ổn nên không quá vội vàng, ảo tưởng, hân hoan thái quá. Cần khơi dậy tình người và đánh thức nhân tính.

Mùa xuân đầu tiên bị phê bình là không đi đúng đường lối của Đảng, không phục vụ cho Cách Mạng, vì thế bản nhạc mới phát hành đã bị tịch thu không được phổ biến.

Sở dĩ có một thời kỳ dài ca khúc này không được cho phép phổ biến vì ngoài những định kiến về Văn Cao trong quá khứ mà còn vì trong ca khúc có những lời như “Từ đây người biết quê người. Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu người”. Người CS họ nghe sao thấy mơ hồ quá, lấn cấn quá, rắc rối quá!

Mãi cho đến sau khi Văn Cao qua đời, Mùa xuân đầu tiên của ông mới được phổ biến và trình diễn ở những sân khấu lớn, được đưa lên đài phát thanh và đài truyền hình. Đến lúc này Mùa xuân đầu tiên của ông mới thực sự có chỗ đứng trong âm nhạc VN.

Ngày nay, Mùa xuân đầu tiên đã trở nên quen thuộc với chúng ta, là một trong những bài hát hay về mùa xuân. Nhưng tuyệt phẩm này cũng cùng chung số phận long đong như chính người sinh ra nó. Phải mất 20 năm sau khi ngưng sáng tác, Văn Cao mới cho ra đời bài hát này. Và cũng phải mất 20 năm sau khi ra đời, nó mới được trình bày hợp lệ. Lúc đó Văn Cao đã sang thế giới bên kia.

Văn Cao sáng tác không nhiều. Vì người ta đã cướp đi mất của ông đến 30 năm, lúc sức sáng tác của ông đang ở vào thời kỳ sung mãn nhất. 30 năm, một khoảng thời gian quá dài vùi dập một nhân tài. Văn Cao như một cây tốt trái nhưng bị cắm trên miếng đất miền Bắc cằn cỗi. Phải chi cây trái ấy được trồng ở đất miền Nam tươi tốt màu mỡ thì cây ấy đã đơm bông rực rỡ và sây trái. Phải chi Văn Cao được sống dưới chế độ miền Nam tự do, tự do văn nghệ và tự do sáng tác, thì ông đã cống hiến cho đời một kho tàng âm nhạc dồi dào hơn vậy nhiều. Dầu sao thì Văn Cao vẫn là một tác giả lớn của nền âm nhạc VN. Tiếng tăm của ông vẫn mãi là niềm tự hào vô bờ của quê hương, dân tộc, nó trường tồn, bất tử như những khúc khải hoàn ca ngân vang mãi.

Ông qua đời ngày 10 tháng 7 năm 1995, sau một thời gian mắc bệnh ung thư phổi. Bài viết này xin ghi lại đôi điều về nhân vật tài hoa bị vùi dập này, như một nén nhang tưởng niệm ông nhân ngày ông qua đời cách đây đúng 18 năm.

11 tháng 7 năm 2013 Trần Việt Trình

@ Nhạc sĩ Văn Cao – “bậc tài danh thế kỷ” ________________________ TTXVN

Văn Cao là một trong những nhạc sĩ thuộc lớp tiền bối của nền tân nhạc Việt Nam, cuộc đời và sự nghiệp của ông luôn gắn chặt và hoà trộn với dòng chảy lịch sử của dân tộc.

Nhiều tác phẩm của Văn Cao đã trở thành di sản âm nhạc quý báu của nước nhà, trong đó, có tác phẩm “Tiến quân ca” – Quốc ca Việt Nam – mà ông là tác giả.

Những bài hát của Văn Cao trên thực tế được quảng đại quần chúng ưa thích, bất kể nó là tình khúc hay ca khúc.

Không chỉ là một nhạc sĩ tài năng, Văn Cao còn viết văn xuôi, làm thơ và vẽ tranh. Dù ở lĩnh vực nào, ông cũng gặt hái được những thành công nhất định.

