Mô khuyết là gì

Nhu mô là gì?

Nhu mô là những tế bào mềm dẻo nhất cấu tạo từ những tế bào sống và ít chuyên hóa nhất có thể khác nhau về nguồn gốc hình thành về chức năng sinh lý trong quá trình trao đổi chất cũng như trong cấu tạo và thành phần nội chất.

Nhu mô là những tế bào mềm dẻo nhất

Phân loại

Tế bào nhu mô có thể được phân loại tùy vào hình dạng, cấu tạo và nhiệm vụ của chúng như sau:

a. Theo hình dạng

- Nhu mô đặc gồm những tế bào có hình đa giác xếp khít nhau và không chừa khoảng trống nào cả. Mô này thường có ở miền vỏ, miền tủy của thân, rễ non, ở bề lõm vùng gân chính ở lá.

- Nhu mô đạo với tế bào hình nhiều cạnh gần tròn xếp chừa các khoảng trống nhỏ hình tam giác hay tứ giác, các khoảng trống gọi là đạo. Gặp ở miền vỏ, miền tủy của rễ; miền trụ trung tâm của thân...

- Nhu mô khuyết gồm những tế bào hình nhiều cạnh gần tròn xếp chừa các khoảng trống to hơn từ 5 - 6 tế bào, các khoảng trống này gọi là khuyết. Khi các khuyết rất to trở thành bọng và ta có nhu mô bọng; gặp nhiều nhất ở miền vỏ của rễ sống trong môi trường nước.

Nhu mô đặc thường có ở miền tủy của thân, rễ non

Nguồn gốc của nhu mô có thể được phân hóa từ mô phân sinh cơ bản, hoặc hình thành từ tầng trước phát sinh hoặc từ tầng phát sinh tương ứng.

b. Theo nhiệm vụ

- Nhu mô đồng hóa/lục mô

Nhu mô đồng hóa hay lục mô là thành phần quan trọng ở thịt lá (diệp nhục), trong cơ thể thống nhất của thực vật, mô thực hiện chức năng đồng hóa đồng thời liên quan với các quá trình trao đổi khí và thoát hơi nước.

Thường có hai loại lục mô:

- Lục mô hình hàng rào nằm ở mặt trên của lá, cấu tạo gồm những tế bào dài, hẹp, xếp sát nhau theo hướng thẳng góc với bề mặt cơ quan. Trong tế bào chứa lục lạp, vách tế bào mỏng, khoảng gian bào chúng không lớn lắm và không phải có ở khắp nơi. Lục mô hình hàng rào có cấu tạo khác nhau ở các loài khác nhau.

- Lục mô xốp nằm ngay bên dưới lục mô hình hàng rào, cũng gồm những tế bào chứa lục lạp, có hình dạng đồng đều, sắp xếp thưa nhau và chừa ra nhiều khoảng gian lớn, mô này còn là nơi dự trữ khí nén.

Nhu mô đồng hóa gồm những tế bào chứa lục lạp

- Nhu mô dự trữ

Nhu mô dự trữ có thể có ở các vị trí khác nhau trong cây và có nhiều nguồn gốc khác nhau, thường có trong phần tủy của cơ quan như thân, rễ, quả, hột, hay trong phần vỏ của cơ quan trên mặt đất. Những tế bào nhu mô này tích chứa những sản phẩm của cây nên tính chất cấu tạo tế bào của mô này cũng rất đa dạng.

Độ dày của vách tế bào nhu mô dự trữ cũng có thể rất khác nhau và tùy thuộc ở cơ quan dự trữ. Ví dụ: trong hạt và quả, vách tế bào thường mỏng và bằng celuloz; trái lại nội nhũ một số hạt như thầu dầu, cà phê... có vách rất dày.

Các chất dự trữ thường là carbohydrat tinh bột protid dầu, muối, sắc tố, acid hữu cơ, nước... Acid citric có trong tế bào nhu mô ở vỏ cam chanh.

 &amp;nbsp;&amp;nbsp; &lt;script async&gt; <ins class="adsbygoogle" style="display:inline-block;width:300px;height:250px" data-ad-client="ca-pub-3721507520546700" data-ad-slot="9291917470"></ins> <script> (adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});

Phân Lớp Hành (Liliidae)

Bộ Hoa loa kèn (Liliales)

Họ Náng (Amaryllidaceae)

Chi Crinum

Loài Crinum asiaticum L.(Cây Náng Hoa Trắng)

Tên

Tên khác: 

Cây lá náng, Hoa náng, Tỏi lơi, Đại tướng quân, Chuối nước, Náng sumatra.

Tên đồng nghĩa: 

Crinum toxicarium L., C. Sumatranum Roxb., C. Amabile Donn., C. Cochinchinensis Roem.

Họ: 

Náng hay họ Thủy tiên (Amaryllidaceae).

Tên nước ngoài: 

Asian poison bulb, Crinole asiatique.

Mẫu thu hái tại: 

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 05-2010.

Số hiệu mẫu: 

NHT0510, được lưu tại Bộ môn Thực vật Khoa Dược.

Cây [hình 1] cỏ cao khoảng 1m, sống nhiều năm nhờ thân hành. Hành (quen gọi là củ) ở sâu trong đất, đơn độc, hình cầu, đường kính 10 cm hay hơn; phía ngoài có nhiều vảy khô xác màu trắng nâu nhạt bao bọc, tạo thành những lớp áo mỏng; phía trong là những vảy nạc, mọng nước, vảy phía ngoài dày và bao bọc hoàn toàn các vảy phía trong; các vảy gắn vào một đế hình trụ màu trắng (thân hành); thân khí sinh là thân giả cao 20-60 cm do các bẹ lá ôm chặt nhau tạo thành.
Lá đơn, mọc cách, tập trung ở gốc thành hình hoa thị. Phiến lá chất dai, hình dải dạng bản, phẳng, dày, nạc, đầu thuôn nhọn, gốc nở rộng thành bẹ, dài 85-110 cm, rộng 10-15 cm, màu xanh lục, nhẵn ở cả hai mặt, mặt trên màu sậm hơn; mép lá nguyên, không lượn sóng; gân giữa lồi ở mặt dưới, mặt trên hơi lõm xuống thành hình lòng máng, các gân bên song song.
Cụm hoa [hình 2] tán đơn độc, mọc lên từ thân hành qua nách bẹ lá, mang 25-35 hoa. Cuống của tán thẳng đứng, hơi dẹp, có khía ở giữa, nạc, đặc, dài 40-50 cm, rộng 3-5 cm, màu xanh lục, mặt ngoài láng. Tổng bao [hình 3] lá bắc là hai phiến mỏng dạng mo, tồn tại, hình bầu dục thuôn dài, đầu nhọn, dài 9-12 cm, rộng 4-5 cm, màu nâu nhạt, mặt ngoài có nhiều sọc dọc.
Hoa [hình 4] to, đều, lưỡng tính, mẫu 3, hình loa kèn, màu trắng tuyền, thơm, đứng thẳng. Cuống hoa hình trụ dẹp, gốc nở rộng, dài 1-2 cm, màu xanh, nhẵn. Lá bắc dạng phiến mỏng, hình dải, dài 8-10 cm, rộng 3-4 mm, màu nâu nhạt. Bao hoa 6 phiến, dài 15-17 cm, dính nhau bên dưới thành một ống hình trụ dài 5-6 cm, màu xanh lục nhạt, phía trên chia thành 6 phiến xếp trên 2 vòng, dài 10-11 cm, hình dải, đầu nhọn cong như móc. Nhị [hình 5] 6, rời, đính ở họng ống bao hoa trên 2 vòng, vòng ngoài xen kẽ với các phiến của bao hoa; chỉ nhị dạng sợi, thẳng đứng, dài 5-7 cm, phần trên màu tím đỏ, phần dưới màu trắng, nhẵn; bao phấn màu vàng nâu, hình dải, dài 2,5-3 cm, 2 ô, hướng trong, mở bằng đường nứt dọc, đính giữa lắc lư; hạt phấn [hình 6] rời, hình bầu dục thuôn nhọn hai đầu, có rãnh ở giữa, có gai lấm tấm, thường có 2 dạng: hạt phấn nhỏ, kích thước 50-62 µm x 20-25 µm, màu vàng sậm; hạt to, kích thước 87-100 µm x 25-50 µm, màu vàng nhạt; đôi khi hạt phấn có hình gần cầu, đường kính 48-52 µm. Lá noãn 3, dính nhau thành bầu [hình 7] dưới 3 ô, mỗi ô 1 noãn, đính noãn trung trụ; bầu hình trứng, dài 2-2,5 cm, rộng 4-5 mm, mặt ngoài nhẵn; vòi nhụy 1, dạng sợi, dài 11-12 cm, thò ra ngoài ống bao hoa và lên trên nhị, 1/3 phần trên màu tím đỏ, 2/3 phần dưới màu xanh, nhẵn; đầu nhụy 1, hình điểm, màu nâu. Quả nang, hình cầu, đường kính 3-5 cm. Hạt rộng khoảng 3 cm, có góc, có rốn hạt, nội nhũ nạc bao lấy phôi nhỏ.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Đặc điểm giải phẫu: 

Rễ [hình 8]
Vi phẫu cắt ngang hình tròn chia làm 2 vùng rõ rệt, vùng vỏ chiếm 4/5 diện tích vi phẫu, vùng trung trụ 1/5.
Vùng vỏ: Tầng lông hút chỉ còn là vết tích với một vài tế bào móp méo không đều có vách tẩm chất bần. Tầng suberoid [hình 9] 4-6 lớp tế bào hình đa giác, vách mỏng, xếp lộn xộn và khít nhau. Mô mềm vỏ [hình 10] tế bào vách cellulose, hình tròn hay bầu dục, sắp xếp lộn xộn chừa những khuyết nhỏ hay đạo ở góc giữa các tế bào. Nội bì 1 lớp tế bào hình đa giác, có đai caspari rõ.
Vùng trung trụ [hình 11]: Trụ bì 1 lớp tế bào hình đa giác, vách cellulose, xếp xen kẽ với tế bào nội bì. Libe và gỗ [hình 12] ngay sát dưới lớp trụ bì, gồm 15-21 bó libe và 15-21 bó tiền mộc xếp xen kẽ nhau trên một vòng. Bó libe từng cụm nhỏ hình bầu dục, tế bào hình đa giác, không đều, phân hoá hướng tâm. Bó tiền mộc hình tam giác đỉnh tiếp xúc trụ bì, gồm 3-6 mạch hình đa giác, không đều, phân hoá hướng tâm. Mạch hậu mộc to, gồm 17-27 mạch kích thước không đều, có thể tiếp xúc bên dưới bó tiền mộc hay không; ít khi có 1-2 mạch nằm riêng lẻ ở tâm vi phẫu. Tia tủy là vùng mô mềm giữa bó libe và bó gỗ, gồm 2-3 dãy tế bào hình đa giác, xếp khít nhau. Mô mềm tủy tế bào hình gần tròn, vách cellulose, xếp chừa những đạo nhỏ.

Thân hành
Vi phẫu cắt ngang vảy hành có hình lòng máng, dày ở vùng giữa, mỏng dần về phía hai bên.
Vùng giữa [hình 13]: Biểu bì tế bào hình đa giác hay hình chữ nhật dẹt, vách cellulose, mặt ngoài hóa cutin; tế bào biểu bì trên (biểu bì trong) nhỏ hơn tế bào biểu bì dưới (biểu bì ngoài). Mô mềm tế bào hình tròn hay đa giác, vách cellulose, chia làm 2 vùng khác nhau về cách sắp xếp của tế bào: vùng trên từ biểu bì trên đến các bó libe gỗ, 1-2 lớp ngay dưới biểu bì tế bào xếp lộn xộn chừa những đạo nhỏ ở góc giữa các tế bào, các lớp còn lại tế bào to hơn, thường xếp thành dãy dọc chừa những đạo hay khuyết nhỏ ở góc; vùng dưới các bó libe gỗ tế bào xếp lộn xộn chừa những đạo nhỏ; rải rác trong vùng mô mềm có những tế bào chứa khối chất màu vàng [hình 14]. Bó libe gỗ xếp thành một hàng hình cung ở giữa, không đều, dạng vệt dài vuông góc với biểu bì, gồm gỗ ở trên và libe ở dưới; gỗ gồm 3-5 mạch nhỏ không đều, mạch nhỏ ở trên, mạch to ở dưới, mô mềm quanh mạch gỗ tế bào hình đa giác, xếp khít nhau; libe dạng vệt dài, tế bào hình đa giác, không đều, vách méo mó, sắp xếp lộn xộn. Tinh thể calci oxalat hình kim từng bó trong tế bào hay rải rác trong vùng mô mềm.
Vùng phiến [hình 15] mỏng hai bên: Biểu bì tế bào hình đa giác hay hình chữ nhật dẹt, vách cellulose, mặt ngoài hoá cutin; tế bào biểu bì trên (biểu bì trong) nhỏ hơn tế bào biểu bì dưới (biểu bì ngoài). Mô mềm nhiều lớp tế bào, hình tròn, vách cellulose, xếp lộn xộn chừa những đạo hay khuyết nhỏ ở góc giữa các tế bào, rải rác có những tế bào chứa khối chất màu vàng; trong vùng mô mềm này, về phía trên gần biểu bì, có vùng mô mềm đặc biệt. Mô mềm đặc biệt [hình 16] gồm những tế bào không rõ hình dạng, xếp lỏng lẻo, chứa đầy những cuộn sợi (giống như cuộn chỉ len), thường bung ra thành những sợi xoắn [hình 17] rất dài; có khi sợi xoắn này xuất phát từ một số tế bào mô mềm bình thường ở phía dưới. Bó libe gỗ [hình 18] xếp thành một hàng, không đều, gồm gỗ ở trên và libe ở dưới; gỗ gồm mạch nhỏ ở trên, mạch to ở dưới, mô mềm gỗ tế bào hình đa giác xếp khít nhau; bó libe ngay dưới bó gỗ, tế bào hình đa giác, không đều, xếp lộn xộn. Tinh thể [hình 19] calci oxalat hình kim tập trung thành từng bó trong tế bào hay rải rác trong vùng mô mềm.


Vi phẫu cắt ngang có phần gân giữa lõm ở mặt trên, lồi tròn ở mặt dưới và thuôn dài ra phiến lá. Cấu tạo của gân giữa [hình 20] và phiến lá [hình 21] giống nhau. Biểu bì tế bào gần như hình vuông, vách cellulose; lớp cutin mỏng; lỗ khí [hình 22] nhiều trên cả hai lớp biểu bì. Mô mềm nhiều lớp tế bào hình tròn hay đa giác, sắp xếp lộn xộn và chừa những đạo hay khuyết nhỏ; giữa 2 bó libe gỗ là một khuyết to, lớp tế bào quanh bờ khuyết thường bị rách. Bó libe gỗ [hình 23] kích thước không đều, dạng vệt dài và hẹp, xếp trên một hàng hình cung ở giữa, gồm gỗ ở trên, libe ở dưới; gỗ gồm 1-5 mạch, không đều, mạch nhỏ ở trên, mạch to ở dưới, mô mềm quanh các mạch gỗ tế bào hình đa giác, không đều, xếp khít nhau; libe dạng vệt dài, tế bào hình đa giác, không đều, vách méo mó, sắp xếp lộn xộn; trên gỗ và dưới libe thường có những cụm tế bào vách dày bằng cellulose hay tẩm chất gỗ. Cuộn sợi rải rác trong mô mềm. Tinh thể calci oxalat [hình 24] hình kim từng bó trong tế bào hay rải rác trong vùng mô mềm.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột lá màu trắng xanh, không mùi, không vị.
Soi kính hiển vi thấy: Mảnh biểu bì [hình 25] tế bào hình chữ nhật, có nhiều lỗ khí. Mảnh mô mềm [hình 26] tế bào vách mỏng và uốn lượn. Mảnh mạch [hình 27] vòng, mạch xoắn. Cuộn sợi [hình 28] nhiều, thường bung ra thành những sợi xoắn rất dài. Tinh thể [hình 29] calci oxalat hình kim dài 112-137 µm, nằm rải rác hay thành tụ thành đám.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Cây mọc hoang ở những nơi ẩm ướt hay trồng làm cảnh, trồng bằng dò. Còn thấy mọc ở Ấn Độ, Indonesia.
Ra hoa vào mùa hè.

Bộ phận dùng: 

Toàn cây (Herba Crinii asiatici). Thường dùng tươi.

Thành phần hóa học: 

Trong Náng hoa trắng có alkaloid gọi là lycorin C16H17NO4. Thân và bẹ lá chứa alkaloid: baconin, licorin, crinasiatin, hipadin; trái chứa ungeremin, criasbetain. Alkaloid được phân bố cả lá, hoa, dò, quả.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Nhân dân dùng lá cây Náng hơ nóng, đắp và bóp vào những nơi sai gân, bong gân, bầm tím, sưng tấy khi ngã. Còn dùng xoa bóp khi bị tê thấp, nhức mỏi. Không dùng để uống.
Tại Ấn Độ, người ta hay dùng củ ép lấy nước pha loãng để uống thuốc gây nôn; không gây tẩy và không gây đau đớn. Cới kiều nhỏ, nó gây buồn nôn và ra mồ hôi. Thường dùng củ tươi giã nát, thêm chừng 4 phần nước vắt lấy nước, rồi cứ vài phút lại uống chừng 8-16 g cho tới khi nôn được. Có thể thêm đường cho dễ uống. Trẻ con dùng cũng được. Cần chú ý theo dõi tránh ngộ độc. Người ta còn dùng nước ép củ để ngỏ vào tai chữa đau tai.

Hình đính kèm

Hình 1:

Hình 2:

Hình 3:

Hình 4:

Hình 5:

Hình 6:

Hình 7:

Hình 8:

Hình 9:

Hình 10:

Hình 11:

Hình 12:

Hình 13:

Hình 14:

Hình 15:

Hình 16:

Hình 17:

Hình 18:

Hình 19:

Hình 20:

Hình 21:

Hình 22:

Hình 23:

Hình 24:

Hình 25:

Hình 26:

Hình 27:

Hình 28:

Hình 29:

Bộ Hành (Liliales)

Họ Hành (Liliaceae)

Chi Allium

Loài Allium tuberosum Rottl. ex Spreng. (Cây Hẹ)

Tên

Tên khoa học: 

Allium tuberosum Rottl. ex Spreng.

Tên nước ngoài: 

Sweet leek, Fragrant-flowered garlic, Chinese chives (Anh).

Mẫu thu hái tại: 

Tuy Hòa-Phú Yên, ngày 01 tháng 06 năm 2009.

