Huấn luyện quân sự phổ thông là gì

II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT NGHĨA VỤ QUÂN SỰ1. Giới thiệu khái quát về luật Luật NVQS gồm: 09 chương, 62 điều.Bố cục:- Chương 1: Gồm 10 điều: Những quy định chung- Chương 2: Gồm 10 điều: Đăng ký và quản lý công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự- Chương 3: Gồm 9 điều: Phục vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ và hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị- Chương 4: Gồm 16 điều: Nhập ngũ và xuất ngũ trong thời bình- Chương 5: Gồm 3 điều: Nhập ngũ theo lệnh động viên, xuất ngũ khi bãi bỏ tình trạng chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp về quốc phòng- Chưong 6: Gồm 5 điều: Chế độ, chính sách và ngân sách đàm bảo trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự- Chương 7: Gồm 5 điều: Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức- Chương 8: Gồm 2 điều: Xử lý vi phạm- Chương 9: Gồm 2 điều: Điều khoản thi hành2. Nội dung cơ bản của luật nghĩa vụ quân sự:

a. Những quy định chung.
* Một số khái niệm:
- NVQS là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong quân đội nhân dân Việt Nam. Làm nghĩa vụ quân sự gồm phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị.
+Công dân phục vụ tại ngũ gọi là quân nhân tại ngũ .
+Công dân phục vụ trong ngạch dự bị gọi là quân nhân dự bị..
+Công dân làm nghĩa vụ quân sự ( tại ngũ và dự bị ) nam đến hết 45 tuổi, nữ đến hết 40 tuổi.
* Nghĩa vụ của quân nhân tại ngũ và quân nhân dự bị.
- Tuyệt đối trung thành với tổ quốc, nhân dân và nhà nước CHXHCN việt nam. Nêu cao tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, hi sinh bảo vệ vững chắc tổ quốc việt nam XHCN và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
- Tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, kiên quyết bảo vệ tài sản XHCN, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân.
- Gương mẫu chấp hành đường lối, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nứơc, điều lệnh điều lệ của quân đội .
- Ra sức học tập chính trị, quân sự, văn hoá, kỹ thuật nghiệp vụ, rèn luyện tính tổ chức, kỷ luật, thể lực, không ngừng nâng cao bản lĩnh chiến đấu.
*Những nghĩa vụ quân nhân nói lên bản chất cách mạng của quân đội, của mỗi quân nhân và yêu cầu họ phải luôn trao dồi bản chất cách mạng đó.
- Mọi quân nhân ( tại ngũ và dự bị ) trong thời gian tập trung làm nhiệm vụ có quyền và nghĩa vụ của công dân.
- Mọi công dân nam: không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, trình độ văn hoá hay nơi cư trú…có nghĩa vụ phục vụ tại ngũ trong quân đội nhân dân việt nam.
- Do phụ nữ có đặc điểm về thể chất và sinh hoạt, khó hoạt động trong quân đội nên luật quy định: “Công dân nữ trong độ tuổi từ 18 - 40 có chuyên môn cần cho quân đội , trong thời bình phải đăng ký nghĩa vụ quân sự và được gọi huấn luỵện. Nếu tự nguyện có thể được phục vụ tại ngũ. Trong thời chiến: Theo quy định của chính phủ, công dân nữ được gọi nhập ngũ và đảm nhiệm công tác thích hợp”.
b. Chuẩn bị cho thanh niên phục vụ tại ngũ.
- Huấn luyện quân sự phổ thông ( giáo dục quốc phòng ).
- Đào tạo cán bộ nhân viên có chuyên môn kỹ thuật cho quân đội- Đăng ký nghĩa vụ quân sự và kiểm tra sức khoẻ đối với công dân nam giới đủ 17 tuổi, nữ đủ 18 tuổi trở lên - nhằm nắm chắc lực lượng để gọi thanh niên nhập ngũ năm sau.
c. Phục vụ tại ngũ trong thời bình.
- Độ tuổi gọi nhập ngũ là nam công dân từ đủ 18 tuổi -> hết 25 tuổi,công dân được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học đã được tạm hoãn gọi nhập ngũ thì độ tuổi gọi nhập ngũ đến hết 27 tuổi.
* Thời hạn phục vụ tại ngũ trong thời bình:
+ Hạ sĩ quan binh sĩ là 24 tháng.
+ Thời gian đào ngũ không tính vào thời gian phục vụ tại ngũ.
* Những người sau đây được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình:
- Chưa đủ sức khỏe phục vụ tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khỏe;
- Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận;
- Một con của bệnh binh, người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;
- Có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ; hạ sĩ quan, chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân;
- Người thuộc diện di dân, giãn dân trong 03 năm đầu đến các xã đặc biệt khó khăn theo dự án phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trở lên quyết định;
- Cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật;
- Đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông; đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp trongthời gian một khóa đào tạo của một trình độ đào tạo.