Người nghệ sĩ tài hoa và những ca khúc trữ tình nổi tiếng

Văn Cao, một tài hoa thiên bẩm, nhạc sĩ của nhiều bài hát rung động lòng người, những bài hát trở thành một phần trong tài sản tinh thần của biết bao thế hệ người Việt. Những bài hát của Văn Cao trên thực tế được quảng đại quần chúng ưa thích, bất kể nó là tình khúc hay ca khúc.

Nhạc sĩ Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, ông sinh ngày 15/11/1923 trong một gia đình nghèo ở Hải Phòng. Ông là người thuộc thế hệ thanh niên ưu tú, giàu lòng yêu nước, được tiếp thu những tinh hoa của văn hoá Đông Tây. Những tác phẩm của ông đã mang lại cho người nghe, người xem một lối cảm thụ nghệ thuật mới.

Văn Cao bước vào con đường nghệ thuật khá sớm, khi mới ở tuổi thiếu niên. Đầu tiên ông xuất hiện ở làng văn nghệ bằng những vở kịch và truyện ngắn, sau đó Văn Cao chuyển sang thơ và nhạc.

Đúng như giới văn nghệ sĩ đánh giá, Văn Cao là một nghệ sĩ tài hoa trên cả ba lĩnh vực: thơ, họa, nhạc. Ngay từ trước cách mạng, Văn Cao đã là một nhạc sĩ tài danh với những ca khúc trữ tình nổi tiếng. Bài hát đầu tay của ông viết năm 1939 tại Hải Phòng là “Buồn tàn thu”, tiếp sau đó là những giai điệu ngọt ngào, sâu lắng với những ca từ đạt đến độ hoàn mỹ: “Thiên thai”, “Suối Mơ”, “Trương Chi”, “Bến xuân”, “Cung đàn xưa”, “Đàn chim Việt”…

Tuy đa phần những ca khúc đó đều chứa đựng một tâm sự buồn của bản thân ông, nhưng đó thực sự là những khúc tình ca bất hủ không chỉ của riêng ông mà còn của cả nền âm nhạc Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ qua. Bên cạnh những sáng tác nhạc trữ tình, Văn Cao còn có những hành khúc hùng tráng lấy đề tài từ lịch sử dân tộc như: “Gò Đống Đa”, “Thăng Long hành khúc ca” viết cho tráng sinh Hướng đạo thuộc nhóm “Đồng Vọng” của nhạc sĩ Hoàng Quý – một nhóm nhạc nổi tiếng ở Hải Phòng trước cách mạng.

Trong lĩnh vực thơ ca, độc giả biết đến Văn Cao với những vần tự sự về chính cuộc đời ông, về quê hương, về cuộc sống tự do với bạn bè; biết đến những vần thơ đau thương nhất của ông về cuộc sống cùng cực của người dân nghèo nơi xóm ả đào, nẻo nhà ga, lề đường, góc chợ.

Đối với Văn Cao, “người làm thơ phải đi tìm những tư tưởng, cảm xúc và cảm giác trong thực tế ở những con người đang hàng ngày túi bụi xây dựng”. Với bài thơ đầu tiên “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” và tiếp theo là: “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”, “Bến Ngự trên thương cảng”, “Ngoại ô mùa đông năm 1946”, “Những người trên cửa biển”, “Với Nguyễn Huy Tưởng”, “Với Nguyên Hồng”…, ông đã để lại trong lòng độc giả nhiều thế hệ những tình cảm đặc biệt.

Nói đến Văn Cao, người ta không thể không nhắc đến lĩnh vực hội họa. Ở lĩnh vực này, ông là một họa sĩ sử dụng cọ và màu cũng sắc sảo, mặn nồng không thua gì các họa sĩ chuyên nghiệp. Ông đã có những bức tranh minh họa, những bìa sách và nhiều bức sơn dầu nổi tiếng. Đặc biệt, với lối vẽ tranh sơn dầu bằng hình thức và nội dung mới, bức họa đầu tay “Cuộc khiêu vũ của những người tự tử” được Văn Cao trưng bày tại Phòng triển lãm Duy nhất (Hà Nội-1944) đã làm giới mỹ thuật ngạc nhiên về bút pháp và màu sắc.

