Đánh giá văn học hy lạp cổ đại

Trên cơ sở mẫu tự của người Phenixi, người Hi Lạp đã cải biên và sáng tạo ra hệ thống mẫu tự Hi Lạp. So với hệ thống chữ tượng hình (Ai Cập), hình đinh (Lưỡng Hà), mẫu tự Hi Lạp đạt tới một trình độ cao, có khả năng hoàn thiện, khái quát hệ thống các kí hiệu biểu đạt tư duy. Hệ thống mẫu tự Hi Lạp chính là nguồn gốc của hệ thống chữ viết Xlavơ hiện nay, là cơ sở để từ đó, người Rôma sáng tạo ra hệ thống mẫu tự Rôma, được truyền bá và sử dụng rộng rãi ở hầu hết các dân tộc trên thế giới. Nhờ hệ thống mẫu tự này, người Hi Lạp đã để lại cho hậu thế một di sản văn học vô cùng phong phú.

Thần thoại

Thần thoại là một trong những hình thái văn học xuất hiện sớm nhất ở Hi Lạp. Mitôlôgia tiếng Hi Lạp là một tập hợp, tổng thể những truyện kể dân gian truyền miệng với những nội dung hoang đường, huyền hoặc kì ảo, gồm những truyện về sự sáng tạo thế giới, các đấng thần linh, các anh hùng dũng sĩ Hi Lạp… Thần thoại phản ánh nguyện vọng của nhân dân trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, giải thích các hiện tượng tự nhiên, phản ánh cuộc sống lao động và những hoạt động đời thường của chính người Hi Lạp. Thần thoại Hi Lạp đã hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử Hi Lạp (từ thời kì văn minh Crét – Myxen cho tới những năm tháng cuối cùng của sự phồn vinh của các quốc gia thành bang) xuất phát từ thực trạng kinh tế, xã hội, từ những tư tưởng triết học phong phú, đa dạng. Bởi vậy, ở Hi Lạp, ngay từ đầu, thần thoại vừa mang tính lịch sử xác thực, phản ánh thực trạng xã hội vừa đậm đà chất hoang đường, duy lí và triết lí.

Hầu hết các truyện thần thoại còn lại đến nay đều do những nhà thơ, nhà soạn kịch thơ đương thời kể lại. Quá trình kể cũng là quá trình sắp xếp biên soạn, tái tạo lại theo những khuynh hướng nhất định. Nhưng nhìn chung, thần thoại Hi Lạp dù hoang đường, dù có thần, thánh, nhưng ít bị tôn giáo đồng hóa, ít bị hòa vào tôn giáo mà chỉ bị văn học nghệ thuật đồng hóa, hòa vào trong văn học, nghệ thuật, đồng thời chính nó lại cung cấp cho văn học nghệ thuật một nguồn đề tài phong phú. Thần thoại “là miếng đất màu mỡ nuôi dưỡng nghệ thuật Hi Lạp… tiền đề… vật liệu của nghệ thuật Hi Lap”.

Thần thoại Hi Lạp giải thích về nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc các thần linh. Thoạt đầu là Khaôx, một vực thẳm vô cùng, vô tận, hung dữ như biển khơi, tối đen, lang thang hoang dã. Khaôx sinh Gaia – tiếng Hi Lạp là Đất mẹ – với bộ ngực nở nang, nền móng vững chắc của muôn loài. Gaia và Khaôx sinh ra Erép (chốn tối tăm vĩnh cửu), Nix (đêm tối), Tartar (địa ngục), Erox (tình yêu), Uranôx (bầu trời sao lấp lánh), Môntanhơ (núi non), Pôntôn (biển cả)…

Dớt – người Hi Lạp coi là thần chủ của họ – là con của thần Uranôx và nữ thần Nêa, đã xếp đặt lại thế giới thần linh và chọn đỉnh Olympus làm nơi trú ngụ của các thần. Con người được các thần sáng tạo ra sau cùng, thần thoại Hi Lạp kể rằng chính thần Prômêtê đã lấy đất sét tạo nên con người, rồi sau đó đã đánh cắp lửa của Dớt cho con người tồn tạ… Cứ như vậy, hệ thống thần thánh của người Hi Lạp, được hình thành, sắp xếp theo một trật tự uy quyền và trở thành các thần gắn bó với đời sống người Hi Lạp, bảo trợ cho các thành bang, cho các ngành nghề… Nữ thần Atêna – thần bảo trợ cho thành bang Athens. Điôniđốt – thần bảo trợ cho nghề trồng nho và sản xuất rượu. Apôlôn – thần ánh sáng và nghệ thuật. Aphrôđít – nữ thần tình yêu và sắc đẹp… Các thần thánh được mô tả trong thần thoại rất gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân Hi Lạp: cũng yêu thương, ghen ghét, cũng giận, buồn, đố kị, đa tình, đa thê, ích kỉ… thậm chí cũng bị chảy máu khi bị trúng thương.

