Mục tiêu của chiến dịch Hồ Chí Minh là gì

Mục tiêu của chiến dịch Hồ Chí Minh là gì
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Quân ủy Trung ương duyệt phương án tác chiến Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ảnh: TTXVN

Nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam từ xưa đến nay về cơ bản là nghệ thuật tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc và buộc đối phương phải đánh theo cách của Việt Nam.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước 21 năm, nghệ thuật quân sự truyền thống ấy được thừa kế và phát huy ngày càng cao, đem lại hiệu quả đánh lui địch từng bước, giành thắng lợi từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của địch, giành thắng lợi hoàn toàn.

Đặc biệt là đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, nghệ thuật quân sự Việt Nam được phát triển lên đỉnh cao mới, trong đó độc đáo nhất là việc giải phóng Sài Gòn gần như nguyên vẹn.

Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 giải phóng Sài Gòn là chiến dịch kết thúc một cuộc chiến tranh hiện đại, đánh bại cuộc chiến tranh thực dân mới sau 20 năm Mỹ đầu tư lớn vào chiến trường miền Nam Việt Nam. Theo quy luật và yêu cầu của nó, sức mạnh quân sự là quyết định nhất cho vấn đề thắng - thua trong chiến tranh, đặc biệt là trong trận cuối cùng. Sức mạnh quân sự trong trận này thể hiện nghệ thuật quân sự độc đáo của quân và dân ta.

Nét độc đáo đầu tiên là sự chỉ đạo chiến dịch tài tình, sáng suốt của Đảng mà hạt nhân là Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh thông suốt từ Trung ương đến từng cánh quân trong trận cuối cùng ở cửa ngõ Sài Gòn khi tổ chức lực lượng quân sự, chính trị tập trung áp sát địch, sẵn sàng đánh tiêu diệt, vì thế có thể buộc địch phải chấp nhận lối kết thúc cuộc chiến theo cách của chiến tranh cách mạng Việt Nam.

Với lực lượng tập trung đủ các quân binh chủng, 5 cánh quân tiến vào Sài Gòn thực hiện phương án đánh nhanh, dứt điểm nhanh theo phương châm “thần tốc, táo bạo”, nhằm vào những mục tiêu quân sự trọng điểm đã lựa chọn, bảo đảm chắc thắng; làm cho đối phương dù còn rất đông quân và vũ khí phương tiện chiến tranh rất hiện đại cũng không thể “tử thủ” được nữa, không thể tiến thoái và không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đầu hàng không điều kiện để tránh cái mà phương Tây gọi là “một cuộc tắm máu”.

“Một cuộc tắm máu” mường tượng ấy thực chất chỉ là logic của luận điệu tuyên truyền chống cộng trong quá trình chiến tranh thực dân mới của Mỹ. Từ sau Hiệp định Paris, khi chỉ còn “một mình” chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa đối phó với chiến tranh cách mạng Việt Nam, việc thất bại về quân sự là điều không tránh khỏi, nhưng đầu hàng không điều kiện thì lại là điều cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn không dự kiến, càng không thể nghĩ tới một sự “bất ngờ” nào giống như thực tế lịch sử đã diễn ra.

Nét độc đáo thứ hai trong nghệ thuật quân sự truyền thống được thể hiện ngay trong trận cuối cùng giải phóng Sài Gòn: Đội quân cách mạng lúc này đủ sức đánh tiêu diệt toàn bộ lực lượng còn lại của địch, hình thành thế trận bao vây, tiêu diệt, làm tan rã chủ lực của địch ở vòng ngoài; nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, đập tan lực lượng địch tại vòng trong; đột kích bằng cơ giới hóa mạnh đánh thẳng vào các mục tiêu quan trọng nhất trong nội đô. Nhưng trước giờ phút sinh tử của chính quyền và quân đội Sài Gòn, đội quân chiến thắng ấy đã thực hiện “Mở đường hiếu sinh”(như Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã viết), bắt buộc và cho phép đối phương “cởi giáp ra hàng”.

Việc lấy đại nghĩa làm trọng, thực hiện khoan dung đã giải thích rõ bản chất sự việc đầu hàng không điều kiện của Tổng thống Dương Văn Minh trưa ngày 30/4/975  là việc làm cần thiết, kịp thời, không chỉ có ý nghĩa logic đến việc giải phóng Sài Gòn gần như nguyên vẹn mà còn trực tiếp kết thúc cuộc chiến nhanh nhất, làm mất ý chí và điều kiện của những thế lực chống đối muốn “tử thủ”, đồng thời dập tắt mọi hy vọng về “thương lượng đàm phán” vốn đã bị Mỹ và chính quyền Sài Gòn chà đạp, phá hoại ngay sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực.