Thân cỏ nhiều năm, cao 20-50 cm, có mùi hăng. Nhiều thân hành [hình 1] nhỏ, màu trắng được bao bên ngoài bởi lớp áo mỏng màu nâu vàng, dạng sợi, nối tiếp thân hành là thân rễ. Thân rễ [hình 2] màu nâu, mọc ngang hơi chếch. Lá mọc so le thành 2 dãy, hơi chụm ở gốc, hình dải, dẹp, đặc, kích thước 15-40μm 0,2-0,7 cm, bẹ lá [hình 3] dài và mỏng. Cụm hoa [hình 4] là tán giả trên trục cụm hoa thẳng đứng dài 30-50 cm. Lá bắc tổng bao dạng mo, mỏng, xẻ 1 bên hoặc xẻ 2-3 mảnh, ngắn hơn cụm hoa, khô xác và tồn tại. Trên cụm hoa [hình 5] có 20-33 hoa, đính thành 3-5 vòng. Hoa nhỏ, nụ [hình 6] hình 3 cạnh, màu trắng, đều, lưỡng tính; cuống hoa dài 1-2,5 cm, gốc có lá bắc nhỏ. Bao hoa 6 phiến, hình trứng hoặc trứng ngược, dài 4-5 mm, rộng 2,5-3 mm, rời nhau hoặc dính nhau rất ít ở đáy, xếp trên 2 vòng; mỗi phiến có 1 gân giữa màu xanh ở bên ngoài. Nhị [hình 7] 6, rời nếu bao hoa rời; trường hợp hoa có bao hoa dính nhau thì gốc chỉ nhị hợp và dính với bao hoa. Chỉ nhị dài 2-2,5 mm; bao phấn khi hoa chưa nở có màu xanh, sau khi đã nở có màu vàng, 2 ô, nứt dọc, hướng trong, đính đáy. Hạt phấn [hình 8] hình bầu dục hay chữ nhật, có rãnh dọc ở giữa, kích thước 32,5- 42,5 μm. Bầu [hình 9] trên, hình chùy ngược, có 3 thùy, giữa mỗi thùy có rãnh dọc. Mặt ngoài có những nốt nhỏ, 3 ô, mỗi ô 2 noãn, đính noãn trung trụ; 1 vòi nhụy [hình 10] rất ngắn màu trắng; đầu nhụy không rõ.

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân [hình 11] khí sinh cấu tạo từ nhiều bẹ lá hình vòng liên tục ôm lấy 2 lõi bên trong. Mỗi bẹ lá có phần rộng mang các bó mạch [hình 12] xếp thành một hàng và phần hẹp hơn có các bó mạch kém phát triển. Biểu bì ngoài có hình đa giác, lớp cutin khá dày, to hơn hẳn so với biểu bì trong. Biểu bì trong hình chữ nhật, bị ép dẹp, cutin mỏng. Mỗi bó mạch có từ 1-6 mạch, phân hóa ly tâm, libe chồng lên gỗ, xung quanh có thể có vòng mô cứng. Mô mềm khuyết. Trong vùng mô mềm, có một số tế bào tròn bắt màu xanh [hình 13] dày mỏng khác nhau. Các bẹ lá sẽ xếp xen kẽ với nhau để phần rộng của bẹ lá này tiếp xúc với bên hẹp của bẹ lá kia. Phần lõi thân gồm 2 mảnh úp vào nhau, có kích thước không bằng nhau, biểu bì hình đa giác, cutin dày, có nhiều lỗ khí. Mỗi mảnh của lõi đều có các bó libe gỗ kiểu chồng xếp thành 1 vòng, gỗ phân hóa ly tâm, các bó phía trong thường nhỏ hơn các bó phía ngoài. Libe chồng lên gỗ, ít thấy vòng mô cứng chung quanh. Mô mềm khuyết.
Lá [hình 14] mặt trên lõm, mặt dưới lồi, thuôn dài hai bên. Biểu bì [hình 15] hình đa giác, cutin dày, có thể gặp cutin lồi rải rác, nhiều lỗ khí ở cả 2 mặt. Nhiều bó mạch xếp trên 2 hàng: hàng trên gỗ ở phía dưới, hàng dưới gỗ ở phía trên, các bó nằm gần biểu bì dưới to hơn các bó nằm gần biểu bì trên (hay các bó dẫn xếp thành một vòng, gỗ ở trong, libe ở ngoài). libe chồng lên gỗ, ít thấy vòng mô cứng chung quanh. Mô mềm khuyết.
Biểu bì lá [hình 16]: Các tế bào biểu bì hình đa giác rất dài. Lỗ khí giống kiểu lớp 1 lá mầm, có cả ở mặt trên và dưới như nhau. Có thể gặp cutin lồi rải rác.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột thân lá [hình 17] khí sinh màu vàng xanh, không có mùi vị rõ rệt. Thành phần gồm:
Mảnh biểu bì có các tế bào biểu bì hình đa giác rất dài, mang lỗ khí kiểu lớp Hành, có thể thấy những vòng tròn mờ của cutin lồi. Mảnh mô mềm hình chữ nhật hoặc đa giác hoặc hình tròn có chừa các đạo nhỏ. Các mảnh mạch vạch, mạch điểm.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Hẹ có nguồn gốc hoang dại ở vùng Trung và Bắc Á, được người Trung Quốc đưa về trồng khoảng 200 năm trước Công nguyên. Cây được trồng trên ruộng đất màu, bãi bồi ven sông, trên nương rẫy, trong vườn, chậu. Mùa hoa tháng 7-9, mùa quả tháng 10-11. Thường trồng vào mùa xuân hoặc thu đông bằng các thân hành.

Bộ phận dùng: 

Toàn cây (Herba Allii) thu hái quanh năm và dùng tươi.

Thành phần hóa học: 

Thân hành chứa aliin, methylaliin; lá chứa hợp chất sulfit, linalol. Trong 100 g phần ăn được của hẹ có nước 93 g, protein 2,1 g, chất béo 0,1 g, carbohydrat 2,8 g, chất xơ 0,9 g, tro 1 g, caroten 4 mg và vitamin C 25 mg. Các đường fructose, glucose, galactose và sucrose. Phân đoạn bay hơi có 36 chất, trong đó có 20 hợp chất sulfit. Hẹ còn chứa N-p. coumaryol tyramin, bis (p. hydroxyphenyl) ether và odorin.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Nước ép lá tươi và thành phần bay hơi của cây có tác dụng kháng khuẩn mạnh đối với Streptococcus hemolyticus, Salmonella tryphi, Shigella flexneri, Shigella shiga, Coli bethesda, Bacillus subtilis. Hoạt chất odorin có tác dụng ức chế mạnh Staphyllococcus aureus. Lá Hẹ tươi có tác dụng diệt trùng roi âm đạo sau 30 phút tiếp xúc. Nước ép lá Hẹ lọc bỏ cặn, tiêm tĩnh mạch cho chuột nhắt trắng với liều 0,1-0,5 ml/10 g thân trọng, xuất hiện triệu chứng choáng, vật vã, co giật và chuột chết sau nửa giờ. Hẹ được dùng làm gia vị và làm thuốc. Theo kinh nghiệm dân gian, lá và thân hành chữa ho trẻ em, hen suyễn, tiêu hoá kém, giun kim, lỵ amip, mồ hôi trộm. Liều dùng hàng ngày: 20-30 g. Hạt Hẹ chữa bệnh dương ủy, di mộng tinh, đái són, đái đàm, đau lưng, mỏi gối, khí hư với liều 4-12 g mỗi ngày.
Bài thuốc có Hẹ:
- Chữa ho trẻ em: Lá hẹ 15 g, hoa đu đủ đực 15 g, hạt chanh 20 hạt. Tấ cả dùng tươi, cho vào bát sạch, giã nát, thêm đường và 10 ml nước. Đem hấp chín để nguội, cho trẻ em uống làm 3 lần trong ngày. Dùng 3-4 ngày liên tục. Hoặc lấy lá hẹ 15 g phối hợp với lá dâu non 10 g, cách làm và dùng như trên.
- Chữa hen suyễn: Lá hẹ 50 g sắc với 200 ml nước còn 50 ml. Uống trong ngày.

Hình đính kèm

Hình 1:

Hình 2:

Hình 3:

Hình 4:

Hình 5:

Hình 6:

Hình 7:

Hình 8:

Hình 9:

Hình 10:

Hình 11:

Hình 12:

Hình 13:

Hình 14:

Hình 15:

Hình 16:

Hình 17:

Chi Ophiopogon

Loài Ophiopogon sp. (Cây Mạch Môn Đông)

Tên

Tên khác: 

Mạch môn đông, Tóc tiên, Xà thảo lá dài

Họ: 

Mạch môn đông (Convallariaceae)

Mẫu thu hái tại: 

Tuy Hòa - Phú Yên, ngày 01 tháng 06 năm 2009

Thân cỏ nhiều năm mọc thành bụi, cao khoảng 40 cm, rễ chùm [hình 1], có những chỗ phát triển thành củ [hình 2] hình trụ, dài khoảng 1,5-2 cm, đường kính khoảng 0,6-0,9 mm, bề mặt lát cắt màu trắng, hơi trong, có lõi hẹp, mùi đặc biệt. Thân trên mặt đất ngắn. hình dải hẹp, mọc chụm dưới đất, xếp thành 2 dãy, dài 50-60 cm, rộng 0,8 cm, nhẵn, gốc có bẹ to có màng bao màu trắng ôm các bẹ lá bên trong, đầu nhọn, gân lá song song, nổi rất rõ ở mặt dưới, mặt trên xanh lục sẫm, mặt dưới trắng nhạt, mép lá bén nhọn. Từ gốc lên ngọn, lá rộng dần và dẹp dần, màu cũng đậm hơn.
Thời điểm thu hái cây không có hoa do đó chúng tôi chưa xác định được loài.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Rễ củ [hình 3]: Tầng lông hút [hình 4] có lông hút đơn bào. Tầng suberoid gồm 2-3 lớp tế bào hình đa giác xếp sát nhau, vách tẩm suberin. Mô mềm vỏ rất rộng, tế bào ở phía ngoài hình tròn hay đa giác, tế bào ở phía trong hình bầu dục theo hướng xuyên tâm; rải rác có bó tinh thể calci oxalat hình kim nhỏ hoặc lớn (hiếm gặp hơn). Nội bì hình chữ U [hình 5], trụ bì gồm 1-2 lớp tế bào, hóa mô cứng rải rác. Các bó gỗ cấp 1 phân hóa hướng tâm, xếp xen kẽ với bó libe cấp 1. Vùng mô mềm ruột hẹp gồm các tế bào có vách mỏng, kích thước nhỏ hơn tế bào mô mềm vỏ. Mạch hậu mộc nhỏ trong vùng mô mềm tủy bị hóa mô cứng.
Thân [hình 6]: Cấu tạo từ nhiều bẹ lá già bao lấy các bẹ lá non hơn. Mỗi bẹ lá già có một phần rộng ở giữa mang các bó mạch, hai đầu hẹp dần cuối cùng chỉ còn 2 lớp biểu bì nằm sát và xen kẽ nhau tạo thành màng mỏng. Tại phần mang bó mạch, dưới biểu bì [hình 7] là các tế bào vách rất dày có xu hướng phát triển thành mô cứng hoặc sợi, mô mềm vỏ khuyết gồm các tế bào tròn, vách mỏng. Các bó dẫn không đều nhau, libe [hình 8] hình nón chồng lên gỗ, các bó lớn có mô cứng bao xung quanh. Các bẹ lá non hơn chưa có màng, cấu tạo giống bẹ già nhưng các tế bào xung quanh bó mạch vẫn chưa tẩm chất gỗ, các tế bào mô mềm vỏ tạo các khuyết rộng hơn. Tinh thể calci oxalat hình kim tập trung thành bó trong tế bào mô mềm vỏ.
Lá [hình 9]: Có tiết diện tam giác ở gần gốc, phía trên hẹp dần.
Đoạn từ gốc lá [hình 10] đến 1/2 chiều dài lá phẳng ở mặt trên và lồi ở mặt dưới. Biểu bì có cutin lồi [hình 11], phía dưới biểu bì có 3-6 lớp tế bào màng rất dày, vách vẫn còn cellulose có xu hướng phát triển thành sợi. Mô mềm vỏ khuyết, tế bào hình tròn, nhỏ, càng vào bên trong càng lớn, dẹp, hình đa giác. Trong vùng mô mềm có khoảng 5-8 bó gỗ không đều, hình dạng và cấu tạo như ở thân. Tinh thể calci oxalat hình kim tập trung thành bó trong vùng mô mềm.
Biểu bì lá: Biểu bì trên là những tế bào hình chữ nhật xếp song song với nhau, không thấy lỗ khí. Biểu bì dưới có nhiều lỗ khí kiểu lớp 1 lá mầm và bao bọc bởi cutin lồi.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột rễ củ màu vàng, vị ngọt. Thành phần gồm: mảnh bần [hình 12], tế bào hình đa giác vách dày hay hình chữ nhật xếp xuyên tâm; mảnh suberoid [hình 13], tế bào hình đa giác xếp lộn xộn; mảnh mô mềm tế bào có màng mỏng, hình tròn hoặc đa giác; tinh thể calci oxalat hình kim [hình 14] dài 40-60 µm, rộng 2-3 µm, riêng rẽ hay xếp thành từng bó; lông hút [hình 15] đơn bào; tế bào mô cứng [hình 16] hình chữ nhật có vách dày, khoang còn rộng, ống trao đổi rõ, thường xếp thành từng đám; đám tế bào mô cứng [hình 17] của vùng mô mềm [hình 18] tủy hình đa giác, khá đều nhau; các mảnh mạch [hình 19] mạng, mạch điểm.

Bộ phận dùng: 

Rễ củ (Radix Ophiopogonis japonici) đã phơi hay sấy khô.

Thu hái và chế biến: 

Thu hoạch vào mùa hạ rễ củ của cây 2-3 năm tuổi, rửa sạch, loại bỏ rễ tua; rễ củ nhỏ để nguyên, rễ củ to bổ đôi theo chiều dọc, ủ mềm, đập dẹt, rút bỏ lõi, phơi nắng nhiều lần cho gần khô (khô khoảng 70-80%) hay sấy nhẹ đến khô. Sao cách cát.

Thành phần hóa học: 

5 glucosid đã được phân lập từ rễ củ, 3 chất đầu khi thủy phân thu được diosgenin, ở chất thứ tư, genin là ruscogenin, còn chất thứ năm cho choophiogenin. Ngoài ra, còn có stigmasterol, β-sitosterol, β-D-glucosid, các hợp chất polysaccarid, tinh dầu và các thành phần như β-patchoulen, longifolen, cyperen, α-humulen, guajol, jasmolelon.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Tác dụng chống viêm rõ rệt đối với cả giai đoạn cấp tính và bán mạn tính của phản ứng viêm thực nghiệm. Tác dụng gây thu teo tuyến ức với mức độ yếu. Tác dụng ức chế tương đối khá trên phế cầu và yếu hơn trên sự phát triển của các chủng vi khuẩn: tụ cầu vàng, Shigella dysenteriae, Bacillus subtilis. Rễ củ dùng chữa ho khan, viêm họng, lao phổi, nóng âm ỉ về chiều, sốt cao, khát nước, thổ huyết, hen phế quản, khó ngủ. Còn dùng để lợi tiểu và lợi sữa, điều hòa nhịp tim khỏi hồi hộp, táo bón, lở ngứa. Ngày dùng 6-20 g, dạng thuốc sắc.

Hình đính kèm

Hình 1:

Hình 2:

Hình 3:

Hình 4:

Hình 5:

Hình 6:

Hình 7:

Hình 8:

Hình 9:

Hình 10:

Hình 11:

Hình 12:

Hình 13:

Hình 14:

Hình 15:

Hình 16:

Hình 17:

Hình 18:

Hình 19:

Bộ La Dơn (Iridales)

Họ La Dơn (Iridaceae)

Chi Belamcanda

Loài Belamcanda chinensis (L.) DC. (Cây Xạ Can)

Tên

Tên khoa học: 

Belamcanda chinensis (L.) DC.

Tên đồng nghĩa: 

Belamcanda punctata Moench.

Tên nước ngoài: 

Dwarf tiger-lily, Leopard flower, Blackberry lily (Anh)

Mẫu thu hái tại: 

thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 05 năm 2009

Thân cỏ nhiều năm, mọc đứng, cao 0,5-1 m, đường kính 0,8-1 cm. Thân rễ [hình 1] màu vàng nâu, dài 4-9 cm, đường kính 1-2 cm. Trên thân rễ có các vết tích lá dạng những gân ngang, nhiều vết sẹo của rễ con và những rễ ngắn còn sót lại; mùi thơm nhẹ, vị đắng, hơi cay. hình gươm, xếp thành 2 dãy, hai mặt nhẵn, gần như cùng màu, dài khoảng 30 cm, rộng 1,5-2 cm, có bẹ [hình 2] ôm lấy thân, tiền khai cưỡi, gân lá song song. Các lá xếp trên một mặt phẳng và xòe ra như cái quạt. Cụm hoa [hình 3] là tán đơn mang 5-7 hoa, nhiều tán hợp lại thành cụm hoa [hình 4] phức tạp ở ngọn thân, trục cụm hoa dài 20-40 cm, tổng bao lá bắc khô xác, lá bắc con dựa trục có hình dạng giống lá bắc nhưng kích thước nhỏ hơn. Hoa đều, lưỡng tính, mẫu 3, cuống dài 2-3 cm. Bao hoa [hình 5] gồm 6 phiến dạng cánh màu vàng cam có đốm đỏ, hợp ở gốc thành ống rất ngắn, 3 lá đài ở vòng ngoài xoắn lại sau khi nở và to hơn 3 cánh hoa ở vòng trong. Lá đài tiền khai vặn ngược chiều kim đồng hồ, cánh hoa vặn theo chiều ngược lại. Nhị 3, rời, đính ở đáy ống bao hoa và xen kẽ cánh hoa. Chỉ nhị [hình 6] dạng sợi màu hồng, bao phấn [hình 7] 2 ô, thuôn dài, màu cam, thẳng khi vẫn còn nằm trong nụ, uốn cong khi hoa nở; nứt dọc, hướng ngoài. Hạt phấn [hình 8] hình bầu dục hai đầu nhọn, có rãnh dọc to và vân mạng lưới, kích thước 105-115x55-65 μm. Lá noãn 3, bầu dưới, hình trứng, 3 ô, mỗi ô nhiều noãn [hình 9], đính noãn [hình 10] trung trụ. Vòi nhụy [hình 11] màu đỏ to dần về phía đỉnh, đầu nhụy chẻ 3. Quả nang, hình trứng ngược dài 2,5 cm, rộng 2 cm, ở đỉnh mang bao hoa đã khô và xoắn lại; hạt màu đen bóng, hình cầu, đường kính 3 mm, có sọc ngang.

