Phân tích 3 đặc trưng của phong cách ngôn ngữ chính luận quả văn bản Tiếng mẹ de

(3,0 điểm)

Phân tích đặc trưng của phong cách ngôn ngữ chính luận trong đoạn trích sau:

“Nhiều đồng bào chúng ta, để biện minh việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ, đã than phiền rằng tiếng nước mình nghèo nàn. Lời trách cứ này không có cơ sở nào cả. Họ chỉ biết những từ thông dụng của ngôn ngữ và còn nghèo những từ An Nam hơn bất cứ người phụ nữ và nông dân An Nam nào. Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?

Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm của Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự?

Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người?”

(Trích “Tiếng mẹ đẻ-nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” – Nguyễn An Ninh)


GV giao nhiệm vụ:

Đọc văn bản sau:       

"Thời gian đã lùi xa, nhưng Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu mãi mãi là một mốc son chói lọi trong lịch sử và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, là sức mạnh tinh thần, nguồn cổ vũ, động viên to lớn, đồng thời để lại nhiều bài học quý giá đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.

Đó là bài học về tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa chống giặc đói, giặc dốt, vừa chống giặc ngoại xâm, tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, dù cho chúng có mạnh tới đâu.  

Bài học về phát huy tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.  

Bài học về phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường và sáng tạo, tìm tòi, xác định đúng đường lối cách mạng và nghệ thuật quân sự Việt Nam. 

Bài học về xây dựng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.  

Bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế. "

(Trích Diễn văn của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại Lễ Mít tinh, diễu binh, diễu hành kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2014).

         1/Văn bản trên thuộc phong cách ngôn ngữ gì?  

         2/ Biện pháp tu từ nào được sử dụng nhiều nhất trong văn bản trên ? Nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó?

        3/ Cụm từ "...một mốc son chói lọi trong lịch sử" nói lên điều gì?

        4/ Đặt tiêu đề cho văn bản trên.

-   HS thực hiện nhiệm vụ:

-  HS báo  cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ:

Trả lời:

       1/Văn bản trên thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận.  

         2/ Biện pháp tu từ được sử dụng nhiều nhất trong văn bản trên là điệp ( lặp) cấu trúc câu ( Bài học về...). Tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó: nhấn mạnh những bài học quý giá được rút ra từ chiến thắng Điện Biên Phủ.

        3/ Cụm từ "...một mốc son chói lọi trong lịch sử" có ý nghĩa ca ngợi chiến thắng Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử dân tộc và thế giới, mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam.

        4/ Đặt tiêu đề cho văn bản trên ( ví dụ: Bài học lịch sử từ chiến thắng Điện Biên)

Đề bài: Phân tích tác phẩm Tiếng mẹ đẻ- Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức

Phân tích 3 đặc trưng của phong cách ngôn ngữ chính luận quả văn bản Tiếng mẹ de

  • Phân tích 3 đặc trưng của phong cách ngôn ngữ chính luận quả văn bản Tiếng mẹ de

  • Phân tích 3 đặc trưng của phong cách ngôn ngữ chính luận quả văn bản Tiếng mẹ de

  • Phân tích 3 đặc trưng của phong cách ngôn ngữ chính luận quả văn bản Tiếng mẹ de

  • Phân tích 3 đặc trưng của phong cách ngôn ngữ chính luận quả văn bản Tiếng mẹ de

Phân tích tác phẩm Tiếng mẹ đẻ- Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức
 

Bạn đang xem: Phân tích tác phẩm Tiếng mẹ đẻ- Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức

I. Dàn ý Phân tích tác phẩm Tiếng mẹ đẻ- Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Chuẩn)

1. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn An Ninh (những nét chính về tiểu sử, các sáng tác chủ yếu, đặc điểm sáng tác,…)
– Giới thiệu khái quát về tác phẩm Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức (xuất xứ, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật,…).

2. Thân bài
a. Tác giả phê phán thói học đòi “Tây hóa”– Phê phán lối học đòi “Tây hóa”, “thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình” của nhiều người dân An Nam.– Phê phán lối sống lai căng trong cách ăn uống và xây dựng, kiến trúc nhà cửa.

→ Hậu quả nghiêm trọng của việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ đó chính là “làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng”…(Còn tiếp)

>> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích tác phẩm Tiếng mẹ đẻ- Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức tại đây

Là một nhà văn, nhà báo, nhà yêu nước nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nguyễn An Ninh đã để lại cho bạn đọc thế hệ sau nhiều bài báo, bài diễn thuyết, những bài chính luận đặc sắc với lối viết khúc chiết, trong sáng, không những có độ sâu về tư duy mà còn tràn đầy nhiệt huyết, tấm lòng yêu nước. Tác phẩm “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức” đăng trên báo Tiếng chuông rè năm 1925 là một trong số những bài chính luận xuất sắc của ông.

