Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Với tinh thần độc lập, tự chủ mở mặt trận ngoại giao tại Paris, Trung ương Đảng ta đã có những tính toán chiến lược khi thực hiện sách lược “vừa đánh vừa đàm” theo đường lối, nghệ thuật quân sự Việt Nam. Cả hai đoàn đàm phán hai miền Nam - Bắc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đấu tranh hỗ trợ chiến trường, nhất là vào thời điểm quân ta gặp những khó khăn sau sự kiện Tết Mậu Thân-1968, lan tỏa tính chính nghĩa của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trên trường quốc tế.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

“Việt Nam hóa chiến tranh” và chính sách “ngoại giao nước lớn” của Hoa Kỳ

Ngày 18-4-1969, trong một cuộc họp báo, Tổng thống Nixon nói rằng ông cảm thấy triển vọng hòa bình ở Việt Nam đã “cải thiện đáng kể” từ khi ông nhậm chức. Ông viện dẫn sự bình ổn chính trị lớn hơn của ngụy quyền Sài Gòn và sự cải thiện lực lượng vũ trang của Nam Việt Nam làm bằng chứng.

Tuy nhiên, ngày 8-6-1969, Tổng thống Nixon công bố chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”, chủ trương tìm một con đường khác chứ không phải thông qua đàm phán để rút được quân Mỹ ra khỏi chiến tranh mà vẫn giữ được ngụy quyền, ngụy quân Sài Gòn. Nixon coi đó như là một trong những cách thức để chuyển giao chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Chương trình này được thực hiện qua ba giai đoạn: Giai đoạn 1, từng bước chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho quân đội Sài Gòn, rút dần quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Giai đoạn 2, chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên không, trang bị cho quân đội Sài Gòn đủ sức đương đầu với lực lượng Quân Giải phóng, giữ vững được Nam Việt Nam và Đông Dương trong quỹ đạo của Mỹ. Giai đoạn 3, hoàn tất những mục tiêu của “Việt Nam hóa chiến tranh”, Quân Giải phóng sẽ suy yếu và chiến tranh sẽ kết thúc. Hai miền Việt Nam sẽ trở thành hai quốc gia riêng biệt.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Toàn cảnh Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam

Thực hiện chiến lược đó, Mỹ triển khai một kế hoạch toàn diện về quân sự, chính trị, kinh tế, trong đó quan trọng nhất là chuyển giao vũ khí hiện đại cho ngụy quân Sài Gòn, củng cố ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu, ngăn chặn mọi âm mưu đảo chính. Trên chiến trường, Mỹ tiến hành bình định quyết liệt, đồng thời mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào ngăn chặn tiếp tế của miền Bắc vào miền Nam, cô lập lực lượng cách mạng miền Nam từ bên ngoài. Về ngoại giao, chính quyền Nixon xây dựng một chiến lược toàn cầu mới trong khuôn khổ “Học thuyết Nixon”, tìm cách lợi dụng mâu thuẫn Xô - Trung trong quan hệ với Việt Nam, tìm kiếm một giải pháp thương lượng theo điều kiện có lợi cho Mỹ. Có thể nói, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đã thật sự đẩy cuộc đàm phán trong Hội nghị Paris vào chỗ bế tắc. Những năm 1969 - 1972 là những năm giằng co quyết liệt giữa ta và địch trên chiến trường cũng như tại bàn đàm phán Paris.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Bộ trưởng Xuân Thủy cùng cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ rời cuộc gặp riêng tại địa điểm của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở 11 phố Darthe.

Thực hiện chính sách “ngoại giao nước lớn”, Richard Nixon tìm cách thỏa hiệp với Liên Xô, Trung Quốc hòng cô lập cách mạng Việt Nam, gây sức ép trên bàn đàm phán buộc Việt Nam phải ký kết hiệp định chấm dứt chiến tranh theo hướng có lợi cho Mỹ.