Người nhạc sĩ – chiến sĩ với dấu ấn lịch sử Tiến quân ca – Quốc ca

Năm 1944, là năm chuyển biến trong cuộc đời của Văn Cao. Sau khi được đồng chí Vũ Quý giác ngộ cách mạng, ông đã tham gia hoạt động bí mật.

Văn Cao viết và phụ trách ấn loát cơ quan Phan Chu Trinh in sách báo và truyền đơn bí mật. Cũng trong hoạt động, nhận chỉ thị của tổ chức viết một hành khúc cho quân đội cách mạng của Việt Minh, ông đã sáng tác “Tiến quân ca” vào cuối năm 1944 tại căn gác số 171 phố Mông Grăng (nay là nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền, Hà Nội).

Đây là một hành khúc mang đầy tính dự báo và gây được nhiều ảnh hưởng tích cực cho phong trào cách mạng. “Tiến quân ca” thực sự trở thành hồn dân tộc, hồn nước, làm xốc dậy tinh thần của những quân du kích, những binh đoàn, những quân đoàn và cả những người dân Việt Nam bình thường nhất.

Sau đó không lâu, ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định chọn “Tiến quân ca” làm Quốc ca nước Việt Nam. Năm 1993, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam một lần nữa khẳng định vị trí bất di bất dịch của “Tiến quân ca” là Quốc ca nước Việt Nam.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, vừa làm trình bày, kiêm bảo vệ báo Lao Động, Văn Cao nhanh chóng hoàn thành bộ “tứ bình” bài hát cho lực lượng vũ trang non trẻ, đó là: “Chiến sĩ Việt Nam”, “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” và “Bắc Sơn” – một hành khúc dành cho lực lượng dân quân du kích.

Toàn quốc kháng chiến, Văn Cao cùng gia đình ra khu 3 vùng chợ Đại. Ngay đầu năm 1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều tra đặc biệt của công an liên khu 10 ở Lào Cai và làm báo “Độc Lập”.

Hoàn thành nhiệm vụ sau Chiến thắng Sông Lô, Văn Cao đã sáng tác trường ca hoành tráng “Sông Lô” tại chiến khu Việt Bắc. Đây là tác phẩm đã để lại dấu ấn rực rỡ; một hình thức độc đáo trong các thể loại thanh nhạc của Việt Nam. Toàn bài chia làm nhiều đoạn, bằng nhiều tốc độ khác nhau, ông muốn vươn lên khỏi những hình thức của thể loại ca khúc bình thường. Giai điệu đẹp, ca từ mang nhiều chất thơ. Sự nối tiếp trong cấu trúc các đoạn hợp lý, khiến cho trường ca có sức hấp dẫn riêng, đặc biệt.

Sau khi được kết nạp Đảng tháng 3/1948, Văn Cao về lại Liên khu 3 công tác phong trào văn nghệ, trình bày báo Thủ đô của ủy ban Hành chính Hà Nội. Trong thời gian này, ông viết “Làng tôi”, “Ngày mùa” và đặc biệt là hành khúc trữ tình “Tiến về Hà Nội”.

Hành khúc trữ tình “Tiến về Hà Nội” được sáng tác vào năm 1949, trước ngày giải phóng Thủ đô 5 năm, nhưng đó cũng là một hành khúc mang tính dự báo rất lãng mạn và hùng ca của Văn Cao: “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về, như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh”. Cho đến tận bây giờ, âm hưởng và hình bóng của ca khúc vẫn còn in đậm trong tâm hồn các thế hệ người Việt Nam.

Như một người có tài dự đoán và đón bắt lịch sử, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác ca khúc “Ca ngợi Hồ Chủ tịch”. Với tính chất âm nhạc trang nghiêm, sâu sắc Ca khúc Ca ngợi Hồ Chủ tịch là một trong những ca khúc mang màu sắc, phong cách rất riêng của Văn Cao.

