Sấm giảng thi văn giáo lý toàn bộ năm 2024

Đại ý trong đây Đức Thầy nhắc lại Đức Thích Ca xưa kia vì nghiệm xét bốn nỗi khổ của mỗi chúng sanh, nên lìa bỏ cung vui, vợ đẹp con ngoan để ra đi tầm Đạo cứu đời. Nay Đức Thầy khuyên các giới nhân sanh hãy noi theo gương ấy mà giác tỉnh tu hành.

Về phương cách tu Ngài dạy: Trước nhứt hành giả phải lánh xa lối sống đam mê trụy lạc, tức tửu sắc tài khí và chiến thắng tam bành lục tặc; lấy tâm làm chủ 6 căn đừng để ô nhiễm 6 trần. Đồng thời hãy nghiệm xét Tứ Diệu Đề, trì hành Bát Chánh Đạo, chuyên hành Bát Nhẫn và phá tan Ngũ Uẩn để đạt đến lý “sắc không”, Chân Như Thật Tướng.

BỐ CỤC

Quyển “Giác Mê Tâm Kệ” gồm có ba phần chánh và nhiều tiểu đoạn.

I. Phần nhứt.

Cũng là phần khai đề, Đức Giáo Chủ cho biết vì lòng từ bi Ngài lâm phàm tại miền Nam nước Việt; dùng trí siêu mầu giác tỉnh chúng sanh sớm nương về nẻo thiện. Từ câu 1 – “Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện”, tới câu 4 – “Đặng chỉ ngỏ làm lành lánh dữ”.

II. Phần nhì.

Cũng là phần chánh đề, Đức Giáo Chủ vừa khuyên tu, vừa khai triển các pháp tu tự lực cứu cánh (Thiền Tông). Nhứt là hành giả phải chủ yếu về nội tâm, bởi vạn vật trong thế gian, từ Địa ngục, Thiên đường hay Niết Bàn, Cực Lạc, đến Phật ma, Thần Thánh đều do tâm mình tạo ra cả: “Địa Ngục cũng tại tâm làm quấy, Về Thiên đàng tâm ấy tạo ra…” Vậy hành giả muốn an cư nơi cảnh giới nào hay tiến đến địa vị nào cũng do tâm mình tạo nên.

III. Phần ba.

Cũng là đoạn kết, Đức Thầy ân cần dặn bảo: Những phương thức Ngài dạy trong quyển “Giác Mê Tâm Kệ” sẽ giúp cho hành giả đạt đến chỗ an cư thanh tịnh. Những gì quí báu của đất nước Việt Nam sau này, còn tiềm ẩn trong đỉnh núi nhà Nam (Thất Sơn) ai muốn trông thấy phải gắng công bền chí tu hành.

Lời khuyên nhủ của Ngài là vì lòng từ bi, mặc tình cho người đời có khen chê Ngài cũng không màng kể, miễn sao cho khắp bàn nhân bá tánh đều được giải thoát an vui là Ngài thỏa nguyện. Từ câu (837):“Ra kệ nầy hai chữ bảo an”, cho đến câu (846) “Mong bá tánh vạn dân giải thoát”.

CHỦ ĐÍCH

Chủ yếu quyển “Giác Mê Tâm Kệ” Đức Thầy dạy môn đồ học Phật và tu Phật, chuyên về các pháp tu tự lực Thiền Tông, từ tiệm tu đến Đốn Ngộ đều có đầy đủ, tức là từ “Diệt lục căn đừng nhiễm lục trần” đến chỗ đạt được lý “sắc không”. Từ chỗ trì hành Tứ Diệu Đề, Bát Chánh Đạo, đến chỗ “Giữ tấm lòng bất động như như”, và “Vô pháp tướng mới là thiệt tướng”.

  • Sấm trạng trình dẫn giải
  • Linh xăm đức thánh Trần
  • Bàn xăm bà

CHÁNH VĂN (Từ câu 01 tới câu 64)

Khai ngọn đuốc từ-bi chí thiện, Tìm con lành dắt lại Phật đường. Thương dân hiền giáo đạo Nam-phương, Đặng chỉ ngõ làm lành lánh dữ.

LƯỢC GIẢI (Từ câu 01 đến câu 04)

Mở đầu quyển “Giác Mê Tâm Kệ” Đức Giáo Chủ cho biết: Vì lòng từ bi Ngài lâm phàm, khai Đạo cứu dân tại miền Nam nước Việt. Ngài dùng trí tuệ siêu mầu viết ra Kệ Giảng, vạch rõ con đường Phật Đạo để thức tỉnh những ai có căn lành, sớm giác ngộ tu hành, cải ác tùng thiện.

CHÚ THÍCH

GIÁC MÊ:

Giác là tỉnh biết sáng suốt, hết mê lầm. Theo Phật học thì GIÁC có hai phần:

– Tỉnh ngộ thấy ra những điều quấy ác để trừ dứt gọi là Giác sát. – Tự khai ngộ được chơn lý để nương theo gọi là Giác ngộ. Cho nên Giác là danh từ để chỉ cho Phật (Giác ngộ), đối với chúng sanh (Mê lầm). Mê là tối tăm lầm lạc. Nói chung, Giác Mê là thức tỉnh kẻ còn mê lầm tăm tối.

TÂM KỆ:

Quyển Kệ dạy hành giả tu ngay tâm để kiến tánh thành Phật. Như quyển “Tâm Kinh” của Đức Bổn Sư Thích Ca và quyển Giác Mê của Đức Phật Thầy Tây An trước kia.

Vậy, quyển Giác Mê Tâm Kệ nầy, Đức Giáo Chủ khuyến dạy môn đồ về các phương pháp sửa đổi tâm chúng sanh để trở về với tâm Phật. Bởi Phật hay chúng sanh cũng đều do tâm mình tạo nên, như Ngài đã bảo: “Cái chữ tâm mà quỉ hay ma, Tiên hay Phật cũng là tại nó. Tu với tỉnh biết làm chẳng khó, Nếu lặng tâm tỏ ngộ đạo mầu”. (Giác Mê Q.4)

KHAI NGỌN ĐUỐC:

Mở rộng ánh sáng trí tuệ. Ý nói Đức Thầy dùng trí huệ viết ra kệ giảng, soi đường dẫn lối cho kẻ tu hành, như Ngài thường cho biết:“Nay đuốc huệ từ bi đã rọi”.(Khuyến Thiện, Q.5)

Cầu Phật-Tổ, Phật-Thầy, quan Thượng-Đẳng Đại-Thần, chư quan Cựu-Thần, chư vị Sơn-Thần, chư vị Năm Non Bảy Núi phổ-độ bá-tánh vạn dân tiêu tai tịnh sự giải-thoát mê-ly.

Quyển IV

Giác Mê Tâm Kệ

(846 câu) Khai ngọn đuốc từ-bi chí thiện, Tìm con lành dắt lại Phật đường. Thương dân hiền giáo đạo Nam-Phương, Đặng chỉ ngõ làm lành lánh dữ. Sách Thánh đạo ghi trong Tam-Tự, Người mới sanh tánh thiện Trời dành. Bởi lớn lên tập nhiễm lợi danh, Nên tật xấu che mờ thiện-tánh. Thiếu giáo-dục thiếu thêm đức-hạnh, Ta quyết lòng nhắc lại tánh xưa. Mặc tình đời gièm-siểm ghét ưa, Rừng kinh kệ ít người hay chữ. Quá mắc mỏ bởi chưng Phạn-ngữ, Nên người đời khó kiếm cho ra. Mõ chuông bày đọc tụng ó la, Chớ hiếm kẻ tường thông nghĩa lý. Dòm trước mắt thấy điều hồ-mị, Nên động tình bác-ái dạy răn. Réo những ai lợi dụng làm xằng, Cho suy-sụp chơn-nhơn mờ-mịt. Nào có khác mây đen phủ bít, Rồi dắt nhau đến chỗ dại ngây. Lấy tinh-thần hiệp vén ngút mây, Trong bổn-đạo tự thân phải xử. Xuống dương-thế dạo trong lê-thứ, Thấy bá-gia gặp lúc não-nùng. Cảnh trần-gian nhiều nổi lao-lung, Việc tu-tỉnh ít người hiểu lý.

Trong bá-tánh muốn nơi cao quí, Phải truy tầm huyền-bí nơi cơ. Từ sấm kinh cho đến thi thơ, Trong chốn ấy nhiều nơi trọng yếu. Tạo làm chi những trung với hiếu! Ấy là người bổn phận phải trau. Khuyên dương-trần đừng nệ cần-lao, Cũng rán sửa rán trau nền đạo. Tu đầu tóc không cần phải cạo, Miễn cho rồi cái đạo làm người. Kể từ nay lỡ khóc lỡ cười, Vì buồn bực thấy đời biến chuyển. Các chư Phật từ đây lựa tuyển, Coi ai là đức-hạnh hiền-từ. Lời sách xưa cận thủy tri ngư, Cận sơn lãnh trần gian tri điểu. Trong sấm giảng nếu ai không hiểu, Tầm kệ nầy Ta chỉ nẻo đường. Quyết dạy trần nên nói lời thường, Cho sanh-chúng đời nay dễ biết. Trời dông gió sái mùa sái tiết, Nắng cùng mưa cũng khác xưa rồi. Khuyên dương-gian bỏ các việc tồi, Đặng lo liệu cho tròn phận-sự. Thấy trần-thế hãy còn lưỡng-lự, Muốn tu mà còn hỡi chần-chờ. Việc thế-gian như thể cuộc cờ, Thắng với thối một hai nước tướng. Nào ai có gạt dân nói bướng, Mà dương-trần liệu lượng chánh tà. Ta mến yêu những kẻ thiệt-thà, Nghe cơ-giảng thiết-tha lo-liệu. Học đạo lý như đờn trúng điệu, Hòa bản rồi thì cứ làm theo. Lũ Tam-Bành trong bụng còn đeo, Đoàn Lục-Tặc ta mau sớm giết. Mài gươm trí cho tinh cho khiết, Dứt tâm trần kiếm chữ sắc không. Đức Di-Đà Phật-Tổ ngóng trông, Chờ dân chúng tìm nơi diệt khổ. Theo Phật-Giáo từ kim chí cổ, Gốc ông cha ta cũng tu-hành. Mà ngày nay cứ mãi tranh giành, Danh với lợi, của tiền, quyền tước. Thấy trần thế ai ai cũng ước, Đời sao không tới phứt cho rồi. Nay khổ lao khó đứng khôn ngồi, Lúc đói cơm buồn lòng ngơ ngẩn. Làm ác đức nhiều điều quanh quẩn, Như gà cồ ăn bẩn cối xay. Thấy người hiền nói đắng nói cay, Sau mới biết thân ai lao khổ. Nhớ thuở trước oai-linh Phật-Tổ, Phép thần-thông trừ lũ Ma-Vương. Chốn rừng tòng ngồi chịu nắng sương, Tìm đạo-lý hiến cho trần-thế. Hiệu Lão-Sĩ ra đời thật-tế, Đem lời vàng dạy dỗ dương-trần. Khuyên chúng-sanh khuya sớm chuyên-cần, Tìm nguồn-cội diệt-trừ Tứ-Khổ. Bịnh với Tử từ kim chí cổ, Sanh với Già hai chữ hoài hoài. Đức Thích-Ca xưa ở lầu đài, Nghiệm Tứ-Khổ nên Ngài tầm Đạo. Lo tu tỉnh mặc ai khinh-ngạo, Diệt Lục-Căn đừng nhiễm Lục-Trần. Chữ Sắc-Thinh chớ có hầu gần, Hương với Vị xác trần nên lánh. Chữ Xúc-Pháp treo gương Hiền Thánh, Tránh Sáu Đường cũng đặng về Thần. Từ xưa nay dạy chỉ nhiều lần, Mà lê-thứ không lo chẳng liệu. Nhãn thấy sắc thường hay bận-bịu, Tai ưa nghe những điệu âm thinh. Mắt với tai đều chọn đẹp xinh, Còn lỗ mũi ưa mùi êm dịu. Đồ thơm tho nó ưa nó chịu, Chốn xạ hương hay lết lại gần. Lưỡi ưa ngon là chuyện ân-cần, Đồ ngọt béo nó ưa nó mến.

Thân tham sướng muốn tiền của đến, Đặng ăn xài cho phỉ tấm tình. Ý thì ưa sửa sắc soi hình, Với chức phận cho cao cho quí. Sáu đường ấy ở trong tâm ý, Ta mau mau dứt nó cho rồi. Nếu tỉnh tâm nào có mấy hồi, Mượn trí đạo duổi ra khỏi xác. Dứt được nó ấy là giải thoát, Thì xác trần mới khỏi đọa-đày. Cả tiếng kêu những kẻ trí tài, Hãy yên lặng bình tâm suy-nghĩ Tiên xử kỷ hậu lai xử bỉ, Bắt lỗi người phải xét lỗi mình. Vậy mới là phải bực công-bình, Nẻo chánh-trực chí người quân tử. Người biết đạo phải gìn ngôn ngữ, Nói với ai chớ có sai lời. Trọng mẹ cha kính nễ Phật Trời, Đừng nhiều tiếng nghinh-ngang mang lỗi. Tánh ngay thẳng ta không dời đổi, Dầu tan xương nát thịt chẳng màng. Ta Khùng Điên nói đại nói càn, Chẳng có sợ ai rầy ai mắng.