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân rễ [hình 12]
Lớp bần [hình 13] dày, tế bào hình chữ nhật khá đều, xếp xuyên tâm, bên ngoài vẫn còn biểu bì. Mô mềm [hình 14] vỏ đạo, tế bào tròn, có vách dày, chứa nhiều hạt tinh bột và tinh thể calci oxalat [hình 15] hình kim lớn, hiếm gặp các bó mạch vết tích của lá. Nội bì gồm một lớp tế bào nhỏ tạo thành vòng liên tục bao quanh phần trụ giữa. Các bó libe gỗ đồng tâm (gỗ bao quanh libe) hay bó gỗ [hình 16] hình móng ngựa kẹp libe ở giữa nằm rải rác trong vùng trung trụ, tập trung nhiều ở vùng sát nội bì, thưa hơn ở phần trung tâm. Mô mềm tủy đạo, thỉnh thoảng có chừa các khuyết nhỏ, gồm những tế bào tròn, vách khá dày có chứa hạt tinh bột và tinh thể calci oxalat hình kim lớn.
Thân
Vi phẫu [hình 17] hình bầu dục, tế bào biểu bì hình đa giác, kích thước khá đều nhau, cutin khá dày. Mô mềm vỏ khuyết gồm 8-10 lớp tế bào hình tròn, vách mỏng, rải rác có các bó libe gỗ nhỏ. Vòng mô cứng bao quanh trung trụ được tạo thành từ 3-10 lớp tế bào nhỏ, hình tròn hoặc đa giác, vòng này bị gián đoạn ở các bó mạch. Các bó libe gỗ [hình 18] đồng tâm hay bó gỗ hình móng ngựa kẹp libe ở giữa rải rác trong vùng trung trụ, tập trung nhiều ở gần vòng mô cứng; quanh bó dẫn có thể có vòng mô cứng không liên tục. Mô mềm tủy khuyết, tế bào hình tròn, vách mỏng, lớn hơn tế bào mô mềm vỏ. Tinh thể calci oxalat hình kim lớn trong cả mô mềm vỏ và tủy.
: Bẹ lá [hình 19]: hình chữ V, tế bào biểu bì dưới hình chữ nhật đứng hoặc hơi nghiêng, có nhiều lỗ khí, tế bào biểu bì trên hình chữ nhật nằm ngang, bề mặt hơi lồi, không thấy lỗ khí. Mô mềm vỏ khuyết, tế bào hình đa giác, các tế bào mô mềm gần biểu bì trên tại phần gấp lại của bẹ bị ép dẹp nên uốn lượn, xếp sát nhau và vách dày hơn. Nhiều bó libe gỗ xếp thành một hàng, gỗ ở trên, libe ở dưới. Mô mềm bên dưới libe bị hóa mô cứng. Nhiều tinh thể calci oxalat hình kim lớn rải rác trong vùng mô mềm.
Phiến lá [hình 20]: Không phân biệt rõ vùng gân giữa và thịt lá, hơi lồi lên ở những chỗ có bó mạch. Tế bào biểu bì trên và dưới hình chữ nhật, xếp đều đặn, 2 mặt đều có lỗ khí. Mô mềm khuyết, hình bầu dục, số lớp tế bào ít hơn hẳn so với phần bẹ lá. Các bó libe gỗ xếp thành 2 hàng sát 2 lớp biểu bì; libe chồng lên gỗ và hướng về phía biểu bì, quanh libe có mô cứng phát triển. Nhiều tinh thể calci oxalat hình kim nhỏ họp lại bó trong mô mềm.
Biểu bì lá [hình 21]: Biểu bì trên giống biểu bì dưới, hình thoi hay hình chữ nhật, lỗ khí nhiều ở cả 2 mặt và đặc trưng kiểu lớp 1 lá mầm.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột thân rễ [hình 22] màu vàng, không mùi, vị đắng, hơi cay. Thành phần gồm: mảnh bần, tế bào hình chữ nhật, vách dày, màu nâu; mảnh mô mềm, tế bào tròn chứa hạt tinh bột; hạt tinh bột nhỏ, hình tròn hay hình xoan, đường kính 5-17 µm, không rõ vân, riêng lẻ hay thành đám gồm 4-7 hạt đơn; tinh thể calci oxalat hình kim rất lớn nguyên hay bị đứt gãy, dài 130-160 μm, rộng 12-25 μm; mảnh mạch vạch; khối chất nhựa màu đỏ nâu.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Cây ưa sáng và có khả năng chịu hạn tốt, sinh trưởng và phát triển mạnh trong mùa mưa ẩm (ở miền Nam) và mùa xuân hè (ở các tỉnh phía Bắc). Cây trồng trên 1 năm tuổi mới có khả năng ra hoa quả. Xạ can có sức sống dai, tái sinh dinh dưỡng khỏe từ các phần của thân rễ và từ hạt.

Bộ phận dùng: 

Thân rễ (Rhizoma Belamcandae) - Thân rễ màu vàng nâu nhạt đến nâu, có những gân ngang là vết tích của lá, còn sót lại những rễ ngắn, nhiều nốt sần nhỏ là vết tích của rễ con, dài 3-10 cm, đường kính 1-2 cm, hay những phiến có dạng hình trái xoan hay tròn, dài 1-5 cm, rộng 1-2 cm, dày 0,3-1 cm, mép lồi lõm không đều, màu vàng nâu nhạt đến vàng nâu. Mặt cắt ngang nhẵn, màu trắng ngà hay vàng nhạt, nhìn rõ hai phần: phần ngoài màu sẫm, phía trong nhạt hơn, có nhiều điểm nhỏ của các bó libe gỗ. Phiến cắt dọc có vỏ ngoài màu nâu sẫm, mặt cắt có sợi dọc. Mùi thơm nhẹ, vị đắng, hơi cay.

Thu hái và chế biến: 

Thu hoạch vào đầu mùa xuân, khi cây mới nảy mầm hoặc cuối thu, khi lá khô héo, đào lấy thân rễ, loại bỏ rễ con và tạp chất, rửa sạch, ủ mềm, thái lát phơi khô. để nguyên hay được cắt thành phiến mỏng đã phơi hay sấy khô.

Thành phần hóa học: 

Thân rễ chứa tectorigenin (có tác dụng ức chế dị ứng), irigenin, tectoridin, iridin, 5, 3-dihydroxy-4’,5’-dimethoxy-6,7-methylendioxyisoflavon, dimethyltectorigenin, irisfloretin, muningin, các iristectorigenin A và B,…

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Trong thí nghiệm in vitro, cao cồn thân rễ có tác dụng ức chế các chủng vi khuẩn: liên cầu tan máu, trực khuẩn ho gà, Bacillus subtilis và có tác dụng yếu đối với tụ cầu vàng, Shigella dysenteriae. Thanh nhiệt giải độc, hoá đàm bình suyễn. Trị họng sưng đau, ho đờm, suyễn tức. Ngày dùng 3-6 g, dạng thuốc sắc hoặc bột; làm viên ngậm, uống. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.

Hình đính kèm

Hình 1:

Hình 2:

Hình 3:

Hình 4:

Hình 5:

Hình 6:

Hình 7:

Hình 8:

Hình 9:

Hình 10:

Hình 11:

Hình 12:

Hình 13:

Hình 14:

Hình 15:

Hình 16:

Hình 17:

Hình 18:

Hình 19:

Hình 20:

Hình 21:

Hình 22:

Phân Lớp Thài Lài (Commelinidae)

Bộ Gừng (Zingiberales)

Họ Gừng (Zingiberaceae)

Chi Amomum

Loài Amomum villosum var. xanthioides (Wall.) Hu & Chen.(Cây Sa Nhân)

Tên

Tên khác: 

Sa nhân gai, Sa nhân vỏ xanh, Dương xuân sa.

Tên khoa học: 

Amomum villosum var. xanthioides (Wall.) Hu & Chen.

Tên đồng nghĩa: 

Amomum xanthioides Wall. ex Baker.

Số hiệu mẫu: 

SN 0510, được lưu tại Bộ môn Thực vật-Khoa Dược.

Thân khí sinh [hình 1] là thân cỏ sống nhiều năm, cao 1-3 m, tiết diện tròn, màu xanh, nhẵn, mang 18-22 lá ; đoạn thân dài 40-50 cm từ gốc lá không có phiến lá mà chỉ gồm các bẹ lá ôm sát. Thân rễ [hình 2] tiết diện tròn, đường kính 0,3-1,5 cm, màu vàng xanh, có nhiều lông mịn, chia thành nhiều lóng ngắn, ở mỗi lóng có 1 lá màu nâu, dạng vẩy khô xác, lợp lên nhau. Lá [hình 3] đơn, không cuống, mọc so le thành 2 dãy [hình 4], hình ngọn giáo gốc tròn, đầu nhọn thường có màu nâu khô xác ở các lá trưởng thành, dài 33-37 cm, rộng 5-5,5 cm, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt; gân lá lông chim, gân chính hơi lõm ở mặt trên nổi rõ ở mặt dưới, rất nhiều gân phụ song song không rõ. Bẹ lá nhẵn cứng, rìa có nhiều lông màu nâu, ôm sát vào nhau. Lưỡi nhỏ [hình 5] dài 0,4-0,5 cm dạng màng, chia 2 thùy rất cạn, rìa có rất nhiều lông mịn, giữa lưỡi nhỏ và phiến lá có nhiều lông mịn. Cụm hoa [hình 6] chùm mọc từ thân rễ, sát mặt đất, dài 18-20 cm, mang nhiều hoa màu vàng nhạt ở 9-11 cm phía trên. Hoa [hình 7] không đều, lưỡng tính mẫu 3, cuống hoa hình trụ rất ngắn, dài 0,15-0,2 cm, màu vàng xanh, nhiều lông mịn. Lá bắc [hình 8] dạng vẩy khô xác màu nâu, dài 2-3 cm, rộng 0,4-0,5 cm, lá bắc bao trọn nụ hoa, khi hoa nở hoa vượt ra khỏi lá bắc, các lá bắc xếp lợp lên nhau. Lá bắc con [hình 9] màu nâu mỏng, hình ống dài 0,8-1 cm, phía trên chia 2 thùy hình tam giác đỉnh nhọn. Đài hoa [hình 10] dính nhau ở dưới thành ống dài 1,2-1,5 cm, trên chia thành 3 thùy không đều. Tràng hoa [hình 11] dính nhau phía dưới thành ống dài 2,5-2,8 cm, trên chia 3 thùy không đều, 1 thùy lớn hình thuyền dài khoảng 1 cm dựng đứng phía sau, 2 thùy nhỏ phía trước dài khoảng 0,5 cm cong xuống phía dưới và bị che bởi cánh môi [hình 12]. Bộ nhị 1 nhị [hình 13] thụ phía sau đính trên miệng ống tràng, khi hoa nở bao phấn cong thẳng góc với chỉ nhị ; chỉ nhị [hình 14] hình lòng máng, dài 0,4-0,5 cm, màu vàng, ôm lấy vòi nhụy; bao phấn [hình 15] hình bầu dục dài 2-3 mm, màu vàng, 2 ô, nứt dọc hướng trong, chung đới kéo dài thành màng mỏng màu trắng có 3 thùy một thùy lớn ở giữa và 2 thùy nhỏ 2 bên; cánh môi do nhị lép tạo thành, đính trên miệng ống tràng, cong ra phía ngoài dạng hình muỗng úp, dài 1-1,2 cm, rộng 0,4-0,5 cm, màu trắng, có 1 rãnh cạn ở giữa, 4-5 sọc dọc màu tím, mép nguyên, đầu chia thành 2 thùy rất cạn; gốc cánh môi có nhiều lông và mang 2 vẩy mỏng dài 0,2-0,3 cm do 2 nhị bất thụ [hình 16] tạo thành. Hạt phấn [hình 17] màu vàng, hình cầu, trên bề mặt có nhiều gai ngắn, đường kính 72-75 µm. Bộ nhụy [hình 18] gồm 3 lá noãn, dính nhau tạo bầu dưới [hình 19] 3 ô, mỗi ô có nhiều noãn, đính trung trụ [hình 20] ; bầu hình trụ ngắn, dài 2,5-3 mm, có nhiều lông mịn ở mặt ngoài; 1 vòi nhụy màu trắng dạng sợi dài 3,5-4 cm, phía dưới nằm tự do trong ống tràng phía trên nằm trong chỉ nhị và ở giữa khe hở của 2 ô phấn; đầu nhụy [hình 21] hình khối không vượt qua khỏi ô phấn ở gốc vòi nhụy có 2 khối hình tháp [hình 22] màu vàng, dài 1,5-2 mm. Quả [hình 23] mọc thành cụm trên mặt đất, hình bầu dục có 3 khía dọc, dài 2-2,2 cm, rộng 1-1,2 cm, màu xanh, chín màu vàng lục, bề mặt có nhiều gai nhọn mềm; bên trong chia 3 ngăn, mỗi ngăn chứa nhiều hạt. Quả khô [hình 24] màu nâu. Hạt [hình 25] mùi thơm vị hơi cay, hình khối nhiều mặt, kích thước 0,02-0,03 cm được bao bởi 1 màng mỏng màu trắng (áo hạt). Vỏ hạt màu đen, nhăn nhúm; ngoại nhũ màu trắng, nội nhũ màu trắng ngà; phôi [hình 26] hình thuôn dài màu kem nằm giữa nội nhũ.