Rõ ràng điều này phản ánh một trình độ mới của nghệ thuật kết thúc chiến tranh nhân dân Việt Nam thời hiện đại, buộc đối phương phải kết thúc chiến tranh theo cách của chiến tranh cách mạng có lợi cho phát triển về sau.

Đương nhiên đây là kết quả của quá trình xây dựng và rèn luyện của Quân đội nhân dân Việt Nam trong suốt cuộc kháng chiến; đến Chiến dịch Hồ Chí Minh đã thể hiện thành quá trình phát triển lối đánh thần tốc, táo bạo.

Quá trình đó cũng đồng thời là quá trình quân đội ta thường xuyên xây dựng và rèn luyện cả ý thức chính trị và trình độ tác chiến quân sự, từng cán bộ, chiến sĩ thường xuyên học tập, hiểu biết lịch sử, trau dồi truyền thống, kinh nghiệm của cha ông đánh giặc giữ nước; trở thành người lính có ý thức và bản lĩnh chính trị.

Khi đánh giặc, không sợ hy sinh gian khổ, sẵn sàng xung phong thực hiện nhiệm vụ, xông thẳng vào mục tiêu được phân công và áp sát đối phương. Khi xuất hiện hoàn cảnh và tình huống đặc biệt trong dinh Tổng thống chính quyền Sài Gòn, ai cũng có khả năng trở thành người đại diện cho đội quân cách mạng như Bùi Quang Thận, Phạm Xuân Thệ, Bùi Văn Tùng và nhiều cán bộ chiến sĩ khác trong ngày 30/4.

Cách xử lý để Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng không điều kiện (hoặc bất cứ ai trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa lúc ấy cũng phải làm như thế) để kết thúc chiến tranh nhanh chóng và tức thời; hạn chế tổn thất trong trận cuối cùng cũng là thực tế giữ cho Sài Gòn còn gần như nguyên vẹn khi kết thúc cuộc chiến.

Nét độc đáo thứ ba chỉ chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mới có được, đó là sự kết hợp tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng với nổi dậy của quần chúng nhân dân Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975, ở hầu khắp các quận nội thành, ngay cả ở địa bàn trung tâm và các cửa ngõ quan trọng của Sài Gòn, nhất là các khu vực: Bàn Cờ, Vườn Chuối, Đa Kao, Tân Định, Phú Nhuận, Khánh Hội-Vĩnh Hội, Tân Phú, Bảy Hiền, Gò Môn, Bình Tân, lực lượng quần chúng đông đảo gồm nhiều thành phần dân cư. Họ là những người dân thuộc đủ tầng lớp, lứa tuổi hướng theo và vững tin vào thắng lợi của cách mạng, mong đợi ngày hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc và tạo nên những căn cứ lòng dân vững chãi; họ sẵn sàng hành động nổi dậy và tiếp sức cho hàng chục sư đoàn quân cách mạng ập vào từ 5 hướng đánh chiếm Sài Gòn.

Trong 5 ngày (từ chiều 26/4/1975 đến trưa ngày 30/4/1975), lực lượng nổi dậy từ các căn cứ “lõm” đã tiếp ứng cho 5 cánh quân có đầy đủ binh chủng và trang thiết bị hiện đại chiếm lĩnh tất cả các vị trí mục tiêu ở Sài Gòn từ trong ra ngoài, làm sụp đổ toàn bộ bộ máy chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa, buộc họ phải đầu hàng vô điều kiện và giữ cho Sài Gòn còn gần như nguyên vẹn.

Hà Minh Hồng


16:34, 04/03/2014

Ngày 25-4-1975: Các đoàn quân của ta tiến vào các điểm tập kết bao vây Sài Gòn theo quyết định của Bộ Chỉ huy chiến dịch. Nhiệm vụ của 5 cánh quân chủ lực đánh chiếm 5 mục tiêu chủ yếu là những cơ quan đầu não quan trọng nhất của ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn - vốn là những bộ phận chính trong guồng máy chiến tranh và kìm kẹp nhân dân miền Nam , do Mỹ điều khiển.


1. Dinh Độc Lập: Từ hướng Đông-Nam, Quân đoàn 2- “Binh đoàn Hương Giang” (Sư đoàn 304, 325 phối hợp Sư đoàn 3/QK 5) cùng đặc công vùng ven và thị xã Vũng Tàu đặt pháo ở Nhơn Trạch bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất, tấn công phát triển mũi nhọn sang Cần Giờ, chiếm quận 9, quận 4, phối hợp đánh chiếm Dinh Độc Lập.