Trời còn lúc tối mưa sớm nắng, Thì trần-gian còn mãi khổ lao. Ở trên đời kẻ thấp người cao, Kẻ hiền-hậu người thì gian-ác. Không quen biết mà cao tuổi tác, Ta cũng nên kính trọng mới là. Tâm từ-bi sánh thể ngọc-ngà, Trong các báu khó bì tánh Thiện. Phải xử thế chớ nên bày biện, Miệng xảo ngôn thường kiện tấm thân. Việc bán buôn phải giữ ngang cân, Chớ tập tánh lận lường tráo đấu. Các công cuộc của người tánh xấu, Ta giữ gìn chớ có nhiễm vào. Tâm Bần Tăng chẳng mến sắc màu, Mến những kẻ biết vào đường chánh. Ta dạy thế mượn lời Phật Thánh, Nên truyền ban cho chúng-sanh tường. Tuy ngày nay chúng nó hùng-cường, Chừng phân định thì ta cao-quí. Khuyên bổn-đạo lập thân nuôi chí, Đặng chờ ngày yết-kiến Phật Trời. Quá yêu dân cạn tỏ nhiều lời, Cho trần-hạ tìm trong lánh đục. Chẳng chịu tu mãi còn lục-thục, Lo giàu nghèo lo cũng chẳng rành. Ham công-danh quên chữ sanh-thành, Mến phú-quí quên câu dưỡng-dục. Rán kiếm chỗ tầm tiên lánh tục, Người ở đời phải được lòng trong. Biển hồng-trần sớm gội cho xong, Ngày lập hội mới mong trở lại. Chữ bần-tiện khuyên dân đừng nại, Miễn cho ta trở lại ngay đàng. Chữ vinh-hoa giờ chớ có màng, Bởi giả tạm của đời Nguơn-hạ. Gắng công tu xem nhiều phép lạ, Của Thần-Tiên trừ lũ hung-đồ. Nào lụa là, lãnh nhiễu, tố sô, Chớ ham mến mà sau lao-lý. Ngày tiêu-diệt từ năm Bính-Tý, Đến năm nay hao hớt đã nhiều. Các ngoại bang đã nhuộm máu điều, Sao trần-thế không toan chẳng liệu. Để đến việc dang lưng mà chịu, Chớ Phật đâu cứu kịp cho người. Khuyên chúng-sanh bỏ tánh biếng lười, Phải sốt-sắng làm ăn cần-thiết. Nghèo với đói từ nay sẽ biết, Hàng ngoại bang bố thiết ta hoài. Nên bá-gia hãy rán miệt-mài Dầu rách rưới cũng mau cần kiệm. Lời ta dạy hãy nên suy-nghiệm, Phải phá tan Ngũ-Uẩn trong mình. Chữ Tham trong ý muốn mặc tình, Rán định tánh trừ cho nó tuyệt. Chữ gây-gổ là Sân hãy diệt, Cho nó đừng thấp-thoáng trong lòng. Thêm chữ Si thiệt quá lòng-dòng, Nên tỉnh trí tìm nơi dụt tắt. Chữ Nhơn Ngã cũng là quá gắt, Ta chớ nên phân biệt với người. Dẹp năm tên được mới mừng cười, Vô pháp-tướng mới là thiệt tướng. Người tu hành phải trừ nghiệp-chướng, Với bốn ma mới đặng an nhàn. Tửu nhiễm vào thân thể bất an, Sắc mến nó ngày kia lao khổ. Ta nghiệm xét từ đời Bàn-Cổ, Có ai dùng mà đặng thành Tiên. Mà đời nay theo nó liên-miên, Chữ Tài Của khổ riêng một kiếp. Bị tội cướp nào ai có tiếp, Mà đời nay nó cứ mãi làm. Chữ Khí hùng khuyên chớ có ham, Mà lao lý tấm thân trần-thế. Kẻ nhứt dạ thường sanh bá kế, Để gạt người làm thế cho mình. Ngày sau nầy lắm nỗi tội tình, Sao sanh-chúng chẳng lo cải sửa. Bịnh ôn-dịch thường hay ói mửa, Mà dương-trần chẳng chịu kiêng-dè. Qua năm Dê đến lúc mùa hè, Trong bá-tánh biết ai hữu chí.

Ta chịu lịnh Tây-Phương thọ ký, Gìn Nghiệt-Long đặng cứu dương-trần. Nên ra đời dạy-dỗ ân-cần, Khuyên bá-tánh vạn dân liệu lấy. Khổ với thãm ngày nay có mấy, Sợ mai sau dòm thấy bay hồn. Trừ tà-gian còn thiện chỉ tồn, Cảnh sông máu núi xương tha-thiết. Trần với thế bây giờ nào biết, Chừng nhìn xem hư thiệt mới tường. Ta bây giờ tu niệm tầm thường, Sau danh thế xạ hương khắp chốn. Nhà giàu có xài không sợ tốn, Phải để tiền cho kẻ nghèo nàn. Lo ăn xài trà rượu xình-xoàng, Chừng khổ não phàn-nàn căn số. Lời truyền sấm như bài toán đố, Ai biết tầm thì đặng hưởng nhờ. Ta khuyên tu dân cứ mãi ngờ, Sợ gạt chúng kiếm xu kiếm cắt.

Bị ngoại quốc bán hàng quá gắt, Nên dân ta chịu chữ cơ-hàn. Ta Khùng Điên của cải chẳng màng, Miễn lê-thứ được câu hạnh-phúc. Cờ thế-giới ngày nay gần thúc, Nên Phật Tiên phải xuống hồng-trần. Chừng lao-xao ác thú non Tần, Thì Nam-Quốc lương dân mới biết. Nay dạy thế cậy cùng ngòi viết, Với xác trần du-thuyết ít hàng. Ai nói chi ta cũng chẳng màng, Sau biết đặng dân đừng có tiếc. Con phù du hẫng-hờ nào biết, Thấy bóng đèn thì quyết chun vô. Thảm thương thay chết héo chết khô, Nhìn đèn nọ thấy mồ phù-dũ. Kệ khuyên trần đã mãn mùa thu, Đeo danh lợi như con vật ấy.

Giống xe cát biển đông thường thấy, Tên Dã-Tràng rất uổng công-trình.

Khi nước ròng nhờ lúc bình-minh, Lúc nước lớn cát kia tan rã.

Trần phú-quí thì trần thong-thả, Chớ còn ta cứ khổ lao hoài.

Viết kệ-cơ giảng dạy ít bài, Mặc lê-thứ làm không tự ý.

Coi rồi phải nhận cho hiểu lý, Câu huyền sâu của kẻ Khùng nầy.

Bởi chữ khùng của Phật của Thầy, Chớ chẳng phải của người lãng-trí.

Mê với tỉnh nhận ra là lý, Thấy dương-trần ngủ mãi ngủ hoài.

Thức dậy mà tầm đạo kiếm bài, Để thi cử khỏi mang tiếng rớt.

Sách khuyến-thiện miệng kêu không ngớt, Mà nào ai có thức dậy tầm.

Ta nghĩ suy cũng bắt hổ thầm, Nên than thở cùng trần ít tiếng.

Tâm sáng suốt như đài nguyệt-kiến, Tánh trong như nước bích mùa xuân.

Nếu không tu chừng khổ cũng ưng, Đừng có trách sao không chỉ bảo.

Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão, Mắc trong vòng sanh tử luân hồi.

Xuống Diêm-Đình thấy tội hỡi ôi! Đó mới biết có nơi địa-ngục.

Kỳ xả tội nay còn một lúc. Sao chẳng tu đặng có hưởng nhờ.

Gặp giảng kinh trần cứ làm ngơ, Trồng bông kiểng giống chi hưởng nấy.

Địa-ngục cũng tại tâm làm quấy, Về thiên-đàng tâm ấy tạo ra.

Cái chữ Tâm mà Quỉ hay Ma, Tiên hay Phật cũng là tại nó.

Tu với tỉnh biết làm chẳng khó, Nếu lặng Tâm tỏ-ngộ Đạo mầu.

Cảnh dương-gian muôn thảm ngàn sầu, Ngó vạn vật đài lầu chẳng có.

Sông với núi trước kia mắt ngó, Khi chết rồi thấy nó đặng nào.

Ai biết đường hãy sớm tẩu-đào, Kiếm Đạo-lý mà nhờ mà nhõi.

Chịu cay-đắng tu hành mới giỏi, Ta thương đời len-lỏi xuống trần.

Đạo vô-vi của Phật ân-cần, Nối theo chí Thích-Ca ngày trước.

Câu phú-quí Ngài không màng-ước, Chữ bồ-đề như cội bá-tòng.

Rán dưỡng nuôi chữ đó trong lòng, Thì là được định chừng diệu-quả.

Lời thuyết-pháp chẳng vì nhơn-ngã, Người nào đâu có Phật-tánh là.

Xem kệ nầy như ngọc như ngà, Phải nảy nở như cơn mưa thuận.

Hạp mùa tiết giống kia bất luận, Thảy mọc mầm trổ lá mới mầu.

Trông chúng sanh nghĩ tận đuôi đầu, Về Cực-Lạc mới là hết khổ.

Đạo với lý từ đây nhiều chỗ, Phải lọc-lừa cho kỹ mà nhờ.

Chọn nơi nào đạo chánh phượng thờ, Thì mới được thân sau cao-quí.

Nhìn Phật-Giáo mà tìm cái lý, Coi tại sao ta phải tu hành.

Vì yêu dân Ta kể ngọn-ngành, Khuyên lê-thứ làm lành mà tránh.

Cảnh Niết-Bàn là nơi cứu cánh, Về chốn ni xa lánh hồng-trần.

Dầu không siêu cũng đặng về Thần, Nhờ hai chữ trung-quân ái-quốc.

Chừng lập Hội biết ai còn mất, Giờ chưa phân chưa biết chánh tà.

Ta vì vưng sắc lịnh Ngọc-Tòa, Đền Linh-Khứu sơn-trung chịu mạng.

Nền Đạo-đức Ta bày quá cạn, Mà dương-gian còn gạn danh từ.

Làm cho Ta lỡ khóc lỡ cười, Khóc là khóc thương người ngu muội

Thấy Điên Khùng làm như sắt nguội, Chẳng tranh đương nó lại khinh-khi.

Ngó về Tây niệm chữ từ-bi, Cười trần-thế mê-si thái quá.

Tranh với luận đặng dành cơm cá. Khuyến dụ người đặng kiếm bạc tiền.

Thấy chúng sanh ghét ngỏ ganh hiền, Theo chế-nhạo những người tu tỉnh.

Tu không tu cũng không mời thỉnh, Mặc tình ai trọng-kỉnh hay chê.

Thương lê-dân còn mảng say mê, Chẳng tu tỉnh cho rành sương nắng.

Thấy ta lại nói cay nói đắng, Đắng với cay ta cũng chẳng màng.

Chừng trần-gian kiến thấy phụng-hoàng, Sè cánh múa chào mừng Phật Thánh.

Thấy đạo-lý chớ nào thấy tánh, Còn ẩn nơi tim óc xác phàm.

Ai biết tri việc phải cứ làm, Sau mới biết ai phàm ai Thánh.

Đức Lục-Tổ ít ai dám sánh, Người dốt mà nói pháp quá rành.

Lựa làm chi cao chữ học hành, Biết tỏ ngộ ấy là gặp Đạo.

Việc cổ tích cần chi phải thạo, Chuyện qua rồi kể lại làm gì.

Nếu ai mà biết chữ tu trì, Tâm bình tịnh được thì phát huệ.

Ta yêu chúng viết ra Giảng Kệ, Khuyên tăng-đồ cùng các tín-đồ.

Nghe cạn lời có mờ-hồ, Tìm hiểu nghĩa làm theo đắc Đạo.

Trần với thế nó hay kiêu-ngạo, Các nhà sư hãy rán sửa mình.

Nếu xuất gia ngũ-giái rán gìn, Tu chơn chánh mới không hổ tiếng.

Cả ngàn năm nhơn tâm xao-xuyến, Sao tu hoài chẳng thấy ai thành.

Bởi chữ tu liền với chữ hành, Hành bất chánh người đời mới nói.

Bị tăng chúng quá ham chùa ngói, Nên tởi khuyên khắp chốn cùng làng.

