Chuyển hóa trong phép biện chứng duy vật là gì năm 2024

Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

Xem lời giải

Phép biện chứng duy vật là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin; là "khoa học về mối liên hệ phổ biến" và cũng là "khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy".

Phép biện chứng duy vật là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin; là "khoa học về mối liên hệ phổ biến" và cũng là "khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy". "Theo quan niệm của Mác, cũng như của Hêghen thì phép biện chứng bao gồm cái mà ngày nay người ta gọi là lý luận nhận thức hay nhận thức luận":.

Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin là các quy luật cơ bản trong phương pháp luận của triết học Mác - Lênin và được áp dụng để giải thích về sự phát triển của sư vật, hiện tượng, ba quy luật này hợp thành nguyên lý về sự phát triển. Ba quy luật cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin, nó là một trong những nền tảng, cơ bản cấu thành phép biện chứng duy vật cũng như một trong những nội dung quan trọng của toàn bộ triết học Mác-Lenin.

Nội dung[sửa | sửa mã nguồn]

Chủ nghĩa duy vật biện chứng bao gồm hai nguyên lý cơ bản là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thể hiện qua sáu cặp phạm trù được sử dụng là Cái chung và cái riêng, Bản chất và hiện tượng, Nội dung và hình thức, Tất nhiên và ngẫu nhiên, Nguyên nhân và kết quả, Khả năng và hiện thực.

Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất và quy luật phủ định. Trong đó:

  • Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
  • Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
  • Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.

Ba quy luật cơ bản này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động. Những kết luận về mặt phương pháp luận của nó luôn được coi là "kim chỉ nam" cho hoạt động cách mạng của những người Cộng sản.

Theo Các Mác: Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giao điếu của chúng mà thôi, vì trong quan niệm tích cực về cái đang tồn tại, phép biện chứng cũng bao hàm cả quan niệm, sự phủ định cái đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đều được phép biện chứng xét trong sự vận động, tức xét cả mặt nhất thời của hình thái đó;… vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng.

Ý nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]

Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật chỉ ra hình thức chung nhất của sự vận động, phát triển của thế giới vật chất và nhận thức của con người về thế giới đó, đồng thời các quy luật này cũng tạo cơ sở cho phương pháp chung nhất của tư duy biện chứng. Vì vậy đây là nền tảng cho sự phát triển của sự vật hiện tượng sau này.

Trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ ra nguyên nhân và động lực bên trong của sự vận động, quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức và tính chất của sự phát triển thì quy luật phủ định của phủ định chỉ ra.

Các quy luật này định hướng cho việc nghiên cứu của những quy luật đặc thù và đến lượt mình, những quy luật cơ bản về sự phát triển của thế giới, của nhận thức và những hình thức cụ thể của chúng chỉ có tác dụng trên cơ sở và trong sự gắn bó với những quy luật đặc thù.

Theo triết học Mác-Lênin thì mối quan hệ qua lại giữa các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật với các quy luật đặc thù của các khoa học chuyên ngành tạo nên cơ sở khách quan của mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với các khoa học chuyên ngành.

Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã trải qua hơn ba mươi năm, đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, đã, đang và sẽ đem lại những thay đổi lớn lao cho đất nước và dân tộc. Kết quả quan trọng đó có phần quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của triết học mác xít, trong đó có phép biện chứng duy vật vào xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới.

Chuyển hóa trong phép biện chứng duy vật là gì năm 2024
Ảnh minh họa: internet

Phép biện chứng duy vật là một học thuyết khoa học, là linh hồn của chủ nghĩa Mác, là đỉnh cao của tư duy khoa học mà nhân loại đã đạt được thông qua bộ óc thiên tài của C.Mác vào giữa thế kỷ XIX. Sau đó đã được Ph.Ăngghen bổ sung và hoàn thiện vào cuối thế kỷ XIX và V.I.Lênin phát triển trong điều kiện cách mạng mới vào đầu thế kỷ XX. Sau khi tiếp thu, nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy được hạt nhân của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là Phép biện chứng duy vật với nhận xét rất cô đọng: “chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”(1). Trên cơ sở nắm chắc nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật và nhận thức rõ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng một cách sáng tạo để giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam; đồng thời, Người đặt ra yêu cầu đối với những người cộng sản là phải hiểu biết chắc chắn về phép biện chứng duy vật để vận dụng vào việc phân tích và giải quyết các vấn đề của thực tiễn cách mạng. Có thể nói, với tài năng thiên bẩm của mình, trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sẵn yếu tố duy vật biện chứng nên khi đến với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thì tự nhiên tư duy đó đã thấm nhuần phép biện chứng duy vật một cách khoa học, như Người đã khái quát trong tác phẩm Thường thức chính trị (1950): “Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành”. Người đã sử dụng vũ khí sắc bén đó để giải quyết mọi vấn đề khó khăn, phức tạp trên con đường lãnh đạo cách mạng Việt Nam để giành lấy độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội theo con đường mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra.

Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, thế giới vật chất tồn tại khách quan, các sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động và biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau, cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Do các sự vật và hiện tượng trong thế giới luôn có sự vận động, biến đổi thường xuyên, nên tư duy con người cũng phải luôn luôn đổi mới để theo kịp sự vận động, biến đổi đó, như Ph.Ăngghen đã viết trong tác phẩm Chống Đuy rinh: “Phép biện chứng… là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”, “là chìa khóa để giúp con người nhận thức và chinh phục thế giới”. Cho nên khi xây dựng đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định trước hết đổi mới tư duy cho cán bộ, đảng viên về cả phương pháp tư duy; nhận thức lý luận; cơ chế, chính sách. Phép biện chứng duy vật chính là công cụ hữu hiệu giúp Đảng ta giải quyết thấu đáo ba vấn đề lớn liên quan đến đường lối đổi mới từ năm 1986 đến nay.

1. Cơ sở để Đảng ta đề ra đường lối đổi mới

1.1 Kinh nghiệm tiến hành đổi mới của Đảng Cộng sản Liên Xô

Tính chất chủ quan, nóng vội, vi phạm các quy luật khách quan trong quá trình lãnh đạo đất nước (nhất là trên lĩnh vực kinh tế) là đặc điểm nổi bật trong quá trình đổi mới của Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1921, sau 4 năm thực hiện chính sách “Cộng sản thời chiến” để huy động sức người, sức của phục vụ cho chiến tranh, V.I.Lênin đã nhận ra những thiếu sót, khuyết điểm của Đảng Cộng sản Liên Xô là tư tưởng tả khuynh, nóng vội khi cho rằng có thể tiến ngay lên chủ nghĩa cộng sản nên ông đã kịp thời đưa ra chính sách kinh tế mới (NEP). Chính sách NEP của Đảng Cộng sản Liên Xô thể hiện rõ quan điểm duy vật biện chứng trong giải quyết những mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là, phải vận dụng đúng quy luật khách quan giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, phải đổi mới phương thức quản lý kinh tế, cơ cấu lại các thành phần và loại hình kinh tế trong các ngành nghề để phát triển sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phát triển kinh tế - xã hội… Sau 3 năm thực hiện NEP đã giúp cho nền kinh tế Liên Xô phục hồi nhanh chóng và tạo đà phát triển mạnh mẽ.

Tuy nhiên, sau khi V.I.Lênin qua đời (năm 1924) những người lãnh đạo trong Đảng Cộng sản Liên Xô đã thay thế chính sách NEP bằng chủ trương xóa bỏ chế độ tư hữu, đẩy mạnh phong trào tập thể hóa nông nghiệp và thực hiện quốc hữu hóa toàn bộ các ngành công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải…; tiến hành quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xóa bỏ kinh tế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp một cách bình quân… và họ coi đó là một sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện của nước Nga Xô viết. Có thể thấy, cơ chế quản lý tập trung cao độ khi đó cũng đã phát huy được sức mạnh của nhân dân bằng mệnh lệnh để phát triển kinh tế và tăng cường tiềm lực quân sự, quốc phòng để Hồng quân Liên Xô đánh bại quân đội phát xít giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, làm cho uy tín của phe xã hội chủ nghĩa lên cao kéo dài đến tận những năm 80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, điều đó cũng khiến các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô chủ quan, ngộ nhận rằng chủ nghĩa xã hội đã hoàn toàn thắng lợi và đưa ra lý luận về chủ nghĩa xã hội phát triển, đồng thời tuyên bố có thể đi lên chủ nghĩa cộng sản ở thời điểm đó. Cùng thời điểm này, các nước tư bản chủ nghĩa đã biết tự điều chỉnh để thích nghi, tận dụng triệt để những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, đưa nền kinh tế của họ vượt xa các nước xã hội chủ nghĩa.