* Những người sau đây được miễn gọi nhập ngũ trong thời bình:
- Con của liệt sĩ, con của thương binh hạng một;
- Một anh hoặc một em trai của liệt sĩ;
- Một con của thương binh hạng hai; một con của bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; một con của người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 81 % trở lên;
- Người làm công tác cơ yếu không phải là quân nhân, Công an nhân dân;
- Cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật từ 24 tháng trở lên.

* Chế độ chính sách đối vớí hạ sĩ quan binh sĩ phục vụ tại ngũ:
- Được bảo đảm cung cấp kịp thời, đủ số lượng, đúng chất lượng về lương thực, thực phẩm, quân trang, thuốc phòng bệnh, chữa bệnh; được bảo đảm chỗ ở, phụ cấp hàng tháng, nhu yếu phẩm và nhu cầu về văn hóa, tinh thần phù hợp với tính chất nhiệm vụ của quân đội; được bảo đảm chế độ trong các ngày lễ, tết; được bảo đảm chăm sóc sức khỏe khi bị thương, bị ốm đau, bị tai nạn theo quy định của pháp luật;
- Từ tháng thứ mười ba trở đi được nghỉ phép theo chế độ; các trường hợp nghỉ vì lý do đột xuất khác do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định;
- Từ tháng thứ hai mươi lăm trở đi được hưởng thêm 250% phụ cấp quân hàm hiện hưởng hàng tháng;
- Được tính nhân khẩu trong gia đình khi gia đình được giao hoặc điều chỉnh diện tích nhà ở, đất xây dựng nhà ở và đất canh tác;
-Được tính thời gian phục vụ tại ngũ vào thời gian công tác;
- Được ưu đãi về bưu phí;
- Có thành tích trong chiến đấu, công tác, huấn luyện được khen thưởng theo quy định của pháp luật;
-Trong trường hợp bị thương, bị bệnh khi làm nhiệm vụ thi được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định của pháp luật;
- Được Nhà nước bảo đảm chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm y tế;
- Được tạm hoãn trả và không tính lãi suất khoản vay từ Ngân hàng chính sách xã hội mà trước khi nhập ngũ là thành viên hộ nghèo, học sinh, sinh viên theo quy định của pháp luật;
-Được ưu tiên trong tuyển sinh quân sự.
* Đối với thân nhân hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ:
- Bố, mẹ đẻ; bố, mẹ vợ hoặc bố, mẹ chồng; người nuôi dưỡng hợp pháp; vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi hợp pháp của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ được hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo quy định của Luật bảo hiểm y tế, được hưởng trợ cấp khó khăn do ngân sách nhà nước bảo đảm;
- Con đẻ, con nuôi hợp pháp của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ được miễn, giảm học phí khi học tại cơ sở giáo dục phổ thông công lập và ngoài công lập theo quy định của pháp luật về chế độ miễn, giảm học phí;
- Trường hợp hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ hy sinh, từ trần trong khi làm nhiệm vụ thì gia đình được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định của pháp luật.
* Đối với hạ sĩ quan, binh sĩ khi xuất ngũ:
- Được cấp tiền tàu xe, phụ cấp đi đường, trợ cấp xuất ngũ;
-Trước khi nhập ngũ đang học tập hoặc có giấy gọi vào học tập tại các trường thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học thì được bảo lưu kết quả, được tiếp nhận vào học ở các trường đó;
- Được trợ cấp tạo việc làm;