Từ hướng Đông, Quân đoàn 4 – “Binh đoàn Cửu Long” từ Biên Hòa- Hố Nai, chọc thẳng vào Sài Gòn, đánh chiếm mục tiêu này, chiếm lĩnh quận 1, 2, 3 và các mục tiêu như Căn cứ Hải quân, Bộ Quốc phòng ngụy, Đài Phát thanh...


2. Bộ Tổng Tham mưu ngụy: Do Quân đoàn 1 – “Binh đoàn Quyết Thắng” (Sư đoàn 320 B, 312), tăng cường thêm Trung đoàn 95 B, một tiểu đoàn đặc công, một tiểu đoàn xe tăng, một trung đoàn cao xạ tự hành, được pháo binh, cao xạ và tên lửa chi viện, phối hợp lực lượng địa phương Bình Phước, Bình Dương và một trung đoàn đặc công vùng ven tấn công theo hướng Bắc. Ngoài ra còn có nhiệm vụ tấn công chiếm Bộ Tư lệnh chỉ huy ngụy tại Gò Vấp, Bình Thạnh, hợp điểm tại Dinh Độc Lập.


3. Sân bay Tân Sơn Nhất: Do Quân đoàn 3 – “Binh đoàn Tây Nguyên” (Sư đoàn 316, 320 A, 10) cùng lực lượng địa phương tại Tây Ninh, Củ Chi, hai Trung đoàn Gia Định, các tiểu đoàn của Thành Đội Sài Gòn và các đơn vị đặc công biệt động, được pháo binh, cao xạ chiến dịch chi viện, tấn công theo hướng Tây-Bắc, đảm nhận nhiệm vụ tấn công. Chia các mũi để hợp điểm tại Dinh Độc Lập; chiếm lĩnh Tân Bình, Phú Nhuận.


4. Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô: Từ hướng Tây-Nam, Đoàn 232 (Sư đoàn 3, 5, 9 và 4 trung đoàn độc lập, 1 trung đoàn đặc công) tăng cường thêm tiểu đoàn tăng T54, tiểu đoàn PT85, tiểu đoàn pháo 130mm, 1 trung đoàn và 5 tiểu đoàn pháo cao xạ hiệp đồng với Sư đoàn 8 đảm trách. Sau khi đánh Bộ Tư lệnh ngụy, sẽ có một bộ phận hợp điểm tại Dinh Độc Lập.


5. Tổng nha Cảnh sát ngụy: Đoàn 232 tổ chức lực lượng cấp sư đoàn và hỏa lực mang vác, thọc vào đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, có bộ phận hợp điểm tại Dinh Độc Lập. Sau đó chiếm lĩnh quận 5, 6, 8, 10, 11 và huyện Bình Chánh.


(Theo CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ)

(Bqp.vn) - Chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến dịch cuối cùng của Quân đội nhân dân Việt Nam trong Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Mùa Xuân 1975, là chiến dịch quân sự có thời gian ngắn nhất trong chiến tranh Việt Nam. Chỉ diễn ra trong 6 ngày (từ 26/4 đến 30/4/1975) song chiến dịch đã đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch sử Việt Nam.

Những ngày cuối tháng 3 năm 1975, chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu được chuẩn bị theo tư tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” với tốc độ “Một ngày bằng 20 năm”. Bộ chính trị xác định : “Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân dân ta đã bắt đầu”.

Ngày 14/4/1975, Bộ chính trị phê chuẩn đề nghị của Bộ chỉ huy chiến dịch, đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, phương án chiến dịch được thông qua lần cuối.

Mục tiêu của chiến dịch Hồ Chí Minh là gì

Sáng 30/4/1975, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 đánh chiếm Sân bay Tân Sơn Nhất. (ảnh tư liệu)

Để chắc thắng trong trận quyết chiến chiến lược lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã quyết định tập trung lực lượng lớn chủ lực và binh khí kỹ thuật cho chiến dịch, gồm: Quân đoàn 1 (thiếu Sư đoàn 308 ở lại bảo vệ miền Bắc), Quân đoàn 2, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và Đoàn 232. Tổng số lực lượng là 15 sư đoàn, một lữ đoàn và 4 trung đoàn bộ binh; 20 lữ đoàn, trung đoàn và 8 tiểu đoàn pháo binh; 3 lữ đoàn, trung đoàn và 6 tiểu đoàn tăng thiết giáp; 8 lữ đoàn, trung đoàn và 2 tiểu đoàn đặc công; 4 trung đoàn và 10 tiểu đoàn thông tin; một trung đoàn tên lửa, hai sư đoàn ô tô vận tải, một bộ phận hải quân và không quân, cùng lực lượng địa phương trong địa bàn chiến dịch.

