Nêu chính sách đối ngoại của triều Nguyễn nửa đầu thế kỹ XIX

MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦATRIỀU NGUYỄN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIXTRẦN KIM NHUNG (*)Trong quan hệ đối ngoại nửa đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn phải đốiphó với 3 đối tượng: Trung Quốc, các nước láng giềng ở Đông Nam Á (cụthể là Lào, Miên và Xiên Là) và các nước phương Tây.Đối với nhà Thanh, các vua Nguyễn trước sau vẫn giữ thái độ “thầnphục”, vốn là đường lối đối ngoại truyền thống quan trọng với Trung Quốc,của các triều đại phong kiến trước: nhận sách phong, thực hiện nghĩa vụtriều cống…Bỏ qua tất cả những thủ tục, nghi lễ phát sinh từ “sách phong” và“triều cống”, mà thực ra chỉ có ý nghĩa hình thức, thực tế lịch sử cho thấynhà Nguyễn hoàn toàn tự chủ trong việc hoạch định chính sách đối nội lẫnchính sách đối ngoại. Còn việc nhà Nguyễn lấy chế độ phong kiến MãnThanh làm kiểu mẫu cho việc xây dựng bộ máy cai trị của nó, thì đây là vấnđề thuộc về phạm trù tư tưởng, chúng tôi sẽ bàn sau. Cũng giống như những triều đại phong kiến trước, nhà Mãn Thanhchưa bao giờ từ bỏ tham vọng bành trướng lãnh thổ xuống phương Nam vàluôn sẵn sàng thực hiện tham vọng này ngay khi có dịp. Vì lẽ đó, sự việckhông xảt ra một cuộc va chạm nào đáng kể trong quan hệ giữa hai nước chođến năm 1858 chỉ có nghĩa là nhà Nguyễn nhìn chung đã hoàn thành tốtnhiệm vụ đối ngoại của một nhà nước độc lập là bảo vệ chủ quyền dân tộcvà sự toàn vẹn lãnh thổ.Quan hệ với một số nước lân bang trong khu vực Đông Nam Á thìkhông được phẳng lặng như với Trung Quốc. Đại Nam và Xiêm La bị chiphối bởi nỗ lực tranh giành ưu thế trên bán đảo Trung - Ấn, cụ thể là đối vớiMiên và Lào. Sau các cuộc xung đột giữa hai nước trên lãnh thổ Lào diễn ravào cuối thập niên 1820 và giữa thập niên 1830, Đại Nam đã xác lập đượcưu thế đối với Lào và thậm chí còn sáp nhập một phần lãnh thổ của nướcnày.Quan hệ giữa Đại Nam và Xiêm La quanh vấn đề Chân Lạp diễn raphức tạp hơn. Năm 1833, giữa hai nước đã diễn ra chiến tranh trên lãnh thổMiên và đất Châu Đốc, Hà Tiên. Sau khi dồn đuổi quân Xiêm La về nước,từ năm 1834, Minh Mạng đã sáp nhâp lãnh thổ Miên vào Đại Nam, đổi tênthành Trấn Tây thành và cử người sang cai trị. Năm 1840, dân Miên đã nổidậy chống ách cai trị của triều Nguyễn. Chính quyền Xiêm La nhân cơ hộiđưa quân xâm nhập lãnh thổ Miên. Giữa Đại Nam và Xiêm La nhân cơ hộiđưa quân xâm nhập lãnh thổ Miên. Giữa Đại Nam và Xiêm La lại bùng raxung đột vũ trang, mà kết quả là cả Xiêm Là và Đại Nam đều lần lượt rútquân: 1845 và 1847.Đã có quan điểm cho rằng hoạt động bành trướng và tranh giành ưuthế trên bán đảo Trung - Ấn đã gây hao tổn không ít cho Đại Nam và thậmchí gây phương hại đến quan hệ giữa các nước trong vùng, giữa lúc mớInguy cơ có từ chủ nghĩa thực dân phương Tây lớn lên một cách nhanhchóng. Thậm chí có tác giả còn cho đây là một trong những nguyên nhânthắng lợi của chủ nghĩa thực dân phương Tây.Quan điểm trên vừa đúng, lại vừa không đúng. Chỗ đúng của nó đãđược phân tích kỹ. Cỏn chỗ không đúng của nó là triều Nguyễn không thể vìmột cơn dông đang từ chân trời xa kéo đến mà quên