Sau khi khai thông quan hệ với Trung Quốc bằng Tuyên bố Thượng Hải ngày 28-2-1972, đặt vấn đề Việt Nam và Đông Dương lên trên cả vấn đề Đài Loan, Nixon tỏ ra rất hài lòng và đặt mục tiêu: “Nhìn về phía Moskva để nghiền nát Việt Nam”.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Ảnh trái: Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ tại buổi họp báo quốc tế

Ảnh phải: Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ với nụ cười chiến thắng tại Hội nghị Paris

Ngày 1-5-1972, Richard Nixon triệu tập Henry A. Kissinger đến văn phòng làm việc của ông ta để bàn bạc về thủ đoạn đối phó cho lần đàm phán sắp tới. Dù chịu những thất bại to lớn trên cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam (đặc biệt là nhận được tin báo cáo việc đối phương đã kiểm soát tỉnh Quảng Trị và đang chuẩn bị tiến công vào Thừa Thiên Huế), nhưng Richard Nixon vẫn tin rằng có thể “trao đổi, thỏa hiệp” với Liên Xô để ép Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhượng bộ. Từ đó, Richard Nixon chỉ thị cho Henry A. Kissinger: “Dù cho bất kỳ việc gì xảy ra, thì trong các cuộc đàm phán vẫn không được thay đổi gì cả. Tôi không muốn ông nhượng bộ người Bắc Việt Nam chút nào. Do những tin tức như thế này, họ sẽ bốc lên như diều. Ông sẽ phải kéo họ xuống đất bằng cách ứng xử của mình. Không đa cảm, không nhã nhặn, không lịch sự. Vậy chúng ta sẽ cho các ông bạn Xô viết của chúng ta biết rằng tôi đã sẵn sàng bỏ rơi Hội nghị thượng đỉnh, nếu như đó chính là cái giá họ muốn bắt ta phải trả. Trong bất kỳ trường hợp nào, tôi cũng sẽ không đến Hội nghị thượng đỉnh nếu như chúng ta vẫn còn gặp những khó khăn ở Việt Nam”.

Trong Hồi ký, Nixon viết: “Tôi không thể dự Hội nghị cấp cao và chạm cốc với Brezhnev khi xe tăng Xô viết chạy ầm ầm qua Huế hay Quảng Trị, Hội nghị cấp cao chẳng đáng một chinh, không cần mua bằng thất bại ở Việt Nam”.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Đồng chí Nguyễn Duy Trinh - Bộ trưởng Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp định Paris, 27-1-1973 (Ảnh tư liệu. Bảo tàng Lịch sử quốc gia)

Trong cuộc gặp ngày 2-5-1972 tại Paris, Henry A. Kissinger đề cập đến việc Mỹ đã trao đổi thảo luận với Liên Xô về những giải pháp nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Cố vấn Đặc biệt Lê Đức Thọ tỏ ra kiên quyết, nói: “Từ trước tới nay chúng tôi đã nói nhiều lần rằng có vấn đề gì các ông nói chuyện trực tiếp với chúng tôi, và chúng tôi trực tiếp nói chuyện với các ông. Chúng tôi không qua một người thứ ba nào cả. Bây giờ có gì thì chúng tôi sẵn sàng thảo luận với các ông”. Mặt khác, ta kiên trì trao đổi, giải thích, thông tin về tiến trình đàm phán cho bạn bè quốc tế, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ của bạn, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực từ chính sách ngoại giao nước lớn của Mỹ.

Độc lập, tự chủ vững vàng thế đánh - đàm

Trước hết, phải nói rằng “vừa đánh vừa đàm” là sách lược không mới trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam. Phần lớn trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, Việt Nam phải đánh đuổi kẻ thù mạnh hơn mình nhiều lần, nên phải “vừa đánh vừa đàm”. Đánh để thể hiện thực lực và quyết tâm của mình. Đàm để dùng lý lẽ phân tích điều hơn lẽ thiệt để địch nghe ra mà rút quân, tránh cho cả hai bên thêm thương vong không đáng có và giữ thể diện cho địch.