Sau chiến thắng Mùa xuân năm 1975, đất nước ta trong khí thế chuyển mình bước vào thời kỳ mới. Mùa xuân năm 1976, sau ba mươi năm xa cách, hai miền Nam Bắc mới được chung vui một cái Tết thống nhất. Niềm hân hoan ấy ngập tràn trong mỗi người dân đất Việt, trong đó có các văn nghệ sĩ. Văn Cao sau nhiều năm vắng bóng trong mảng ca khúc Việt Nam trở về với chính mình…

Trong không khí rạo rực của những ngày đầu mùa xuân năm 1976 bình yên ấy, giai điệu của một bản nhạc Valse nhẹ nhàng định hình trong đầu ông. Lời đầu tiên trong ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”, Văn Cao đưa đến cho người nghe những nét quen thuộc giản dị mà xiết bao ấm áp: “Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về. Mùa bình thường mùa vui nay đã về. Mùa xuân mơ ước ấy đã đến đầu tiên. Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông. Một trưa nắng vui cho bao tâm hồn”.

Sau một thời gian dài vắng bóng, kể từ sau khi viết “Tiến về Hà Nội” (1949) nhiều người tưởng thời ca khúc của Văn Cao đã khép lại. Trong nhiều năm, ông làm thơ, viết khí nhạc, vẽ minh họa để kiếm sống và tạm lãng quên sáng tác ca khúc.

Thật đáng mừng vì một “Mùa xuân mới” đã về với dân tộc, đem lại sự phục sinh trong tâm hồn người nghệ sĩ. Giữa bao ca khúc khải hoàn rộn rã của ngày chiến thắng, người ta vẫn bắt gặp một tiếng reo nén lại của ông. Sự lắng lại để chiêm ngưỡng và suy ngẫm về niềm vui của một mùa xuân mới bình yên ở đây cũng chính là sự lắng lại của một đời người từng trải qua nhiều đau thương và mất mát.

“Mùa xuân đầu tiên” không là một dự cảm tất thắng như trong “Tiến về Hà Nội”, mà như là một sự khẳng định chân lý bình thường sẽ và đã trở lại với cuộc sống con người. Ca khúc khép lại, nhưng giai điệu của nó một lần nữa khẳng định cái “Mùa bình thường” ấy sẽ mãi mãi ở lại cùng ông và đất nước.

Cho đến nay bản lĩnh sáng tạo trong ca khúc của Văn Cao được ghi nhận là sự tổng hợp hài hoà của nhạc-hoạ-văn-thơ. Giai điệu âm nhạc của ông bao giờ cũng đẹp, uyển chuyển; ca từ được gọt rũa kỹ, hình ảnh đẹp. Đúng như sự đánh giá của nguyên Tổng Bí thư Đảng Đỗ Mười: Văn Cao- “người nhạc sĩ đầy tài năng” của nền âm nhạc Việt Nam.

Với những cống hiến trọn đời cho nền âm nhạc dân tộc, năm 1993, Văn Cao đựợc Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc Lập hạng Nhất. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, đợt I cho các ca khúc: “Tiến quân ca” (1944), “Chiến sĩ Việt Nam” (1945), “Làng tôi” (1947), “Sông Lô” (1947), “Tiến về Hà Nội” (1948), “Ca ngợi Hồ Chủ tịch” (1950). Thông tin tư liệu-TTXVN