đi việc dập tắt đám cháyđang hoành hành gần ngay căn nhà của mình. Chỉ có thể trách rằng triềuNguyễn đã không tìm ra phương sách đúng đắn để xoá bỏ mối hiềm khíchvới người láng giềng: thương lượng hoà bình thay vì bạo lực quân sự.Nhưng vào thời điểm nửa đầu thế kỷ XIX, đòi hỏi ở nhà Nguyễn những điềumà mãi đến gần hai thế kỷ sau vẫn chưa hoàn toàn khả thi ở rất nhiều nơitrên thế giới, thì liệu có phi lịch sử không?Rốt cuộc lại, nếu trong hoạt động đối ngoại của triều Nguyễn có gì đóđáng bị phê phán thì đó chỉ có thể là đã không tìm ra phương sách đúng đểđối phó với “hoạ Tây dương”. Phương Tây không phải là điều hoàn toànmới mẻ đối với các vua Nguyễn.Góp phần không nhỏ vào thắng lợi của Nguyễn Ánh có nhân tốphương Tây (con người, kỹ thuật, nghệ thuật quân sự…). Dưới triều GiaLong, một số quan lại trong triều là người phương Tây, cụ thể là nhữngngười Pháp. Sự có mặt của nhân tố phương Tây trên lãnh thổ Đại Nam dướithời các vua kế nghiệp vẫn được duy trì, đặc biệt là giáo sĩ và thương nhân,bất chấp bao khó khăn, trở ngại. Được vua cha Gia Long truyền ngôi với lờitrối trăn vừa ẩn ý vừa cụ thể: “PhảI đảm bảo thường xuyên một đội lính gác50 tên để coi sóc bảo vệ lăng một của Bá Đa Lộc và không được khủng bốcác tín đồ đạo Nho, đạo Phật, đạo Thiên Chúa vì cả ba đạo đó đều tốt nhưnhau và việc khủng bố tôn giáo bao giờ cũng tạo cơ hội cho các biến độngvà gây thù oán trong dân gian, thường khi còn làm sụp đổ ngôi vua.” (1).Minh Mạng không hoàn toàn cự tuyệt quan hệ với phương Tây. Khoa học vàkỹ thuật phương Tây, đặc biệt là trong lĩnh vực quân sự, cuốn hút sự chú ýcủa ông. Cho đến những năm cuối thập niên 30, nhiều thương nhân phươngTây vẫn được phép mua bán hàng hoá tại các cảng quy định (2), dù mọI đềnghị ký kết văn kiện chính thức đều bị khước từ. Đáng chú ý hơn là năm1840, giữa lúc cuộc Chiến tranh Nha phiến (1839 – 1842) đang diễn ra,Minh Mạng đã chủ động cử một phái bộ sang Pháp và Anh để thăm dò khảnăng đi đến một hiệp ước về bang giao và thương mại. Tuy không đạt kếtquả, việc làm mang tính chất đột phá này rất tiếc là không được hai vị vua kếnghiệp - Thiệu Trị và Tự Đức tiếp nối. Vì sao?Nguyên nhân dễ thấy nhất là bản thân các vua Nguyễn, kể cả GiaLong người có nhiều quan hệ qua lại với phương Tây nhất (3) hoặc MinhMạng, người luôn tỏ rõ sự hiếu kỳ đối với các vật phẩm phương Tây (đặcbiệt là khí tài quân sự), chưa bao giờ thực sự thấu hiểu phương Tây. Họ nhìnthấy ưu thế của phương Tây trong nhiều lĩnh vực, thậm chí sẵn sàng học tậpnó (thí dụ điển hình là Minh Mạng), nhưng chỉ vì những mục đích hoàn toànthực dụng: Gia Long vì cuộc nội chiến chống nhà Tây Sơn, Minh Mạng vìyêu cầu xây dựng một thể chế vững chắc. Họ chưa bao giờ đặt ra câu hỏi: Vìsao phương Tây lại tỏ ra hùng mạnh như vậy? Câu hỏi này là một phần củathế giới quan. Thực tế cuộc sống cho thấy cho những hiện tượng hiện ra sờsờ ngay trước mắt mọi người hết ngày này qua tháng nọ, có khi đến cả chụcnăm, trăm năm, trở thành quen thuộc đến mức mọi người đều tưởng rằng đãhiểu nó, nên chẳng ai buồn đặt ra câu hỏi tại sao.Thế giới quan của các vua quan nhà Nguyễn nằm trong khuôn khổNho giáo và chẳng ai muốn