Thơ

Thơ là một thể loại văn học phổ biến và rất thành công của người Hi Lạp. Tập thơ lớn nhất và xuất hiện sớm nhất là hai tập Iliát – Ôđixê”, phản ánh một thời kì lịch sử quan trọng; thời kì Hôme. Đó là hai tập trường ca, hai tập sử thi có giá trị trong văn đàn Hi Lạp.

Iliát gồm 15.783 câu thơ, chia thành 24 khúc ca.

Ôđixê dài 12.110 câu thơ và cũng chia thành 24 khúc ca.

Tác giả của tập thơ “Gia phả các thần”, “Lao động và thời tiết” – Hêđiốt – người xứ Bêôxi (thế kỉ VIII TCN) đã phản ánh thời kì Hi Lạp lúc các thành bang mới ra đời.

Từ thế kỉ VII, VI TCN, thơ trữ tình bắt đầu xuất hiện trên thi đàn Hi Lạp với những nhà thơ tiêu biểu: Parốt, Têônhít, Ackilốc, Panhđa, và nữ sĩ Xaphô, …

Xaphô là nhà thơ, nhà giáo nổi tiếng với những bài thơ trữ tình được người Hi Lạp coi là “nàng thơ thứ 10” (sau 9 nàng thơ trong thần thoại).

Kịch thơ

Kịch thơ là một trong những di sản văn học vô giá của người Hi Lạp đậm đà tính nhân đạo, chủ nghĩa nhân văn, có ý nghĩa giáo dục và chính trị. Hàng năm, vào mùa xuân, người Hi Lạp thường tổ chức những ngày lễ hội, nhất là tục lệ thần Điôniđốt. Trong các ngày lễ này, cư dân Athens thường khoác áo da cừu, hóa trang đeo mặt nạ, ca hát diễn lại những sự tích thần thoại. Nghệ thuật ca kịch bắt đầu từ đó. Từ thế kỉ V TCN, ở Hy Lạp đã xuất hiện nhiều nhà soạn kịch kiệt xuất với những tác phẩm tuyệt tác gồm 2 thể loại: bi kịch và hài kịch.

Étsin (525 – 426 TCN) xuất thân trong một gia đình quý tộc, đã từng tham gia bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến Hi Lạp – Ba Tư. Étsin sáng tạo ra 90 vở kịch (hiện nay chỉ còn giữ được 7 vở), trong đó giá trị nhất là “Orextơ”, “Prômêtê bị xiềng”.

Xôphốclơ (497 – 406 TCN) là tác giả kịch thơ (cả bi kịch, hài kịch) sống cùng thời và cùng quê với Péricles. Sáng tác của Xôphốclơ đạt tới con số 123 vở bi hài kịch (hiện nay cũng chỉ giữ được 7 vở), nổi tiếng là “Ơđip làm vua”, “Ơđip ở Colon”, “Antigôn”.

Ơripít (480 – 406 TCN), người xứ Xalamin, tác giả của 92 vở bi kịch và 1 vở hài kịch, tiêu biểu là “Mêđê”. Ơripít được coi là người sáng tạo ra thể loại kịch tâm lí xã hội Hi Lạp.

Đại biểu xuất sắc của hài kịch Hi Lạp là Arixtôphan (450 – 388 TCN), tác giả của 44 vở hài kịch (hiện còn 11 tác phẩm) nhất là các vở “Kị sĩ”, “Hòa bình”…

Lịch sử thế giới cổ đại - NXB Giáo dục,

Đánh giá văn học hy lạp cổ đại

Cha của Khúc Thừa Dụ là ai (Lịch sử - Lớp 6)

2 trả lời

Vì sao vua Quang Trung đề cao chữ Nôm (Lịch sử - Lớp 4)

3 trả lời

Văn học Hy Lạp bắt nguồn từ văn học Hy Lạp cổ đại, bắt đầu từ năm 800 trước Công nguyên, đến văn học Hy Lạp hiện đại ngày nay.

Văn học Hy Lạp cổ đại được viết theo một phương ngữ Hy Lạp cổ đại. Tài liệu này bao gồm từ các tác phẩm viết lâu đời nhất còn tồn tại cho đến các tác phẩm từ khoảng thế kỷ thứ năm sau Công nguyên. Khoảng thời gian này được chia thành các thời kỳ Tiền cổ điển, Cổ điển, Hy Lạp và La Mã. Văn học Hy Lạp cổ điển chủ yếu xoay quanh các huyền thoại và bao gồm các tác phẩm của Homer; Iliad và Odyssey. Thời kỳ Cổ điển đã chứng kiến ​​buổi bình minh của kịch và lịch sử. Ba nhà triết học đặc biệt đáng chú ý: Socrates, Plato và Aristotle. Trong thời kỳ La Mã, những đóng góp đáng kể đã được thực hiện trong nhiều môn học, bao gồm lịch sử, triết học và khoa học.