Phật nào ham tượng cốt phết vàng, Mà tăng tạo hao tiền bá-tánh.

Việc giả dối từ đây nên lánh, Bổn-đạo ôi! Hãy rán sửa mình.

Cuộc dạy đời ta lắm công-trình, Làm chẳng trọn uổng thay một kiếp.

Lời chơn-chánh trần hay bỏ liếp, Mãi lo làm hung-hiếp người hiền.

Mà làm cho Ngọc-Đế thảm phiền, Muốn trừng-trị trần-gian thảm-thiết.

Đức Phật-Tổ tâm Ngài nhứt quyết, Tâu Ngọc-Hoàng để Phật dạy trần.

Nên ra Kinh, Cơ-Giảng nhiều lần, Mà dương-thế chẳng cần xét đến.

Xác trần-tục như cây cạnh khến, Làm hiền hoài ắt phải tiêu mòn.

Đẽo với bào riết nó cũng tròn, Đến chừng đó trông vào rất tốt.

Lũ giả-dối thường hay thề-thốt, Nó chẳng kiên Thần Thánh là gì.

Tâm kẻ hung làm chuyện cố-lỳ, Chẳng có sợ mang điều tội phước.

Ghét những kẻ tu hành bốc-xước, Miệng kêu gào chuyện phước bề ngoài.

Bước vào chùa thấy Phật lạy dài, Lui khỏi cửa ra tay cấu-xé.

Thấy quyền quí nó hay dựa mé. Đặng bợ bưng những kẻ hung-sùng.

Ta thương đời nói những chuyện cùng, Chẳng có vị có dung kẻ quấy.

Cuộc sám -hối vô chùa thường thấy, Làm gian lừa biết mấy nhiêu lần.

Thấy dương-gian lường gạt Thánh Thần, Mà chua xót cho đời Nguơn-Hạ.

Chữ tự hối nào ai có lạ, Là ăn-năn cải-sửa tâm lành.

Phật chẳng qua dụng chữ tín-thành, Chớ nào dụng Hương, Đăng, Trà, Quả.

Làm chay đám tạo nhiều xá-mã, Bay về Tây nói những chuyện gì?

Thấy chúng tăng làm chuyện quáy kỳ, Ta khuyên mãi cũng không chịu bỏ.

Lời chơn-chánh hình như nói xỏ, Mà không không nào có biếm đời. Thấy lạc-lầm khuyên nhủ ít lời, Chớ nào có ngạo chi tăng chúng.

Coi tâm kệ làm theo mới trúng, Để lạc-lầm lắm bớ tăng-đồ. Định tâm-thần như mặt nước hồ, Suy với nghĩ, nghĩ suy đường lối. Muốn niệm Phật chẳng cần sớm tối, Ghi vào lòng sáu chữ Di-Đà. Thì hiền lương quên mất điều tà, Đặng hạnh-phúc nhờ lòng cố gắng. Việc đạo-đức bất cần thối thắng, Chữ tu hiền ngay thẳng lần hồi

Thấy Thiên-cơ khó nổi yên ngồi, Thương lê-thứ tới hồi khổ-não. Thầy lạc tớ không ai chỉ bảo, Như vịt con dìu dắt nhờ gà. Phải nghĩ suy cạn lẽ mới là, Nay gặp gốc phải mau tìm gốc. Để gặp Phật ngồi mà than khóc, Gỡ làm sao hết rối mà về. Mắt nhìn xem yêu quái bộn bề, Bởi ác-đức nên không ai cứu. Mang thủy ách hồi năm Đinh-sửu, Đến năm nay tái lại một lần. Khổ-ách nầy đặng thức-tỉnh trần, Rằng thiên-định tuồng đời sắp hạ. Trẻ nhỏ tuổi đời nầy lăng-mạ, Bị văn-minh cám dỗ loài người. Kể từ rày cười một khóc mười, Kẻo chúng nó dể-ngươi Phật Thánh. Đạo Quỉ-Vương rất nhiều chi ngánh, Khuyên dương-trần sớm tránh mới mầu. Để ngày sau đến việc thảm-sầu, Rán nghe kỹ lời ta mách trước.

Thuyền chúng nó thẳng buồm chạy lướt, Lọt ngoài khơi mới hết hò khoan. Tu mà ham cho được giàu sang, Với quyền tước là tu dối thế. Nhớ thuở trước vua Lương-Võ-Đế, Tạo chùa chiền khắp nước tu hành. Đến chừng sau ngã-tử Đài-thành, Phật bất cứu vì tâm còn ác. Tu biết cách như đươn biết đát, Đươn đát rành đặng dựa Xe-Loan. Ai biết nghe thì sớm liệu toan, Để đến việc như người thất nghiệp. Phải qui căn cùng nhau hội hiệp, Rán mau chơn mới kịp Đạo-mầu. Sớm với chiều gắng chí nguyện-cầu, Thì sẽ được Tòa-chương dựa kế. Chúng-sanh thể như gà thất thế, Phải nằm chờ tới nước bắt ra. Thời-kỳ nầy nhiều quỉ cùng ma, Trời mở cửa Quỉ-Vương xuống thế. Nên Ta mới ra tay cứu-tế, Kẻo chúng-sanh bịnh khổ quá chừng. Sau Quỉ-Vương đi đứng nửa lừng, Thêm tên tuổi chúng-sanh nó biết. Làm đủ cách xuống lên tha-thiết, Ở ngoài đường nó biết tên mình. Tin cùng không thì cũng mặc tình, Chớ Ta lắm công-trình dạy-dỗ. Hồi thuở trước Thích-Ca Phật-Tổ, Ngồi tham-thiền bị nó ghẹo hoài. Mà cũng không rúng động đặng Ngài, Nên cố oán phá đời mãi mãi. Trong bổn-đạo cùng là sư vãi, Rán bền lòng cho được hiền từ. Hết khổ lao thì đến vui cười, Chừng đó mới phỉ tình nguyện ước. Bọn gái mới ra đường tha-thướt, Bỏ hết trơn nề-nếp ông cha. Khác tánh-tình người cổ nước ta, Nên phải chịu đớn-đau đủ cách. Trai với gái rán coi sử sách, Đứng trung thần với kẻ tiết-trinh. Dọn bề trong mới gọi đẹp xinh, Chớ mang lốt bề ngoài chẳng tốt. Dạy chẳng đặng lòng như lửa đốt, Khắp dương-gian chưa đặng ba phần. Kể từ nay Tiên, Phật, Thánh, Thần, Lo dạy-dỗ dương-trần chẳng xiết. Đức Thượng-Đế dự đền Ngọc-Khuyết, Nhìn dương-gian cũng luống thở dài. Thấy chúng-sanh trau-trỉa mặt mày, Chớ chẳng chịu trau tâm trỉa tánh. Kẻ đói khó người sang hay lánh, Bước lại gần chê lũ tanh-hôi. Cõi Ta-bà Ta thấy hởi ôi! Sầu bá-tánh quá nên kiêu-cách. Người tàn-tật đui cùi đói-rách, Ítt có ai để mắt nhìn vào. Chuộng những người dù võng sắc màu, Cậu với mợ, ông-thầy, cô-bác. Thị kẻ khó như rơm như rác, Ta quá rầu đài-các văn-minh. Mấy ai mà giữ dạ sắt đinh, Theo Tông-Tổ của mình thuở trước? Đầu với tóc áo quần láng-mướt, Chử lanh khôn của quỉ của ma. Chớ nó không có giống người ta, Ma với quỉ sanh người hung ác. Lo tập luyện những câu đờn hát, Chớ chẳng lo dạy-dỗ ngu khờ. Để cái tâm yên lặng như tờ, Coi ta nói câu nào bất chánh? Rán bắt chước làm theo Phật Thánh, Nếu thiệt người thì biết thương người. Thấy kẻ khờ quê dốt ngạo cười, Nào có lấy lời chi chỉ bảo. Ta thương xót lo tần lo tảo, Chẳng thấy ai rể thảo dâu hiền. Làm cho người Thượng-Cổ thêm phiền, Rất đau xót cho nòi cho giống. Biết chừng nào được qui nhứt thống, Khắp hoàn-cầu dân biết thương nhau. Nhắc ra thì dạ ngọc đớn-đau, Không nhắc đến biết đâu dân sửa. Cơm được chín ta nhờ có lửa, Dân được vui nhờ lúc khải-hoàn.

Phật Như-Lai cho phép Khùng troàn, Cho bổn-đạo khắp nơi đặng biết. Ai chưởi mắng thì ta giả điếc, Đợi cho người hết giận ta khuyên. Chữ nhẫn-hòa ta để đầu tiên, Thì đâu có mang câu thù-oán. Việc hung-ác hể vừa thấp-thoáng, Chữ từ-bi ta diệt nó liền. Sự oán-thù đáp lại chữ hiền, Thì thù-oán tiêu-tan mất hết. Chữ bạn tác dù cho đến chết, Cũng keo sơn gắn chặt mới là. Bước ra đường ăn nói thiệt-thà, Dầu khôn-khéo cũng là giả dại. Nếu tranh-đương ắt ta bị hại, Thêm sa-cơ lại bị xích-xiềng. Vì đời nay chúng nó dụng tiền, Ít ai dụng chữ nhơn chữ nghĩa.

Theo học Đạo mặc ai mai-mỉa, Ta cũng đừng gây-gổ với người. Được mấy điều thì đáng vàng mười, Thiệt hiền-đức có ai mắng chưởi. Xưa đức Thánh luận bàn cái lưỡi, Ngài nói rằng các việc tại mầy. Thuận với hòa hay ghét với rầy, Cũng cái lưỡi làm thầy các việc. Phải kiếm cách đặng ta trừ tuyệt, Lấy tâm-thần làm chủ mới mầu. Cũng chẳng nên theo tánh võ-hầu, Thấy chẳng nói mà nhăn mà nhướng. Hãy liệu sức chớ nên nói bướng, Dầu việc chi liệu lượng mà làm. Điên Khùng nầy chẳng có nói xàm, Nói những chuyện từ-bi bác-ái. Nếu bổn-đạo còn ai làm sái, Coi kệ nầy mình sửa lấy mình. Ta không tranh mà cũng không kình, Cho bá-tánh gièm-pha thỏa chí. Ai làm phước in ra mà thí, Thì được nhiều hạnh-phúc sau nầy, Chốn non xanh dạy-dỗ cáo-cầy, Xuống trần-thế ra tay dắt chúng. Tới với Ta chớ đem đồ cúng, Chỉ đem theo hai chữ thành-lòng. Chẳng có cần trà, quả, hương nồng, Mong sanh-chúng từ-lòng hối-ngộ. Kẻ xa-xuôi có lòng ái mộ, Xem kệ nầy tu tỉnh tại nhà. Ở ruộng đồng cũng niệm vậy mà, Phật chẳng chấp chẳng nài thời khắc. Chay bốn bữa ấy là quy-tắc, Của kẻ Khùng chỉ dắt chúng-sanh. Con Phật thì chẳng có khôn lanh, Đời văn-vật khôn ma khôn quỉ. Lo trang-sức kim-thời huê mỹ, Rồi phụ-phàng tục cổ nước nhà. Trong tâm thì chứa chữ gian-tà, Chớ chẳng chứa tấm lòng bác-ái. Học chữ nghĩa cho thông cho thái, Đặng xuê-xang đài-các xe-tàu. Tiếng chào mừng cửa miệng làm màu, Trong tâm-ý mưu-mô đủ thế. Ta còn mắc phiêu-lưu dương-thế, Dạo Lục-Châu đặng cứu bá-gia. Mặc tình ai xem kệ ngâm-nga, Hay sửa đổi tùy lòng hưu-hỷ. Thương sanh-chúng tỏ bày quá kỹ, Hỡi dương-trần nên sớm quày đầu. Đặng sau xem Phật-pháp nhiệm-mầu, Với báu-quí đài-lầu tươi tốt. Xác ta vốn là người quê dốt, Nên mở mang chưa được mấy rành. Khắp dương-gian như sợi chỉ mành, Mong bổn-đạo tâm thành trở lại. Dầu cực khổ thân nầy chẳng nại, Chẳng cần ai bái lạy khẩn-cầu. Bỏ dị-đoan mới thấy đạo-mầu, Bớt giả-dối gặp Người Thượng-Cổ. Gốc thuở trước của Tông của Tổ, Đâu có bày dối-mị như vầy. Những sấm truyền xưa của Phật Thầy, Dân rán kiếm mà truy thì biết. Xưa để lại nhiều câu thảm-thiết, Mà nào ai có biết để lòng. Chuyện Thiên-Cơ nói rất nảo nồng, Câu hữu lý bá-tòng khó sánh. Chốn tựu hội chớ nên léo hánh, Vì lời xưa có dặn rạch-ròi. Dân chớ nên phụ bạc giống nòi, Mà lao-lý tấm thân vô ích. Phải nhẫn-nhục chờ Người Cổ Tích, Phật với Trời phân định cho ta. Người xưa tuy ít chữ nôm-na, Chớ chơn-chất người ta ngay thẳng. Dạy bổn-đạo lấy câu trung đẳng, Chẳng nói cao vì sắp rốt đời. Đấng nam-nhi ẩn-nhẫn tùy thời, Vậy mới gọi khôn-ngoan hữu chí. Ta ra sức viết câu huyền-bí, Chúng dân ôi! Rán kiếm rán tầm. Giống thú kia là loại sanh cầm, Mà còn biết kiếm tầm đạo-đức. Thú-vật biết tu hành náo-nức, Còn người sao chẳng rứt hồng-trần? Việc tu hành phải vẹn nghĩa ân, Kinh với sấm chúng dân thường thấy. Chữ Bát-Chánh rõ ràng trong giấy, Là chơn truyền của Đức Thích-Ca.