từ bỏ nó (4). Vì vậy, đối với phương Tây, cùnglắm họ chỉ nhìn thấy được sức mạnh của nó, nhưng không cách nào giảithích được nguồn gốc của sức mạnh đó. Và vì thế trong mắt họ, ngườiphương Tây hiện ra như là giống người trí trá, gian giảo, không biết lễnghi…, hoặc nói theo Tự Đức: “Theo cách lập thuyết của họ, thì không cóngũ hành tương sinh tương khắc, như đã trái lẽ mà không hợp với cổ nhânrồi, lấy gì mà suy tôn họ nữa.” (5)Trong trường hợp này, phản ứng thông thường là vừa phấn khích (vìtò mò), vừa sợ sệt (vì không hiểu). Họ muốn được mạnh như phương Tây,nhưng lại e dè không dám quan hệ quá thân thiết với nó. Do vậy, quan hệgiữa họ với phương Tây là một thứ quan hệ nửa vời: sử dụng con người vàkỹ thuật phương Tây, nhưng không bao giờ chực bỏ công tìm hiểu conngười – văn hoá phương Tây, tiếp thu một số thành tựu khoa học - kỹ thuậtphương Tây, nhưng cự tuyệt văn hoá – tôn giáo phương Tây, buôn bán vớithương nhân phương Tây, nhưng tìm đủ cách để chối từ để ký một thươngước hay lập quan hệ ngoại giao chính thức kể cả với Pháp, nước phương Tâyđược ưu đãi nhất.Thứ quan hệ nửa vời vừa không sao trở thành nhân tố giục giã việchoạch định một chính sách lâu bền, nhất quán và phù hợp, vừa không thể tồntại vững bền và do vậy sẽ bị chấm dứt ngay khi nó vấp phải những khó khănđầu tiên và những khó khăn đầu tiên và những khó khăn đó xuất hiện vàocuối thập niên 1830, đầu thập niên 40, khi Trung Quốc, nước mà chế độphong kiến Việt Nam, kể cả nhà Nguyễn, xem là tấm gương để noi theotrong mọi sự, bị thất thế trước phương Tây. Sự kiện này đã làm Minh Mạngrung động và ông đã đối phó ngay.Giữa lúc cuộc chiến Nha phiến còn đang tiếp diễn, Minh Mạng đã cửnhiều phái đoàn đến những địa điểm có mặt người Âu trong vùng ĐôngNam Á để thăm dò tình hình, và sang cả Anh, Pháp như đã đề cập ở trên(5).Phương thức đối phó này phản ánh cá tính của Minh Mạng – năng động,quyết đoán, chứ không phải là sự tiếp nối logic của một chủ trương lâu dàivà nhất quán đã được xác định từ trước đó. Chính vì vậy, sau khi MinhMạng đột ngột qua đời (tháng 1 – 1841), toan tính vừa kể của ông đã khôngđược các vị vua kế nghiệp tiếp tục, nhất là trong hoàn cảnh vào những nămsau đó, các tàu Pháp thường xuyên tỏ thái độ gây hấn hoặc thị uy ở cảnh ĐàNẵng, nơi các tàu ngoại giao phương Tây được phép cập bến.Việc Thiệu Trị và nhất là Tự Đức quay lưng hẳng với phương Tâyvừa phản ánh tính nửa vời trong quan hệ giữa Đại Nam và phương Tây, vừahoàn toàn phù hợp với cá tính của Tự Đức: một con người chú trọng đến vănthơ hơn khoa học, kỹ thuật và không quyết đoán.Muốn buôn bán với phương Tây, nhưng từ chối bất kỳ quan hệ nàomang tính pháp lý là chủ trương hoàn toàn trái ngược hẳn với quan điểmphương Tây.Từ nửa sau thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tư bản Tây Âu đã chuyển từ giaiđoạn tích luỹ nguyên thuỷ sang giai đoạn công nghiệp. Chủ nghĩa tư bảnđược củng cố ngày càng vững chắc cả trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng (cáchmạng công nghiệp) và kiến trúc thượng tầng, sau những thắng lợi của mộtloạt cách mạng tư sản. Đáng chú ý là xu hướng xây dựng nhà nước Phápquyền được đẩy mạnh, mà biểu