Văn học Byzantine, văn học của Đế quốc Byzantine, được viết bằng tiếng Hy Lạp Attic, Trung cổ và đầu tiếng Hy Lạp hiện đại. Các biên niên sử, khác với lịch sử, phát sinh trong thời kỳ này. Các bách khoa toàn thư cũng phát triển mạnh trong thời kỳ này.

Văn học Hy Lạp hiện đại được viết chung Hy Lạp hiện đại. Bài thơ Phục hưng Cretan Erotokritos là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong khoảng thời gian này. Adamantios Korais và Rigas Feraios là hai trong số những nhân vật đáng chú ý nhất.

Bài chi tiết: Văn học Hy Lạp cổ đại

Văn học Hy Lạp cổ đại đề cập đến văn học viết theo phương ngữ Hy Lạp cổ đại. Những tác phẩm này bao gồm từ các tác phẩm viết còn tồn tại lâu đời nhất trong tiếng Hy Lạp cho đến các tác phẩm từ thế kỷ thứ năm sau Công nguyên. Ngôn ngữ Hy Lạp phát sinh từ ngôn ngữ proto-Ấn-Âu; khoảng hai phần ba từ của nó có thể được bắt nguồn từ các cấu trúc khác nhau của lưỡi. Một số bảng chữ cái và âm tiết đã được sử dụng để biểu hiện tiếng Hy Lạp, nhưng văn học Hy Lạp còn sót lại đã được viết bằng chữ cái Phoenicia - bảng chữ cái xuất phát chủ yếu bằng tiếng Hy Lạp Ionia và được Athens chấp nhận hoàn toàn vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên.[1]

Chân dung lý tưởng hóa Homer

Tiền cổ điển (800 TCN-500 TCN)

Người Hy Lạp đã tạo ra thơ trước khi sử dụng văn bản cho mục đích văn học. Những bài thơ được tạo ra trong thời kỳ tiền cổ điển có nghĩa là được hát hoặc đọc (viết ít được biết đến trước thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên). Hầu hết các bài thơ tập trung vào thần thoại, truyền thuyết là một phần truyện dân gian và một phần tôn giáo. Bi kịch và hài kịch xuất hiện vào khoảng năm 600 trước Công nguyên.[2]

Ở giai đoạn đầu của văn học Hy Lạp, các tác phẩm của Homer; Iliad và Odyssey ra đời. Mặc dù ngày thành phần khác nhau, những tác phẩm này đã được cố định vào khoảng năm 800 trước Công nguyên hoặc sau đó. Một nhân vật quan trọng khác là nhà thơ Hesiod. Hai tác phẩm còn sót lại của ông là Công việc và Ngày và Thần phả.

Cổ điển (500 BC-323 BC

Trong thời kỳ cổ điển, nhiều thể loại của văn học phương Tây trở nên nổi bật hơn. Thơ trữ tình, các ode, các mục vụ, các thán ca, epigram; trình diễn kịch hài và bi kịch; truyện lịch sử, chuyên luận hùng biện, triết học biện chứng, và các chuyên luận triết học đều phát sinh trong giai đoạn này.[3]

Hai nhà thơ trữ tình chính là Sappho và Pindar. Trong số hàng trăm bi kịch được viết và biểu diễn trong khoảng thời gian này, chỉ có một số lượng hạn chế các vở kịch còn tồn tại. Những vở kịch này được sáng tác bởi Aeschylus, Sophocles, và Euripides.[4]

Bộ phim hài nảy sinh từ một nghi thức vinh danh Dionysus. Những vở kịch này đầy sự tục tĩu, lạm dụng và xúc phạm. Các vở kịch còn sót lại của Aristophanes là một kho tàng trình bày truyện tranh.

Hai nhà sử học có ảnh hưởng ở thời đại này là Herodotus và Thucydides. Một sử gia thứ ba, Xenophon, đã viết "Hellenica", được coi là một phần mở rộng của công trình của Thucydides.[4]

Thành tựu văn xuôi vĩ đại nhất của thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên là trong triết học. Triết học Hy Lạp phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ cổ điển. Trong số các nhà triết học, Socrates, Plato và Aristotle là những người nổi tiếng nhất.

  • Herodotus

  • Plato

  • Sophocles

  1. ^ “Introduction to Classical Greek”. lrc.la.utexas.edu. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2016.
  2. ^ “Greek literature”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2016.
  3. ^ “Greek literature”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2016.
  4. ^ a b Schroeder, Chad Matthew (ngày 9 tháng 12 năm 2016). “Review of: A Guide to Hellenistic Literature. Blackwell Guides to Classical Literature”. Bryn Mawr Classical Review. ISSN 1055-7660.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Văn_học_Hy_Lạp&oldid=66258833”