Trong đoạn văn mở đầu bài viết của mình, tác giả Nguyễn An Ninh đã lên tiếng phê phán lối học đòi “Tây hóa”, “thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình” của nhiều người dân An Nam. Với tác giả, dường như, những người có thói học đòi nói tiếng Tây, cóp nhặt “những cái tầm thường của phong hóa châu u” ấy đang lầm tưởng rằng họ có thể trở thành giai cấp quý tộc, trở thành những người được đào tạo theo kiểu của phương Tây. Nguyễn An Ninh đã nhìn thẳng vào vấn đề và lên tiếng phê phán điều đó. Ông xem việc đó chính là biểu hiện cho “thái độ mù tịt về văn hóa châu u” mà thôi. Không chỉ phê phán thói học nói tiếng Tây, Nguyễn An Ninh còn phê phán lối sống lai căng trong cách ăn uống và xây dựng, kiến trúc nhà “Những kiểu kiến trúc và trang trí lại căng của những ngôi nhà thuộc về những người An Nam được hun đúc theo cái mà những người ở Đông Dương gọi là văn minh Pháp, chứng tỏ rằng những người An Nam bị Tây hóa chẳng có được một thứ văn minh nào”. Và để rồi, trên cơ sở những điều đã phê phán, kết thúc đoạn văn mở đầu tác phẩm, tác giả đã nêu lên hậu quả nghiêm trọng của việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ đó chính là “làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nói lo lắng” điều đó có nghĩa là nó có ảnh hưởng nghiêm trọng đến “giống nòi” của người dân An Nam.

Không chỉ dừng lại ở việc phê phán thói học đòi “Tây hóa”, trong phần tiếp theo của bài viết, tác giả Nguyễn An Ninh đã nêu lên những giá trị và vai trò to lớn của tiếng nói đối với vận mệnh dân tộc. Trước hết, tiếng nói là “người bảo vệ quý báu nhất cho nền độc lập của dân tộc, là yếu tố quan trọng giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị”. Nguyễn An Ninh đã đề cao vai trò, giá trị to lớn của tiếng nói dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ đất nước, giải phóng dân tộc trước cuộc xâm lăng của các dân tộc khác, bởi lẽ với ông “bất cứ người dân An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì đương nhiên cũng khước từ niềm hi vọng giải phóng giống nòi”. Đồng thời, tiếng nói còn là nhịp cầu tri thức mở mang dân trí, đưa dân tộc ta tiếp xúc với các nền văn minh trên thế giới. Để làm rõ cho vấn đề này, tác giả đã chỉ ra rằng “nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết và khoa học châu u” thì việc giải phóng dân tộc ở nơi đây chỉ là vấn đề thời gian sớm hay muộn. Thêm vào đó, tác giả cũng đi sâu phê phán những than phiền sự nghèo nàn của tiếng mẹ đẻ để biện minh cho hành động học đòi Tây hóa của mình để rồi từ đó nêu lên và khẳng định sự giàu đẹp của tiếng Việt, để chứng minh rằng tiếng nước mình không nghèo nàn. Với Nguyễn An Ninh, những người than phiền tiếng Việt nghèo nàn bởi họ “chỉ biết những từ thông dụng của ngôn ngữ.” Ông đã đưa ra minh chứng về đại thi hào Nguyễn Du và đặt ra câu hỏi “Ngôn ngữ Nguyễn Du nghèo hay giàu?” Có lẽ câu hỏi ấy của ông đã thêm một lần nữa khẳng định rằng tiếng Việt của chúng ta không nghèo mà nó rất phong phú và để rồi từ đó, kết thúc đoạn văn, ông đã đặt ra một câu hỏi, gợi lên một vấn đề khiến mọi người phải không thôi suy nghĩ “Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người?”

Cuối cùng, đoạn kết thúc tác phẩm “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức” tác giả đã nêu lên quan điểm, suy nghĩ của mình về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước mình với ngôn ngữ nước ngoài. Nguyễn An Ninh không né tránh việc cần thiết phải biết một thứ ngôn ngữ châu u, với ông con người An Nam, nhất là giới trí thức “phải biết ít nhất là một thứ ngôn ngữ châu u để hiểu được châu u” và hơn nữa, họ còn cần chia sẻ những điều họ biết, họ hiểu với dân tộc, với đồng bào mình nữa. Không dừng lại ở đó, ông cũng còn khẳng định rằng, học để biết một thứ tiếng nước ngoài không đồng nghĩa với việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ mà ngược lại nó còn góp phần bồi đắp, làm phong phú, giàu có thêm cho ngôn ngữ nước mình.

Tóm lại, bài viết “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng dân tộc” của Nguyễn An Ninh với lối lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục đã mang đến cho người đọc một vấn đề quan trọng trong mỗi thời đại – giữ gìn tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc mình. Đồng thời, qua bài viết cũng gợi lên trong mỗi người tình yêu, lòng tự hào và ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng nước mình.

—————HẾT—————

Trên đây là bài Phân tích tác phẩm Tiếng mẹ đẻ- Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức, các em có thể tham khảo thêm: Soạn bài Tiếng mẹ đẻ nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức của Nguyễn An Ninh, Trình bày quan điểm về việc giữ gìn tiếng mẹ đẻ và học tập tiếng nước ngoài để việc học tập được hiệu quả.

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo Dục