Người tu hành cần phải tìm ra, Cho dân biết mục đầu Chánh-Kiến. Trí linh-mẫn nhìn xem các chuyện, Phải đừng cho lầm-lạc nẻo tà. Dầu việc người hay việc của ta, Nên phán-đoán cho tường cho tận. Tội với phước xét coi nhiều bận, Mới khỏi lầm tà-kiến đem vào. Chánh Tư-Duy mục ấy thanh cao, Hãy tưởng nhớ những điều đáng nhớ. Trên cùng dười dầu thầy hay tớ, Cũng tưởng điều trung-chánh mới mầu. Việc vui say mèo-mả đâu đâu, Hãy dẹp gát nhớ câu Lục-Tự.

Câu Chánh-Nghiệp cũng là quá bự, Dấu nghề chi làm việc ngay đường. Ta đừng nên theo kẻ bất lương, Học ngôn xảo để lừa đồng loại. Chánh Tinh-Tấn dầu thành hay bại, Cứ một đường tín-ngưỡng của mình. Dầu cho ai phá rối đức tin, Ta cũng cứ một đàng đi tới. Mục Chánh-Mạng chúng-sanh ơi hỡi, Cho hồn-linh cai-quản châu-thân. Lấy chơn-nhơn dẹp tánh phàm-trần, Mới có thể mong về Cực-Lạc. Câu Chánh-Ngữ lòng son ghi tạc, Tiếng luận bàn ngay ngắn tỏ tường. Nói những điều đức-hạnh hiền-lương, Chớ thêm bớt mà mang tội lỗi. Việc tráo-chác ấy là nguồn cội, Lời xảo ngôn do đó mà ra. Kinh-nghiệm rồi Ta mới diễn ca, Câu Chánh-Niệm thiết-tha nhiều nỗi. Khi cầu nguyện đừng cho phạm lỗi, Phải làm tròn các việc vẹn toàn. Dân chớ nên làm bướng làm càn, Trong lúc ấy niệm cho lấy có. Mục Chánh-Định thiệt là rất khó, Giữ tấm lòng bất động như như. Cho hồn-linh yên-lặng an cư, Thì mới được huờn-nguyên phản-bổn. Tà với chánh còn đương trà-trộn, Người muốn tu phải sớm lọc-lừa. Tứ-Diệu-Đề ai có mến ưa, Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa. Chữ Tập-Đề nay đà mở cửa, Để đem vào khuôn-khổ người hiền. Rán cực lòng một bước đầu tiên, Sau mới được làm nên Phật Thánh. Về Thượng-Giái cõi Tiên mới bảnh, Đến Diệt-Đề trừ vật-dục xưa. Cõi hồng-trần các việc mến ưa, Sự giả tạm ta nên rứt bỏ. Muốn tâm-tánh ngày kia sáng tỏ, Thì Khổ-Đề phải chịu nhọc-nhành. Lòng dục tu thì phải thiệt-hành, Chớ đừng có ham điều sung-sướng. Đức Phật-Tổ nào đâu hẹp lượng, Chịu nhọc-nhằn mới rõ Đạo-Đề. Thấy một đàng thẳng-bẳng mà mê, Ôi chừng đó mới là mầu nhiệm. Mùi đạo diệu chúng dân rán kiếm, Trễ thời kỳ khó gặp đặng Ta. Rồi hành luôn Bát-Nhẫn mới là, Thì muôn việc đều an bá tuế. Chữ thứ nhứt Nhẫn-Năng-Xử-Thế, Là người hiền khó kiếm trong đời. Lập thân danh tuần trải nơi nơi, Chờ thời đại mới là khôn khéo. Chữ Nhẫn-Giái trì tâm trong trẻo, Khuyên dương-trần giữ phận làm đầu. Nhẫn-Hương-Lân cùng khắp đâu đâu, Trên cùng dưới đều hòa ý hỉ. Nhẫn-Phụ-Mẫu gọi trang hiền sĩ, Phận xướng tùy chồng vợ nhịn nhau. Nhịn xóm chòm cô bác mới cao, Nhẫn-Tâm nọ ngày ngày an-lạc. Nhịn tất cả những người tuổi tác, Nhẫn-Tánh lành yên-tịnh dài lâu. Giữ một lòng hiền-hậu mới mầu, Quanh năm cũng bảo toàn thân-thể. Chữ Nhẫn-Đức kể ra luôn thể, Thì trong đời vạn sự bình an. Chữ Nhẫn-Thành báu-quí hiển-vang, Khắp bá-tánh được câu hòa nhã. Câu đạo-đức bay mùi thơm lạ, Muốn nếm thì phải rán sưu tầm. Các đạo tà mưu khéo âm thầm, Dân rán tránh kẻo lâm mà khổ. Chúng nó xuống khuyên-răn nhiều chỗ, Dùng phép mầu lòe mắt chúng-sanh. Ai ham linh theo nó tập-tành, Sa cạm-bẩy khó mong sống sót. Ta chẳng phải dùng lời chuốt-ngót, Mà làm cho dân-chúng say mê. Nẽo chánh tà biện luận nhiều bề, Cho bá-tánh tìm nơi cội-gốc. Lựa cho phải kèo xưa danh mộc, Đừng để lầm thợ khéo sơn da. Thì sau nầy đến lúc phong-ba, Dông gió lớn cột kèo khỏi gãy. Thấy sanh-chúng nhiều người khờ dại, Chẳng biết gìn phong-hóa lễ-nghi. Nên ta đem đạo đức duy-trì, Gìn tục cổ để người chẳng rõ. Còn chậm chạp Đạo-mầu chưa tỏ, Như rừng hoang mới dọn một đường

Tớ với Thầy nào quản thân lươn, Muốn cứu thế sá chi bùn trịn. Thương quá sức nên ta bịn-rịn, Quyết độ đời cho đến chung thân. Nếu thế-gian còn chốn mê tân, Thì Ta chẳng an vui Cực-Lạc. Dạy bổn-đạo lấy lời đích-xác, Mà chẳng tu là bởi không ưa. Chớ nước sâu mà bị gàu thưa, Dân đông-đảo lời truyền chẳng xiết.

Nên phải tạm mượn cây ngòi viết, Đem Đạo-mầu như hạn cho mưa. Đặng tố-trần tâm ý Người Xưa, Chữ thậm thâm trong kinh Phât-Giáo. Nền chơn-lý chúng chê rằng láo, Mà nào Ta có lợi-dung ai. Trong bá-gia nhiều ít lòng chay, Để giữ trọn trong nền Phật-Pháp. Gìn giới cấm sửa tâm ô-tạp, Niệm Phật thì phải dẹp lòng tà. Nhớ từ-bi hai chữ ngâm-nga, Dầu làm lụng cũng là trì chí. Chờ Thiên-Địa châu-nhi phục-thỉ, Như đời xưa có gã Tử-Phòng. Xem thời cơ người đã rõ thông, Dùng tôi thiểu mà an bá-tánh. Đời vật-chất văn-minh tranh-cạnh, Chữ lợi quyền giựt-giết lẫn nhau. Động lòng hiền chư Phật đớn đau, Cho kinh sấm dạy răn trần-thế. Nhìn thấy chuyện gạo châu củi quế, Nghèo bạc vàng đạo-đức cũng nghèo. Ta xuống trần nhằm lúc nạn eo, Nên phải bị kẻ hung khinh-bỉ. Vì bác-ái nên thân Cuồng-Sĩ, Phải chịu điều khổ hạnh sâu-xa, Mong cho đời gặp lúc khải-ca, Trong bốn biển thái-bình mới toại. Phật, Tiên, Thánh, lòng nhơn hà-hải, Những ước-ao thế-giới hòa-bình. Nên khuyên đời truyền-bá sử-kinh, Cho sanh-chúng sửa mình trong sạch. Giàu đổi bạn khinh-khi kẻ rách, Là những câu trong sách Minh-Tâm. Tánh kẻ sang đổi vợ nào lầm, Thánh-nhơn để nhiều câu hữu-lý. Có mấy kẻ ăn-năn xét kỹ? Mãi ỷ tài chê bướng chê càn. Thì ngày sau đừng có trách than, Những tội lỗi của mình tạo lấy. Bị háo-thắng việc người không thấy, Rồi mảng lo gièm-siểm nhiều lời. Vì vậy nên tình nghĩa xe lơi, Đâu gần-gũi mà tường diệu lý. Trong Lục-Tỉnh ai là người trí, Mau thức thời tìm Đạo nhiệm-sâu. Khuyên dân đừng chia áo rẽ bâu, Phải hợp tác gieo trồng giống quí. Coi rồi phải thân mình tự trị Chẳng độ xong Phật khó dắt-dìu. Thả thuyền Từ bến Giác nâng-niu, Kẻ hiểu Đạo mau mau bước xuống. Việc trải qua như mây gió cuốn, Nhìn cuộc đời ngày tháng thoi đưa. Trời sáng ra kế lại thấy trưa, Năm củ đó rồi qua năm mới. Mười hai tháng mà còn mau tới, Thì tuồng đời cũng chóng đổi thay. Chữ phù-vân phú-quí nay mai, Luân với chuyển dời qua đổi lại. Cõi Ta-Bà mấy ai tồn tại, Sống dư trăm như tuổi lão Bành. Đời Hạ-Nguơn hay chết tuổi xanh, Như thuở trước Nhan-Hồi còn trẻ. Miễn cho được ngày hai cơm tẻ, Buổi bần hàn đặng có tu thân. Nhờ ơn Trời ban-bố đức ân, Xem chung cuộc Phong-Thần tại thế.

Xử những kẻ hung-hăng tồi-tệ, Thưởng những người trung nghĩa vẹn toàn. Ra Kệ nầy hai chữ bảo-an, Cho trần-thế được tâm thanh-tịnh. Ngọc báu quí ẩn trong Nam-đỉnh, Muốn tìm kim đáy biển gắng công. Thấy dân tình luống những ước mong, Gặp giống tốt hãy mau cày cấy. Ai có nói Ta là người quấy, Ta cũng cam bụng chịu tiếng lời. Tỏ ít câu cầu chúc cho đời, Mong bá-tánh vạn dân giải-thoát.

***

Quyển V

Lời Khuyến Thiện

Của Ông Vô Danh Cư Sĩ

(776 câu) Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn, Theo đòi nghiên-bút luận bàn Tục, Tiên. Ta là cư-sĩ canh điền, Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành. Xa nơi tranh-đấu lợi danh, Giữ lòng thanh-tịnh tánh lành trau-tria. Gắng công trì niệm sớm khuya, Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê. Chí toan gieo giống Bồ-Đề, Kiếm người lương thiện dắt về Tây-Phang. Dạy khuyên những kẻ ngỗ-ngang, Biết câu Lục-tự gìn đàng Tứ-ân. Ở trần xử trọn nghĩa-nhân, Quyết làm tôi Phật gởi thân Liên-Đài. Cầu cho mối Đạo hoằng-khai, Cầu cho trăm họ Bồng-Lai được gần.

Sớm về cõi Phật an-thân, Kẻo kiếp phong-trần dày gió dạn sương. Phật-đài phưởng-phất mùi hương, Cúi đầu đảnh lễ cậy nương đức mầu. Từ-bi oai lực nhiệm sâu, Độ con thoát chốn ưu-sầu trần-ai. Nam-Mô Thích-Ca Như-Lai, Ta-Bà Giáo-Chủ xin Ngài chứng-minh. Dưới đây lược tả sách kinh, Cho trong nam nữ hữu tình thì coi. Lời lành của Phật truyền roi, Đọc qua suy nghiệm xét soi chánh tà.