hiện cụ thể là đạo luật về các quyền (1689)của Anh, Hiến pháp 1776 của Hoa Kỳ, Hiến pháp 1792 của Pháp và bộ luậtNapoléon, một loạt bộ luật về lao động và thương mại đại hàng hải của Anhtrong các thế kỷ XVII – XVIII. Hoạt động quốc tế của chủ nghĩa tư bảnphương Tây vừa được đẩy mạnh ở Viễn Đông, vừa được hướng theo xuhướng pháp chế hoá. Các đại biểu của phương Tây muốn quan hệ giữa họ vàcác nước phương Đông trong mọi lĩnh vực (ngoại giao, thương mại, tôngiáo…) được đặt trên nền tảng pháp lý vững vàng, nghĩa là trên cơ sở củanhững văn kiện ngoại giao cấp quốc gia có giá trị lâu dài. Rõ ràng là chủnghĩa tư bản công nghiệp Âu Tây đang rất cần một thị trường tiêu thụ hànghoá và cung cấp nguyên vật liệu ổn định. Nhu cầu này phải được thoả mãnbằng mọi cách. Nếu không mang lại kết quả, thì phương sách ngoạI giao tấtphải nhường bước cho bạo lực quân sự.Đáng tiếc cho nước nhà vào nửa đầu thế kỷ XIX, bang giao quốc tế ởViễn Đông đã bị đảo lộn hoàn toàn bởi sự có mặt của một nhân tố không chỉmới, mà còn mang tính cách mạng: đó là vai trò ngày càng trở nên quantrọng với nhịp độ mau chóng của các cường quốc phương Tây, đặc biệt làcủa Anh và Pháp. Vị thế cường quốc số một, duy nhất và chưa hề bị tháchthức từ cả ngàn năm nay trong vùng của Trung Quốc bị thách thức nghiêmtrọng. Và do vậy, việc xác lập một đường lối ngoại giao dù đúng đắn đếnđâu chăng nữa sẽ chẳng còn có ý nghĩa tích cực trong sự nghiệp bảo vệ độclập dân tộc, nếu đường lối đó chỉ lấy Trung Quốc làm đối tượng nhắm đếnduy nhất.Thật không thể phủ nhận rằng sau hơn 50 năm cai trị đất nước (1802 –1858), các vua đầu nhà Nguyễn đã để lại một di sản không nhỏ, trong đó cónhững thứ còn phát huy tác dụng cho đến ngày nay. Nhưng vì sao dù đã tậntâm hết mức, các vua Nguyễn cuối cùng vẫn không sao làm tròn sứ mệnhcủa tầng lớp thống trị: thái bình thịnh trị trong đối nội, độc lập dân tộc vàtoàn vẹn lãnh thổ trong đối ngoại?Không thể không thừa nhận tính đúng đắn, tích cực trong nhiều chínhsách của nhà Nguyễn và chúng đã mang lại hiệu quả trong thực tế khôngnhỏ. Nhưng xem chừng vẫn còn rất nhiều vướng mắc, thậm chí mâu thuẫn:trọng nông, nhưng lai ức thương; nhận thức rằng “văn cử nghiệp làm lầmngười ta đã lâu”, nhưng lại kết luận rằng: “Tập tục theo nhau, khó mà thayđổi. Vài năm nữa nên bàn thay đổi”; cố duy trì quan hệ hoà hiếu với TrungQuốc, nhưng lại “bế quan toả cảng” với phương Tây – không khước từ buônbán với các thương nhân phương Tây, nhưng cự thuyệt mọi đề nghị dẫn đếnmột văn kiện pháp lý chính thức; chú tâm tìm hiểu kỹ thuật phương Tây,nhưng lại bằng lòng với lời giải thích rằng đó là trò “trí trá, gian giảo”; vàcòn nhiều mâu thuẫn nữa, để rồi cuối cùng thừa nhận rằng tình hình đấtnước đòi hỏi những cải cách, nhưng không mạnh dạn mang ra thực hiệnnhững sáng kiến nhận được.Các tài liệu chính thức cho thấy các vua Nguyễn không đến nỗi xa rờithực tế đất nước, họ biết rằng cần phải thực hiện những sửa đổi, nhưng cácbiện pháp đưa ra đều mang tính nửa vời, không đủ sức chuyển đổi tình hình.Rõ ràng là tầm nhìn của họ bị hạn chế, chính xác hơn: thế giới quan của họkhông vượt thoát ra ngoài khuôn khổ Khổng giáo.Tình trạng