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân khí sinh [hình 27]: Cấu tạo gồm nhiều bẹ lá ôm lấy lõi thân.
- Bẹ lá [hình 28]: hình lưỡi liềm. Biểu bì trên tế bào hình đa giác khá đều, kích thước hơi to hơn biểu bì dưới. Biểu bì dưới có những đoạn lõm vào tế bào to hơn và có nhiều lông che chở đơn bào rất ngắn, cutin rất dày, nhiều lỗ khí [hình 29]. Cụm mô cứng, tế bào hình chữ nhật hoặc đa giác, vách dày hay mỏng, ống trao đổi rõ. Mô mềm đạo tế bào hình đa giác, nhiều tế bào chứa tinh bột. Nhiều bó dẫn, bó lớn xen kẽ với bó nhỏ, bó nhỏ gần sát biểu bì dưới, bó to thường ở chỗ lõm của biểu bì và nằm giữa mô mềm; ở phần giữa của bẹ lá, cạnh bó dẫn to có bó nhỏ sát biểu bì trên. Bó dẫn gồm gỗ ở trên libe ở dưới; gỗ gồm 1-2 mạch to; libe gồm nhiều lớp, tế bào hình đa giác nhỏ, xếp lộn xộn. Mô cứng bao xung quanh bó mạch.
- Lõi thân [hình 30]: Vi phẫu hình bầu dục. Biểu bì 1 lớp tế bào hình đa giác hay chữ nhật không đều, bị ép dẹp ở chỗ có bó dẫn. Mô mềm đạo tế bào hình đa giác không đều, vách mỏng, kích thước to hơn tế bào biểu bì. Mô cứng tế bào hình đa giác, kích thước nhỏ, 2-4 lớp xếp thành vòng gần như liên tục. Rất nhiều bó dẫn kích thước không đều xếp lộn xộn [hình 31] từ dưới biểu bì vào trong tủy, các bó ngoài [hình 32] vòng mô cứng kích thước lớn hơn. Mỗi bó gồm 1-4 mạch gỗ hình đa giác hay tròn, libe xếp chồng lên gỗ. Các bó dẫn ở phía ngoài vòng mô cứng được bao bởi vòng mô cứng gồm 2-3 lớp tế bào vách dày có thể hóa sợi phía trên libe; các bó trong vùng tủy [hình 33] thường chỉ có cụm mô cứng trên libe và dưới gỗ. Các bó mạch gỗ chiếm hết vùng tủy. Mô mềm tủy đạo, tế bào hình đa giác, kích thước tương đương mô mềm vỏ. Tế bào tiết có rất nhiều trong vùng tủy.
Lá [hình 34]
Gân chính mặt trên phẳng, mặt dưới lồi tròn. Biểu bì trên [hình 35] tế bào hình chữ nhật đứng; biểu bì dưới [hình 36] tế bào hình chữ nhật, hóa mô cứng vách mỏng, có nhiều lông che chở [hình 37] đơn bào rất ngắn, cutin rất dày. Dưới biểu bì trên và trên biểu bì dưới có vài lớp tế bào hình đa giác, kích thước không đều, hóa mô cứng [hình 38] vách mỏng; trong vùng mô cứng sát trên biểu bì dưới thường gặp 1-3 tế bào mô cứng hình bầu dục vách dày, ống trao đổi rõ. Mô mềm đạo, tế bào hình đa giác, kích thước không đều. Rất nhiều bó dẫn gỗ ở trên libe ở dưới, kích thước không đều, xếp thành 2 hàng ở trên biểu bì dưới và xếp lộn xộn dưới biểu bì trên, thường gặp 1 bó giữa [hình 39] gân chính, bó to [hình 40] ở sát biểu bì dưới. Các bó dẫn được bao bởi vòng mô cứng tế bào vách dày có thể hóa sợi phía trên libe ở các bó to. Xen giữa các bó to là mô mềm chứa nhiều lục lạp và có khuyết to.
Phiến lá [hình 41]
Tế bào biểu bì trên hình đa giác, kích thước lớn hơn tế bào biểu bì dưới, cả 2 biểu bì đều có lỗ khí [hình 42] và lông che chở đơn bào ngắn nhưng nhiều ở mặt dưới. Hạ bì 1-2 lớp tế bào hình đa giác góc tù. Mô mềm đạo, 5-6 lớp, tế bào gần tròn, chứa nhiều lục lạp. Nhiều bó dẫn kích thước không đều, gỗ ở trên libe ở dưới, nhiều bó lớn nối với 2 lớp biểu bì bởi các cụm sợi.
Thân rễ [hình 43]
Vi phẫu tiết diện tròn, vùng vỏ chiếm ½ bán kính vi phẫu (đường kính vi phẫu 6 mm). Các mô [hình 44] gồm: Biểu bì 1 lớp tế bào hình đa giác hóa mô cứng vách mỏng ở vi phẫu già, ở các vi phẫu non có nhiều lông che chở đơn bào [hình 45] và lỗ khí [hình 46]. Mô mềm vỏ đạo tế bào hình đa giác, kích thước không đều. Nội bì [hình 47] hình chữ U không liên tục. Bó dẫn rất nhiều, kích thước không đều, xếp lộn xộn [hình 48] ở vùng vỏ và trung trụ. Mỗi bó gồm 1-6 mạch gỗ. Các bó dẫn vùng vỏ [hình 49] thường có bao mô cứng dày hơn các bó ở vùng trung trụ. Mô mềm tủy đạo, tế bào hình đa giác, kích thước tương đương mô mềm vỏ. Nhiều tế bào tiết [hình 50] tinh dầu trong vùng vỏ và trung trụ.
Rễ [hình 51]
Vi phẫu tiết diện tròn, vùng vỏ chiếm khoảng 2/3 bán kính vi phẫu (đường kính vi phẫu 2 mm). Các mô [hình 52] gồm: Tầng lông hút [hình 53], 1 lớp tế bào hình đa giác, kích thước khá đều, 1 vài tế bào mọc dài ra thành lông hút. Tầng suberoid [hình 54] gồm 1-2 lớp tế bào hình đa giác, xếp sát nhau. Mô mềm vỏ ngoài đạo, tế bào hình đa giác đầu tù, xếp lộn xộn; mô mềm vỏ trong [hình 55], 4-7 lớp tế bào hình bầu dục nằm ngang xếp thành vòng đồng tâm và dãy xuyên tâm. Rải rác trong mô mềm vỏ có nhiều tế bào hóa mô cứng. Nội bì [hình 56] hình chữ U rất dày, liên tục. Trụ bì, 1 lớp tế bào hình đa giác xếp xen kẽ nội bì, có xu hướng bị ép dẹp phía trên các cực gỗ, 1 vài tế bào trụ bì hóa mô cứng vách mỏng. Nhiều bó libe 1 và gỗ 1 [hình 57] xếp xen kẽ thành vòng ngay dưới trụ bì. Mỗi bó gỗ 1 gồm 1-2 mạch tiền mộc. Nhiều mạch hậu mộc to, hình đa giác kích thước không đều xếp lộn xộn quanh tủy. Mô mềm tủy [hình 58] hẹp, tế bào hình đa giác, vách hóa mô cứng dày ở quanh tủy hoặc còn cellulose ở giữa tủy.
Quả
Vỏ quả [hình 59]
Vi phẫu hình tròn mặt ngoài lồi lõm không đều. Vỏ quả ngoài [hình 60], biểu bì 1 lớp tế bào hình đa giác dẹp, kích thước không đều, hóa mô cứng vách mỏng, rải rác có lông che chở đơn bào; lớp cutin mỏng. Vỏ quả giữa [hình 61] gồm nhiều lớp tế bào hình đa giác hoặc bầu dục, vách mỏng uốn lượn, riêng 7-8 lớp mô mềm phía trên biểu bì trong tế bào hình bầu dục nằm ngang, vách dày uốn lượn, các lớp sát biểu bì trong bị ép rất dẹp khó thấy vách tế bào. Khá nhiều tế bào tiết tinh dầu hình đa giác kích thước nhỏ, trong mô mềm vỏ quả. Nhiều bó dẫn [hình 62] rời, kích thước không đều, xếp thành 1 cung gần sát vỏ quả trong. Mỗi bó gồm gỗ ở trong và libe ở ngoài; mạch gỗ hình tròn hoặc đa giác kích thước nhỏ; libe ít, tế bào hình đa giác xếp lộn xộn. Vòng mô cứng bao xung quanh bó dẫn; phía dưới gỗ là tế bào mô cứng vách mỏng uốn lượn; phía trên libe là 5-6 lớp tế bào mô cứng hình đa giác, vách dày. Vỏ quả trong [hình 63]: Lớp biểu bì dạng hình ống uốn lượn.
Hạt: Vi phẫu tiết diện đa giác; từ ngoài vào trong gồm áo hạt [hình 64], vỏ hạt [hình 64] và nhân hạt.
- Áo hạt tách rời khỏi vỏ hạt, gồm 1 lớp tế bào hình dạng thay đổi (đa giác, hình thoi, vuông), kích thước khác nhau, vách cellulose dày uốn lượn, rất dày ở vách ngoài.
- Vỏ hạt gồm vỏ ngoài và vỏ trong: Vỏ ngoài gồm 1 lớp tế bào mô cứng hình chữ nhật nằm, kích thước lớn, vách mỏng. Mô mềm đạo 4-5 lớp tế bào hình đa giác, vách uốn lượn, đôi khi thấy ống trao đổi phân nhánh trê bề mặt tế bào. Trong cùng là lớp tế bào hình chữ nhật kích thước nhỏ chứa tinh dầu. Vỏ trong gồm 1 lớp tế bào mô cứng hình chữ nhật, vách dày, màu nâu.
- Nhân hạt [hình 65] gồm: Ngoại nhũ [hình 66] rất nhiều so với nội nhũ, tế bào hình chữ nhật đứng vách hơi gấp nếp hoặc đa giác, chứa đầy tinh bột, càng vào trong kích thước nhỏ dần. Nội nhũ [hình 67], tế bào hình đa giác, vách rất mỏng hơi uốn, kích thước nhỏ, chứa nhiều hạt tinh bột. Khuyết ở giữa là vị trí của cây mầm.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột hạt màu trắng có lẫn màu nâu đen, mùi thơm, vị cay nồng, gồm các thành phần sau:
Hạt tinh bột [hình 68] hình cầu, kích thước 3-7 µm, xếp riêng lẻ hay tập trung thành cụm, nhiều hình dạng. Mảnh tế bào vỏ hạt [hình 69] tế bào hình chữ nhật, vách có chất màu vàng nâu, chứa nhiều hạt tinh bột. Tế bào ngoại nhũ [hình 70] xếp riêng lẻ hay thành đám, hình dạng và kích thước thay đổi (hình đa giác thuôn dài, hình đa giác ngắn), chứa nhiều tinh bột. Nội nhũ [hình 71] tế bào hình đa giác vách mỏng, chứa tinh bột ít hơn ngoại nhũ.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Phân bố rộng rãi ở Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam (Trung Quốc), Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan. Cây thích hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, có khả năng thích nghi rộng. Cây đặc biệt ưa ẩm, chịu bóng và có thể ưa sáng, thường mọc tập trung thành đám ở ven rừng, bờ suối. Mùa hoa: tháng 4-5; mùa quả: tháng 6-7.

Bộ phận dùng: 

Quả (Fructus Amomi xanthioidis) thu hái lúc gần chín, bóc vỏ lấy khối hạt màu trắng, phơi khô. Có thể chế biến bằng cách sao, chích muối hoặc chích gừng.

Thành phần hóa học: 

Quả chứa tinh dầu hàm lượng 2-3%, gồm D. Camphor (33,2%), D. bornyl acetat (26,5%), borneol (19,4%), D. limonene (7%), camphen (7%), paramethoxy trans-cinnamat, phellandren (2,3%), pinen (1,1%).

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Trong thử nghiệm in vitro, tinh dầu sa nhân có tác dụng ức chế các vi khuẩn theo thứ tự hoạt tính giảm: Bacillus subtilis, Bacillus mycoides, Diplococcus pneumoniae, Mycobacterium tuberculosis, Proteus vulgaris, Shigella dysenteriae, Entamoeba moshkowskii với nồng độ ức chế thấp nhất là 1:2560.
- Trong một thử nghiệm lâm sàng, hạt sa nhân có hiệu quả rõ rệt trên viêm loét dạ dày-tá tràng.
- Bài thuốc gồm hạt sa nhân, câu đằng, lá tre non và 7 dược liệu khác đã được áp dụng cho 32 bệnh nhân được chẩn đoán có xơ vữa động mạch ở lứa tuổi trên 45, có cholesterol máu từ 220 mg% trở lên, trong đó có 12 bệnh nhân có kèm tăng huyết áp; uống thuốc dạng viên hoàn trong 30-60 ngày. Kết quả 22/32 bệnh nhân đạt kết quả tốt, 9/32 bệnh nhân đạt kết quả vừa.
Là vị thuốc kích thích và giúp tiêu hóa, chữa tỳ vị khí trệ, ăn không tiêu, đau bụng lạnh, tiêu chảy, nôn ọe, động thai, kiết lỵ thuộc hàn. Còn được dùng làm gia vị chế làm rượu mùi. Hạt sa nhân giã nhỏ thành bột, dùng ngoài, chấm vào răng đau, ngâm rượu rồi ngậm chữa đau răng. Thân rễ ngâm rượu dùng xoa bóp hằng ngày chữa tê thấp.

Hình đính kèm

Hình 1:

Hình 2:

Hình 3:

Hình 4:

Hình 5:

Hình 6:

Hình 7:

Hình 8:

Hình 9:

Hình 10:

Hình 11:

Hình 12:

Hình 13:

Hình 14:

Hình 15:

Hình 16:

Hình 17:

Hình 18:

Hình 19:

Hình 20:

Hình 21:

Hình 22:

Hình 23:

Hình 24:

Hình 25:

Hình 26:

Hình 27:

Hình 28:

Hình 29:

Hình 30:

Hình 31:

Hình 32:

Hình 33:

Hình 34:

Hình 35:

Hình 36:

Hình 37:

Hình 38:

Hình 39:

Hình 40:

Hình 41:

Hình 42:

Hình 43:

Hình 44:

Hình 45:

Hình 46:

Hình 47:

Hình 48:

Hình 49:

Hình 50:

Hình 51:

Hình 52:

Hình 53:

Hình 54:

Hình 55:

Hình 56:

Hình 57:

Hình 58:

Hình 59:

Hình 60:

Hình 61:

Hình 62:

Hình 63:

Hình 64:

Hình 65:

Hình 66:

Hình 67:

Hình 68:

Hình 69:

Hình 70:

Hình 71:

Chi Curcuma

Loài Curcuma longa L. (Cây Nghệ)

Tên

Tên khác: 

Nghệ vàng, Khương hoàng, Uất kim; Cohem, Co khản mỉn(Thái); Khinh lương (Tày)

Tên nước ngoài: 

“Common turmeric”, “Long turmeric” (Anh); “Safran des Indes “ (Pháp)

Mẫu thu hái tại: 

Mẫu thu hái vào tháng 06 năm 2009, tại huyện Krông pắc tỉnh Đắc lắc.

Cỏ [hình 1] cao khoảng 70 cm. Thân rễ [hình 2] (thường gọi củ Nghệ) hình trụ hay hình bầu dục, phân nhánh, đường kính 1,5-2 cm; có màu vàng tươi, có nhiều đốt, tại các đốt có những vảy khô do lá biến đổi thành. Lá đơn, mọc từ thân rễ. Phiến lá hình bầu dục, kích thước 22- 40 x 12 – 15 cm, đầu nhọn, bìa phiến nguyên, hơi uốn lượn; màu xanh lục đậm ở mặt trên, nhạt ở mặt dưới. Gân lá hình lông chim, gân chính nổi rõ ở mặt dưới, các gân phụ hơi lồi ở mặt trên. Bẹ lá hình lòng máng, dài 18- 28 cm, ôm sát vào nhau tạo thành một thân khí sinh giả có màu xanh, trên bẹ lá có các đường gân dọc song song. Lưỡi nhỏ là một màng mỏng màu trắng, cao 2-3 mm.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Vi phẫu thân rễ [hình 3]:
Vi phẫu hình gần tròn. Biểu bì hóa mô cứng, rải rác có lông che chở [hình 4] đơn bào. Bần gồm 3 – 4 lớp tế bào hình chữ nhật xếp xuyên tâm, vách hơi uốn lượn. Nhu bì, 2-3 lớp tế bào. Mô mềm vỏ đạo, tế bào gần tròn hoặc đa giác vách mỏng, kích thước to. Rải rác trong mô mềm vỏ có các bó libe gỗ [hình 5] cấu tạo cấp 1 với gỗ ở trong libe ở ngoài. Nội bì khung caspary, 1 lớp tế bào hình chữ nhật xếp khít nhau, kích thước bằng 1/2 – 1/3 tế bào mô mềm vỏ. Trụ bì 1-2 lớp tế bào hình chữ nhật xếp khít nhau, kích thước bắng tế bào nội bì. Nhiều bó libe gỗ có cấu tạo như các bó trong mô mềm vỏ, xếp lộn xộn. Mô mềm tủy đạo, tế bào gần tròn hoặc đa giác, vách mỏng, kích thước bằng tế bào mô mềm vỏ. Trong mô mềm vỏ và tủy rải rác có các hạt tinh bột và tế bào tiết [hình 6].
Vi phẫu lá [hình 7]:
Gân giữa: mặt trên lõm, mặt dưới lồi. Biểu bì tế bào hình chữ nhật hoặc đa giác xếp khít nhau. Mô mềm đạo tế bào gần tròn hoặc đa giác, kích thước không đều nhau. Ở phía biểu bì dưới có các bó libe gỗ lớn nhỏ xếp thành hàng xen kẽ nhau. Bó lớn có cấu tạo với gỗ ở trên, libe ở dưới. Gỗ gồm có: 1-2 mạch hậu mộc, 1-2 mạch tiền mộc; trên gỗ và dưới libe là cụm mô cứng, tế bào đa giác kích thước nhỏ, 2 – 3 lớp tế bào ở phía trên gỗ có vách mỏng, 5 – 6 lớp ở phía dưới libe có vách dày. Bó nhỏ có cấu tạo tương tự bó lớn nhưng mô cứng bao liên tục với 3 lớp tế bào hình đa giác, vách dày. Ở phía trên rải rác cũng có 4-5 bó libe gỗ có cấu tạo như trên. Các cụm mô mềm xốp xen kẽ các bó libe gỗ lớn, đôi khi bị hủy để lại một khuyết lớn; xung quanh các khuyết là các tế bào mô mềm gần tròn chứa nhiều hạt lục lạp.
Phiến lá [hình 8]: tế bào biểu bì trên lớn hơn tế bào biểu bì dưới, lỗ khí có rải rác ở cả 2 biểu bì. Mô mềm khuyết, tế bào gần tròn hoặc đa giác kích thước không đều nhau. Các bó libe gỗ cấu tạo như ở gân giữa. Vùng mô mềm khuyết ở giữa các bó libe gỗ tế bào gần tròn hoặc hình bầu dục, có khi tế bào hơi thuôn dài xếp thành một hàng giống như mô mềm giậu, chứa nhiều hạt lục lạp. Rải rác trong mô mềm là các tế bào tiết màu vàng.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột [hình 9] mịn, màu vàng tươi.
Thành phần: mảnh bần [hình 10] gồm những tế bào vách hơi uốn lượn xếp xuyên tâm. Mảnh mô mềm [hình 11], tế bào đa giác vách mỏng, chứa các hạt tinh bột. Lông che chở [hình 12] đơn bào dài. Mảnh mạch [hình 13] vạch. Nhiều hạt tinh bột [hình 14] hình trứng đầu nhọn, kích thước 22,5-30 x 12,5-17,5 µm, có vân đồng tâm và rốn lệch tâm. Tế bào chứa tinh dầu và nhựa tạo thành những đám lổn nhổn màu vàng.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Là cây trồng quen thuộc của các nước nhiệt đới. Ở Việt Nam cây được trồng khắp nơi.
Mùa hoa quả: tháng 3-5.

Bộ phận dùng: 

Thân rễ (Rhizoma Curcumae longae) thường gọi là Khương hoàng.

Thành phần hóa học: 

Nước 13,1%; protein 6,3%; chất béo 5,1%; chất vô cơ 3,5%; sợi 2,6%; carbonhydrat 69,4% và caroten tính theo vitamin A. Tinh dầu Nghệ chứa: d. phelandren 1%, d. sabinen 0,6%; cineol 1%; borneol l0,5%; zingi; beren 25%; sesquiterpen (tuemeron) 58%...Các chất màu phenolic trong củ Nghệ chủ yếu là dẫn chất của diarylheptan, 3 chất chủ yếu là curcumin, bis(4-hydroxy-cinnamoyl)- methan và 4-hydroxycinamoyl feruloyl methan.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Thân rễ Nghệ dùng chữa kinh nguyệt không đều, bế kinh ứ máu, vùng ngực bụng trướng, đau tức, dạ dày viêm loét, ung nhọt, ghẻ lở, phong thấp, tay chân đau nhức, vàng da. Ở Trung Quốc, Nghệ dùng làm thuốc kích thích, bổ, giảm đau, cầm máu và tăng cường chuyển hóa, trị loét dạ dày tá tràng…Ở các nước Đông Nam Á, Nghệ được xem là có tác dụng bổ dạ dày, gây trung tiện, bổ máu, chữa vàng da và bệnh gan khác. Tác dụng bảo vệ tế bào gan là do hợp chất curcumin có trong thân rễ Nghệ.

Hình đính kèm

Hình 1:

Hình 2:

Hình 3:

Hình 4:

Hình 5:

Hình 6:

Hình 7:

Hình 8:

Hình 9:

Hình 10:

Hình 11:

Hình 12:

Hình 13:

Hình 14:

Chi Kaempferia

Loài Kaempferia galanga L.(Cây Địa Liền)

Tên

Tên khác: 

Thiền liền, Lương khương.

Tên nước ngoài: 

East indies galingale, kaempférie, faux galangal.

Mẫu thu hái tại: 

Vườn quốc gia Lò gò Xa mát, tỉnh Tây Ninh, tháng 6/2010

Số hiệu mẫu: 

ĐL0610, được lưu tại Bộ môn Thực vật Khoa Dược.