THI

Tiếng kệ từ-bi quá diệu-trầm, Diệt lòng tham vọng diệt thinh-âm. Trần-gian say-đắm theo màu-sắc, Tịnh-độ giác-thuyền trị dục-tâm. Phải rõ nghiệp-duyên trần cấu tạo, Nghe rành chánh-pháp thoát tà-dâm. Phù-sanh nhược mộng đời lao khổ, Tỉnh trí tu thân khỏi lạc lầm. Hào-quang chư Phật rọi mười phương, Đạo pháp xem qua chớ gọi thường. Chuyên-chú nghỉ suy từ nét dấu, Cố công gìn giữ tánh thuần-lương. Lòng quảng ái xót thương nhân chủng, Buổi lố-lăng Phật-Giáo suy đồi. Kẻ tu hành ai nở yên ngồi, Mà sớm kệ chiều kinh thong thả.

Mình đã gặp con thuyền Bát-Nhã, Có lý nào ích-kỷ tu thân? Phật-Tổ xưa còn ở nơi trần, Ngài gắng sức ra công hoằng-hóa. Nền Đại-Đạo lưu thông khắp cả, Bực tiên hiền đều trọng Phật-gia. Rèn dân bằng giáo-thuyết bình-hòa, Giống bác-ái gieo sâu vô tận. Sau nhằm buổi phong-trào tân-tấn, Đua chen theo vật-chất văn-minh. Nên ít người khảo xét kệ-kinh, Được dắt chúng hữu-tình thoát khổ. Thêm còn bị lắm phen giông-tố, Lời tà-sư ngoại-đạo gieo vào. Cho nhơn-sanh trong dạ núng-nao, Chẳng gìn chặt gương xưa mạnh mẽ. Dùng thế-lực dùng nhiều mánh-khóe, Cám dỗ người đặng có khiến sai. Chúng nằm không hưởng của hoạnh tài, Để khốn-khổ mặc ai trối kệ. Mắt thấy rõ những điều tồi-tệ, Tai thường nghe lắm giọng ru người. Thêm thời nầy thế-kỷ hai mươi, Cố xô sệp thần quyền cho hết. Người nhẹ dạ nghe qua mê-mết, Rằng: Nên dùng sức mạnh cạnh-tranh. Được lợi-quyền lại được vang danh, Bài-xích kẻ tu hành tác phước. Làn sóng ấy nhiều người đón rước, Giục dân tâm sôi-nổi tràn-trề. Cổ tục nhà phỉ-báng khinh-chê, Cho tôn-giáo là mùi thuốc phiện. Ai nếm vào ắt là phải nghiện, Chẳng còn lo trang võ đấu chinh. Lấy sắc-thân dẹp nổi bất-bình, Bỏ đức-tính của câu nhơn-quả.

Dầu ai có bền gan sắt đá, Cũng động lòng trước cảnh ngửa-nghiêng. Đạo diệu-mầu gặp lúc truân chuyên, Phận môn-đệ phải lo vun quén. Tằm sức nhỏ còn làm nên kén, Người không lo có thẹn hay chăng? Cả tiếng kêu cùng khắp chư tăng. Với tín-nữ thiện-nam Phật-Giáo. Nên cố gắng trau thân gìn Đạo, Hiệp cùng nhau truyền-bá kinh lành. Làm cho đời hiểu rõ thinh-danh, Công đức Phật từ-bi vô lượng.

Đồng dẹp bớt âm-thinh sắc-tướng, Lo chấn-hưng Phật-Pháp mới là. Nói cho đời hiểu Phật Thích-Ca, Lòng tự giác xả thân tầm Đạo. Ta cũng chẳng hoàn-toàn thông-thạo, Nhưng phân cùng bổn-đạo xa gần. Có một điều già trẻ ân-cần, Là phải biết nguyên nhân Phật-Giáo. Hồi thế-kỷ khoảng trong thứ sáu, Trước kỷ-nguyên tây-lịch thời xưa. Pháp giáo chưa biệt-lập tam thừa, Thuở Trung-Quốc nhà Châu Chiêu-Đế. Bên Ấn-Độ thành Ca-Tỳ-La-Vệ, Có đức vua Tịnh-Phạn nhơn từ. Khắp thần dân lạc nghiệp an cư, Trên chúa thẳng tôi ngay phò tá. Đức Hoàng-hậu Ma-Da phong-nhã, Sắc đẹp dường ngọc thốt hoa cười. Một hôm kia vẻ mặt vui tươi, Đến trước bệ tâu cùng thánh thượng. Rằng: Thần thiếp nhờ ơn chung hưởng, Của hoàng-gia cũng được vinh-quang. Kể từ nay thiếp muốn an nhàn, Dưỡng tâm-trí lần xa thế trược. Chẳng phiền kẻ hầu sau đón trước, Chỉ trừ người ý hiệp tâm đầu. Xin một điều ở chốn long lâu, Tập đức tánh khoan-dung đại độ. Tránh tất cả những điều thô-lỗ, Chẳng ưa gần kẻ bạo ngang-tàng. Thiếp cúi đầu ngưỡng vọng Thiên-nhan, Phê cho thiếp những điều xin ấy. Vua nghe xong vội-vàng đứng dậy, Bèn chuẩn y tỏ ý vừa lòng. Bà tâu thêm ở trước đền rồng, Xin Thánh-thượng bao-dung kẻ khó. Lòng yêu dân ví như con đỏ, Tội giảm tha, đói giúp cơm tiền. Cứu dân nghèo trong lúc đảo điên, Lấy đức rộng bủa trong bá tánh. Vua hứa chịu giúp người đói lạnh, Bà lui về cung điện nghỉ-ngơi. Đêm trăng thanh gió mát thảnh-thơi, Tiết hòa-thuận khắp nơi hoa nở. Đức Hoàng-hậu trong lòng hớn-hở, Giấc chiêm-bao Bà thấy lạ-lùng. Bạch tượng từ ở chốn không trung, Bỗng sa xuống mình bà hối-hả. Vừa tỉnh giấc mơ tiên mới lạ, Khắp phòng huê thơm nức mùi hương. Bà rảo chân bèn bước ra vườn, Truyền thị-vệ thỉnh vua lai đáo. Vua y lời đến nơi hoa thảo, Lại gần bà sao rất quái-kỳ. Tay chơn bèn run-rẩy một khi, Muốn quì xuống mắt dường tăm-tối.

Tiếng Thần Tiên trên không ca trổi, Rằng ta mừng vua hữu thiện căn. Sắp có con thế-giới chẳng bằng, Sau người ấy lập nên Đạo cả. Vua nghe xong cúi đầu bái tạ, Liền phán cùng Hoàng-hậu Ma-Da. Có việc chi vội-vả dời ta, Khá nói lại đầu đuôi tường tất. Bà thuật rõ chiêm bao trong giấc, Xin vua vời ít kẻ bàn giùm. Các thầy bàn được lịnh vào cung, Nghe xong-xả tâu rằng điềm quí. Ngày thắm-thoát đông qua hạ chí, Bà trổ sanh Thái-tử đẹp tươi. Mặt trang-nghiêm khí-phách hơn người, Vua cùng khắp thần dân mừng rỡ. Họ Thích-Ca từ đây cũng ngỡ, Sẽ có người nối nghiệp hoàng-gia. Liền đặt tên là Sĩ-Đạt-Ta, Cả triều chính treo hoa yến ẩm. Có nhà sư cách thành mấy dậm, Thường ở ăn trong sạch hiền-từ. Lòng thẳng-ngay chẳng có vị tư, Đời thanh-tịnh gìn theo Đạo-lý. Ông lại được Thần Tiên dẫn chỉ, Hiểu Thiên-cơ thấu mối diệu-huyền. Ông là người Bà-la-môn tiên, A-tư-Đà tiên hiền tên lão. Thời buổi ấy vua ưa người Đạo, Bèn vào chầu tâu trước bệ rồng. Xin vua cho ông bước vào trong, Được yết-kiến tử-hoàng luôn thể. Ông xem xong bỗng liền sa lệ, Vẽ mặt buồn chẳng thốt ra lời. Thấy lạ-lùng vua bước đến nơi, Liền phán hỏi bảo ông phân rõ. Trước cung-điện ông liền bày tỏ, Rằng tử-hoàng chừng được thành nhơn. Lìa đền-đài khổ-cực chẳng sờn, Tìm Đạo-lý dắt-dìu sanh-chúng. Ngài sẽ được thế-gian ca tụng, Chắc phần Ngài quả Phật vẹn tròn. Buồn vì tôi tuổi lớn sức mòn, Chẳng sống đặng nghe lời Phật thuyết. Cả hồng-trần đau-thương thống-thiết, Nhờ Ngài mà diệt nẻo luân-hồi. Vô phước nên tủi bấy phận tôi, Chớ chẳng có điều chi lo ngại. Đức Hoàng-hậu đến ngày thứ bảy, Dứt nợ trần nên vội qui tiên. Có bà dì thay thế mẹ hiền, Giùm săn-sóc trông-nom Thái-tử.

Khi lớn lên cho người dạy chữ, Lúc vào trường chẳng học mà thông. Buổi trưởng thành vua vẫn hằng mong, Cho Thái-tử đừng lìa cung điện. Hội triều-đình các quan lựa tuyển, Nàng Du-Gia được chọn kết hôn. Vua nghĩ rằng muốn tâm yên-ổn, Chọn cung-phi mỹ nữ làm trò. Cất đền-đài lộng-lẫy đẹp to, Ngày ca múa đêm bày lơi-lả. Lòng Thái-tử cũng không xiêu-ngả, Ra khỏi đền du ngoạn một khi. Buổi đầu tiên gặp những chuyện gì, Gặp cụ lão tay nương gậy chống. Ngài xem qua lòng bèn cảm-động, Lần thứ hai thấy kẻ ốm đau. Xét cõi trần trong dạ héo xào, Chi xiết nổi núng-nao cõi tạm. Lần thứ ba xe lìa khỏi trạm, Được trông nhìn kẻ chết đang khiêng. Về đền-đài cảm xúc buồn riêng, Hằng để trí tầm phương giải-thoát. Lần thứ tư vừa đi dạo mát, Bỗng gặp người tốt đẹp trang-nghiêm. Nào dè đâu Trời đã ứng điềm, Giã tăng-sĩ gợi lòng Thái-tử. Ngài hiểu rõ ấy là phận-sự, Phải xuất gia tầm Đạo mau mau. Liền quày xe trở lại lai trào, Xin Vương-phụ lánh xa mùi thế. Vua buồn thảm dùng lời khóc kể, Rằng: Cha già biết cậy nhờ ai. Khuyên con nên ở chốn điện-đài, Lo nối nghiệp sau tu chẳng muộn. Lòng Thái-tử quyết theo ý muốn, Thừa đêm khuya lén trốn vào rừng. Lìa cha già, vợ đẹp, con cưng, Thân chẳng sá xông-pha bờ bụi. Ngày thuở ấy nên mười chín tuổi, Tâm đại-hùng cương-quyết tu trì. Trải bao phen lao-khổ xiết chi, Sau Ngài đến Rạch-Ni Liên-Thuyền. Thấy cỏ hoa cảnh bắt tham-thiền, Ngồi khổ-hạnh sáu năm bên ấy. Đạo gần đắc Ma-Vương theo khuấy, Dùng thần-thông nghị-lực dẹp tan. Ấy mới vừa đắc Đạo hoàn-toàn, Và lần bước phô-trương độ chúng. Ngài bèn xét ở trong Phật chủng, Các chúng-sanh đều có như Ta. Bị vô-minh vọng-tưởng vạy-tà, Nên quay lộn Ta-bà cõi khổ.

Lòng thương chúng thuyết-phương Tịnh-độ, Đặng dắt-dìu tất cả chúng-sanh. Nếu như ai cố chí làm lành, Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật-Quốc. Cả vũ-trụ khắp cùng vạn-vật, Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc-sanh. Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng-hành, Được cứu-cánh về nơi an-dưỡng.

Chỉ một kiếp Tây-phương hồi hướng, Thoát mê-đồ dứt cuộc luân-hồi. Xét cõi trần sóng khổ giạt-trôi, Vô lượng thứ ở trong thế-giới. Lời Phật thuyết Ta xin nhắc lại, Ta-bà khổ, Ta-bà lắm khổ. Có bao người xét cho tột chỗ, Tịnh-độ vui, Tịnh-độ nhàn vui.

Cảnh thanh-minh sen báu nặc mùi, Nào ai rõ cái vui triệt đáo.

*************************

Vì phần Ta rất yêu-mến Đạo, Chẳng nệ chi trí siển tài sơ. Lấy lời xưa kết lại ít tờ, Cho thiện-tín rỗi nhàn xem-xét. Dứt mê tâm dứt điều hờn ghét, Rán cần chuyên niệm Phật làm lành. Thường trau-giồi chí-hướng cao thanh, Cho khỏi thẹn con lành Phật-Giáo. Đức Thích-Ca từ xưa dạy bảo: Khổ Ta-bà nhiếp lại tám phần. Bởi chúng-sanh mang lấy xác thân, Khổ thứ nhứt sự Sanh là gốc. Vào bụng mẹ chung quanh bao-bọc, Có khác nào ở chốn ngục tù. Buổi mẹ đau huyết kiệt hình thu, Lúc mẹ đói dường treo lỏng-bỏng.