Trong các cuộc kháng chiến, Việt Nam luôn coi trọng giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự cường, tự lực cánh sinh, khi phải trực tiếp đối mặt với kẻ thù ngoài tiền tuyến, cũng như khi đối diện với đối phương trên bàn đàm phán. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chúng ta chủ trương dựa vào sức mình là chính để “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh vấn đề tự lực, tực cường. Trong “Bài nói chuyện tại hội nghị chiến tranh du kích”, ngày 13-7-1952, Người nhấn mạnh: “Sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Duy Trinh (giữa) ký Hiệp định Paris, ngày 27-1-1973, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế ở thủ đô Paris (Pháp). Ảnh: TTXVN

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -1975), lường trước được hệ lụy từ cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, Việt Nam luôn tránh bị trở thành “đấu trường” giữa các nước lớn, càng không muốn để nước lớn định đoạt vận mệnh của dân tộc mình. Thậm chí, có một vài quốc gia muốn đưa quân vào giúp đỡ nhân dân Việt Nam, nhưng Đảng, Nhà nước ta chỉ đồng ý để họ làm nhiệm vụ như: Huấn luyện, sửa đường sá... vì chúng ta muốn tự lực cánh sinh, độc lập, tự chủ trong thực hiện đường lối kháng chiến của mình.

Vận dụng sách lược vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh có nghĩa là trong khi miền Nam vẫn tranh thủ đánh để giành thắng lợi quyết định thì giữa ta và địch có thể nói chuyện từ hình thức tiếp xúc đến hội đàm.

Trích: Nghị quyết Trung ương 13 ngày 27-1-1967 “Về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta”

Giai đoạn 1965 - 1966, đế quốc Mỹ vừa tăng cường leo thang chiến tranh xâm lược Việt Nam, vừa tung luận điệu “hòa bình giả hiệu”, yêu cầu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngồi vào đàm phán. Sách lược “đánh - đàm” của Đảng ta đề ra từ Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-1967) lúc đầu gặp những phản ứng trái chiều từ các nước anh em, bạn bè trên thế giới. Liên Xô và 14 nước thuộc “Phong trào không liên kết” kêu gọi ta ngồi nói chuyện với Mỹ để giải quyết chiến tranh. Tháng 3-1967, Liên Xô đề nghị Việt Nam không nên yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện, bởi: “Mỹ khó chấp nhận việc chấm dứt ném bom không điều kiện, nêu ra không có ích gì, cản trở thương lượng...”, gợi ý Việt Nam “có thể chấp nhận xuống thang về hình thức để đánh lừa Mỹ” (Hồ sơ quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước).

Ngược lại, có nước lại khuyên Việt Nam tiếp tục đấu tranh quân sự cho đến khi giành thắng lợi hoàn toàn. Thậm chí bạn còn cho rằng chúng ta đã “dễ nhân nhượng”, “vội vã” khi tuyên bố “cử đoàn tiếp xúc với đại diện Mỹ” sau sự kiện Tết Mậu Thân - 1968.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Sau sự kiện Tết Mậu Thân 1968, phong trào phản đối chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam dâng cao. Trong tấm hình tư liệu này, một cô gái Mỹ cắm hoa vào họng súng của lính cảnh vệ quốc gia như một biểu tượng mong muốn hòa bình ở Việt Nam.

Để có một hậu phương quốc tế thống nhất với Việt Nam trước khi bước vào thời kỳ “vừa đánh, vừa đàm”, cuối tháng 10-1966, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dẫn đầu Đoàn đại biểu đi Bắc Kinh và giữa tháng 12-1966, Ủy viên Bộ Chính trị Lê Đức Thọ, dẫn đầu Đoàn đại biểu đi Moscow. Hai đoàn đại biểu Việt Nam đã nói rõ quyết tâm chiến lược và sách lược của mình trong cuộc kháng chiến với các nhà lãnh đạo Liên Xô và Trung Quốc. Những ý kiến đóng góp của bạn bè trên thế giới đều được Chính phủ Việt Nam trân trọng, nghiên cứu; nhưng Trung ương Đảng ta cũng giải thích, trao đổi để bạn bè thế giới hiểu rõ đường lối đấu tranh độc lập, tự chủ của mình, kiên định đi đến bàn đàm phán với những mục tiêu, yêu cầu được cân nhắc, xác định.