@ Nhạc sĩ Văn Cao: “Trương Chi là tôi đấy” ________________________________

ÁNH TUYẾT

hTôi đặt vé máy bay nhưng không thể đi được, vì nhân viên hàng không nhất định không cho tôi lên máy bay trong tình trạng sức khỏe không tốt mà lại mang bầu hơn bảy tháng. Chẳng thể tiễn đưa ông, tôi ray rứt khôn nguôi. Cách đó vài hôm thôi, Michel – ông xã của tôi, vừa đi Pháp về. Anh nói: “Anh để dành một chai rượu rất ngon, chúng ta sẽ đi Hà Nội thăm nhạc sĩ Văn Cao để cảm ơn ông và âm nhạc của ông đã có những bài hát hay đúng với giọng hát của em, và để anh được ngồi uống rượu chúc sức khỏe người viết Quốc ca duy nhất còn sống trên thế giới!”. Vậy là đã không còn kịp nữa. Ông đã mãi mãi rời xa thế giới này. Nỗi lòng chàng Trương Tôi nhớ hoài hình ảnh ông trên căn gác 108 Yết Kiêu, Hà Nội. Ông luôn ngồi tréo chân tĩnh lặng như một bức chân dung bên phím dương cầm, râu tóc dài bạc phơ với dáng hình nhỏ bé, lưng khòm. Đôi lúc ông lại chậm rãi đến bên cửa sổ nhìn ngắm khan dòng người đang chuyển động bên dưới và chỉ thi thoảng linh hoạt một chút khi trao đổi cùng vợ. Một sáng trời thu se lạnh. Trong căn gác nhà ông, hai chiếc ghế nhỏ đối diện giữa một chiếc bàn “tửu trà” nhỏ, một ấm trà nhỏ, một chén trà cũng nhỏ, nhưng trên bàn thì không có “tửu” vì chai rượu nhỏ luôn thường trực trong ngực áo vest ông mặc hằng ngày… Hai bác cháu cứ ngồi im lặng gần ba giờ sau những thắc mắc tìm hiểu của tôi về sự ra đời của bài hát Trương Chi… Ông cứ im lặng, ánh mắt vương qua khung cửa sổ, thi thoảng lại lôi trong ngực áo ra chai rượu nhỏ nhấp vài hớp. Tôi cũng im lặng chờ đợi, cứ hết nhìn phím dương cầm rồi lén nhìn ông để tìm câu trả lời trong ánh mắt vọng xa ấy. Càng nhìn ông tôi càng thắc mắc, làm sao trên đôi vai gầy guộc nhỏ bé ấy lại chở đến cho đời nhiều mùa xuân đầy ý nghĩa và đẹp đến thế. Mùa xuân cổ tích của Thiên thai, lãng mạn trong Bến xuân, hào hùng trong Tiến về Hà Nội, trong Sông Lô, và đoàn viên trong Mùa xuân đầu tiên… Cùng những mùa thu man mác đẹp lung linh của Thu trung du, Suối mơ, buồn thấm thía trong Buồn tàn thu, Thu cô liêu, Trương Chi… Âm nhạc của ông thật trong lành như chính con người ông vậy. Rồi tôi khẽ rung lên câu hát: “Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang… Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng… Anh Trương Chi… tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung. Oán trách cuộc từ ly não nùng… Ngồi đây ta gõ ván thuyền, ta ca trái đất còn riêng ta. Đàn đêm thâu, trách ai khinh nghèo quên nhau…”. Văn Cao vẫn lặng im. Bất chợt ông nói gọn mấy từ như nói với chính mình mà cũng vừa đủ cho tôi nghe: “Trương Chi là tôi đấy”. Rồi ông bật một tiếng cười khan mà tôi nghe thấu lòng cái nỗi cô đơn cùng tận giăng phủ niềm đau ẩn chứa trong sự im lặng, đã gói gọn số phận đời ông qua hình dáng chàng Trương Chi. Cái cách cười chỉ để khẽ giấu nỗi đau sau ánh mắt xa xăm ấy khiến tôi thật khó quên. Tôi lại nhấp trà, nhấp trà mà cũng thấy say say… Cái đẹp của tâm hồn và cốt cách trong ông đã khiến tôi say và thăng hoa trong từng câu hát. Nhưng ông kiệm lời, kiệm cả nụ cười và những cử chỉ biểu lộ thái quá cảm xúc. Gương mặt và phong cách của ông lúc nào cũng ẩn chứa sự tĩnh lặng. Phải chăng ông biết rõ lắm cái cuộc sống đang chuyển động và lựa chọn cho bản thân một sự giao cảm riêng biệt với cuộc đời. Ông viết nhạc bằng sự thanh thoát của tâm hồn, bằng tình yêu vẹn toàn không toan tính và bằng cách sống giản dị. Vậy mà người nhạc sĩ tài danh đó tự nhận mình là Trương Chi như một sự run rủi của số phận? Mãi những năm sau này khi ông đã lìa xa trần thế, tôi mới chợt hiểu điều ông muốn nói, để nhận ra cái còn lại bên đời là những vẻ đẹp, những giá trị cốt lõi ẩn sâu bên trong tâm hồn. Một định mệnh của tôi Cái thời khắc cuối tháng 7-1993 với tôi đã như một định mệnh được sắp đặt. Chỉ mấy ngày trước