Ta kể sơ những điều bi-thống, Mẹ no cơm chật-chội khó-khăn. Khi ra đời đau-đớn vô ngần, Cất tiếng khóc nếm mùi dương-thế. Đoạn Lão khổ thứ nhì xin kể, Từ trẻ thơ đến tuổi thành nhân. Hết tráng- cường đến lúc mòn thân, Răng lần rụng lưng cong gối mỏi. Nằm đi đứng đỡ nưng chống chỏi, Thử nghĩ coi lao nhọc cùng chăng? Đoạn thứ ba ma Bịnh làm nhăng, Đeo hành phạt xác thân ô-uế. Bởi thời-thế chuyển xây biến-thể, Thêm uống ăn chẳng được điều-hòa. Là nguyên-nhân căn bịnh phát ra, Thân trằn-trọc hôn-mê nhức-nhối. Cơn bịnh hoạn càng không tránh nổi, Còn mang thêm tật nọ tật kia. Rồi từ đây đến lúc chia lìa, Đoạn Tử khổ thứ tư phân giải. Trên dương thế hữu hình tắc hoại, Có sanh ra khổ-hải đâu chừa.

Trải bao phen dãi gió dầm mưa, Ngày kiệt sức huyễn thân tan-nát. Gần hấp-hối tâm-thần xao-xác, Trí vẩn-vơ kinh-sợ vô cùng. Rồi mòn lần đến lúc lâm chung, Giã cõi tạm theo đường tội phước. Nhiều phương thuốc ngừa sau ngăn trước, Mà cũng không thoát luật tuần-huờn. Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn, Chẳng trốn lánh tử thần cho khỏi. Đoạn thứ năm nghĩ-suy tìm-tỏi, Cầu Chẳng Thành những việc thích-ham. Người trên đời ai cũng lòng tham, Muốn phước, thọ, phẩm, hàm, tiền của. Nào vợ đẹp, hầu xinh, là-lụa, Không được thì bực-tức ưu-phiền. Cả tâm thần điêu-đứng đảo-điên, Vậy có phải khổ hay là chẳng? Đoạn thứ sáu Biệt-Ly cay đắng, Người mình thương bỗng lại chia-lìa. Khi khóc than nước mắt đầm-đìa, Lúc trông nhớ ruột tầm chua xót. Ở thế-gian mấy ai thoát lọt, Nợ gia-đình đeo đắm căn-duyên. Cơn nguy nghèo thân thể truân-chuyên, Kẻ lưu-lạc người chờ trông mãi. Cuộc tan hiệp, hiệp tan ân-ái, Đến xong đời để lại sầu ưu. Cái khổ nầy dầu lắm trí mưu, Cũng chung chịu như người tăm-tối. Đoạn thứ bảy khổ Oan-Tắng-Hội, Hể thương nhau tất có ghét nhau. Thường tranh-đua tiếng thấp lời cao, Chẳng nhẫn-nhịn thành ra cừu oán. Muốn tránh xa đừng trông tâm dạng, Cứ gặp nhau mắt tựa kim châm. Làm cho người đau đớn âm-thầm, Khổ như thế diễn ra mãi mãi. Đoạn thứ tám Ưu-Sầu lo ngại, Cuộc tang-thương dâu bể cảnh trần. Nghèo thì lo một nổi nợ-nần, Lo đau-đói liệu cơn nhà rách. Buồn duyên-số phận mình nhơ sạch, Rầu gia-đình chúng bạn khinh cười. Giàu thì lo chen lấn với người, Miễn cho được đầy rương đầy tủ.

Của dương-thế góp tom bảo-thủ, Sợ gian-phi trộm cướp rình-mò. Lo tước-quyền cho được thơm-tho, Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả. Ôi! cả sang hèn chẳng ai thong-thả, Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say. Chẳng tu thân đặng dựa Phật-Đài, Cho thong-thả hưởng mùi sen báu. Thần-thức nhập Thai-Sen tinh-hảo, Nên khỏi màng lo nổi khổ sanh. Thân thì Thân Công-Đức hiền lành, Bất di dịch khỏi vì khổ lão. Thể Thanh-tịnh thường không huyên-náo, Hết lo toan nắng lạnh gió mưa. Khổ bịnh kia bởi đó mà chừa, Ta thoát cuộc lao-đao vì nó. Đường sanh-mạng Phật, ta đồng thọ, Tánh an nhiên bất diệt trường tồn. Tử thần kia đâu dám dắt hồn, Thoát luân-chuyển khỏi đeo khổ tử. Cuộc y thực muốn chi đủ thứ, Không nhọc-nhằn lo việc sanh-nhai. Trí yên nhàn nhìn cảnh Phật-Đài, Khỏi quả khổ mưu cầu bất đắc. Cả Hải-chúng thảy đều vững-chắc, Toàn dân lành đâu có đắn-đo. Dứt ái-ân quyến-thuộc chuyện-trò, Thoát sống khổ thương-yêu, ly-biệt. Chữ Hòa-Thuận kể sao cho xiết, Tâm đồng nhau thượng-thiện vui-vầy. Cảnh như như chẳng có đổi thay, Không màng biết phân chia nhơn-ngã. Sẵn vị ngôi rành phân thượng hạ, Khỏi khổ câu oán ghét gặp nhau. Thân tâm thường-trụ hết rạt-rào, Chất thô-trược tiêu tan mất cả. Cõi Tịnh-độ lắm điều thanh-nhã, Khổ, buồn, rầu, lo, sợ chẳng còn. Chốn Ta-bà tim lụn dầu mòn, Thân tứ-đại của người cũng thế. Mau thức-tỉnh tu-thân kẻo trể, Đến tội rồi mới hối muộn-màng. Chi cho bằng ta sớm lo toan, Gìn giới-luật nghe kinh trọng Phật. Đến lâm-chung quả lành đâu mất, Cõi Tây-Phương chư Phật đợi chờ. Việc tu thân thiện-tín hẩng-hờ, Chừng họa đến e cho khó tránh. Môn Tịnh-độ là phương cứu-cánh, Rán phụng-hành kẻo phụ Phật xưa. Lòng từ-bi chẳng quản nắng mưa, Xông thuyền giác rước đưa sanh-chúng. Trong một nước nhân tài hữu dụng, Kẻ tu hành đa phước thì nên. Quyết trau thân tánh hạnh cho bền, Niềm ơn nghĩa toan đền dứt nợ. Ao sen báu Tây-Phương đua nở, Chờ chúng-sanh niệm Phật chí tâm. Rán tu cho quỉ khiếp thần khâm, Được tâm phát Bồ-Đề vững chắc. Giữ đừng cho Ma-Vương dẫn-dắt, Thường nhớ câu Đại-Lực, Đại-Hùng.

Thắng Thất-Tình giữ vẹn Đạo-Trung, Trừ Lục-Dục chớ cho ô-nhiễm. Thập-tam Ma diệt bằng trí-kiếm, Rứt xong rồi vô sự thảnh-thơi. Biển hồng-trần lao-lý diệu-vơi, Xô đẩy mãi trong vòng Ngũ-Trược. Thân hôi tanh muỗi, ruồi đón rước, Thêm nhọt u, ghẻ lác, phong cùi. Đâu lúc nào toàn vẹn yên vui, Là Kiếp-Trược, ta xin kể trước. Dòm việc quấy ngắm điều bạo-ngược, Mắt trông vào những chỗ đê-hèn. Nào được xem cảnh báu đài sen, Nghĩa Kiến-Trược giải ra như vậy. Trí vẩn-vơ tưởng đó nhớ đây, Thiết mưu-kế toan bề thắng-thối. Ghi thù-oán chưởng điều đáp đối, Nên ma phiền Nảo-Trược đắm say. Chuyển luân trong nhân-vật các loài, Căn mờ ám làm điều dại-dột. Chúng-Sanh Trược, Ta đà kể nốt, Còn thứ năm là Mạng-Trược trung. Số giàu-sang, họa phước, bần-cùng, Giàu hoa-nguyệt thung-dung cẩu-thả.

Ưa đẹp mắt mến điều mới lạ, Sang oai-quyền, hối-lộ gần xa. Nghèo a-dua, bợ-đở nịnh tà, Khó trộm-cướp cũng là nhơ xấu. Nguyện cùng Phật dứt duyên trần-cấu, Phải trừ thêm thập-ác huyễn thân. Khuyên nữ nam suy-nghiệm ân-cần, Ác nơi khẩu nhứt là Lưỡng-Thiệt. Với người nầy dùng lời tha-thiết, Đến kẻ kia đâm-thọc cho gây. Khá chừa đi hương-đảng bớt rầy, Dùng sự thiệt giải-bày tâm trí. Người choảng nhau tại mình gia vị, Mà cũng không hưởng được lợi-danh. Sau rõ ra chúng lại ghét-ganh, Chiêu cảm quả bất lành thêm nữa. Ác thứ nhì Ỷ-Ngôn chất-chứa, Đợi cho người lầm-lỗi xéo vày. Của tiền nhiều tự phụ rằng hay, Chủ ỷ thế nhiếc xài kẻ dưới. Lắt-léo chi có ba tấc lưỡi, Quan ỷ khôn mạt-sát dân ngu. Nghèo ỷ lanh láo-xược lu-bù, Ôi! Thấy thế lòng đau tợ cắt. Khuyên bá-tánh giữ-gìn cho chặt, Đừng để cho quỉ dắt đường cong. Dùng từ-ngôn nói tận đáy lòng, Dầu trên dưới cũng không mấy khác. Chúng vô phước đời nầy dốt-nát, Người khôn-ngoan chỉ-dẫn mới là. Lời trang-nghiêm êm-ái thốt ra, Đừng bao-biếm mới là nhơn-thiện. Tới Ác-Khẩu thứ ba bày-biện, Tiếng tục-tằn thô-lổ hung-hăng. Nào chưởi cha, mắng mẹ lăng-xăng, Chẳng kể đến luân-thường thảo hiếu. Hăm đánh giết những người hèn yếu, Hiếp xóm-chòm cô bác chẳng kiên. Trong gia-đình chưởi rủa liên-miên, Hết Dương-thế kêu sang Thần-Thánh. Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh, Cõi Long-cung mời thỉnh tối ngày. Đời ám-u tội trạng thảm thay, Khuyên bá-tánh bá-gia rán bỏ. Gương tổ-phụ còn roi lại đó, Sau không theo nề-nếp gia-phong. Chư Thánh-Thần đâu có mất lòng, Mà kêu réo Đông, Tây, Nam, Bắc? Mấy câu trên toàn là ròng-rặt, Những đàn-bà khe-khắt cháu con. Kể từ nay phải giữ cho tròn, Không chừa dứt ắt mang tai-ách.

Lựa lời tiếng dịu-dàng trong sạch, Khi thốt ra đoan chánh hiền từ. Tích thiện thì thường có phước dư, Bằng tích ác họa-ương đeo đắm. Ác Vọng-Ngữ thứ tư cũng cấm, Nói thêm thừa huyễn-hoặc đủ điều. Ghét người thời kiếm chuyện dệt-thêu, Thương viện lẽ thấp cao bào chữa. Đời bất công mấy ai xem sửa, Trên điêu-ngoa dưới chẳng phục-tòng. Khuyên nhơn sanh lấy lẽ chí công, Mà ăn ở nói năng chơn chất. Phật từ-bi độ trong nhơn vật, Là luật kinh dạy rất tinh-tường. Nếu chẳng nghe hồn vướng tai-ương, Chừng ấy mới kêu mời khó rước. Người dương-thế chẳng ưa bốc-xước, Phật Thần nào gần kẻ xảo-ngôn. Đã tu hành đừng có bôn-chôn, Tưởng hay giỏi khoe-khoang tài cán. Người hiểu rành mới càng thêm chán, Chi bằng ta bỏ lối trớ-trêu. Nói với ai cũng phải lựa điều, Đừng tráo-chác cho người khinh dể. Ác Tà-Dâm thứ năm càng tệ. Chúa hôn-mê chiếm đoạt thê thần. Làm đảo-huyền tất cả quốc-dân, Tôi bất chánh hoàng-cung dâm loạn. Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng, Từ xưa nay Trời đất đâu dung. Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng, Quan lấn thế dâm-ô dân khó.