“Miền Bắc cứ đàm, miền Nam cứ đánh”

Nói chuyện với Đoàn đại biểu Chính phủ ta chuẩn bị lên đường đàm phán với Mỹ tại Hội nghị Paris (tháng 5-1968), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Các chú đi Pháp, ở nhà người ta đánh cho các chú phát huy, nghĩa là phải biết tận dụng thắng lợi trên chiến trường để làm “vốn" đàm phán. Phải phối hợp quân sự với ngoại giao, vừa đánh, vừa đàm mới có hiệu quả cao nhất”.

Thế trận “vừa đánh, vừa đàm” của ta được triển khai hơn một năm, ngày 25-1-1969, các cuộc hội đàm bốn bên ở Paris vẫn chưa đi vào thực chất, trong khi quân ta gặp một số khó khăn trên chiến trường. Nhân cơ hội đó, Mỹ vớt vát đàm phán trên thế mạnh bằng cách đẩy mạnh chính sách “tiến công hòa bình” và nỗ lực tìm kiếm thắng lợi về mặt quân sự.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Thời khắc lịch sử: Ký kết Hiệp định Hòa bình ngày 27-1-1973.

Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 18 (tháng 1-1970) nhận định, chỉ khi Mỹ “vấp phải thất bại nghiêm trọng hơn, hết hy vọng vào âm mưu Việt Nam hóa chiến tranh thì chúng mới buộc phải đi vào con đường thương lượng nghiêm chỉnh để tìm một giải pháp chính trị”. Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm mở các hoạt động quân sự mạnh mẽ hơn nữa.

“Nắm lấy thời cơ, quật địch những đòn quyết liệt hơn nữa, làm cho ngụy quân, ngụy quyền suy sụp, bắt Mỹ phải chịu thua và rút hết quân về nước”.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 32, Nxb CTQG, trang 340.

Biến quyết tâm thành hành động, năm 1971, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phối hợp với quân đội cách mạng Lào và Campuchia đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn 719” tại khu vực Đường 9 - Nam Lào, cuộc hành quân “Toàn thắng 1-71” và cuộc hành quân “Quang Trung 4” của quân đội Sài Gòn ở Đông Bắc Campuchia và Tây Nguyên Việt Nam. Ngày 30-3-1972, quân và dân Việt Nam mở cuộc tiến công chiến lược, đánh địch trên mặt trận lớn từ Trị - Thiên, Khu V, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ đến Đồng bằng sông Cửu Long. Sau ba tháng tấn công, quân và dân Việt Nam giành thắng lợi lớn, tiêu diệt và làm tan rã hơn 11 vạn tên địch, trong đó diệt 2 sư đoàn, 11 trung đoàn bộ binh, 6 trung đoàn thiết giáp, đánh thiệt hại nặng 3 sư đoàn, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và một phần các tỉnh Kon Tum, Bình Định, Bình Long và Phước Long; mở ra nhiều vùng quan trọng ở Khu V, Đồng bằng sông Cửu Long, giải phóng gần 1 triệu dân.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Ông Xuân Thủy và bà Nguyễn Thị Bình tại Paris năm 1970.

Trước đòn tấn công mãnh liệt và bất ngờ của quân và dân miền Nam, quân Mỹ, ngụy lúng túng, vội vàng bỏ tuyến phòng ngự bên ngoài co về phòng thủ tuyến trong. Cuộc tiến công chiến lược của quân và dân miền Nam nổ ra ngày càng mạnh và đều khắp khiến Mỹ nhận thấy rằng quân đội Sài Gòn - xương sống của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” có nguy cơ đổ vỡ.