- Trước khi nhập ngũ đang làm việc tại cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thì khi xuất ngũ cơ quan, tổ chức đó phải có trách nhiệm tiếp nhận lại, bố trí việc làm và bảo đảm thu nhập không thấp hơn trước khi nhập ngũ; trường hợp cơ quan, tổ chức đó đã giải thể thì cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp có trách nhiệm bố trí việc làm phù hợp;
- Trước khi nhập ngũ đang làm việc tại tổ chức kinh tế thi khi xuất ngũ tổ chức đó phải có trách nhiệm tiếp nhận lại, bố trí việc làm và bảo đảm tiền lương, tiền công tương xứng với vị trí việc làm và tiền lương, tiền công trước khi nhập ngũ; trường hợp tổ chức kinh tế đã chấm dứt hoạt động, giải thể hoặc phá sản thì việc giải quyết chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ xuất ngũ được thực hiện như đối với người lao động của tổ chức kinh tế đó theo quy định của pháp luật;
- Được giải quyết quyền lợi về bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội;
- Đối với hạ sĩ quan, binh sĩ xuất ngũ theo quy định tại khoản 1 Điều 43 và khoản 1 Điều 48 của Luật này, khi về địa phương được chính quyền các cấp, cơ quan, tổ chức ưu tiên sắp xếp việc làm và cộng điểm trong tuyển sinh, tuyển dụng công chức, viên chức; trong thời gian tập sự được hưởng 100% mức lương và phụ cấp của ngạch tuyển dụng tương ứng với trình độ đào tạo.
d. Xử lý các vi phạm luậtNVQS.
- Xử lý các vi phạm luật NVQS nhằm đảm bảo tính nghiêm minh và triệt để của pháp luật. - Người nào vi phạm các quy định về đăng ký NVQS, tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ, gọi quân nhân dự bị tập trung huấn luyện, lợi dụng chức quyền, quyền hạn để làm trái hoặc cản trở việc thực hiện các quy định trên đây hoặc vi phạm các quy định khác của luật NVQS thì tuỳ theo mức độ nặng hay nhẹ mà bị xử lí ký luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
III.Trách nhiệm của học sinh:
a. Học tập QS, chính trị, rèn luyện thể lực do nhà trường tổ chức.
* Trách nhiệm của HS đang học ở các trường:
+ Phải học tập xong chương trình GDQP theo quy định.
+ Có thái độ nghiêm túc, trách nhiệm đầy đủ trong học tập rèn luyện, phấn đấu đạt kết quả cao.
+ Kết hợp học đi đôi với hành, vận dụng kiến thức đã học vào việc xây dựng nếp sống văn minh chấp hành đầy đủ các quy định trong luật NVQS.
b. Chấp hành những quy định về đăng ký NVQS.
- Tuổi đăng ký NVQS: Mọi công dân nam đủ 17 tuổi trong năm. Vào tháng 4 hàng năm theo lệnh gọi của chỉ huy quân sự quận, huyện.
- Ý nghĩa của việc đăng ký NVQS :
+ Đăng ký NVQS để nắm tình hình bản thân, gia đình học sinh. Giúp cho việc tuyển chọn, gọi nhập ngũ chính xác.
+ Đảm bảo công bằng xã hội trong thực hiện luật NVQS.
+ Học sinh phải đăng ký kê khai đầy đủ chính xác đúng thời gian quy định.
c. Đi kiểm tra sức khoẻ và khám sức khoẻ:
- Trách nhiệm của cơ quan
- Trách nhiệm của HS:
+ Đi kiểm tra và khám sức khoẻ theo giấy gọi của ban chỉ huy quân sự huyện.
+ Đi đúng thời gian, địa điểm theo quy định trong giấy gọi.
+ Khi kiểm tra hoặc khám sức khoẻ, phải tuân theo đầy đủ các nguyên tắc thủ tục ở phòng khám.
d. Chấp hành nghiêm chỉnh lệnh gọi nhập ngũ.
- Trách nhiệm của cơ quan. Lệnh gọi nhập ngũ phải đưa trước 15 ngày.
- Trách nhiệm của công dân được gọi nhập ngũ:
+ Phải có mặt đúng thời gian địa điểm ghi trong lệnh gọi nhập ngũ.
+ Công dân nào kkhông thể đúng thời gian phải có giấy chứng nhận của uỷ ban nhân dân.
+ Công dân không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ bị xử lý theo luật NVQS .