Thân cỏ [hình 1] sống nhiều năm nhờ thân rễ, rễ có khi phình thành củ nhỏ hình trứng. Thân rễ [hình 2] phình thành nhiều củ cạnh nhau, mùi thơm và cay, lớp vỏ ngoài màu nâu vàng, mặt cắt ngang gần tròn, đường kính 2-3 cm, màu vàng nhạt, có nhiều xơ màu trắng, chia làm 2 vùng bằng một vòng ranh giới màu trắng.
Lá [hình 3] đơn, thường 2 (ít khi 3) lá mọc xòe sát mặt đất. Phiến lá hình bầu dục, dài 8-9 cm, rộng 6-7 cm, ngọn lá nhọn, gốc thuôn; mặt trên gần như nhẵn, màu xanh lục sậm; mặt dưới nhiều lông mịn và dài, màu trắng xanh, vùng ngọn màu đỏ tía; mép lá nguyên, hơi gợn sóng, viền trắng hay đỏ tía; gân lá song song, cong về phía ngọn lá, gân giữa to, lõm ở mặt trên, lồi ở mặt dưới. Bẹ lá dài 2,5-3 cm, rộng 1,5-2 cm, hình lòng máng, dày, phía gốc màu trắng, phía trên màu xanh lục nhạt, nhiều gân dọc song song, ôm chặt nhau thành một thân giả cứng cao 1,5 cm. Lưỡi nhỏ dạng màng mỏng, màu trắng có rìa nâu, cao 1-2 mm.
Cụm hoa [hình 4] mọc lên từ thân rễ, đi qua ống tạo bởi các bẹ lá, không cuống, mang nhiều hoa, thường mỗi lần chỉ có 1 hoa nở. Hoa [hình 5] to, không cuống, không đều, lưỡng tính, mẫu 3. Lá bắc dạng phiến mỏng, uốn cong hình lòng máng, đầu thuôn nhọn, dài 3-3,5 cm, rộng 1-1,5 cm, phía gốc màu trắng, phía trên màu xanh lục nhạt. Lá bắc con ở phía trục hoa đối diện lá bắc, chẻ dọc từ gốc thành 2 phiến rời dạng dải hẹp, dài 2-2,5 cm, rộng 1-1,5 mm, màu trắng, có gân dọc ở giữa. Lá đài [hình 6] ở hoa nụ dính nhau thành một ống kín, màu trắng, dài 2,8-3 cm, đỉnh chia 2 răng rất nhỏ; khi hoa nở ống đài xẻ dọc ở phía trước từ đỉnh xuống một đoạn 0,5 cm. Cánh hoa [hình 7] màu trắng, dính nhau bên dưới thành một ống hẹp, dài 4,5-5 cm, trên chia thành 3 phiến mỏng, không đều, dạng dải, dài 2-2,5 cm, đầu nhọn uốn cong ra phía ngoài, hai mép thường cuộn vào phía trong, có nhiều gân dọc; phiến giữa ở phía sau rộng 4-5 mm, hai phiến bên rộng 2-3 mm. Nhị [hình 8] đính trên miệng ống tràng thành 2 vòng: (1) vòng ngoài gồm 2 nhị lép phía sau ở hai bên biến đổi thành 2 phiến màu trắng, dài 18-20 mm, rộng 8-10 mm, gốc thuôn hẹp hơi dày thành một cán dài 5 mm, phía trên nở rộng thành hình bầu dục đầu nhọn, nhiều gân dọc; nhị trước trụy không còn dấu vết; (2) vòng trong gồm 2 nhị lép phía trước và 1 nhị thụ phía sau; nhị lép dính nhau thành một cánh môi [hình 9] to, màu trắng, gốc có bớt tím ở giữa, giữa phần màu tím có một vệt dài màu vàng, dài 25-35 mm, phía dưới thuôn hẹp thành một cán dài 15-20 mm, rộng 8-10 mm, phía trên là một phiến rộng dài 10-15 mm, rộng 20-24 mm, chia làm 2 thùy; nhị thụ đứng đối diện với cánh môi; chỉ nhị không có; bao phấn dạng phiến, màu trắng, dài 4-4,5 mm, rộng 2-3 mm, mặt trong mang 2 ô phấn xếp dọc, mọng nước; chung đới [hình 10] kéo dài thành một phiến mỏng dài 4-4,5 mm, rộng 2-3 mm, màu trắng, uốn ra phía ngoài khi hoa nở, chia 2 thùy hình bầu dục, uốn cong xuống phía dưới; hạt phấn [hình 11] màu trắng, thường hình cầu, đường kính 100-110 µm, có khi hình bầu dục hay hình trứng, dài 110-155 µm, rộng 100-112 µm. Lá noãn 3, dính nhau thành bầu [hình 12] dưới 3 ô [hình 13], mỗi ô 2 hàng noãn, đính noãn trung trụ; bầu màu trắng ngà, dẹp, dài 2,5-3 mm, rộng 1-1,5 mm, rải rác lông mịn màu trắng; vòi nhụy 1, dạng sợi, nhẵn, màu trắng, dài 40-45 mm, đi qua khe dọc giữa 2 ô phấn [hình 14]; đầu nhụy 1, màu trắng, loe thành hình phễu miệng có rìa lông.

Đặc điểm giải phẫu: 

Rễ [hình 15]
Vi phẫu cắt ngang hình tròn, chia làm 2 vùng rõ rệt, vùng vỏ chiếm ¾ diện tích vi phẫu, vùng trung trụ chiếm 1/4 .
Vùng vỏ: Tầng lông hút với nhiều lông hút rõ ở những rễ non, ở rễ già chỉ còn vết tích tầng lông hút với một vài tế bào móp méo không đều, vách tẩm chất bần. Tầng suberoid [hình 16] 3-5 lớp tế bào hình đa giác, vách mỏng, xếp khít nhau thành từng dãy so le. Mô mềm vỏ tế bào vách cellulose, chia làm 2 vùng: (1) mô mềm vỏ ngoài nhiều lớp tế bào hình tròn hay bầu dục méo mó, sắp xếp lộn xộn, chừa những đạo hay khuyết nhỏ; (2) mô mềm vỏ trong 2-5 lớp tế bào hình bầu dục, càng vào phía trong tế bào càng nhỏ, xếp thành dãy xuyên tâm và vòng đồng tâm, chừa những khuyết nhỏ. Nội bì 1 lớp tế bào hình chữ nhật hay hình bầu dục dẹt, vách trong và 2 vách bên tẩm ligno-suberin dày lên thành khung hình chữ U rõ. Tế bào tiết [hình 17] tinh dầu nhiều, rải rác trong vùng mô mềm vỏ; tinh dầu màu vàng sậm.
Vùng trung trụ [hình 18]: Trụ bì 1 lớp tế bào hình đa giác hay hình bầu dục dẹt, vách cellulose, xếp xen kẽ với tế bào nội bì. Bó dẫn cấp 1 ngay dưới trụ bì, gồm 12-14 bó libe và 12-14 bó gỗ xếp xen kẽ nhau trên một vòng. Bó libe thành từng cụm nhỏ hình bầu dục, phân hoá hướng tâm. Bó tiền mộc gồm 2-3 mạch nhỏ không đều, phân hoá hướng tâm với mạch nhỏ phía ngoài, mạch to phía trong. Mạch hậu mộc 8-10, có thể tiếp xúc hay không tiếp xúc với bó tiền mộc. Tia tủy 1-2 dãy tế bào mô mềm ở giữa bó libe và bó gỗ. Mô mềm tuỷ chia 2 vùng: vùng ngoài tế bào hình đa giác, vách dày tẩm chất gỗ, xếp khít nhau; vùng trong tế bào hình tròn, vách cellulose, xếp chừa những đạo. Tế bào tiết tinh dầu rải rác trong vùng mô mềm tủy.
Thân rễ [hình 19]
Vi phẫu cắt ngang hình gần tròn, vùng vỏ gần bằng vùng trung trụ.
Vùng vỏ: Bần [hình 20] 5-8 lớp tế bào hình chữ nhật, vách mỏng, xếp thành dãy xuyên tâm. Nhu bì 2-3 lớp tế bào rất dẹt, vách cellulose. Mô mềm vỏ nhiều lớp tế bào hình tròn hay hình đa giác, xếp lộn xộn và chừa những đạo nhỏ, vài lớp tế bào gần nội bì chứa rất nhiều tinh bột. Bó libe gỗ nhiều, rải rác trong vùng mô mềm, libe ở trên, gỗ ở dưới; gỗ gồm 2-3 mạch nhỏ không đều được bao quanh bởi các tế bào mô mềm hình đa giác, vách cellulose; bao xung quanh bó libe gỗ thường có những tế bào vách cellulose dày. Nội bì 1 lớp tế bào hình chữ nhật dẹt, không đều, có đai caspari rõ. Tế bào tiết tinh dầu rất nhiều trong vùng mô mềm, tinh dầu màu vàng sậm.
Vùng trung trụ [hình 21]: Mô mềm tủy tế bào tương tự mô mềm vỏ, chứa rất nhiều tinh bột [hình 22]; vài lớp tế bào ngay dưới nội bì không chứa tinh bột. Bó libe gỗ [hình 23] rải rác khắp vùng mô mềm, cấu tạo tương tự bó ở vùng vỏ, kích thước không đều, bó bên ngoài nhỏ, càng vào tâm vi phẫu bó càng to; bó libe gỗ đầu tiên có thể tiếp xúc với nội bì hay cách nội bì 1-3 lớp tế bào mô mềm. Tế bào tiết [hình 24] tinh dầu rải rác khắp mô mềm tủy.


Gân giữa lõm ở mặt trên, lồi ở mặt dưới. Biểu bì tế bào hình bầu dục, tế bào biểu bì trên to hơn tế bào biểu bì dưới; lớp cutin có răng cưa. Lông che chở ít gặp, đơn bào, dạng sợi hẹp và rất dài, đầu nhọn, kéo dài từ 1 tế bào biểu bì. Mô mềm có những khuyết to xếp thành một hàng xen giữa 2 bó libe gỗ, chia làm 4 vùng: (1) mô mềm trên (vùng ngay dưới biểu bì trên) tế bào to, nhỏ dần về phía dưới, hình gần tròn, xếp chừa những đạo rất nhỏ; (2) mô mềm giữa quanh bó libe gỗ và ở bìa các khuyết thì tế bào nhỏ, hình bầu dục, chứa nhiều lục lạp, xếp chừa những khuyết nhỏ; (3) mô mềm xốp trong các khuyết to có tế bào hình sao phân nhánh, thường bị hủy; (4) mô mềm dưới (vùng ngay trên biểu bì dưới) 5-7 lớp tế bào hình đa giác, xếp chừa những đạo rất nhỏ. Bó libe gỗ [hình 25] cấp 1 kích thước không đều, xếp thành 2 lớp: lớp trên là 3 bó nhỏ, xếp ở giữa gân; lớp dưới là các bó to, xếp xen kẽ với các khuyết to. Mỗi bó gồm gỗ ở trên, libe ở dưới; gỗ gồm mạch gỗ nhỏ, không đều, sắp xếp lộn xộn, mô mềm gỗ hình đa giác, xếp khít nhau, vách cellulose; trên bó gỗ và bao dưới bó libe thường có cụm mô cứng; bao quanh bó libe gỗ là vùng mô mềm với những tế bào nhỏ, chứa nhiều lục lạp.
Phiến lá [hình 26]: Biểu bì tế bào hình đa giác hay hình chữ nhật dẹt, lớp cutin có răng cưa; biểu bì trên tế bào to, ít lỗ khí; biểu bì dưới tế bào nhỏ, nhiều lỗ khí [hình 27]. Lông che chở cấu tạo tương tự ở gân lá. Mô mềm chia làm 4 vùng: (1) mô mềm trên (vùng ngay dưới biểu bì trên) tế bào rất to, hình gần tròn, xếp chừa những đạo rất nhỏ, lớp tế bào dưới cùng hình trứng; (2) mô mềm giữa [hình 28] bao quanh và nối liền các bó libe gỗ tế bào nhỏ, hình bầu dục, chứa nhiều lục lạp, xếp chừa những khuyết nhỏ hay đôi khi bị hủy tạo thành những khuyết to; (3) mô mềm xốp trong các khuyết to có tế bào hình sao phân nhánh, thường bị hủy; (4) mô mềm dưới (vùng ngay trên biểu bì dưới) 5-7 lớp tế bào nhỏ, hình đa giác, xếp chừa những khuyết to hay nhỏ. Bó libe gỗ cấu tạo tương tự ở gân giữa và thường được bao quanh bởi một vòng tế bào mô mềm hình bầu dục hay gần tròn. Tế bào tiết tinh dầu rải rác trong mô mềm.
Bẹ lá [hình 29]: Vi phẫu cắt ngang lõm sâu ở mặt trên. Biểu bì, lông che chở và mô mềm tương tự như gân giữa lá. Bó libe gỗ [hình 30] cấu tạo tương tự ở gân giữa, kích thước không đều, xếp thành 3 lớp hướng về biểu bì dưới; các bó ở lớp giữa to, xen kẽ các khuyết, vùng mô mềm bao quanh chứa nhiều lục lạp; các bó ở trên và ở dưới các khuyết (gần sát biểu bì) rất nhỏ; trên bó gỗ và dưới bó libe có thể có cụm mô cứng hay mô dày. Tế bào tiết tinh dầu rải rác trong vùng mô mềm.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột màu trắng ngà, mùi thơm cay.
Soi kính hiển vi thấy: Mảnh bần [hình 31] màu nâu nhạt, tế bào vách dày. Mảnh mô mềm [hình 32] tế bào vách mỏng, có chứa nhiều tinh bột hoặc chứa tinh dầu [hình 33] màu vàng sậm. Mảnh mạch xoắn [hình 34], mạch vạch. Hạt tinh bột [hình 35] rất nhiều, hình trứng hay hình bầu dục, kích thước 16-32,5 x 7,5-22,5 µm, đôi khi hình 3 cạnh hay hình tròn, đường kính 8,5-22,5 µm, có rốn và vân không rõ.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Phân bố ở Ấn Độ, Lào, Campuchia, Trung Quốc, Malaysia, Inđônêxia, Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc hoang ở nhiều nơi, thường gặp dưới tán rừng ẩm ướt hoặc được trồng làm cảnh và lấy củ làm thuốc.

Bộ phận dùng: 

Thân rễ (Rhizoma Kaempferiae), thái miếng phơi hay sấy khô.

Thành phần hóa học: 

Trong Địa liền có tinh dầu, trong tinh dầu thành phần chủ yếu là bocneola metyl, aldehyd cinamic, cinamat etyl, p-metoxycinamat etyl, kaempferol, kaepferid-4’-metyl este, 1,8-cineol, pentadecan, xineola

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Địa liền có công năng ôn trung tiêu, tán hàn, trừ thấp, kiện tỳ vị; chủ trị tê thấp, đau nhức xương khớp, nhức đầu, răng đau, ngực bụng lạnh đau, tiêu hoá kém; còn dùng trị tiêu chảy, hắc loạn và ho gà. Ngày dùng 4 - 8 g, dạng thuốc sắc, bột hoặc viên. Ngâm rượu 40 - 50% trong 5 - 7 ngày để xoa bóp. Thường phối hợp với các vị thuốc khác.

Hình đính kèm

Hình 1:

Hình 2:

Hình 3:

Hình 4:

Hình 5:

Hình 6:

Hình 7:

Hình 8:

Hình 9:

Hình 10:

Hình 11:

Hình 12:

Hình 13:

Hình 14:

Hình 15:

Hình 16:

Hình 17:

Hình 18:

Hình 19:

Hình 20:

Hình 21:

Hình 22:

Hình 23:

Hình 24:

Hình 25:

Hình 26:

Hình 27:

Hình 28:

Hình 29:

Hình 30:

Hình 31:

Hình 32:

Hình 33:

Hình 34:

Hình 35:

Chi Zingiber

Loài Zingiber officinale (Willd.) Roscoe (Cây Gừng)

Tên

Tên khoa học: 

Zingiber officinale (Willd.) Roscoe

Tên nước ngoài: 

Zingiber (Anh), Gingembre, Amome des Indes (Pháp)

Mẫu thu hái tại: 

Tuy Hòa-Phú Yên, ngày 01 tháng 06 năm 2009

Thân [hình 1] khí sinh là thân cỏ nhiều năm, cao khoảng 1 m. Thân rễ [hình 2] có khi phồng thành củ. Thân rễ (quen gọi là củ) không có hình dạng nhất định, phân nhánh trên một mặt phẳng, làm thành nhiều đốt, kích thước không đều, dài 3-7 cm, dày 0,5-1,5 cm, mặt ngoài màu trắng tro hay vàng nhạt, có vết nhăn dọc, ở đầu đốt có vết tích của thân cây đã rụng, trên các đốt có vết sẹo của các lá khô (vảy), vết bẻ màu trắng tro hoặc ngà vàng, lõi tròn [hình 3] rõ, mùi thơm, vị cay nóng. Lá không cuống, mọc so le thành 2 dãy, hình ngọn giáo, thắt lại ở gốc, đầu nhọn dài 15-20 cm, rộng 2 cm, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt; gân lá song song. Bẹ nhẵn, có thể ôm vào nhau thành một thân giả. Lưỡi nhỏ [hình 4] dạng màng, nhẵn, chia 2 thùy cạn.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân rễ [hình 5]
Biểu bì gồm một lớp tế bào hình chữ nhật, nhỏ xếp tương đối đều đặn. Dưới lớp biểu bì là mô mềm vỏ gồm 5-6 lớp tế bào hơi dẹp, vách tẩm chất gỗ. Phía dưới lớp mô mềm vỏ này có khoảng 5 lớp bần [hình 6]. Mô mềm vỏ khuyết, tế bào tròn, vách mỏng, có thể bị bẹp lại và nhăn nheo đối với thân rễ già. Nội bì đai Caspary, trụ bì gồm 1 lớp tế bào kích thước không đều, có xu hướng bị ép dẹp bởi các bó libe gỗ nằm gần đó. Vòng nội bì và trụ bì gần như liên tục. Mô mềm tủy là những tế bào hình tròn, to hơn tế bào mô mềm vỏ. Rất nhiều bó libe gỗ tập trung thành 1 vòng sát trụ bì và rải rác khắp mô mềm vỏ và mô mềm tuỷ. Mỗi bó có 1-6 mạch gỗ, libe chồng lên gỗ. Tế bào tiết [hình 7] chứa tinh dầu màu vàng tươi rất nhiều trong mô mềm vỏ và tủy.
Thân khí sinh [hình 8]
Cấu tạo từ nhiều bẹ lá ôm lấy lõi thân.
- Bẹ lá: Hình lưỡi liềm. Biểu bì trên hình đa giác, có kích thước lớn hơn biểu bì dưới. Mô mềm khuyết. Các bó mạch nhỏ, gồm từ 1-6 mạch gỗ, gỗ ở trên, libe ở dưới, các tế bào xung quanh hóa mô cứng. Tại đoạn có bó mạch, mô mềm và biểu bì bị ép dẹp. Ở bẹ lá ngoài cùng rải rác có biểu bì tiết.
- Thân: vi phẫu hình bầu dục. Tế bào biểu bì hình chữ nhật, nhỏ. Dưới biểu bì là mô mềm khuyết hay đạo, tế bào hình tròn, vách mỏng. Trụ bì gồm 2-3 lớp tế bào uốn lượn tạo thành 1 vòng liên tục. Bên trong và ngoài vòng trụ bì có nhiều bó mạch gỗ nhỏ gồm từ 1-6 mạch gỗ, libe chồng lên gỗ. Các bó gỗ ngoài [hình 9] trụ bì thường có vòng mô cứng bao xung quanh, các bó phía trong [hình 10] thì không có. Mô mềm tủy đạo, tế bào đa giác hoặc chữ nhật, đôi khi có chừa các khuyết lớn.
Ở bẹ lá và thân đều chứa rải rác tinh thể [hình 11] calci oxalat hình khối nhỏ, túi tiết và tế bào tiết rải rác trong vùng mô mềm.
Lá [hình 12]
Mặt trên lõm, mặt dưới lồi, tế bào biểu bì hình đa giác, biểu bì dưới nhỏ hơn biểu bì trên, biểu bì tiết [hình 13] có cả ở 2 mặt. Mô mềm khuyết. Nhiều bó mạch xếp thành hàng, gỗ ở trên, libe ở dưới, vòng mô cứng nằm dưới libe. Bó gỗ ở gân giữa là lớn nhất và nhỏ dần về 2 phía. Túi tiết và tế bào tiết rải rác trong vùng mô mềm. Ở 2 bên phiến lá, dưới biểu bì trên có 1 lớp tế bào hạ bì lớn, không liên tục và 3 lớp mô mềm khá giống mô giậu, nhưng tế bào ngắn hơn. Trên biểu bì dưới cũng có 1 lớp hạ bì.
Biểu bì lá: Cả 2 mặt đều có lỗ khí [hình 14] nhưng biểu bì dưới có nhiều hơn, lỗ khí kiểu 1 lá mầm, các tế bào bạn có dạng hình chữ nhật ngắn hay lục giác. Biểu bì trên [hình 15] xếp đều đặn và thẳng hàng hơn biểu bì dưới [hình 16].