khủng hoảng kéo dài cả hai thế kỷ (tính từ thế kỷ XVI) (6)của xã hội phong kiến Việt Nam cho thấy những giải pháp truyền thốngtrong khuôn khổ tư duy Khổng giáo từ lâu đã không còn hiệu nghiệm. Xãhội Việt Nam đầu thế kỷ XIX cần những giải pháp mạnh bạo hơn, mang tínhđột phá, nghĩa là phi truyền thống vượt ngoài khuôn khổ tư duy Khổng giáo.Lịch sử các nước cho thấy những giải pháp cách mạng như vậy có thểđến từ hai hướng: tự phát sinh ở bên trong hoặc được du nhập từ bên ngoài.Hoàn cảnh lịch sử, môi trường văn hoá, vị trí địa lý, điều kiện xã hội, cụ thểlà: nội chiến, loạn lạc triền miên, ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hoá TrungHoa (và đầy là loại nền văn hoá vừa lớn), ở sát cạnh người láng giềng khổnglồ vừa mạnh vừa luôn có tham vọng bành trướng (nhu cầu quốc phòng trởthành yếu tố chủ đạo trong sinh hoạt của cả dân tộc), mầm mống tư bản chủnghĩa không đủ mạnh để tạo ra động lực vật chất cho tư duy sáng tạo, khảnăng tư duy sáng tạo rất có hạn của trí thức trong nước. Tất cả không tạothuận lợi cho sự phát sinh tại chỗ những giải pháp phi Khổng giáo.Thương nhận và giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam không trễ hơn baonhiều so với các nước khác trong khu vực, nghĩa là cũng từ thế kỷ XVI,đúng vào thời điểm chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu sa vào bước đườngkhủng hoảng. Đây là cơ hội để giới thống trị và trí thức nước nhà tiếp cậnnhững vấn đề mà xã hội phong kiến đặt ra từ góc độ phi Khổng giáo.Tiếc rằng ở giới thống trị thì thừa tính thực dụng, còn ở các trí thức thìlại quá thiếu sự tò mò tri thức. Kết cục là họ chỉ biết dùng mà mãi vẫn khôngbiết cách chế tạo ra những sản phẩm được các đại biểu phương Tây mangđến.Trong quan hệ với phương Tây, các vua Nguyễn và trí thức quan lạitriều Nguyễn không đi ra ngoài phong cách trên. Hậu quả là bệng thì có lúcgiảm, nhưng không bao giờ dứt hẳn và khi tái phát thì bệnh lại trở nặng hơnlúc trước, trong lúc thần chết đã lù lù đứng sẳn ở đầu giường. Thực tế lịch sử cho thấy thực dân phương Tây trở thành mối đe doạnguy hiểm đối với độc lập dân tộc trong trường hợp căn bệnh của xã hộIphong kiến đó không được chữa trị đúng thuốc và đúng liều. Nhật Bản vàTrung Quốc, Xiêm La và Việt Nam là những thí dụ rõ ràng nhất.SOME THOUGHTS ABOUT DIPLOMATIC POLICY OFNGUYEN DYNASTY IN THE FIRST 19TH SEMI – CENTURYTRAN KIM NHUNGIn the diplomatic relation of the first 19th semi – century, the Nguyendynasty must face to three objects: China, South – East neighbours (Lao,Cambodia, Siam) and the Western countries. The relation between Nguyendynasty and China and the South – East neighbours sometimes proceededcomplicatedly, but we can say that the Nguyen dynasty has completedperfectly their diplomatic mission as an independent Government. Buttowards the Western countries, the Nguyen dynasty has exposed a lot ofweak points, and that’s the reason of the serious sickness oc the Vietnamesefeudalism started falling in the situation of crisis.CHÚ THÍCH1. Launay. Histoire générale de la Société des Mission Etrangères,Paris, 1894. - Dẫn lại theo Nguyễn Phan Quang, Việt Nam nửa đầuthế kỷ XIX, mở