THAM KHẢO

  • LUẬT QUỐC PHÒNG
  • Trường hợp nào được tạm hoãn, miễn nghĩa vụ quân sự?
  • Trường hợp được miễn nhập ngũ trong thời chiến
  • Đang đi làm có được hoãn nghĩa vụ quân sự?

Đổi mới giáo dục quốc phòng an ninh cho học sinh, sinh viên trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQPAN) là một nội dung quan trọng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ngày 19 tháng 11 năm 1958 Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã ký Nghị định số 511-TTg Quy định những điểm cụ thể về chế độ của sĩ quan tại ngũ biệt phái nói trong Luật số 109-SL/L11 ngày 31/5/1958 của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, trong đó tại Điều 2 quy định nhiệm vụ của sĩ quan biệt phái đảm nhiệm nhiệm vụ huấn luyện viên quân sự tại các trường học. Nghị định này đánh dấu sự ra đời môn học mới trong hệ thống giáo dục quốc dân - môn học quân sự, cơ sở của môn học GDQPAN ngày nay.

Ngày 28/12/1961, Hội đồng chính phủ nước ta đã ban hành Nghị định số 219/CP về việc huấn luyện quân sự cho quân nhân dự bị và dân quân tự vệ. Nghị định nêu rõ: "Trong các trường đại học và các trường chuyên nghiệp trung cấp, việc học tập quân sự phải đặt thành một môn học chính. Sinh viên các trường đại học được huấn luyện theo chương trình đào tạo sĩ quan, học sinh các trường chuyên nghiệp trung cấp được huấn luyện theo chương trình đào tạo hạ sĩ quan”. Thực hiện Nghị định 219, trong những năm đất nước có chiến tranh, công tác huấn luyện quân sự phổ thông đã góp phần quan trọng bồi dưỡng, trang bị kiến thức quân sự cần thiết cho bao lớp thanh niên, học sinh và sinh viên để họ tình nguyện lên đường tòng quân nhập ngũ hoặc tham gia lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước. Khi đất nước được thống nhất, công tác huấn luyện quân sự phổ thông tiếp sức cho thế hệ trẻ tiếp tục tham gia vào cuộc chiến tranh bảo vệ vững chắc biên giới tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc, đất nước hoà bình lại sát cánh cùng nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Cùng với quá trình xây dựng đất nước, công tác giáo dục quốc phòng cho học sinh, sinh viên và các đối tượng khác được Đảng và Nhà nước ta hết sức chú trọng. Năm 1980, Chính phủ ban hành Thông tư liên Bộ Quốc phòng - Đại học và Trung học chuyên nghiệp số 107/LB-QP-ĐH ngày 21/1/1980 về việc huấn luyện sĩ quan dự bị trong học sinh các trường đại học và cao đẳng, nhằm bồi dưỡng cho sinh viên những kiến thức cơ bản về khoa học quân sự (lý thuyết và thực hành) để sau khi tốt nghiệp ra trường, khi cần thiết có thể hoàn thành tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc với cương vị người sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, qua đó đã đào tạo được hàng vạn sĩ quan dự bị, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ trẻ sẵn sàng đáp ứng yêu cầu xây dựng, chiến đấu của lực lượng vũ trang.