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột thân rễ [hình 17] màu nâu vàng, mùi thơm, vị cay. Gồm có các thành phần sau: mảnh bần màu vàng nâu, gồm nhiều tế bào vách hơi dày. Mảnh mô mềm [hình 18] gồm những tế bào hình đa giác, rải rác có chứa tế bào tiết tinh dầu [hình 19] màu vàng nhạt hoặc tinh bột. Tinh bột hình trứng, có vân rõ, tễ nằm gần đầu nhọn, kích thước 20-24x10-17 μm. Sợi [hình 20] có vách mỏng, phía trong có lỗ trao đổi. Mảnh mạch [hình 21] vạch, mạch vòng, mạch điểm.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Chi Zingiber ở châu Á có khoảng 45 loài, Việt Nam có 11 loài.
Gừng là loại cây gia vị cổ điển được trồng ở nhiều nước trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, từ Đông Á đến Đông Nam Á và Nam Á. Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản là những nước trồng Gừng nhiều nhất thế giới. Ở Việt Nam, cây được trồng ở khắp các địa phương, từ vùng núi cao đến đồng bằng và ngoài các hải đảo.
Trong nhân dân hiện nay có nhiều loại: gừng trâu có thân to, củ to thường để làm mứt, có nhiều ở các vùng núi thấp; gừng gié có thân và củ đều nhỏ nhưng rất thơm. Cây ưa ẩm, ưa sáng. Cây trồng thường có hoa năm thứ 2. Chưa thấy cây có quả và hạt. Gừng trồng sau 1 năm nếu không thu hoạch sẽ có hiện tượng tàn lụi (phần trên mặt đất) qua đông. Thời gian sinh trưởng mạnh của cây trùng với mùa hè-thu nóng và ẩm. Gừng tái sinh dễ dàng bằng những đoạn thân rễ có nhú mầm, có thể trồng quanh năm nhưng tốt nhất vào mùa xuân. Ra hoa vào mùa hạ và mùa thu.

Bộ phận dùng: 

Thân rễ (Rhizoma Zingiberis) thu hái vào mùa thu đông, dùng tươi là sinh khương, phơi hoặc sấy khô là can khương. Còn dùng tiêu khương (gừng khô thái lát dày, sao sém vàng, đang nóng, vẩy vào ít nước, đậy kín, để nguội); bào khương (gừng khô đã bào chế); thán khương (gừng khô thái lát dày, sao cháy đen tồn tính).
Công dụng: Bột rễ trị bệnh mắt hột tốt, làm giác mạc trở nên trong, giảm sự thẩm thấu dưới niêm mạc, tăng hoạt tính sống của mô mắt. Trị đau bụng lạnh, đầy trướng không tiêu, nôn mửa ỉa chảy, tứ chi lạnh, đàm ẩm, ho suyễn.

Thành phần hóa học: 

Gừng chứa 2-3% tinh dầu với thành phần chủ yếu là các hợp chất hydrocarbon sesquiterpenic: β-zingiberen (35%), ar-curcumenen (17%), β-farnesen (10%) và một lượng nhỏ các hợp chất alcol monoterpenic như geraniol, linalol, borneol.
Nhựa dầu chứa 20-25% tinh dầu và 20-30% các chất cay. Thành phần chủ yếu của nhóm chất cay là zingeron, shogaol và zingerol, trong đó gingerol chiếm tỷ lệ cao nhất. Ngoài ra, trong tinh dầu Gừng còn chứa α-camphen, β-phelandren, eucalyptol và các gingerol. Cineol trong Gừng có tác dụng kích thích khi sử dụng tại chỗ và có tác dụng diệt khuẩn trên nhiều vi khuẩn.

Hình đính kèm

Hình 1:

Hình 2:

Hình 3:

Hình 4:

Hình 5:

Hình 6:

Hình 7:

Hình 8:

Hình 9:

Hình 10:

Hình 11:

Hình 12:

Hình 13:

Hình 14:

Hình 15:

Hình 16:

Hình 17:

Hình 18:

Hình 19:

Hình 20:

Hình 21:

Bộ Lúa (Poales)

Họ Lúa(Poaceae)

Chi Coix

Loài Coix lachryma-jobi L. var. ma-yuen (Rom) Stapf (Cây Ý Dĩ)

Tên

Tên khác: 

Bo bo, Hạt cườm, Cườm gạo, Dĩ mễ, Co đươi (Thái), Mặt pat (Tày)

Tên khoa học: 

Coix lachryma-jobi L. var. ma-yuen (Rom) Stapf

Tên nước ngoài: 

Job’s tears, Gromwell read (Anh), Lame de job, Lame de christ, Larmille (Pháp)

Mẫu thu hái tại: 

Mẫu thu hái vào tháng 05 năm 2009, tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

Cỏ [hình 1] mọc thành bụi, cao 1 – 2 m. Tiết diện thân hơi bầu dục, màu xanh nhạt ở thân non, xanh đậm ở thân già. Phía dưới gốc thân có nhiều rễ hình trụ mọc ra, phần rễ trên mặt đất có màu xanh, phần rễ dưới mặt đất có màu trắng. Lá đơn, mọc cách, phiến lá hình dải dài, gốc tròn, đầu nhọn, kích thước 50 – 65 x 3,5 – 4,5 cm, bìa phiến nguyên, hơi gợn sóng, mặt trên có nhiều lông cứng ngắn. Gân lá song song, gân giữa nổi rõ ở mặt dưới. Bẹ lá hình lòng máng, ôm sát thân, kích thước 13 – 15 x 2 – 2,5 cm, màu xanh nhạt, có nhiều gân dọc song song. Lưỡi nhỏ là 1 màng mỏng màu trắng, đỉnh có những răng cưa nhỏ, cao khoảng 1-1,5 mm. Cụm hoa [hình 2]: các bông chét hợp thành 1 bông giả. Bông giả được mang trên 1 trục tiết diện gần tam giác màu xanh, phình ở đỉnh, dài 7,5 – 8,5 cm, một mặt hơi lõm, một mặt lồi. Mỗi bông giả mang 1 bông chét cái [hình 3] ở gốc và nhiều bông chét đực [hình 4] ở phía trên. Bông chét cái được bao bởi 1 lá bắc rất cứng, hình trứng màu xanh lục, đường kính 0,6 cm, trục của các bông chét đực đi xuyên qua lá bắc này. Đôi khi bông giả chỉ mang các bông chét đực. Trên đoạn mang bông chét đực của bông giả, tại mỗi mấu thường có 1 – 2 bông chét đực không cuống ở cạnh 1 bông chét đực có cuống; cuống dạng sợi màu xanh nhạt, dài 1 mm. Mỗi bông chét đực có 2 mày hình bầu dục đầu nhọn màu xanh. Mày dưới to (kích thước 0,7 x 0,3 cm), có 2 nếp gấp và trên 2 nếp gấp này có răng cưa, bề mặt hơi nhám, có những đường gân dọc song song. Mày trên nhỏ (kích thước 0,7 x 0,2 cm), có 2 nếp gấp và những đường gân dọc song song, phía trong 2 mày là 2 hoa đực đính ở 2 mức khác nhau. Bông chét cái mang 1-2 hoa cái (thường là 1 hoa). Khi bông chét cái có 1 hoa, trên bầu noãn có 1 rãnh sâu; ở rãnh này có 2 bộ phận hình trụ cứng màu trắng xanh, đỉnh màu xanh, dài 0,7 – 0,8 cm ; theo tài liệu thì đây là vết tích của hoa cái bị trụy. Hoa đực [hình 5]: mỗi hoa đực có 2 mày nhỏ hình thuôn nhọn màu trắng xanh, đính ở 2 mức khác nhau; mày nhỏ dưới kích thước 0,6 x 0,25 cm, có 2 tai nhỏ màu trắng cao 0,6 mm; mày nhỏ trên kích thước 0,5 x 0,2 cm, không có tai. Nhị 3 (hiếm khi 1 ), rời, đều. Chỉ nhị dạng sợi màu trắng, dài 0,6 mm Bao phấn hình thuôn dài màu vàng, dài 0,4 cm, 2 ô, nứt dọc, hướng trong, đính đáy. Hạt phấn [hình 6] hình cầu màu vàng, rời, kích thước 67,5 – 75 µm. Hoa cái [hình 7]: mỗi hoa cái có 2 mày mỏng màu trắng gần như trong suốt, dài 0,6 cm, nằm ngoài vết tích của hoa cái bị trụy. Lá noãn 2, bầu [hình 8] trên 1 ô, 1 noãn, đính noãn đáy; bầu noãn màu xanh nhạt, có 1 mặt lõm và 1 mặt lồi. 1 vòi nhụy hình sợi màu trắng, dài 0,6 cm. 2 đầu nhụy hình sợi, dài 1,1 cm, màu trắng, có nhiều lông nhỏ. Quả hình trứng hay gần tròn, kích thước 0,3 – 0,5 x 0,2 – 0,4 cm, mặt ngoài màu trắng hay trắng ngà, đôi khi có những đốm màu đỏ nâu.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Vi phẫu rễ trên mặt đất [hình 9]
Vi phẫu hình gần tròn. Vết tích tầng lông hút là 1 lớp tế bào vách uốn lượn. Tầng suberoid 3 – 4 lớp tế bào hình đa giác, kích thước không đều nhau, xếp lộn xộn, 1-2 lớp tế bào ngoài cùng kích thước lớn gấp 3- 4 lần các lớp tế bào bên trong. Mô mềm vỏ khuyết, chia 2 vùng: mô mềm vỏ ngoài tế bào gần tròn hoặc đa giác, 7- 8 lớp tế bào xếp lộn xộn; mô mềm vỏ trong, 7 – 8 lớp tế bào xếp thành dãy xuyên tâm và vòng đồng tâm, 1- 2 lớp tế bào mô mềm vỏ sát lớp nội bì kích thước nhỏ hơn. Nội bì hình chữ U, 1 lớp tế bào hình chữ nhật xếp khít nhau, kích thước bằng 1/2 tế bào mô mềm vỏ trong cùng. Trụ bì là 1 lớp tế bào hình chữ nhật xếp khít nhau, xen kẽ với tế bào nội bì. Hệ thống dẫn: có 45 bó tiền mộc và 45 bó libe xếp xen kẽ nhau, khoảng 22 mạnh hậu mộc to. Tia tủy là vùng mô mềm giữa bó tiền mộc và bó libe. Mô mềm tủy đạo, chia 2 vùng: 5-7 lớp tế bào hơi đa giác hóa mô cứng, kích thước nhỏ; vùng mô mềm tủy còn lại tế bào gần tròn hoặc đa giác vách bằng cellulose, kích thước không đều nhau, gần bằng tế bào mô mềm vỏ.
Vi phẫu rễ dưới mặt đất [hình 10]
Cấu tạo giống vi phẫu rễ trên mặt đất nhưng khác ở một số điểm sau: có các lông hút, mô mềm vỏ có các khuyết to.
Vi phẫu thân [hình 11]
Vi phẫu hình gần tròn. Biểu bì tế bào hình chữ nhật hoặc đa giác xếp khít nhau, rải rác có lỗ khí. Phía trong lớp biểu bì là một lớp tế bào mô cứng, tế bào hình đa giác, kích thước bằng hoặc hơi lớn hơn tế bào biểu bì. Mô mềm vỏ khuyết, tế bào gần tròn. Hệ thống dẫn gồm nhiều bó libe gỗ theo kiểu bó mạch kín xếp lộn xộn. Mỗi bó có cấu tạo như sau: libe chồng lên gỗ; xung quanh là bao mô cứng gồm 2-4 lớp tế bào hình đa giác, kích thước nhỏ; gỗ gồm có 2 mạch hậu mộc và 1-2 mạch tiền mộc, một số bó có mạch tiền mộc bị hủy để lại một khuyết. Mô mềm tủy đạo, tế bào gần tròn hoặc hơi đa giác, vùng mô mềm đạo xung quanh các bó libe gỗ phía ngoài có kích thước nhỏ hơn và hóa mô cứng. Ở gần giữa vi phẫu thường có 1-2 khuyết.
Vi phẫu lá [hình 12]
Gân giữa: tế bào biểu bì hình chữ nhật hoặc đa giác xếp khít nhau, kích thước nhỏ, rải rác có lỗ khí và lông che chở [hình 13] đơn bào ngắn. Dưới biểu bì trên là 2 – 3 lớp tế bào mô cứng hình đa giác, vách dày, kích thước nhỏ; ở biểu bì dưới mô cứng thường tập trung thành từng cụm, 8 – 9 lớp tế bào phía dưới các bó libe gỗ. Mô mềm đạo, phần lớn hóa mô cứng, tế bào đa giác vách mỏng, kích thước không đều nhau, lớn hơn rất nhiều so với tế bào biểu bì. Hệ thống dẫn: nhiều bó libe gỗ lớn nhỏ xếp xen kẽ nhau trên 1 hàng. Mỗi bó có cấu tạo với gỗ ở trên, libe ở dưới; xung quanh là bao mô cứng, 1 – 2 lớp tế bào hình đa giác hoặc bầu dục, kích thước nhỏ bằng tế bào mô cứng ở biểu bì trên. Gỗ gồm có 2- 4 mạch hậu mộc to, 1-2 mạch tiền mộc, đôi khi mạch tiền mộc ở bó lớn bị hủy để lại một khuyết.
Phiến lá [hình 14]: tế bào biểu bì trên hình chữ nhật hoặc đa giác, có các tế bào bọt kích thước lớn và ít lông che chở đơn bào ngắn. Tế bào biểu bì dưới kích thước lớn hơn tế bào biểu bì trên. Lỗ khí rải rác ở cả 2 biểu bì. Mô mềm khuyết tế bào vách uốn lượn. Nhiều bó libe gỗ giống như ở gân lá, xung quanh các bó libe gỗ là các tế bào mô mềm hình thuôn dài, chứa các hạt lục lạp.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột [hình 15] hạt mịn, có màu trắng ngà.
Thành phần: hạt tinh bột [hình 16] hình dĩa, rốn thường phân nhánh hình sao, kích thước 12,5 - 37,5µm, đôi khi có hạt hình nhẫn. Mảnh nội nhũ, tế bào hình đa giác khá đều đặn, bên trong có chứa chất dự trữ.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á.
Mùa hoa quả: tháng 5-12

Bộ phận dùng: 

Hạt (Semen Coicis) thường gọi là Ý dĩ nhân.

Thành phần hóa học: 

Quả Ý dĩ chứa tinh bột, protein, dầu béo, lipid, thiamin, acid amin, adenosin, chất vô cơ vết.
Lá và rễ chứa: benzoxazolon.
Rễ còn có môt số dẫn chất lignan, syringyl glycerol.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Do có lượng chất béo và tinh bột khá cao, nên quả Ý dĩ được coi là một nguồn lương thực có giá trị, đồng thời là một vị thuốc quý. Ý dĩ chữa rối loạn tiêu hóa, phù thũng, bí đái, tả lỵ, phong thấp lâu ngày không khỏi, gân co quắp khó vận động.

Hình đính kèm

Hình 1:

Hình 2:

Hình 3:

Hình 4:

Hình 5:

Hình 6:

Hình 7:

Hình 8:

Hình 9:

Hình 10:

Hình 11:

Hình 12:

Hình 13:

Hình 14:

Hình 15:

Hình 16:

Chi Eleusine Gaertn

Loài Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cây Cỏ Mần Trầu)

Tên

Tên khác: 

Cỏ vườn trầu, Màng trầu, Thanh tâm thảo, Cỏ chỉ tía, Ngưu cân thảo, Hang ma (Tày), Co nhả hút (Thái), Hìa xú xan (Dao), Cao day (Ba Na), Hất t’rớ lạy (K’Ho), R’day (H’Dong)

Tên khoa học: 

Eleusine indica (L.) Gaertn.