Trong khi đó, chính quyền Nixon bị dư luận lên án mạnh mẽ, phải tìm cách đối phó bằng việc chia rẽ Việt Nam với các nước đồng minh chiến lược. Trong cuốn Nền hòa bình mong manh-Washington, Hà Nội và tiến trình Hiệp định Paris, tác giả Pierre Asselin viết: Mỹ phá vỡ mối quan hệ giữa Hà Nội và hai cường quốc cộng sản; đồng thời lợi dụng sự chia rẽ giữa Moskva và Bắc Kinh để giúp ông ta (Nixon) chấm dứt cuộc chiến tranh ở Đông Dương thông qua thương lượng về một giải pháp tại Paris.

Ngày 21-3-1972, Nixon đơn phương “ngừng không thời hạn” đàm phán Paris, đổ lỗi cho Việt Nam gây bế tắc, không thương lượng nghiêm chỉnh, ngày 6-4-1972, ra lệnh ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam, và tháng 5-1972, ra lệnh thả bom mìn bao vây, phong tỏa các sông ngòi, hải cảng ở miền Bắc Việt Nam. Đến lúc này, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của chính quyền Nixon buộc phải thay đổi lớn, chuyển sang “tái Mỹ hóa” cuộc chiến tranh.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Thứ trưởng Nguyễn Cơ Thạch bắt tay Đại sứ William Sullivan (hai nhà ngoại giao chủ chốt chịu trách nhiệm về hoàn tất các văn bản Hiệp định và thủ tục ký kết Hiệp định Paris). Người thứ hai từ trái sang là ông Lê Đức Thọ.

Bộ Chính trị chỉ thị cho Đoàn đàm phán Việt Nam: “Thời gian không ủng hộ địch. Do đó, Mỹ muốn giải quyết mau để giảm bớt khó khăn của chúng nhưng ta không bị động theo chúng. Trái lại ta phải chủ động nắm vững thời cơ để thực hiện ý đồ chiến lược của ta.

Hai phái đoàn Việt Nam đã đẩy mạnh đấu tranh trên mọi phương diện liên quan đến cuộc chiến, nhưng tập trung vào hai vấn đề mấu chốt nhất là đòi rút hết quân viễn chinh Mỹ, quân các nước đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam và đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản, quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Chủ trương này được Chính phủ nhiều nước trên thế giới ủng hộ. Dư luận thế giới cho rằng phía Việt Nam đã tỏ rõ “thiện chí hòa bình”, kêu gọi Chính phủ Mỹ sớm chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tại Hội nghị Paris, ta thường xuyên tận dụng các diễn đàn công khai với những bài phát biểu chính thức, những bài chính luận sâu sắc, nhằm tranh thủ dư luận. Ta hết sức coi trọng công tác vận động báo chí. Trong gần 5 năm đàm phán, Hội nghị Paris đã tiến hành gần 500 cuộc họp báo, xem đây chính là cơ hội quý để tranh thủ tố cáo sự ngoan cố của Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn, đồng thời, nêu cao lập trường chính nghĩa và thiện chí hòa bình, góp phần tích cực vào khối đoàn kết của mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng Việt Nam, cô lập mạnh mẽ Mỹ - ngụy quyền Sài Gòn trên trường quốc tế.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Để đi đến việc ký được Hiệp định Paris 1973, các bên đã phải tiến hành đàm phán trong nhiều năm. Trong ảnh, Bộ trưởng Xuân Thủy phát biểu tại sân bay Bourgert khi đến đàm phán với Mỹ (9-5-1968).