Qua mỗi giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu thực tiễn của đất nước, nội dung Huấn luyện quân sự phổ thông được phát triển thành môn học Giáo dục quốc phòng và Giáo dục quốc phòng - an ninh, nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Ngày 1/5/2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2001/NĐ-CP về Giáo dục quốc phòng. Nghị định đã xác định rõ vị trí, tính chất của công tác Giáo dục quốc phòng thuộc nội dung của nền giáo dục quốc gia, là nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa. Đồng thời Nghị định 15 cũng quy định Giáo dục quốc phòng là môn học chính khoá trong các trường, lớp đào tạo bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, trung học phổ thông thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; các trường chính trị, hành chính và đoàn thể.

Ngày 15/8/2001, để đẩy mạnh công tác quốc phòng toàn dân, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 119/2001/QĐ-TTg vể việc thành lập Hội đồng Giáo dục quốc phòng Trung ương với chức năng tham mưu, giúp Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định về phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch hoạt động và những công tác quan trọng về giáo dục quốc phòng. Việc thành lập Hội đồng Giáo dục quốc phòng Trung ương đã có những tác động sâu sắc đến cả các cơ quan quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ GDQP, làm thay đổi tư duy của các cấp, các ngành đối với môn học GDQP và góp phần khẳng định được vị thế của môn học trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Năm 2007, thực hiện Chỉ thị số 12 - CT/TW ngày 03 tháng 5 năm 2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới; môn học giáo dục quốc phòng được chính thức đổi tên thành môn học Giáo dục quốc phòng - an ninh (lồng ghép kiến thức giáo dục an ninh trong giáo dục quốc phòng). Ngày 10/7/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 116/2007/NĐ-CP về Giáo dục quốc phòng - an ninh. Một lần nữa vị trí, tính chất của công tác Giáo dục quốc phòng - an ninh được xác định “là bộ phận của nền giáo dục quốc dân, một nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; là môn học chính khoá trong chương trình giáo dục, đào tạo trung học phổ thông đến đại học và các trường chính trị, hành chính, đoàn thể. Việc học tập, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh là quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ, công chức và của toàn dân. Kiến thức quốc phòng - an ninh tương ứng với chức danh cán bộ là một trong các tiêu chuẩn bắt buộc và là một trong những tiêu chí để xem xét, đề bạt, bổ nhiệm đối với người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan, tổ chức các cấp, các ngành”. Đánh giá kết quả sau gần 3 năm thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW và Nghị định 116, ngày 31 tháng 03 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 417/CT-TTg về việc tăng cường chỉ đạo, thực hiện công tác Giáo dục quốc phòng - an ninh năm 2010 và những năm tiếp theo. Chỉ thị đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, các ngành Trung ương tăng cường chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt công tác bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho các đối tượng, khẩn trương triển khai thực hiện đề án đào tạo giáo viên GDQP-AN, tăng cường sỹ quan biệt phái cho các trung tâm GDQP-AN sinh viên, các trường đại học, cao đẳng để nâng cao chất lượng GDQP-AN...

Giáo dục quốc phòng - an ninh đã thực sự đi vào cuộc sống, trở thành một nội dung quan trọng để công dân phát huy trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, ngày 19/6/2013, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành “Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh” (Luật số: 30/2013/QH13) khẳng định cơ sở pháp lý và tầm quan trọng của công tác Giáo dục quốc phòng - an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều 4 của Luật giáo dục quốc phòng và an ninh xác định mục tiêu: “Giáo dục cho công dân kiến thức về quốc phòng và an ninh để phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống dựng nước và giữ nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tự giác thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