Thực tế đó đã tác động mạnh mẽ đến đời sống của nhân dân Liên Xô, làm nảy sinh tư tưởng cải cách, đổi mới trong một số nhà lãnh đạo cấp tiến bấy giờ và khi M.X.Gorbachov lên làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô đã chính thức đề ra công cuộc “cải tổ”. Nhưng thay vì thực hiện việc cải cách theo tinh thần của NEP do V.I.Lênin đề ra trước kia, Đảng Cộng sản Liên Xô lại bị những người lãnh đạo theo chủ nghĩa cơ hội, lợi dụng để “cải tổ” theo hướng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, thực hiện mở rộng dân chủ theo kiểu đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập của phương Tây… làm cho trào lưu dân chủ vô chính phủ phát triển tràn lan, vô nguyên tắc dẫn đến xã hội rối ren, nảy sinh nhiều phe phái tranh giành quyền lực và lợi ích. Thêm vào đó, họ bị các thế lực thù địch, phản động mua chuộc, lợi dụng, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” hòng làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội, phục hồi con đường tư bản chủ nghĩa.

Kết cục của sự nghiệp “cải tổ” là, năm 1991 chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bị tan rã. Đây là thất bại to lớn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng cũng để lại bài học, kinh nghiệm sâu sắc cho những người cộng sản chân chính trong bảo vệ và kiên trì cuộc đấu tranh cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn trung thành và nắm vững quan điểm duy vật biện chứng trong quá trình thực hiện đổi mới. Cần khẳng định rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải là thất bại, sai lầm của của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng. Nhiều học giả ở các nước tư bản chủ nghĩa còn khẳng định rằng, điều đó là minh chứng cho thấy chủ nghĩa Mác - Lênin là đúng đắn, chỉ có những người cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã không hiểu đúng, không vận dụng đúng trong quá trình lãnh đạo cách mạng.

1.2 Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Nhờ nắm vững phép biện chứng duy vật mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn để lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á (năm 1945); sau đó qua 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lập lại hòa bình ở miền Bắc, Đảng ta đã tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (năm 1954), đồng thời lãnh đạo đấu tranh chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Trải qua 30 năm kiên trì kháng chiến, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thống nhất đất nước, Đảng ta chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (năm 1975). Trước ảnh hưởng của hệ thống xã hội chủ nghĩa và uy tín của Liên Xô lúc bấy giờ, chúng ta đã rập khuôn theo mô hình Xô viết vào Việt Nam một cách máy móc, thiếu sự sáng tạo nên mặc dù cố gắng vận dụng phép biện chứng duy vật vào thực tiễn cách mạng. Đảng ta đã nhận thức được đặc điểm to lớn của Việt Nam là xuất phát điểm quá thấp, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, lại bị ảnh hưởng nặng nề từ chiến tranh… nhưng trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta đã nôn nóng, đốt cháy giai đoạn như: đẩy quan hệ sản xuất lên trước một bước, đẩy nhanh việc cải tạo giai cấp tư sản, đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp, đưa hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao một cách ồ ạt…; quản lý kinh tế bằng phương pháp tập trung, quan liêu, kế hoạch hóa, xóa bỏ thị trường, phân phối bao cấp một cách tràn lan; bộ máy nhà nước quan liêu, xa rời quần chúng… đã đưa đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, lạm phát kéo dài, sản xuất đình trệ, đất nước bị bao vây, cấm vận về kinh tế, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa bị suy giảm nghiêm trọng. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cấp bách là phải tiến hành cải cách, đổi mới trong quản lý kinh tế - xã hội.

Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra chủ trương “đổi mới” một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”(2).

Dưới góc độ duy vật biện chứng có thể nhận thấy đổi mới là một tất yếu lịch sử trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là một chiến lược cách mạng, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa nước ta đi vào đúng quỹ đạo, theo đúng quy luật khách quan của lịch sử.

2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới

Về lý luận: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (năm 1991) đã khẳng định rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”. Bởi vì, chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng; chỉ ra quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người tất yếu sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vạch ra đường lối đúng đắn cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới đứng lên làm cách mạng để giải phóng cho mình và cho cả nhân loại thoát khỏi áp bức bóc lột. Chủ nghĩa xã hội là lý tưởng cao đẹp mà loài người mơ ước còn chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận soi đường, hướng dẫn cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động tìm thấy con đường cách mạng, biến ước mơ đó trở thành hiện thực.