Mục tiêu của chiến dịch Hồ Chí Minh là gì

Mít tinh mừng ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. (ảnh tư liệu)

Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm các đồng chí Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy; các đồng chí Lê Trọng Tấn, Trần Văn Trà, Lê Đức Anh làm Phó Tư lệnh, Lê Quang Hòa làm Phó Chính ủy, Lê Ngọc Hiền - quyền Tham mưu trưởng.

Chấp hành chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã xác định: “Đánh đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng, kết thúc cuộc chiến tranh, giành thắng lợi triệt để”.

Bộ Tư lệnh xác định hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch là hướng bắc và tây bắc, trong đó hướng tây bắc là chủ yếu nhất. Hướng đông và tây nam là những hướng hiểm yếu và quan trọng. 5 mục tiêu chủ yếu trong nội thành phải nhanh chóng đánh chiếm là: Bộ Tổng tham mưu ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát, Dinh Độc Lập.

Ngày 25/4, mọi công tác chuẩn bị của ta cơ bản đã hoàn thành, các lực lượng chiến dịch đã vào đến vị trí triển khai và sẵn sàng chờ lệnh nổ súng.

Trước đó, ngày 21/4, theo chủ trương của Mỹ, Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Trần Văn Hương lên thay và kêu gọi “ngừng bắn để thương lượng”.

Ngày 26/4, Trần Văn Hương từ chức để nhường chỗ cho con bài chót của Mỹ là Dương Văn Minh. Song âm mưu của Mỹ chỉ là ảo tưởng. Giờ chết của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam đã điểm.

17 giờ ngày 26/4/1975, cuộc tổng công kích đánh chiếm Sài Gòn bắt đầu, mở màn cho Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Chiến dịch Hồ Chí Minh đã sử dụng đòn tấn công quân sự rất mạnh, áp đảo quân địch, đi trước một bước thúc đẩy, hỗ trợ, tạo đà cho đòn nổi dậy của quần chúng; tạo uy lực lớn lao và thanh thế vang dội của đòn tiến công quân sự của các cánh quân chủ lực; phá vỡ hệ thống ngụy quyền cơ sở, cùng với đòn quân sự đập tan ý chí đề kháng của địch.

Từ ngày 26 đến 28/4, ta tiến công vào tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, thực hiện bao vây cô lập triệt để Sài Gòn, tạo thêm thế có lợi để thực hành tiến công trên toàn mặt trận.

Ngày 29/4, đòn quân sự của ta đã chặn đánh và tiêu diệt các sư đoàn 22, 25, 5, 18, thủy quân lục chiến, các lữ 1 dù, lữ 3 kỵ binh ở tuyến ngoài của địch Trong khi đó, các lực lượng đặc công, biệt động, bộ đội địa phương đã phá hủy các trận địa pháo, đánh chiếm các đồn bốt, chiếm giữ các cầu vùng ven.

Ngày 30/4/1975, các binh đoàn của ta đã thọc sâu hùng mạnh, tiến chiếm ngay các mục tiêu chiến lược của địch, bắt toàn bộ nội các bù nhìn của địch, buộc Dương Văn Minh phải lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ta đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng chủ lực, địa phương, cảnh sát thuộc quân khu 3 địch, lực lượng tổng trù bị còn lại và tàn quân của quân đoàn 1, quân đoàn 2. Đập tan hệ thống ngụy quyền từ trung ương đến cơ sở, giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn/Gia Định và các tỉnh Tân An, Gò Công, Hậu Nghĩa, Tây Ninh, Bình Dương, Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu… Tạo điều kiện cho Quân khu 8 và 9 cùng với nhân dân địa phương tiến công nổi dậy tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân khu 4 địch và giải phóng đồng bằng sông Cửu Long trong hai ngày 30/4 và 1/5/1975.

Chiến dịch Hồ Chí Minh tuy chỉ diễn ra trong thời gian rất ngắn nhưng là chiến dịch có ý nghĩa chiến lược. Những kinh nghiệm đã phát triển đến đỉnh cao của chiến dịch Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam, nhất là nghệ thuật chiến dịch của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc kéo dài gần một phần ba thế kỷ đang lùi vào quá khứ. Những những giá trị truyền thống và bài học lịch sử của nó thì còn lại mãi mãi với các thế hệ người Việt Nam.