đó thôi, tôi quá mệt mỏi, quá chán ngán với những viễn cảnh, với cái cách người ta làm nghệ thuật với nhau theo kiểu hậu trường… Tôi nản lòng và bế tắc dù từng gặt hái không ít những thành công. Một chặng đường đã khá dài, hơn 20 năm đầy đam mê, cứ loay hoay hoài trong nỗi thiếu thốn chật vật chẳng đủ nuôi sống bản thân mà con đường nghệ thuật thì chẳng tới đâu. Tôi quyết định bỏ nghiệp ca hát dù đã luôn cố gắng đánh đu với nghiệp dĩ. Khi mà số phận cuộc đời phía trước thật hoang mang, chưa biết sẽ làm gì… đi đâu… hay về đâu… thì đêm tháng 7 định mệnh ấy tại quán Nhạc Sĩ, tôi gặp được ông. Tôi hát như say lời ca: “Ai lướt đi ngoài sương gió. Không dừng chân đến em bẽ bàng…” (Buồn tàn thu) và “Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng. Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên…” (Thiên thai) đã mang đến cho tôi những cảm xúc vỡ òa và những tràng pháo tay không ngớt. Và chính cái đêm ấy, âm nhạc của Văn Cao cùng khán giả và giới truyền thông đã níu giữ tiếng hát tôi cho đến bây giờ. Vậy mà cũng sắp tròn 20 năm nữa được ca hát. Đêm ấy tôi đợi cho đến hết đêm diễn để được trò chuyện và mong sẽ có những lời nhận xét bổ ích hay được nghe lời khen của ông… Nhưng ông không hề nói gì và cũng chẳng trò chuyện với ai. Cứ thế, ông lặng lẽ lững thững rời quán Nhạc Sĩ. Tôi luýnh quýnh chạy theo, rón rén cầm cánh tay ông dìu ông từng bước xuống bậc tam cấp mà lòng cảm nhận có điều gì khác lạ… Một sợi dây vô hình nào đó đã cột tiếng hát tôi vào với âm nhạc Văn Cao. Người phụ nữ đứng sau… Bà là Nghiêm Thúy Băng – cô tiểu thư xinh đẹp của Hà thành một thuở. Nhưng thuở ấy xa rồi. Sau này cái tính cách quá thẳng thừng, phản ứng nhiều khi quyết liệt của bà đã làm bà phải gánh chịu không ít những lời thương tổn. Nhưng tôi hiểu vì sao bà từ một cô tiểu thư con nhà giàu mà phải ra như thế… Chính vòng xoay của cuộc đời đã khiến bà thành một con người phải đáo để. Nếu bà không như thế thì làm sao gia đình nhạc sĩ Văn Cao của chúng ta có thể sống mà vượt qua những thời đoạn tưởng chừng không thể đứng dậy nổi. Bà hẳn là một phụ nữ can trường. Bà cứ mặc ai nói gì… Bà chỉ biết một mực thương yêu chồng con, một mực lo cho chồng và bằng mọi cách bảo vệ chồng mà thôi! Điều làm tôi kính trọng bà là chính bởi một cuộc song hành suốt đời bên người nhạc sĩ tài hoa mà cuộc đời lại trải qua không biết bao nhiêu khổ ải gian truân. Bà vẫn một mực son sắt thủy chung, sẵn sàng đương đầu làm lá chắn chở che, giành giật từng mảnh nhỏ tinh thần, từng chút nhỏ vật chất những khi chồng gặp nguy nan. Bà cho tôi thấu hiểu ý nghĩa của hai chữ “bạn đời”. Cùng là phụ nữ, tôi hiểu được sự nhẫn nại, đức hi sinh bà dành cho ông, không chút băn khoăn như lẽ đời phải thế. Sự có mặt của bà trên căn gác nhỏ phố Yết Kiêu khiến nhạc sĩ Văn Cao chợt trở nên linh hoạt hơn, thì sự hiện diện của bà dưới hàng ghế khán giả đã như một điểm tựa đặc biệt cho tôi “cháy hết mình” trong âm nhạc của ông những đêm hát cùng Hà Nội. Cái bữa đọc tin trên báo thấy có ý kiến muốn sửa lời Quốc ca cho phù hợp với thời bình, tôi gọi điện ngay cho bà Nghiêm Thúy Băng. Bà chỉ nói: “Tác giả đã mất rồi, bài hát ấy bây giờ là của nhân dân. Ai muốn làm gì thì làm, gia đình chúng tôi không có ý kiến gì cả”. Nhưng qua giọng nói tôi chợt hiểu đã có một sự tổn thương lớn xảy ra trong trái tim người quả phụ đã 84 tuổi ấy. Cho đến hôm nay, khi tôi đang ngồi viết những dòng này, trong cuộc sống vẫn còn hiện diện nhiều “người một thủa”. Họ có thể là những nhạc sĩ tài hoa ghi lại một phần lịch sử trong tác phẩm âm nhạc của mình. Họ có thể chỉ là những người bình dị, đi qua một thời đoạn lịch sử của đất nước. Họ, tựu trung lại, là những chứng nhân lịch sử, và vì thế họ khả kính. Trân trọng quá khứ là một thái độ văn minh đối với hiện tại, tôi nghĩ vậy khi nhớ về họ và nhớ về ông – nhạc sĩ Văn Cao.