Về thực tiễn: sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trên thực tế chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực dẫn tới hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới bị tan rã chỉ là nhất thời, vì xu thế tất yếu của lịch sử nhân loại vẫn đang hướng tới một xã hội văn minh, tiến bộ hơn mà ở đó con người được giải phóng một cách triệt để, tự do phát triển một cách toàn diện. Do đó, không thể đồng nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu; hay đồng nhất sự tan rã của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu với sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Ngày nay chủ nghĩa tư bản vẫn đang trong quá trình tự điều chỉnh để thích nghi và phát triển trong điều kiện mới với những đặc điểm nổi bật như: toàn cầu hóa, kinh tế tri thức, tiến bộ vượt bậc của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư… Song những đặc điểm đó ngày càng khoét sâu mâu thuẫn nội tại cơ bản của chủ nghĩa tư bản mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra, đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân của quan hệ sản xuất. Những giải pháp mà chủ nghĩa tư bản đang sử dụng để duy trì sự tồn tại dần vượt khỏi giới hạn thích nghi của nó. Chính những phương tiện mà chủ nghĩa tư bản tạo ra để duy trì sự tồn tại của mình lại là “cỗ xe không phanh” đang trên đà lao dốc đưa chủ nghĩa tư bản đến chỗ tự phủ định chính mình - Đó chính là biện chứng khách quan của lịch sử. Hay hiểu theo quan điểm biện chứng duy vật thì chủ nghĩa tư bản hiện đại đang “thai nghén” chủ nghĩa xã hội với những tiền đề vật chất và những yếu tố thuận lợi cho chủ nghĩa xã hội nảy sinh và phát triển ngay trong lòng nó. Điều này rất đúng với các nước tư bản phát triển cao. Nhưng các nước này không thể tự phát chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội được mà phải thông qua cuộc cách mạng xã hội của quần chúng nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh đạo thì mới có thể lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản.

Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn diễn ra gay gắt. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc và các nước thuộc địa trước đây đã chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển và giữa các nước đế quốc, các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn vẫn đang diễn ra gay gắt vì mục tiêu lợi nhuận. Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động ở trong từng quốc gia và trên phạm vi quốc tế đang ngày càng được mở rộng, thành cuộc đấu tranh rộng rãi của các tầng lớp nhân dân chống lại giai cấp tư sản vì chủ nghĩa tư bản hiện đại có hiệu suất bóc lột giá trị thặng dư rất cao, với sự hỗ trợ đắc lực của khoa học công nghệ thì máy móc tự động hóa đang dần thay thế lao động chân tay làm cho nhân công ngày càng dư thừa, thất nghiệp… làm cho xã hội ngày càng có sự phân cực rõ rệt, khoảng cách giàu - nghèo ngày càng tăng. Tất cả những đặc điểm mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại không hề làm mất đi bản chất bóc lột, bất công. Vì vậy, Đảng ta đã nhận định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”(3) và “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(4).

3. Giải quyết những mối quan hệ biện chứng trong công cuộc đổi mới

Tổng kết 30 năm qua đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết 8 mối quan hệ lớn, đó là: quan hệ đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Điều đó cho thấy, trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã “bước đầu xác định được mối quan hệ hữu cơ, mối liên hệ nội tại giữa tám mối quan hệ lớn, đáp ứng yêu cầu của phát triển đất nước với sự chi phối và thúc đẩy lẫn nhau giữa các quan hệ. Trong từng mối quan hệ đều có hai mặt thống nhất và mâu thuẫn. Các mối quan hệ không chỉ tác động, chi phối lẫn nhau theo tương tác nhân - quả, mà còn thâm nhập, giao thoa, quy định lẫn nhau. Điều quan trọng trong nhận thức các mối quan hệ là ở chỗ, tất cả các quan hệ đều thống nhất ở mục tiêu phát triển, đều tất yếu thông qua đổi mới, đều phục vụ cho lợi ích cao nhất: phát triển đất nước, vì lợi ích của nhân dân và của dân tộc”(5).

Từ nhận thức về 8 mối quan hệ lớn và mối liên hệ hữu cơ giữa chúng, Đảng ta xác định rõ mục tiêu của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay là: “Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”(6). Điều đó giúp cho chúng ta thấy rõ: “Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân”(7). Thực tiễn của hơn 30 năm đổi mới cho thấy, việc vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề mâu thuẫn nội tại nảy sinh trong quá trình đổi mới là hoàn toàn phù hợp. Trên quan điểm duy vật biện chứng để tổng kết, đánh giá Đảng ta đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm quan trọng làm tiền đề, từ đó xác định phương hướng cho chặng đường tiếp theo của sự nghiệp đổi mới, đó là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương, chính sách xử lý hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta”(8).

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng đặt ra vừa là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật. Để triển khai một cách hiệu quả, đòi hỏi các thế hệ cách mạng hiện nay phải nắm được bản chất của phép biện chứng duy vật, không ngừng học tập và rèn luyện mới có thể vận dụng một cách đúng đắn phương pháp biện chứng duy vật vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra mà không rơi vào ngụy biện, chiết trung… để thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội./.