Tên nước ngoài: 

Indian millet, Crowfoot grass, Dog’s tail grass, Crabgrass, Wiregrass (Anh), Éleusine d’inde (Pháp) [14]

Mẫu thu hái tại: 

Khoa Dược- Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh ngày 17/05/2009

Số hiệu mẫu: 

CMT170509, được lưu tại bộ môn Thực Vật-Khoa Dược

Dạng sống cỏ [hình 1], mọc thành bụi cao 50-70 cm, thân đứng, màu xanh nhạt, nhẵn bóng, dài 7-11 cm, chia nhiều đốt, tiết diện bầu dục. Lá đơn, mọc cách; phiến lá hình dải thuôn nhỏ dần ở ngọn, đầu nhọn, dài 20-25 cm, rộng 5-6 cm, mặt trên ráp có lông cứng rất ngắn, mặt dưới nhẵn màu xanh đậm hơn mặt trên; mép nguyên có lông trắng dài ít dần ở phần ngọn lá. Gân lá song song, gân chính nổi rõ ở mặt dưới, có lông ở hai mặt. Bẹ lá mảnh, bóng, mặt ngoài màu xanh nhạt, mặt trong màu trắng xanh, dài 6-14 cm, lưỡi nhỏ [hình 2] là một lằn lông. Rễ chùm, màu trắng hay vàng nhạt. Cụm hoa [hình 3] gié-hoa [hình 4] xếp 2 dãy so le thành 5-7 gié dài 7-9 cm đính ở đỉnh trục phát hoa ở ngọn thân, thường có 1 gié đính ở mức thấp hơn. Các gié-hoa ở ngọn gié già hơn ở gốc. Trục phát hoa hình trụ hơi dẹp, dài 38-55 cm, màu xanh nhạt ở gốc xanh đậm ở ngọn, nhẵn bóng, có nhiều sọc dọc màu trắng, phần đáy trục có nhiều lông. Gié-hoa dài 5-6 mm có 3-5 hoa, hoa ở gốc già hơn ở ngọn. Gié-hoa có 2 dĩnh, dĩnh dưới nhỏ hơn dĩnh trên. Dĩnh trên hình mũi mác, thuôn mềm, đầu nhọn, dài 2,5-3 mm, rộng khoảng 0,5 mm, màu trong, có lườn, 4-7 gân màu xanh, mặt lưng có răng cưa nhọn. Dĩnh dưới giống dĩnh trên, dài 1,5-2,0 mm, rộng 0,1-1,5 mm, có 1 gân màu xanh, mặt lưng có răng cưa nhọn dài hơn dĩnh trên. Hoa [hình 5] dài 3-4 mm có 2 trấu. Trấu dưới hình mũi mác, trong, thuôn nhọn, có 2-4 gân xanh, dài 2,5-3,0 mm, rộng 0,5-0,75 mm, mặt lưng có răng cưa nhọn. Trấu trên giống trấu dưới, dài 1,5-2,0 mm, rộng 0,2-0,4 mm, có 1 gân. Bộ nhị [hình 6] có 2-3 nhị, rời, đều, chỉ nhị hình sợi chỉ, màu trắng, dài 2,5-3 mm; bao phấn thuôn dài 0,2-0,3 mm, 2 ô, nứt dọc, hướng nội, đính giữa, màu vàng khi non và màu tím khi già; hạt phấn màu vàng, hình cầu, đường kính 22,5-32,5 µm. Bộ nhụy [hình 7] bầu 1 ô, hình trứng, dài 0,3-0,4 mm, rộng 0,2-0,3 mm; 2 vòi nhụy dài gần bằng nhau, màu xanh, hình trụ, dài 0,3-0,4 mm; đầu nhụy dài 0,7-0,8 mm có nhiều lông dài màu nâu. Quả [hình 8] hình trứng hoặc bầu dục, màu xanh bóng dài 1,2-1,5 mm

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân [hình 9]
Vi phẫu hình bầu dục hơi nhọn một đầu. Biểu bì hóa mô cứng, tế bào hình chữ nhật, kích thước rất nhỏ, lớp cutin dày. Mô cứng gồm 1-2 lớp tế bào hình đa giác, kích thước không đều. Mô mềm khuyết gồm 5-7 lớp tế bào hình tròn, kích thước lớn hơn nhiều so với tế bào biểu bì, rải rác có tinh thể calci oxalat hình khối. Vòng mô cứng [hình 10] gồm 9-11 lớp tế bào hình đa giác vách dày, kích thước nhỏ. Mô mềm tủy khuyết, tế bào hình đa giác gần tròn, kích thước không đều. Nhiều bó libe gỗ [hình 11] xếp không thứ tự từ vòng mô cứng vào trong, càng vào trong kích thước các bó càng lớn. Mỗi bó [hình 12] gồm một cụm nhỏ libe tế bào hình đa giác, vách hơi uốn lượn, 1-3 mạch hậu mộc to, hình tròn hoặc bầu dục; 1-2 mạch tiền mộc hình tròn nằm trong vùng mô mềm vách cellulose, có thể có khuyết ở cực gỗ. Bao bên ngoài mỗi bó dẫn là 1-2 lớp tế bào mô cứng hình đa giác. Tủy bị hủy tạo khuyết to

Gân giữa: Biểu bì trên tế bào hình chữ nhật, kích thước khá đều nhau; biểu bì dưới hóa mô cứng, tế bào hình chữ nhật nhỏ hơn biểu bì trên, sát biểu bì dưới là cụm mô cứng, tế bào rất nhỏ bằng 1/5-1/6 tế bào biểu bì trên. Mô cứng tập trung thành cụm gồm 2-4 lớp tế bào hình đa giác, khoang hẹp. Mô mềm đạo gồm nhiều lớp tế bào hình đa giác gần tròn, kích thước rất lớn. Các bó dẫn kích thước khác nhau xếp thành hàng dọc theo biểu bì dưới, có một bó lớn ở chính giữa gân. Mỗi bó gồm gỗ ở trên, libe ở dưới; tế bào libe hình đa giác, vách uốn lượn; gỗ có mạch hậu mộc to, hình tròn nằm hai bên, 1-2 mạch tiền mộc trong vùng mô mềm vách cellulose. Bao bên ngoài bó libe gỗ là 2 vòng mô, vòng mô cứng bên trong gồm 1-2 lớp tế bào hình đa giác, vòng mô mềm bên ngoài gồm 1 lớp tế bào hình đa giác to chứa khối chất màu vàng nâu dạng cát và hạt lục lạp; bên ngoài vòng này có 1-2 lớp tế bào mô mềm hình thuôn dài, chứa lục lạp.
Phiến lá [hình 13]: Biều bì trên lồi nhiều ở các vị trí có bó dẫn, lõm ở các vị trí tế bào bọt. Tế bào biểu bì trên và biểu bì dưới hình chữ nhật hóa mô cứng, tế bào biểu bì dưới lớn hơn biểu bì trên, lỗ khí [hình 14] rải rác ở cả hai biểu bì, có ít lông [hình 15] che chở đơn bào ngắn ở biểu bì trên; trên lớp biểu bì trên có các tế bào bọt, hình tròn kích thước lớn hay hình chữ nhật. Mô cứng tạo thành cụm phía trên và dưới bó libe gỗ, tế bào hình đa giác, kích thước nhỏ. Nhiều bó dẫn [hình 16] kích thước không đều xếp xen kẽ với các vị trí tế bào bọt. Cấu tạo bó dẫn giống như bó dẫn ở gân giữa. Mô mềm đạo tế bào hình đa giác xen giữa các các bó dẫn rất ít

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột màu vàng xanh. Mảnh biểu bì [hình 17] tế bào hình chữ nhật, vách uốn lượn. Mảnh mô mềm tế bào hình đa giác hoặc hình chữ nhật, vách mỏng. Sợi [hình 18] có 2 loại: loại vách dày khoang rộng và loại vách dày khoang hẹp, ống trao đổi rõ. Mảnh mạch mạng [hình 19], mạch vòng [hình 20], mạch xoắn [hình 21]. Hạt phấn [hình 22] hình cầu, đường kính 20-25 µm

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Eleusine Gaertn. là một chi nhỏ, chỉ có 2 loài ở Việt Nam. Cây ưa ẩm, ưa sáng, có thể hơi chịu bóng, mọc thành đám.
Mùa hoa quả: tháng 5-7.

Bộ phận dùng: 

Tòan cây (Herba Eleusini), thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô.

Thành phần hóa học: 

Phần trên mặt đất chứa: 3-0-β-D-Glucopy ranosyl-β-sitosterol và dẫn chất 6’-0-palmitoyl. Cành lá tươi có flavonoid.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Chữa cảm nắng, sốt nóng, máu xông lên đầu, nổi mẩn đỏ, đái són, đái đỏ. Bài thuốc “toa căn bản” có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu, nhuận gan, giải độc, kích thích tiêu hóa. Chữa cao huyết áp. Ở Malaysia, nước ép cỏ mần trầu dùng cho phụ nữ sau khi sinh mau hết sản dịch. Ở Philippin, dùng làm thuốc lợi tiểu, chữa kiết lỵ, nước sắc với “gogo” (Entada phaseoloides) gội đầu sạch gàu, chống rụng tóc.

Hình đính kèm

Hình 1:

Hình 2:

Hình 3:

Hình 4:

Hình 5:

Hình 6:

Hình 7:

Hình 8:

Hình 9:

Hình 10:

Hình 11:

Hình 12:

Hình 13:

Hình 14:

Hình 15:

Hình 16:

Hình 17:

Hình 18:

Hình 19:

Hình 20:

Hình 21:

Hình 22:

Chi Imperata Cirillo

Loài Imperata cylindrica (L.) P. Beauv (Cỏ Tranh)

Tên

Tên khác: 

Bạch mao căn, Cỏ tranh săng, Bạch mao căn, Nhả cà, Lạc cà (Tày), Gan (Dao), Día (K’Dong)

Tên khoa học: 

Imperata cylindrica (L.) P. Beauv. var. cylindrica

Tên nước ngoài: 

Alang-grass, Alang-alang, Bedding grass (Anh), Herbe à paillote (Pháp)

Mẫu thu hái tại: 

Quận 12-thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24/05/09

Số hiệu mẫu: 

CT240509, được lưu tại bộ môn Thực vật - Khoa Dược

Dạng sống [hình 1] cỏ sống dai, cao 0,9-1,55 m. Thân khí sinh dài 0,5-1,2 m, nhẵn, mấu có nhiều lông mềm màu trắng dài khoảng 3-4 mm, tiết diện bầu dục, tủy bị hủy. Thân rễ [hình 2] màu trắng, tiết diện tròn, đường kính 2-3 mm, nhiều lóng, mấu có vảy và nhiều rễ phụ. Lá [hình 3] đơn, dạng dải thuôn dài đầu nhọn hình ngọn giáo hoặc mũi mác, dài 60-85 cm, rộng 0,7-1,8 cm; mặt trên ráp có lông nhiều ở mép lá, mặt dưới nhẵn. Lá non màu xanh nhạt, cuộn lại; lá già màu xanh đậm. Gân lá song song, gân chính nổi rõ ở mặt dưới. Bẹ lá cứng, hình ống xẻ dọc, ôm thân, phần dưới màu trắng, phần giữa có sọc hồng tím, phần trên màu xanh, dài 18-32 cm; mép bẹ có rìa mảnh; lưỡi nhỏ [hình 4] là lằn lông trắng, dài 1-3 mm. Cụm hoa [hình 5] gié-hoa tạo thành chùy màu trắng bạc dài 20-25 cm trên trục hình trụ ở ngọn thân dài 24-35 cm. Gié-hoa đứng áp sát trục phát hoa, non ở gốc già ở ngọn, có 2-4 hoa; không có dĩnh. Hoa [hình 6] trần, lưỡng tính, dài 3-5 cm; cuống hoa màu xanh nhạt, hình trụ dài 2–6 mm, nhiều lông trắng bạc dài 9-13 mm ở đỉnh. Trấu [hình 7] 2, kích thước gần bằng nhau. Trấu trên hình dải hẹp dài 3-3,5 mm, mềm, màu trắng trong, đầu nhọn, mép và mặt lưng có nhiều lông, có nhiều gân xanh. Trấu dưới giống trấu trên. Trấu phụ [hình 8] 2, gần bằng nhau, dạng màng mỏng, màu trắng trong như thủy tinh, đầu tù răng cưa có nhiều lông tua ở đầu, dài 1,5-2,0 mm, rộng 0,5-0,7 mm. Nhị [hình 9] 2, rời, đều; chỉ nhị màu trắng dạng sợi mảnh, lúc hoa nở chỉ nhị dài ra đưa bao phấn ra ngoài, dài 3-4 mm; bao phấn [hình 10] hình chữ nhật thuôn ở đầu, dài 3-4 mm, 2 ô, nứt dọc, hướng nội, đính giữa [hình 11], màu vàng lúc non, màu nâu khi nứt; hạt phấn [hình 12] hình cầu có nhiều lõm sâu, đường kính 20-27,5 µm. Bộ nhụy [hình 13] bầu 1 ô, hình trứng, dài gần 1 mm; 1 vòi nhụy màu trắng, dài 3,5-4,5 mm; 2 đầu nhụy màu tím nâu, dài 2-2,5 mm, nhiều lông.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Thân khí sinh
Vi phẫu [hình 14] hình bầu dục. Biểu bì tế bào hình chữ nhật, kích thước nhỏ, hóa mô cứng. Mô cứng [hình 15] 1-2 lớp xếp thành vòng liên tục, tế bào hình chữ nhật đứng, kích thước lớn hơn tế bào biểu bì. Mô mềm vỏ đạo gồm 5-7 lớp tế bào hình tròn hoặc gần tròn, kích thước không đều, to hơn tế bào biểu bì rất nhiều, có nhiều khuyết. Vòng mô cứng 1-3 lớp tế bào hình đa giác vách mỏng, kích thước khá đều nhau. Nhiều bó dẫn sắp xếp [hình 16] lộn xộn từ bên ngoài vòng mô cứng [hình 17] vào trong mô mềm, libe ở ngoài gỗ ở trong, đôi khi 3-4 bó nằm cạnh nhau thành cụm. Mỗi bó có libe tạo thành cụm nhỏ, tế bào đa giác vách méo mó xếp lộn xộn; 1-2 mạch tiền mộc hình tròn nằm trong vùng mô mềm vách cellulose, có thể có khuyết ở cực gỗ; 1-3 mạch hậu mộc to, hình tròn, ở 2 bên libe hay phía trên tiền mộc. Bao quanh mỗi bó dẫn là vòng mô cứng gồm 1-3 lớp tế bào hình đa giác, kích thước nhỏ. Mô mềm tủy đạo tế bào hình tròn hoặc đa giác gần tròn, không đều. Tủy bị hủy tạo khuyết to chiếm khoảng 1/3 chiều dày vi phẫu.
Thân rễ
Vi phẫu [hình 18] tiết diện tròn, lõm ở 1 góc. Biểu bì tế bào hình chữ nhật, kích thước nhỏ. Mô cứng [hình 15] 1-2 lớp tế bào hình đa giác dài xếp thành vòng liên tục. Mô mềm vỏ đạo 13-15 lớp tế bào hình tròn hoặc đa giác gần tròn; có bó vết lá [hình 19] trong mô mềm vỏ. Nội bì hình móng ngựa, thấy rõ ống trao đổi. Trụ bì 3-5 lớp tế bào hình đa giác, kích thước nhỏ, vách dày hóa mô cứng thành vòng. Nhiều bó [hình 20] dẫn xếp không thứ tự từ trụ bì vào trong mô mềm tủy, các bó bên trong kích thước hơi lớn hơn. Bó dẫn [hình 21] gồm cụm libe với mạch rây to vách méo mó chồng lên 1-2 mạch hậu mộc to, hình tròn hoặc gần tròn; mạch tiền mộc một hoặc không có. Bao quanh bó dẫn là vòng mô cứng gồm 1-3 lớp tế bào hình đa giác. Mô mềm tủy đạo tế bào hình tròn hoặc hơi bầu dục, kích thước không đều. Vùng tủy chiếm hơn 1/3 đường kính vi phẫu.

Gân giữa [hình 22]: Biểu bì trên và biểu bì dưới hóa mô cứng, tế bào hình chữ nhật nhỏ; lớp cutin dày, rải rác có lỗ khí và lông che chở đơn bào ngắn. Mô cứng 2-3 lớp tế bào hình đa giác, vách dày, kích thước nhỏ; ở trên biểu bì dưới mô cứng thường tạo thành cụm 8 – 9 lớp tế bào ở vị trí các bó dẫn. Mô mềm đạo gồm 9-10 lớp tế bào hình đa giác to. Nhiều bó dẫn to nhỏ xếp xen kẽ nhau trên một hàng [hình 23] gần sát biểu bì dưới. Mỗi bó dẫn [hình 24] gồm gỗ ở trên, libe ở dưới; mạch tiền và hậu mộc hình tròn, 2 mạch hậu mộc ở hai bên mạch tiền mộc; libe tế bào hình đa giác, xếp lộn xộn thành cụm. Bao bên ngoài bó libe gỗ là 2 vòng mô, vòng mô cứng bên trong gồm 1-2 lớp tế bào hình đa giác, vòng mô mềm bên ngoài gồm 1 lớp tế bào hình đa giác to. Một số bó lớn tiền mộc bị hủy để lại các khuyết.
Phiến lá [hình 25]: Tế bào biểu bì trên hình chữ nhật, có các tế bào bọt [hình 26] kích thước lớn; tế bào biểu bì dưới kích thước lớn hơn tế bào biểu bì trên, cả 2 biểu bì đều có lỗ khí và ít lông che chở [hình 27] đơn bào ngắn. Mô cứng tạo thành cụm phía trên và dưới các bó dẫn lớn, gồm 3-5 lớp tế bào hình đa giác nhỏ, rất vách dày. Mô mềm khuyết tế bào vách uốn lượn. Nhiều bó dẫn kích thước không đều xếp xen kẽ nhau, các bó lớn xen kẽ với tế bào hình bọt và nối với hai lớp biểu bì bởi 2 cụm mô cứng, cấu tạo giống như bó dẫn ở gân lá. Xung quanh các bó dẫn là các tế bào mô mềm hình thuôn dài, chứa các hạt lục lạp.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột màu trắng ngà, có nhiều sợi. Mảnh biểu bì [hình 28] tế bào hình chữ nhật dài vách dày mang lỗ khí. Sợi [hình 29] rời hoặc tập trung thành cụm [hình 30], có 3 loại: loại sợi dài, vách dày, khoang hẹp và có ống trao đổi rõ; loại sợi có vách dày, khoang rộng, có lỗ trao đổi. Tế bào mô cứng có hình dạng khác nhau: hình đa giác [hình 31], hình thuôn dài một đầu nhọn một đầu tù hoặc hai đầu nhọn. Mảnh mạch điểm [hình 32], mạch xoắn, mạch vạch [hình 33]. Mảnh mô mềm [hình 34] vách mỏng, tế bào hình gần tròn hoặc đa giác.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Phân bố rộng rãi khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Đại Dương, một số nơi Nam Âu. Ở Việt Nam, cỏ tranh có ở khắp nơi. Cây ưa sáng, sống dai. Mùa hoa quả: gần như quanh năm

Bộ phận dùng: 

Thân rễ (Rhizoma Imperatae) thường được gọi là bạch mao căn. Hoa cũng được dùng.

Thành phần hóa học: 

Cỏ tranh non chứa protein, Ca, N, P, vitamin C, A. Thân rễ chứa đường.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Rễ chữa nhiệt phiền khát, tiểu tiện khó khăn, đái ít, đái buốt, đái ra máu, ho ra máu, chảy máu cam, phù viêm thận cấp, hen suyễn. Hoa cỏ tranh chữa chảy máu cam, ho ra máu, nôn ra máu, chảy máu vết thương.

Hình đính kèm

Hình 1:

Hình 2:

Hình 3:

Hình 4:

Hình 5:

Hình 6:

Hình 7:

Hình 8:

Hình 9:

Hình 10:

Hình 11:

Hình 12:

Hình 13:

Hình 14:

Hình 15:

Hình 16:

Hình 17:

Hình 18:

Hình 19:

Hình 20:

Hình 21:

Hình 22:

Hình 23:

Hình 24:

Hình 25:

Hình 26:

Hình 27:

Hình 28:

Hình 29:

Hình 30:

Hình 31:

Hình 32:

Hình 33:

Hình 34:

Phân lớp Ráy (Aridae)

Bộ Ráy (Arales)

Họ Ráy (Araceae)

Chi Homalomena

Loài Homalomena occulta (Lour.) Schott.(Cây Thiên Niên Kiện)

Tên

Tên khoa học: 

Homalomena occulta (Lour.) Schott.