Ánh Tuyết

@ TIỂU SỬ [Wikipedia]

Thiếu thời Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao,

* sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray (nay là phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền), thành phố Hải Phòng, nhưng quê gốc ở thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

* Xuất thân trong một gia đình viên chức, cha của Văn Cao vốn là giám đốc nhà máy nước Hải Phòng[3].

* Thuở nhỏ, Văn Cao hoc ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc.

* Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành trung. Ông làm điện thoại viên ở sở Bưu điện tại Hải Phòng, nhưng được một tháng thì bỏ việc[4]. * Cuối những năm 1930, tân nhạc Việt Nam ra đời. Ở Hải Phòng khi đó tập trung nhiều nhạc sĩ tiên phong như Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý… Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận… và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay là “Buồn tàn thu” vào năm 16 tuổi[3]. Cùng nhóm Đồng Vọng, Văn Cao còn sáng tác một số ca khúc hướng đạo vui tươi khác như “Gió núi”, “Gò Đống Đa”, “Anh em khá cầm tay”. Cũng trong thời gian ở Hải Phòng, Văn Cao làm quen với Phạm Duy, khi đó là ca sĩ trong gánh hát Đức Huy. Phạm Duy chính là người đã hát “Buồn tàn thu”, giúp ca khúc trở nên phổ biến.

* Năm 1940, Văn Cao có một chuyến đi vào miền Nam. Ở Huế, Văn Cao đã viết “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế”, được coi là bài thơ đầu tay[4]. Văn Cao còn làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy * Năm 1942, nghe theo lời khuyên của Phạm Duy, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant – nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền – và theo học dự thính tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

* Năm 1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: “Cô gái dậy thì”, “Sám hối”, “Nửa đêm”. Đặc biệt tác phẩm “Cuộc khiêu vũ những người tự tử” (“Le Bal aux suicidés”) được đánh giá cao và gây chấn động dư luận[4]. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của Văn Cao không bán được. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn. Cùng bạn bè, Văn Cao thường phải đứng bán các tác phẩm của mình trên các đường phố Hà Nội, Hải Phòng.

Chủ đề