60 năm từ khi Nghị định số 511-TTg Quy định những điểm cụ thể về chế độ của sĩ quan tại ngũ biệt phái nói trong Luật số 109-SL/L11 ngày 31/5/1958 của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa được ban hành, với sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Đảng và Nhà nước ta, công tác giáo dục quốc phòng an ninh đã trải qua quá trình phát triển vững chắc, cả bề rộng và chiều sâu, chất lượng ngày càng cao. Qua đó, đã giáo dục cho HS, SV về những chủ trương, quan điểm cơ bản của Đảng về quốc phòng an ninh, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng và rèn luyện những kỹ năng quân sự cần thiết, để tuổi trẻ góp phần vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, công tác GDQPAN cũng còn những hạn chế, bất cập, cả về chỉ đạo, quản lý, xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên, giảng viên, nội dung, chương trình... Tình hình trên ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng GDQPAN tại các cơ sở giáo dục đào tạo. Từ kết quả và những bài học kinh nghiệm đã được tổng kết, để nâng cao chất lượng GDQPAN trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên GDQPAN, biên chế cơ hữu và có cơ chế chính sách sử dụng đội ngũ giáo viên, giảng viên.

Để thực hiện giải pháp này cán bộ lãnh đạo, quản lý trong ngành giáo dục đào tạo và các đơn vị phối hợp cần tăng cường nhận thức về nhiệm vụ GDQPAN; quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 12 - CT/TW ngày 03 tháng 5 năm 2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Kiện toàn đội ngũ giáo viên GDQPAN, theo lộ trình đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo.

Triển khai nghiêm túc, hiệu quả Đề án “Đào tạo giáo viên, giảng viên GDQPAN cho các trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề và các cơ sở giáo dục đại học đến năm 2020” theo Quyết định số 607/QĐ-TTg, ngày 24/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức tuyển sinh ở trường quân sự hay trường sư phạm phải thống nhất cơ chế chính sách bảo đảm cho người học. Kết hợp tuyển chọn đào tạo cử nhân GDQPAN dài hạn 4 năm với cử tuyển đào tạo văn bằng 2 là cách làm hiệu quả nhất, vừa ổn định tổ chức biên chế của các cơ sở đào tạo, đảm bảo nhiệm vụ trước mắt, vừa xây dựng nguồn chính quy lâu dài.

Hai là, đổi mới nội dung chương trình GDQPAN gắn với đổi mới phương pháp giảng dạy và công tác tổ chức quản lý môn học.

Bám sát mục tiêu yêu cầu GDQPAN cho thế hệ trẻ trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc hiện nay. Các cấp học và trình độ đào tạo, mỗi chương trình có nội dung và mục tiêu riêng với khối lượng kiến thức phù hợp, đảm bảo tính liên thông không trùng lặp. Mức độ phân cấp về nội dung rõ nét, kết hợp phương pháp tuyến tính với đường tròn đồng tâm trong phát triển chương trình. Đối với chương trình GDQPAN cho học sinh trung học phổ thông tập trung vào các nội dung trong chương trình huấn luyện chiến sĩ mới; chương trình GDQPAN cho học sinh các trường trung cấp tập trung vào các nội dung trong chương trình huấn luyện tiểu đội trưởng chuyên ngành; chương trình GDQPAN cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học tập trung vào các nội dung trong chương trình huấn luyện sĩ quan dự bị phù hợp với ngành nghề được đào tạo nhằm tận dụng tối đa nguồn nhân lực phục vụ quân đội sau này.

Cùng với đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy và công tác quản lý môn học cũng phải kịp thời điều chỉnh, chương trình GDQPAN cấp trung học phổ thông tổ chức học dải các nội dung lý thuyết, các nội dung thực hành học tập trung dứt điểm, không học dải. Đối với sinh viên cần được học tập tập trung tại các trung tâm. Tuy nhiên, việc đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp phải chú ý dựa trên cơ sở bảo đảm đủ nội dung, chương trình và thời gian học tập.

Ba là, Nhà nước đầu tư nguồn kinh phí cho môn học; tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học theo hướng thực hành là chính.