Tên đồng nghĩa: 

Calla occulta Lour., C. Aromatica Roxb., Homalomena aromatica sensu Gagnep. non Schott., H. Cochinchinensis, Engl. &K. Krause, Spirospatha occulta (Lour.) Raf., Zantedeschia occulta (Lour.) Spreng.

Mẫu thu hái tại: 

Khoa Dược, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh, tháng 4-2010.

Số hiệu mẫu: 

TNK0410, được lưu tại Bộ môn Thực vật Khoa Dược.

Cây [hình 1] cỏ cao 50-60 cm, sống nhiều năm nhờ thân rễ. Thân rễ [hình 2] to, cứng chắc, đường kính 3-4 cm, mặt ngoài màu nâu đen, tiết diện tròn, có mùi thơm, khi bẻ ngang bên trong màu trắng ngà sau chuyển vàng nâu rồi nâu sậm, có nhiều xơ lởm chởm như bàn chải, màu trắng sau chuyển màu vàng ngà.
Lá đơn, mọc từ thân rễ, xếp so le. Phiến lá [hình 3] hình đầu tên, ngọn lá có đuôi, dài 22-26 cm, rộng 20-24 cm, nhẵn ở cả hai mặt, mặt trên màu xanh lục sậm láng bóng hoặc đôi khi vàng xanh, mặt dưới màu nhạt hơn; bìa lá nguyên, hơi gợn sóng; gân lá hình lông chim, có 1 đôi gân gốc và 5-6 đôi gân bên nổi rõ ở mặt dưới; mỗi bên gân gốc gồm 3 gân họp vào nhau; gân gốc và gân bên đều cong hướng về ngọn lá. Cuống lá [hình 4] dài 35-55 cm, xốp, màu xanh lục hơi nâu, hơi lõm ở mặt trên; ½ phía gốc cuống lõm sâu ở mặt trên thành hình lòng máng tạo thành 2 cánh mỏng ở hai bên mép; gốc cuống màu hồng nhạt và nở rộng ôm vào nhau.
Cụm hoa [hình 5] ở nách lá, 8 bông mo chia làm 2 cụm nhỏ, lúc non có hình thoi, được mang bởi một cuống dài 7-10 cm; dưới gốc mỗi bông mo có một phiến mỏng hình bầu dục thuôn dài, đầu nhọn, dài 6 cm, ngang 1 cm, mặt ngoài có 2 nếp gấp dọc nổi rõ, màu hồng nhạt phía gốc và đậm về phía ngọn; cuống bông mo hơi xốp, mặt ngoài láng, phía gốc màu hồng nhạt, phía ngọn màu xanh lục. Mo [hình 6] lúc đầu bọc kín bông nhưng sau đó mở ra bằng một đường dọc nên có dạng thuyền, dài 4-5 cm, màu xanh lục, mặt ngoài láng, phần gốc phớt hồng. Bông [hình 7] có nhiều chất dính, dài 35-42 mm, đoạn 2mm ở gốc không mang hoa, đoạn mang hoa có đường kính 7 mm ở gốc và thuôn nhọn về phía ngọn, đoạn hoa cái [hình 8] ở dưới dài 13-15 mm, đoạn hoa đực [hình 9] ở trên dài 25 mm.
Hoa rất nhỏ. Hoa đực [hình 10] trần, xếp khít vào nhau; nhị 3, dính ở bao phấn thành một khối hình đa giác, màu trắng, khi già chuyển vàng rồi đen; chỉ nhị rất ngắn, gần như không có; bao phấn 2 ô, xếp song song, hướng ngoài, nứt dọc, đính gốc; hạt phấn rời, màu vàng nhạt, hình gần tròn hay hình bầu dục, có rãnh ở giữa, đường kính 12,5-17,5 µm. Hoa cái [hình 11] trần; gốc mỗi hoa cái có nhị lép dài khoảng 2/3 hoa, màu trắng đục, dạng khối nhỏ, hẹp bên dưới, nở rộng bên trên; bầu noãn [hình 12] hình trụ, màu trắng, dài 2 mm, ngang 1 mm, nhẵn; lá noãn 3-4, dính nhau tạo bầu trên 3-4 ô, mỗi ô nhiều noãn đính suốt chiều dọc của thai tòa, đính noãn trung trụ; noãn thuôn dài, màu trắng; vòi nhụy rất ngắn, màu xanh lục nhạt; đầu nhụy hình dĩa, không loe rộng, màu nâu nhạt.
Quả mọng, hình gần cầu, chứa nhiều hạt. Hạt có nội nhũ, mầm thẳng.

Hoa thức và Hoa đồ: 

Tiêu bản:

Đặc điểm giải phẫu: 

Rễ
Vi phẫu [hình 13] cắt ngang hình tròn, chia 2 vùng rõ rệt, vùng vỏ chiếm 2/3 bán kính vi phẫu, vùng trung trụ 1/3.
Vùng vỏ: Tầng lông hút với nhiều lông hút rõ ở những rễ non, ở rễ già chỉ còn là vết tích tầng lông hút với một vài tế bào móp méo không đều có vách tẩm chất bần. Tầng suberoid [hình 14] 3-4 lớp tế bào hình đa giác, vách mỏng, xếp lộn xộn và khít nhau. Mô mềm vỏ [hình 15] tế bào có vách cellulose, chia làm 2 vùng: mô mềm vỏ ngoài 9-10 lớp tế bào hình tròn hay đa giác, sắp xếp lộn xộn chừa những khuyết nhỏ ở góc giữa các tế bào; mô mềm vỏ trong nhiều lớp tế bào hình bầu dục dẹt, càng vào phía trong tế bào càng dẹt, xếp thành dãy xuyên tâm và vòng đồng tâm. Ống tiết [hình 16] kiểu ly bào, bờ gồm một vòng 5-6 tế bào tiết hình đa giác không đều, móp méo. Tinh thể calci oxalat hình kim ngắn, nhỏ tạo thành đám rải rác trong mô mềm vỏ. Nội bì 1 lớp tế bào gần như hình chữ nhật, có đai caspari rõ; ở rễ già, lớp nội bì thường chia thành từng đoạn 2-4 tế bào, đoạn trên đỉnh bó gỗ là những tế bào có vách cellulose, đoạn trên đỉnh bó libe là những tế bào hóa vách hóa gỗ.
Vùng trung trụ [hình 17]: Trụ bì 1 lớp tế bào hình đa giác dẹt, xếp xen kẽ với tế bào nội bì, vách cellulose. Bó libe gỗ [hình 18] cấp 1 tập trung ngay sát dưới lớp trụ bì, gồm 17-19 bó libe và 17-19 bó tiền mộc xếp xen kẽ nhau trên một vòng. Bó libe từng cụm nhỏ hình bầu dục, phân hóa hướng tâm. Bó tiền mộc gồm 2-4 mạch nhỏ không đều, mạch nhỏ ở phía ngoài, mạch to ở phía trong, phân hóa hướng tâm. Mạch hậu mộc rất nhiều chiếm gần hết diện tích mô mềm tủy, to hơn mạch tiền mộc, kích thước không đều nhau, có thể tiếp xúc ngay bên dưới bó tiền mộc hay không; ngay trung tâm của rễ thường có 3 mạch hậu mộc xếp dính vào nhau. Tia tủy 1-2 dải tế bào mô mềm hình đa giác dẹp theo hướng xuyên tâm ở giữa bó libe và bó gỗ, ở rễ non vách tế bào bằng cellulose, ở rễ già vách tế bào hóa gỗ và đôi khi có một vài tế bào trên vách có vân hình lưới. Mô mềm tủy tế bào hình tròn, xếp sát nhau, chia 2 vùng: vùng ngoài quanh các mạch hậu mộc là những tế bào có vách cellulose; vùng trung tâm của rễ là những tế bào có vách hóa gỗ, đôi khi có một vài tế bào đặc biệt [hình 19] trên vách có vân hình lưới.

Thân rễ
Vi phẫu [hình 20] cắt ngang hình tròn. Ở đoạn đầu, thân rễ có đường kính nhỏ, vùng vỏ gần bằng trung trụ, nhưng đi về phía gốc lá thân rễ phình to thì phần trung trụ phát triển do sự gia tăng số lượng các bó libe gỗ nên vùng vỏ nhỏ hơn trung trụ.
Vùng vỏ [hình 21]: Bần [hình 22] 5-6 lớp tế bào hình chữ nhật dẹt, xếp thành dãy xuyên tâm, những lớp ngoài thường bị bong rách. Nhu bì tế bào thường rất dẹt. Mô mềm vỏ nhiều lớp tế bào hình gần tròn, xếp chừa những đạo nhỏ. Túi tiết [hình 23] đường kính 125-150 µm, vòng tế bào tiết ở bờ không đều, thường bị móp méo; bao quanh các túi tiết là 3-4 lớp tế bào mô mềm hình đa giác xếp xen kẽ và khít nhau. Tế bào tiết tinh dầu rải rác trong mô mềm, tinh dầu màu vàng.
Vùng trung trụ [hình 24]: Mô mềm tủy giống như mô mềm vỏ nhưng tế bào thường chứa rất nhiều tinh bột. Bó libe gỗ [hình 25] cấp 1 rất nhiều, xếp rải rác khắp trong mô mềm tủy, có thể riêng lẻ từng bó với libe ở trên và gỗ ở dưới nhưng thường xếp thành từng cụm gồm 2-nhiều bó; mỗi cụm libe gỗ có libe ở giữa, các mạch gỗ có thể xếp thành nhiều dạng khác nhau quanh libe: hình cung [hình 26], hình vòng, hai phía đối diện [hình 27], ba góc [hình 28]. Cụm mô cứng [hình 29] có thể có trên libe, là những tế bào hình đa giác, không đều, vách mỏng, xếp khít nhau. Túi tiết [hình 30] to hơn túi ở vùng vỏ, đường kính 175-250 µm, bờ túi có 3-4 lớp tế bào rất dẹp xếp chồng lên nhau theo hướng xuyên tâm, những tế bào lớp trong thường không còn rõ hình dạng; bao quanh các túi tiết là 3-4 lớp tế bào mô mềm hình đa giác xếp xen kẽ và khít nhau. Tinh thể calci oxalat có 3 dạng: tinh thể hình cầu gai [hình 31] rải rác khắp cùng, tinh thể hình kim dài 38-50 µm, rời và thường bung tràn [hình 32] khắp vùng mô mềm, tinh thể hình kim dài 62-75 µm kết dính [hình 33] thành bó; tế bào mô mềm chứa tinh thể rời có vách mỏng, tế bào chứa tinh thể kết dính thành bó hình bầu dục to vách dày. Tế bào tiết [hình 34] tinh dầu rải rác trong mô mềm, tinh dầu màu vàng.

Lá [hình 35]
Gân lá [hình 36] hơi lõm ở mặt trên, lồi như hình chữ V ở mặt dưới. Biểu bì tế bào có vách cellulose, mặt ngoài hóa cutin; biểu bì trên tế bào to, lớp cutin mỏng và có răng cưa nhỏ nhọn; biểu bì dưới tế bào nhỏ hơn, lớp cutin dày và có răng cưa tròn to; lỗ khí rải rác trên cả hai lớp biểu bì. Mô dày trên chỉ là từng cụm 2-4 tế bào xếp rải rác, vách ít dày ở góc. Mô mềm có 2 loại: 4-6 lớp mô mềm dưới biểu bì trên là những tế bào nhỏ, hình gần tròn, xếp lỏng lẻo, chứa nhiều hạt lục lạp; vùng mô mềm còn lại có rất nhiều khuyết [hình 37] to không đều nhau, các khuyết này có khuynh hướng nhỏ dần và biến mất khi tiến gần đến biểu bì dưới. Bó libe gỗ [hình 38] cấp 1 kích thước không đều, xếp rải rác trong mô mềm; mỗi bó gồm gỗ ở trên, libe ở dưới; gỗ gồm 3-8 mạch gỗ không đều, được bao quanh bởi những tế bào mô mềm nhỏ, không đều, hình đa giác, vách cellulose, xếp khít nhau; libe gồm nhiều mạch rây có kích thước to; phía trên gỗ và dưới libe thường có những cụm tế bào mô cứng vách mỏng. Mô dày dưới [hình 39] 2-6 lớp tế bào vách dày rõ ở góc, tạo thành một cung liên tục, những chỗ lõm chỉ có 2 lớp tế bào, nơi lõm thường có một ống tiết nhỏ. Tinh thể calci oxalat có 3 dạng: tinh thể hình cầu gai [hình 40] rải rác khắp cùng; tinh thể hình kim ngắn [hình 41] và nhỏ, dài 37,5 µm, xếp rời rạc trong những tế bào mô mềm vách mỏng, hơi to hơn các tế bào xung quanh, tinh thể dạng này thường bung tràn khắp cùng; tinh thể hình kim dài [hình 42] 112-125 µm, kết dính thành bó trong những tế bào mô mềm vách dày, chỉ có trong vùng mô mềm có khuyết to, hình bầu dục và dài gấp 2-3 lần so với các tế bào mô mềm. Ống tiết [hình 43] thường có dưới lớp mô mềm chứa nhiều lục lạp hay trong chỗ lõm của cung mô dày dưới, đường kính 75 µm, kiểu ly bào với bờ là một vòng 7-8 tế bào không đều.
Phiến lá [hình 44]: Biểu bì giống như ở gân giữa nhưng lớp cutin ở biểu bì dưới ít dày hơn. Mô mềm giậu [hình 45] dưới biểu bì trên, 1 lớp tế bào hình chữ nhật ngắn và thuôn. Mô mềm khuyết với nhiều khuyết to, rải rác có ống tiết kiểu ly bào, tinh thể calci oxalat hình cầu gai và hình kim. Trong thịt lá có thể gặp một vài bó libe gỗ của gân phụ cấu tạo tương tự như trong gân giữa.
Cuống lá [hình 46]: Vi phẫu cắt ngang lõm ở mặt trên, lồi tròn ở mặt dưới. Biểu bì tương tự như ở gân giữa của lá. Hạ bì liên tục, gồm 1 lớp tế bào nằm xen kẽ biểu bì, tương đối đều, hình gần tròn, to hơn các tế bào mô dày bên dưới. Mô dày góc tạo thành một vòng liên tục, có những chỗ lõm có ống tiết. Mô mềm có khuyết nhỏ và ít hơn so với gân giữa của lá. Túi tiết, tinh thể calci oxalat và bó libe gỗ có đặc điểm giống như ở lá.

Đặc điểm bột dược liệu: 

Bột thân rễ màu vàng nâu, mùi thơm, vị cay.
Soi kính hiển vi thấy: Mảnh bần [hình 47] màu vàng sậm, tế bào vách dày. Bó sợi [hình 48] nhiều, gồm các tế bào dài, vách dày nhiều hay ít, khoang rộng. Tế bào mô cứng [hình 49] vách hơi dày, có ống trao đổi rõ, khoang rộng. Mảnh mô mềm [hình 50] gồm những tế bào hình chữ nhật, hình bầu dục hoặc hình tròn, có tế bào tiết tinh dầu màu vàng sậm. Mảnh mạch nhiều, gồm mạch xoắn [hình 51], mạch vạch [hình 52], mạch mạng [hình 53]. Hạt tinh bột hình tròn, đường kính 12-15 µm, rốn dạng vạch rõ, vân mờ. Tinh thể calci oxalat nhiều, gồm 2 loại: tinh thể cầu gai [hình 54] rải rác khắp cùng, đường kính 45-50 µm; tinh thể hình kim [hình 55] dài 38-50 µm nằm rải rác hay tụ thành đám và tinh thể hình kim dài 62-75 µm, kết dính [hình 56] thành bó nằm trong tế bào có vách dày.

Phân bố, sinh học và sinh thái: 

Phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan đến châu Đại Dương. Cây mọc hoang rất nhiều ở các miền rừng núi nước ta. Cây ưa những nơi ẩm ướt, cạnh suối hay dọc khe suối.
Ra hoa tháng 4-6, có quả tháng 8-10.

Bộ phận dùng: 

Thân rễ (Rhizoma Homalomenae), phơi hay sấy khô.

Thành phần hóa học: 

Trong Thiên niên kiện Việt Nam có từ 0,8-1% tinh dầu tính theo rễ khô kiệt. Tinh dầu Thiên niên kiện có màu vàng nhạt hoặc màu nâu vàng nhạt, mùi thơm dễ chịu, tỷ trọng ở 30 oC: 0,8868 (loại 1) hoặc 0,8920 (loại 2), α(30o, D)= -14o50 và -9o33, n(20o,D)=1,45908; 1,4621, tan trong 4 thể tích cồn 70o ở nhiệt độ 30 oC. Trong tinh dầu có chừng 40% linalol, một ít tecpineol, chừng 2% ester tính theo linalyl acetat; ngoài ra còn sabinen, limonen, α- tecpinen, acetaldehyd, aldehyd propionic.

Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Theo tài liệu cổ, Thiên niên kiện vị đắng, cay, hơi ngọt, tính ôn, vào 2 kinh can và thận. Có tác dụng khử phong thấp, mạnh gân cốt.
Hiện nay, Thiên niên kiện là vị thuốc thuốc nhân dân dùng chữa tê thấp, bổ gân cốt, giảm đau nhức, khớp xương đau nhức, co quắp, tê dại dùng trong người già bị đau người, đau dạ dày, đau khớp xương, kích thích giúp sự tiêu hóa.
Ngày dùng 5-10 g dưới dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu.
Thiên niên kiện là nguyên liệu chế tinh dầu, được dùng trong kĩ nghệ nước hoa và làm nguyên liệu chiết suất linalol.

Hình đính kèm

Hình 1:

Hình 2:

Hình 3:

Hình 4:

Hình 5:

Hình 6:

Hình 7:

Hình 8:

Hình 9:

Hình 10:

Hình 11:

Hình 12:

Hình 13:

Hình 14:

Hình 15:

Hình 16:

Hình 17:

Hình 18:

Hình 19:

Hình 20:

Hình 21:

Hình 22:

Hình 23:

Hình 24:

Hình 25:

Hình 26:

Hình 27:

Hình 28:

Hình 29:

Hình 30:

Hình 31:

Hình 32:

Hình 33:

Hình 34:

Hình 35:

Hình 36:

Hình 37:

Hình 38:

Hình 39:

Hình 40:

Hình 41:

Hình 42:

Hình 43:

Hình 44:

Hình 45:

Hình 46:

Hình 47:

Hình 48:

Hình 49:

Hình 50:

Hình 51:

Hình 52:

Hình 53:

Hình 54:

Hình 55:

Hình 56:

Chủ đề