Tại Paris, Đoàn ngoại giao Việt Nam tại Paris đã chủ động, tích cực đấu tranh đòi Hội nghị diễn ra như thường lệ. Cuối cùng Mỹ phải chấp nhận nối lại thương lượng, nhưng ngay phiên đầu tiên của đợt đàm phán mới (20-11-1972), đại diện Chính phủ Mỹ tiếp tục đưa ra một số điều kiện mới theo yêu cầu và có lợi cho phía Mỹ cũng như ngụy quyền Sài Gòn, trong đó có nội dung: Phủ nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; đòi quân đội miền Bắc rút khỏi miền Nam; hai miền tôn trọng lãnh thổ của nhau, tôn trọng khu phi quân sự; yêu cầu ngừng bắn ở Lào và Campuchia cùng lúc với ngừng bắn ở Việt Nam; đòi các lực lượng vũ trang các nước Đông Dương phải ở trong biên giới quốc gia v.v… Như vậy, Mỹ đã đòi sửa đổi hầu hết các chương của dự thảo Hiệp định ngày 20-10-1972, như đã thỏa thuận giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ trước đó.

Tại phiên họp ngày 24-11-1972, H. Kissinger đọc bức điện của Nixon trong đó có đoạn viết: “Tôi ra lệnh cho ông (Kissinger) cắt đứt nói chuyện và chúng ta phải hoạt động quân sự trở lại cho đến khi đối phương phải đàm phán nghiêm chỉnh”. Đảng ta nhận định đối phương “sẽ có những hành động quân sự ác liệt hơn đối với miền Bắc”. Đúng như vậy, âm mưu áp dụng một trận tiến công hủy diệt như đã làm với Bình Nhưỡng trước khi rút quân khỏi Triều tiên, qua đó ép Việt Nam nhân nhượng thêm, từ ngày 18-12 đến 29-12-1972, Nixon ra lệnh cho không quân và hải quân Mỹ mở trận tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào miền Bắc Việt Nam, trọng tâm là Hà Nội và Hải Phòng. Quyết tâm bảo vệ vững chắc Thủ đô Hà Nội, quân và dân miền Bắc đã anh dũng chiến đấu đánh bại cuộc tập kích chiến lược của Mỹ vào Hà Nội kéo dài suốt 12 ngày đêm cuối năm 1972.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Người dân Thủ đô chăm chú theo dõi tin chiến thắng qua báo chí hằng ngày và các bảng thông tin, trong những ngày Mỹ đánh phá ác liệt cuối tháng 12-1972. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Chiến thắng oanh liệt “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” - Chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ, ý chí và văn hóa Việt Nam, đã đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân chiến lược của đế quốc Mỹ, tạo thế vững mạnh cho hai Đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam khi bước vào vòng cuối cùng của cuộc đàm phán tại Hội nghị Paris.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Xác máy bay B-52 bị bắn rơi ngày 18-12-1972. Ảnh: Tư liệu/TTXVN

Với sự kiên quyết và khôn khéo đấu tranh của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris cùng việc đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ vào Hà Nội, ngày 23-1-1973, Hiệp định “Về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” đã được ký tắt giữa đại diện của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Cố vấn Đặc biệt Lê Đức Thọ và đại diện Hoa Kỳ - Cố vấn H. Kissinger. Đến ngày 27-1-1973, Hiệp định được ký chính thức. Đúng như Bác Hồ đã dạy: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Cái chiêng có to, tiếng mới lớn”. Thắng lợi của Hội nghị Paris bắt nguồn từ những thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, của sự phối hợp nhịp nhàng giữa đấu tranh trên chiến trường với đấu tranh trên bàn đám phán, là điển hình của việc kết hợp chủ trương “vừa đánh, vừa đàm” của Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Đánh giá chính sách đánh đàm năm 2024

Năm 1968, khi đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Xuân Thủy dẫn đầu đến Paris, đã ở tại khách sạn Lutetia ở số 45 Đại lộ Raspail, quận 16, thủ đô Paris. Sau 40 năm, khách sạn trở thành một trong những khách sạn nổi tiếng nhất ở Paris, bởi những thời khắc lịch sử mà nó đã từng chứng kiến, bao gồm cả sự có mặt của đoàn đàm phán Việt Nam. Ảnh: hanoimoi.com.vn