Môn học GDQPAN là môn học chính như các môn học khác trong hệ thống giáo dục đào tạo. Hiện nay học sinh, sinh viên vẫn đang thực hiện việc đóng học phí cho môn học này- Môn học xây dựng lòng yêu nước và rèn luyện kỹ năng bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, cần nghiên cứu đề xuất Nhà nước bảo đảm trang bị, bao cấp học phí cho môn học này và xã hội hóa các nguồn kinh phí trong xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường thiết bị dạy học GDQPAN. Các trường cần đầu tư đúng, đủ vật chất, thiết bị theo yêu cầu chương trình, trên cơ sở đó để đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá kết quả học tập. Trong thực hành kĩ năng đối với học sinh, sinh viên phải được bắn đạn thật các loại súng bộ binh theo chương trình. Việc tổ chức cho toàn bộ học sinh, sinh viên được bắn đạn thật là vấn đề hết sức khó khăn nhưng có lợi ích rất lớn trong quá trình học tập. Để làm được việc này cần có sự chỉ đạo thống nhất của Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo; cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các trường và cơ quan quân sự địa phương, đơn vị quân đội, công an và có nguồn kinh phí để thực hiện nội dung này. Đối với học sinh được bảo đảm mô hình học cụ, vũ khí trang bị, phòng học chuyên dùng, trang phục thống nhất khi học môn học GDQPAN; đối với sinh viên phải được học tập trung 1 tháng tại các trung tâm hoặc cơ sở đào tạo; toàn bộ chi phí đào tạo, ăn ở phải được bao cấp.

Bốn là, chuyển đổi mạnh mẽ phương pháp dạy học đại học, nâng cao năng lực của người học

Đối mới mạnh mẽ giáo dục đại học là yêu cầu tất yếu để tồn tại của các trường ĐH, CĐ trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức hội nhập. Đào tạo phải gắn liền với thực tế, không xa rời thực tế. Giáo dục quốc phòng và an ninh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện thời bình, phải chuẩn bị nguồn nhân lực cho chiến tranh ngay trong việc xây dựng chương trình. Vì vậy, phải thiết kế chương trình phù hợp với sự phát triển của khoa học và Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong tình hình mới.

Thống nhất phương pháp giảng dạy, chú trọng tính đặc thù dạy kĩ năng quân sự cho học sinh, sinh viên. Giảm bớt thời gian dạy lý thuyết (thực tế hiện nay bố trí các bài lý luận nhiều thời gian); tăng thời gian nghiên cứu, tự học, tham quan, thực tế đơn vị quân, binh chủng chohọc sinh, sinh viên. Học sinh, sinh viên sau khi học môn GDQPAN có niềm tin và kỹ năng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Có phương pháp giảng dạy DGDQPAN tốt sẽ phát huy những tài năng quân sự từ học sinh, sinh viên, có cơ sở tuyển chọn, đào tạo nguồn nhân lực xây dựng tiềm lực cho Quân đội nhân dân Việt Nam.

Nhiệm vụ giáo dục quốc phòng - an ninh cho các tầng lớp nhân dân trong những năm qua đã được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt coi trọng, thể hiện trong chủ trương, đường lối lãnh đạo, định hướng công tác quốc phòng, an ninh trong tình hình mới và đã được quy định bằng hệ thống các văn bản pháp luật. Đặc biệt đối với thế hệ trẻ học sinh, sinh viên; ngoài việc nâng cao dân trí về quốc phòng, GDQP-AN góp phần giáo dục chính trị, tư tưởng sâu sắc, hình thành ý thức quốc phòng đúng đắn, nâng cao trách nhiệm công dân cho học sinh, sinh viên đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; giáo dục lòng tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc, xây dựng ý thức tổ chức kỉ luật, nếp sống tập thể, cùng với các hoạt động khác góp phần đẩy lùi tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục quốc phòng - an ninh là thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm đưa nghị quyết của Đảng, pháp luật Nhà nước vào cuộc sống, thắp sáng ngọn lửa truyền thống “Dựng nước đi đôi với giữ nước” của dân tộc.