cửa hay đóng cửa?, trong sách Những vấn đề vănhoá – xã hội thời Nguyễn, tr. 31.2. Thậm chí năm 1825, Minh Mạng còn viết thư hỏi sứ quán Anh ởSingapore vì sao thương nhân Anh không đến buôn bán tại các cửakhẩu Đại Nam nữa? (Dẫn theo Nguyễn Thế Anh. Kinh tế và xã hộiViệt Nam dưới các vua triều Nguyễn, Sđd, tr. 266).3. Một nhà nghiên cứu nước ngoài đã nhận xét: “Nếu đem so vớiTrung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản cùng thời kỳ, nước Việt Namcủa Gia Long đã có nhiều kinh nghiệm cộng tác với người TâyDương, nhất là người Pháp và đã áp dụng nhiều kỹ thuật của Tâyphương”. (Yoshiharu Tsuboi. Nước Đại Nam…, tr. 50).4. - Rất đáng chú ý những lập luận của vua quan nhà Nguyễn về quanhệ Đại Nam – phương Tây.- Gia Long năm 1803: “Hải cương là nơi quan yếu, sao lại chongười ngoài được” (Thực lục, t. III, Tr. 124)- Gia Long năm 1804: “Tiên vương kinh dinh việc nước không đểngười Hạ lẫn với người Di, đó là thực cái ý đề phòng từ lúc việccòn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo, trí dá, không phải nòi giốngta, lòng họ hẳn khác, không cho ở lại, ban cho ưu hậu mà khiếnvề…” (Thực lục t. III, tr. 193).- Minh Mạng năm 1821: “… Còn vấn đề thương ước thì có thể giảiquyết theo lối thông thường: xuất cảng, nhập cảng nước Việt Namđã có định lệ rõ ràng, các nước ngoài vẫn áp dụng xưa nay, nếumuốn khỏi phiền phức cho cả hai bên, thì quả nhân tưởng khôngnên lập thêm, hay là lập riêng một thương ước khác” (Ưng Trình.Việt Nam ngoại giao sử cận đại, tr. 35).- Năm 1836, Thị lang nội các Hoàng Quýnh: “Nước họ xảo quyệtmuôn mặt, nên cự tuyệt đi. Một khi dung nạp sợ để lo cho đời sau.Người xưa đóng cửa ải Ngọc Quan, ta cự tuyệt Tây vực thực làchước hay chống cự nhung địch” (Thực lục t. XVIII, tr. 109 –110).- Trong tờ số của mình, Kiêm quản viện đô sát Vũ Đức Khuê đãtrình bày quan điểm của mình về việc thông thương với phươngTây: “Các nước di dịch ở phương Tây lớn mạnh nhất không nơinào bằng Đại Tây, Tiểu Tây, chỉ lấy việc buôn bán xây dựng chonước, nếu chỗ nào có lợi, cố sức hầu chết lấy cho bằng được…Việc ngăn giữ từ lúc mới chớm có và khi còn nhỏ, không nênkhông sớm tính đến. Vậy nên tự ta trước đóng cửa cự tuyệt việc đilại, để họ coi ta như Trời, không biết đâu mà lường… Từ xưa đã cóquốc gia là phải nghiêm nghị cự tuyệt, không thèm cùng họ tínhcái lợi trước mắt.” (Thực lục, t. XXV, tr. 190).5. Dẫn lạI theo Nguyễn Phan Quang, Lê Hữu Phước. Khởi nghĩaTrương Định, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1989, tr. 25.6. Xem chi tiết trong Đinh Thị Dung, Quan hệ Ngoại giao trong triềuNguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh, 2001.7. “Bước sang thế kỷ XVI, những mâu thuẫn bên trong của chế độnhà Lê bắt đầu bộc lộ gay gắt, dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấpquyết liệt và những cuộc xung đột giữa các tập đoàn phong kiếnđối lập. Sự suy yếu của triều Lê đồng thời đánh dấu bước đườngsuy yếu kéo dài của các quốc gia phong kiến tập quyền.” (NguyễnPhan Quang, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh. Lịch sửViệt Nam (1427 – 1858), Q.2, tr.1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1977,tr. 50).