Trai liều-lĩnh điều này nên bỏ, Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn. Gái lẳng-lơ tiếng huyễn lời đờn, Hoa có chủ đèo-bòng tình mới. Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi, Bỏ những điều điếm nhục tông môn. Đấng nam-nhi học lấy điều khôn, Lòng trung-hiếu gìn theo đạo-lý. Hàng phụ nữ gương xưa nối chí, Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền. Niệm Phật mà gây lấy thiện duyên, Cho đẹp mặt Tổ-tiên nòi giống. Thờ Phật-Đạo tỉnh cơn ác mộng, Thoát mê-đồ thường phóng quang-minh. Rán hiểu rành tiếng kệ lời kinh, Ác thứ sáu ấy là Đạo-Tặc. Lấy của người sắm ăn sắm mặc, Chẳng kể công nước mắt mồ-hôi. Phá lương dân dạ luống bồi-hồi, Ngày làm-lụng đêm lo gìn-giữ. Trốn pháp-luật tập-tành đủ thứ, Nào đào tường, khoét vách khuân đồ. Tội chập-chồng đâu biết ở mô, Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi. Nay đuốc huệ Từ-Bi đã rọi, Vào thâm-tâm những kẻ gian-phi. Hãy tu thân chừa thói vô nghì, Của phi nghĩa làm chi xong chuyện. Luật nhơn-quả thật là cao viễn, Suốt cổ kim chẳng lọt một ai. Vậy ta nên làm việc thẳng ngay, Cứ bền chí có ngày thong-thả. Ác thứ bảy Sát-Nhơn gây vạ, Tánh hung-hăng đâm chém chặt bầm. Chất-chứa điều hung dữ trong tâm, Chờ đắc thế ra tay hạ sát. Viết đến đây động lòng rào rạt, Gẫm nhiều người bội-bạc thâm ân. Nào kể chi là đạo Quân-thần, Tôi giết chúa, con đành sát phụ. Lúc nguy-cơ tớ mong hại chủ, Trò giết thầy tội ấy đáng không. Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng, Niềm huynh-đệ cùng nhau xâu-xé. Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ, Giành của tiền cốt-nhục giết nhau. Tranh lợi danh giết lẫn đồng-bào, Tình nhơn-loại phân chia yểm-bách. Giết sanh vật đầy lòng kiêu-cách, Tưởng rằng mình như thế là ngoan. Khuyên bá-gia bá-tánh việt-đàn, Chớ sát hại mạng người như thế. Bớt giết vật đặng mà cúng tế, Gẫm Thánh-Thần đâu có tư riêng. Rủi ốm đau bởi tại căn tiền, Hoặc hiện kiếp làm điều bạo-ác. Phải ăn-năn phước điền tạo-tác, Lo thuốc thang khẩn-vái Phật Trời. Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời, Xuống phước rộng từ-bi hỉ-xả. Đấng Thần-Minh công bình trực dạ, Đâu ăn lo đổi họa làm may. Mở tâm linh nghĩ đến đoạn nầy, Điều họa phước ấy cơ báo ứng. Chẳng biết thân còn toan chứa đựng, Quả bất lành chưa trả vay thêm. Cầu cho đời sóng lặng gió êm, Đặng bá-tánh an nhàn tu niệm, Ác thứ tám là lòng Tham Hiểm, Muốn bao gồm của thế một mình. Tham nhà cao, cửa rộng, thân vinh, Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.

Thấy của người thèm khô nước miếng, Tính làm sao lường gạt lấy đi. Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì, Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa. Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa, Của thế trần như mật dính dao. Trẻ tham ăn kê miệng liếm vào, Chừng đứt lưỡi mới là hối-hận. Tham của tạm làm điều tàn-nhẫn, Nhắm mắt rồi đâu có mang theo. Tham tiền tài thường vướng nạn eo, Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát. Lúc tận số nằm trơ một xác, Gẫm kim-tiền bội-bạc bất tài. Không làm cho ta được sống dai, Lại chẳng bước tiển đưa một bước. Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược, Lo vun trồng cội phước về sau. Muốn trừ tham phải liệu cách nào, Phải bố-thí diệt lòng ích-kỷ. Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ, Vật ở trần như bọt nước làn mây. Thân Ta còn rày đó mai đây, Của ấy cũng khi tan khi hiệp. Ác thứ chín Hận-Sân luận tiếp, Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng. Nổi lôi đình đâu có định chừng, Cho ta biết mà toan giữ trước. Tánh sân-nộ thường làm bạo-ngược, Nên loài người ở cõi thế-gian. Giận hờn nhau thù-oán dẫy tràn, Mới có cuộc tranh tài đấu lực. Hơn tự-đắc, khoe-khoang dõng sức, Phải bị người hềm-khích ghét-ganh. Thua hổ-ngươi làm chuyện bất lành, Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.

Trong cơn giận kể gì nhơn đạo, Tỷ như con cọp dữ trên rừng. Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng, Phân từng mảnh mới là thỏa dạ. Diệt được nó tâm trần thong-thả, Ta thường nên tập tánh khoan-dung. Thiệt- hành đi đừng có ngại-ngùng, Tha-thứ kẻ lỗi-lầm ngu-xuẩn. Và nhẫn-nhịn đừng ham tranh-luận, Khỏi mất lòng tất cả mọi người. Tánh thuần-lương vẻ mặt vui tươi, Vậy mới đáng tín đồ Phật-Giáo. Nay ta đã quy-y cầu Đạo, Gây-gổ là trái thuyết từ-bi. Ác thứ mười đoạn chót Mê-Si, Nguyên tăm-tối từ hồi vô thỉ. Màn vô-minh che mờ căn trí, Nên thường khi nhận ngụy làm chơn. Lo huyễn thân vật-chất kém hơn, Chẳng tìm biết tinh-thần đạo-đức. Dệt lưới nghi đeo điều phiền-phức, Bịn-rịn đời cực-khổ tang-thương. Khi nói làm ít chịu suy lường, Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác. Diệt mê-si phải nương thuyền giác, Muôn việc làm chính-trực khôn-ngoan. Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn,

Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp

Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp, Lóng nguồn chơn Phật tiếp-dẫn cho. Trồng cây lành vị-quả thơm-tho, Tuy không thấy mà sau chẳng mất. Dầu ai có cười ta khờ-khật, Cũng đừng phiền xao-lãng chơn tâm. Mong tiếng kêu thấu đến Tòng-lâm, Cùng thiện-tín bá-gia hưởng ứng. Muốn Phật-Giáo từ đây bền vững, Đừng riêng lo lợi-dưỡng một mình. Nếu xuất gia thì phải hy-sinh, Cả vật-chất tinh thần lo đạo.

Chớ giả-dối mà mang sắc áo, Mượn bồ-đề chuỗi hột lòe người. Làm cho dân khinh-dể ngạo cười, Tội-lỗi ấy luật nào dung-thứ. Tu còn ham chay to đám bự, Đặng thế-gian dưng cúng bạc tiền. Dối rằng: lo tu-bổ chùa chiền, Mà làm của xài riêng cho thỏa. Bảo làm sao dân không sa-ngã, Nghe lời rù Tông nọ phái kia. Cả tăng-đồ trong nước chia lìa, Riêng pháp-bảo, riêng chùa, riêng Phật. Trong bá-tánh sầu-thành chất-ngất, Mãi nghi nan chẳng biết đàng nào. Lòng mến yêu chẳng nệ công-lao, Mượn bút mực đôi lời trần thuyết. Tùy thiện-tín hiểu Ta giả thiệt, Làm hay không chẳng dám ép nài. Nguyện mười phương chư Phật đáo lai, Đồng tiếp-dẫn chúng-sanh giải-thoát.

KỆ: Đêm thanh hiên nguyệt dựa kề, Nhìn xem thế-sự não-nề tâm-can. Từ Ta nương chốn Phật-đàng, Dứt tâm trần-cấu chẳng màng vinh-huê.

Trần-hoàn thiện-tín còn mê, Thêm lời giục-thúc gọi về đàng tu. Dốc lòng vạch ngút mây mù, Đặng dìu bá-tánh đường tu chen vào. Lời Thầy cạn tỏ âm-hao, Để truyền hậu-thế vàng thau lọc-lừa. Tu cầu thuận gió hòa mưa, An-hòa nhơn-vật phước thừa trời ban. Tu cầu thoát chốn gian-nan, Cầu trong chư quốc chư bang giao-hòa. Tu cầu yên nước lợi nhà, Cửu-huyền Thất-tổ Diêm-la thoát hình. Tu cầu Phật hóa tánh tình, Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu-dao. Tu cầu cửa Phật đặng vào, Gót sen thong-thả xiết bao thanh-nhàn. Tu cầu bịnh tật tiêu-tan, Từ-bi hỉ-xả Phật ban phép lành. Tu cầu thoát khỏi tử sanh, Nương theo Phật-Quốc lời lành hằng nghe. Cỏi trần đừng đắm ngựa xe, Đeo tuồng mộng-huyễn lập-lòe sắc hương. Tu cầu trăm họ hiền lương, Đồng thinh niệm Phật tai-ương chẳng còn. Tu cầu gia-đạo vuông tròn, Chồng hòa vợ thuận cháu con thảo hiền. Tu cầu thoát khỏi xích-xiềng, Dựa kề chơn Phật xa miền trần-lao. Tu cầu chóng hết binh đao, Gặp đời bình trị xiết bao vui-vầy. Mắt nhìn chư Phật đông dầy, Thành vàng điện ngọc trò Thầy đăng tiên. Ai mà muốn đặng phước-duyên, Nghe lời khuyến-thiện lòng liền phát tâm. Tu cho rõ mối huyền-thâm, Qui đầu Phật-Pháp khỏi lâm tai nàn. Phước đức quí hơn bạc vàng, Những người bạc-ác giàu sang ích gì. Chi bằng ăn ở nhu-mì, Nghe lời Phật Thánh kính vì người trên. Hiếu trung lòng chớ vội quên, Sống lo trọn Đạo, thác lên Tiên-Đài. Nam-mô miệng niệm hằng ngày, Lánh lời dua-mị học rày kệ kinh. Trau tâm luyện tánh cho minh, Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn. Lóng tai nghe rõ tiếng đờn, Không giây không phiếm oán hờn cũng không. Đờn tây rồi lại đờn đông, Trách trong bá-tánh gặp sông quên nguồn. Phàm-trần như chỉ rối cuồn, Mà còn say đắm theo tuồng lẳng-lơ. Lời lành mắt lấp tai ngơ, Đua theo vật-chất hẫng-hờ đàng tiên. Hố sâu tình dục lại ghiền, Ghiền cho đến lúc chúng khiêng quan-tài. Nhắm mắt cũng nắm hai tay, Đâu đem tiền của đem rày hầu non. Chỉ có tội phước hỡi còn, Đến nơi thẩm-phán cửa son Diêm-Đài. Phước nhiều tiên cảnh lên rày, Tội nhiều sa-đọa nhiều ngày thảm-thê. Chừng ấy mới biết chỉn ghê, Ăn-năn chẳng kịp khó bề tính-toan. Ngày nay sớm đến Phật-đàng, Tu cầu chư Phật cứu an linh-hồn. Tội tiêu phước hưởng trường-tồn, Không còn mắc nẻo dại-khôn luân-hồi.

Thấy đời khó nổi yên ngồi, Thêm lời Thầy nhắc một hồi thấp cao. Nữ nam muốn rõ âm-hao, Rán trau đức-hạnh ngày sau sẽ tường.

*****************************

Ngôn-từ đạo hạnh ý Thầy khuyên, Hạnh đức ân-cần rán tập chuyên. Thất-tổ cửu-huyền nơi chín suối, Mỉa-mai xa lánh sáu đường duyên.

Vô thượng thậm thâm dĩ ý truyền, Danh ngôn chép để rạch đàng Tiên. Cư-gia Tịnh-Độ tâm viên-mãn, Sĩ xuất văn-từ dốc dạy khuyên. NAM MÔ BỒN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT (tam niệm)

NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT

Quyển VI Cách Tu Hiền và Sự Ăn Ở của Một Người Bổn-Đạo

_____________________

Lời Nói Đầu ———

Năm năm trường xa cách, cái chánh-sách áp bức tôn-giáo gắt-gao của người Pháp làm cho tôi không được gần-gũi các người hầu giải bài tường tận tôn-chỉ hành đạo của tôi.

Ấy không phải vì tôi cố ý muốn xa-lánh các người, song chẳng qua vì sự bắt-buộc của kẻ cường-quyền nên tôi và các người không được trực-tiếp cùng nhau. Tuy nhiên cũng có lắm thiện-nam tín-nữ rất trung-thành, một lòng gìn đạo. Nhưng gần đây có vài kẻ hiểu lầm, hành-động một vài điều không phù hợp với tinh thần đạo-đức, trái chủ-nghĩa từ-bi bác-ái và sự cao-thượng của giáo-pháp nhà Phật. Thế nên điều ấy làm cho quyển sách nhỏ nầy ra đời. Vậy từ nay trở đi tôi ước mong rằng với vài điều sơ-lược kể ra sau đây, toàn thể thiện-nam tín-nữ trong Đạo sẽ dùng trí-tuệ mình, suy-gẫm gìn-giữ ăn ở theo quy-tắc đã định, đặng tránh những việc đáng tiếc xãy ra, hầu giữ tròn danh-giá của Đạo Phật. Như thế chẳng phụ công ơn của Đức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni đã khai sáng Đạo Phật và đã dìu-dắt quần-sanh tầm đường giải thoát.

Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật HÒA HẢO _____________________

Quyển 6 – Bao Gồm Những Phần Sau:

  1. Những Điều Sơ Lược Cần Biết Của Kẻ Tu Hiền II. Luận Về Tam Nghiệp III. Luận Về Bát Chánh IV. Cách Thờ Phượng, Hành Lễ Và Sự Ăn Ở Của Một Tín Đồ Phật Giáo Hòa Hảo
  2. Sự Cúng Lạy Của Người Cư Sĩ Tại Gia VI. Lời Khuyên Bổn Đạo

_____________________

  1. Những Điều Sơ Lược Cần Biết Của Kẻ Tu Hiền

Đạo Phật từ xưa đến nay luôn luôn phân làm hai hạng người: 1. Hạng xuất gia, 2. Hạng tại gia.

HẠNG XUẤT GIA: Gồm có các nhà sư hay những ni cô đã hoàn toàn ly khai với gia đình, quê hương, bè bạn, dựa thân vào cửa Thiền hoặc núi non am cốc, hằng ngày chỉ chuyên lo kinh kệ, săn sóc cảnh dà lam, trau luyện đức lành, giồi mài trí tuệ hầu giảng giải cho bá tánh thập phương nghe để quày đầu hướng thiện quy y Phật Pháp, không còn thiết đến việc đời. Gia đình nhà cửa của nhà sư là cả thế gian, thân quyến nhà sư là khắp cả nhân loại đại đồng.

Đó là hạng người dốc tu cho mau thành Phật quả thoát kiếp luân hồi.

HẠNG TẠI GIA: Gồm tất cả đại chúng, tất cả thiện nam tín nữ chưa đủ những điều kiện xuất gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, với gia đình, với đồng bào xã hội, nên chưa thể làm như các nhà sư hay ni cô đặng. Tuy vậy họ cũng sẵn sàng hoan nghinh ca tụng lý tưởng từ bi bác ái đại đồng của nhà Phật và luật Nhân quả do Phật thuyết ra. Thế nên ở tại nhà họ thờ phượng Đức Phật, phát nguyện quy y, giữ gìn ít điều giới luật, hằng coi kinh sách sửa tánh, răn lòng, ủng hộ các sư. Như thế, họ cũng lần lần lên con đường giải thoát.

Đây là hạng người học Phật tu Nhân.

Bàn xét như trên, thấy rằng toàn thể trong Đạo chúng ta thuộc hạng tại gia cư sĩ, học Phật tu Nhân vậy.

Sách xưa có câu: “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên” (muôn vạn quyển kinh của Phật, Thánh, Tiên đều dạy sự hiếu nghĩa làm đầu). Hôm nay đã quy y đầu Phật, tu niệm tại gia, ta hãy cố gắng vưng lời Thầy Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu nghĩa.

Đức Thầy Tây An thuở xưa thường khuyến khích các môn nhơn đệ tử rằng: muốn làm xong hiếu nghĩa, có bốn điều ân ta cần phải hy sinh gắng gổ mới mong làm trọn.

1. Ân Tổ Tiên cha mẹ, 2. Ân Đất Nước, 3. Ân Tam Bảo, 4. Ân Đồng Bào và Nhân loại (với kẻ xuất gia thì Ân Đàn na Thí chủ).

1. ÂN TỔ TIÊN CHA MẸ: Ta sanh ra cõi đời được có hình hài để hoạt động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc; nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ tiên; nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn tổ tiên nữa.

Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm chỉ nghe lời, chớ nên xao lãng làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên lơn ngăn cản. Chẳng thế, ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bệnh hoạn ốm đau, gây sự hòa hảo trong đệ huynh, tạo hạnh phúc cho gia đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh hồn được siêu thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân.

Còn đền ơn tổ tiên, là đừng làm điều gì tồi tệ, điếm nhục tông môn, nếu tổ tiên có làm điều gì sai lầm, gieo họa đau thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ đường.

2. ÂN ĐẤT NƯỚC: Sanh ra, ta phải nhờ tổ tiên cha mẹ, sống ta cũng nhờ đất nước quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ dàng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy bổn phận phải bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm lăng giày đạp. Rán nâng đỡ xứ sở quê hương lúc nghiêng nghèo và làm cho trở nên được cường thạnh. Rán cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm.

Hãy tùy tài tùy sức, nỗ lực hy sinh cho xứ sở. Thảng như không đủ tài lực đảm đương việc lớn, chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ xuất đến nỗi làm cho nước nhà đau khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất nước.

Đó là ta đền ơn cho đất nước vậy.

3. ÂN TAM BẢO: Tam Bảo là gì? – Tức: Phật, Pháp, Tăng.

Con người nhờ tổ tiên cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình, ấy về phương diện vật chất.

Về phương diện tinh thần, con người cần nhờ đến sự giúp đỡ của Phật, Pháp, Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác ái vô cùng, quyết cứu vớt sanh linh ra khỏi vòng trầm luân khổ hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng, đặng đem nền Đạo cả của Ngài ban bố khắp trần thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn là các đại đệ tử của Đức Phật vậy. Bởi vì đức Phật luôn luôn chỉ dẫn và cứu vớt quần sanh thoát miền mê khổ, nên ta hãy kính trọng Phật, hãy tin tưởng và tín nhiệm vào sự nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm mầu, lòng quảng ái của Phật đối với chúng sanh, đã kính trọng sùng bái Ngài, đã hành động đúng theo khuôn khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi đắp cho nền Đạo được phát triển thêm ra, xây dựng một tòa lâu đài Đạo hạnh vô thượng vô song roi truyền mãi mãi với hậu thế.

Nên bổn phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền nhân hầu làm cho trí tuệ minh mẫn đặng đi đến con đường giải thoát, dẫn dắt giùm những kẻ sa cơ, và nhứt là phải tiếp tục khai thông nền Đạo đức đặng cái tinh thần từ bi bác ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá tánh. Như thế mới chẳng phụ công trình vĩ đại của Đức Phật và của tiền nhân để lại, và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.

4. ÂN ĐỒNG BÀO VÀ NHÂN LOẠI: Con người vừa mở mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp đỡ của những kẻ ở xung quanh và cái niên kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ nhõi càng tuần tự thêm nhiều chừng nấy.

Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong vũ. Vui sướng, ta đồng hưởng với họ. Hoạn nạn, họ cùng chịu với ta.

Họ và ta cũng một màu da, cũng một thứ tiếng nói. Ta và họ hợp nhau thì thành lại làm một: ấy Quốc gia đó. Họ là ai? Tức là những người ta thường gọi bằng đồng bào vậy.

Đồng bào ta và ta cùng chung một chủng tộc, cùng một nòi giống rọi truyền, cùng có những trang lịch sử vẻ vang oanh liệt, cùng tương trợ lẫn nhau trong cơn nguy biến, cùng chung phận sự đào tạo một tương lai rực rỡ trong bước tiền đồ của giang san đất nước. Đồng bào ta và ta có một liên quan mật thiết không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau và chẳng khi nào có ta mà không có đồng bào, hay có đồng bào mà không có ta. Thế nên ta phải rán giúp đỡ họ hầu đền đáp cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.

Chẳng những thế thôi, ngoài đồng bào ta còn có thế giới, người đang cặm cụi cần lao cung cấp những điều nhu cầu cần thiết. Họ là nhân loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa cầu. Nếu không có nhân loại, thử hỏi dân tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật liệu để dùng chăng? Ta có thể tự túc một cách đầy đủ chăng? Nói tóm lại, ta có thể lẻ loi đương đầu với những khi phong vũ nhiệt hàn với những lúc ốm đau nguy biến, giữ vững cuộc sống còn này chăng? Hẳn không vậy. Thế nên dân tộc ta phải nhờ đến Nhân loại, nghĩa là nhờ đến dân tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến mình và đồng chủng mình.

Vả lại, cái tình từ bi bác ái của Đức Phật mà ta đã nhận thức, rất thâm huyền quảng hượt. Cái tình ấy nó không bến không bờ, không phân biệt màu da, không phân biệt chủng tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết các từng lớp đẳng cấp xã hội mà chỉ đặt vào một: Nhân loại Chúng sanh.

Thế, ta không có lý do gì chánh đáng để vì mình hay vì đồng bào mình gây ra tai hại cho các dân tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tư tưởng nhân hòa, một tinh thần hỉ xả và hãy tự xem mình có bổn phận giúp đỡ họ trong cơn hoạn nạn.

Đối với những kẻ xuất gia quy y đầu Phật, phụ vào những ân huệ đã thọ như đã nói trên, họ còn phải trực tiếp chịu ân các đàn na thí chủ, nghĩa là những thiện nam tín nữ có hảo tâm cung cấp những vật dụng cần thiết cho họ. Họ nhờ đến hột cơm, đến miếng vải, đến thuốc men đặng sanh sống, rốt lại họ phải nhờ đến sự nuôi dưỡng hoàn toàn của những kẻ tốt lòng.

Với quần sanh, họ mang cái ân rất nặng, cho nên họ phải dìu dắt sanh linh đi tầm Chân lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu cố của thiện tín.

II. Luận Về Tam Nghiệp

Sanh ra ở đời, con người dầu muốn hay dầu không, cũng phải chịu dưới sự chi phối của định luật thiên nhiên. Định luật ấy gồm vào một chữ Đạo, đạo của con người kêu bằng “Đạo Nhân” và nó là con đường đi trúng thì sống, bước trật tất chết.

Muốn làm tròn Nhân Đạo, phải giữ vẹn Tứ Ân. Nhưng trước hết hãy tránh Tam Nghiệp và chừa Thập Ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ.

Mỗi người đều có ba nghiệp chướng sau đây: – Thân nghiệp: (tội lỗi do xác thân gây nên); – Khẩu nghiệp: (tội lỗi do miệng lưỡi gây nên); – Ý nghiệp: (tội lỗi do ý tưởng gây nên).

Ba nghiệp chướng ấy khiến con người phạm mười điều ác kể ra dưới đây: Thân-nghiệp sanh 3 điều ác: 1. Sát-sanh 2. Đạo-tặc 3. Tà-dâm Khẩu-nghiệp sanh 4 điều ác: 1. Lưỡng-thiệt 2. Ỷ-ngôn 3. Ác-khẩu 4. Vọng-ngữ Ý-nghiệp sanh 3 điều ác: 1. Tham-lam 2. Sân-nộ 3. Mê-si

1. SÁT SANH: Con người mới sanh ra ở đời đều có tánh hiền lành cả. Song đến lúc lớn khôn vì phải chung chạ với thế giới người hung tàn bạo ngược, tánh nết liền ô nhiễm những sự xấu xa hèn kém, trở nên độc ác dữ dằn.

Loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi danh, vì quyền thế, vì thù hềm, vì háo thắng… nghĩa là họ giết nhau vì sự ích lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng cấp xã hội, của một quốc gia; họ muốn tiêu diệt tất cả nhân loại, không một ai có quyền sanh sống cùng họ cả.

Tại trào nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh vua như thể địch thù đã làm nguyên nhân cho biết bao cuộc tương tàn tương sát. Ngoài lê thứ thì con giết mẹ cha, tớ hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu xé. Những cuộc tương tàn rất thường xảy ra trong nhân loại không ngoài các lý do đã kể trên. Đó là người đối với người.

Người đối với thú cầm, sanh vật còn tàn nhẫn gấp mấy nữa: họ giết thú vật vì miếng ăn, vì sự dị đoan mê tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh vật (gà, vịt, heo… ) để nuôi thân sống, nhưng chẳng khá dựa vào lý “vật dưỡng nhơn” (thú vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vừa đúng theo sự nhu cầu cần thiết của các món thực phẩm mình thôi và không nên hoang phí hy sinh nó, nếu sự hy sinh ấy không ích lợi cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá giết các thú vật trong khi tế lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời, Đất có thể sát hại sanh vật cúng tế cầu cho tội quả tiêu trừ. Sự tin tưởng ấy rất sai lầm huyễn hoặc, vì đứng vào bực siêu hình cao cả như chư vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công. Khi gặp tai nạn bất ngờ hay rủi ro đau ốm, con người không chịu thuốc thang, khấn vái Phật Trời cầu cho tai qua nạn khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên nhân các sự họa hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu, và không chịu ăn năn chừa lỗi, tạo tác phước điền. Trong khi giết các thú vật đặng tế lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền bồi các tội ác trước được.

Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú vật vì sự vui thích của mình; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú vật làm tấm bia cho họ nhắm trong những khi cao hứng quên hẳn rằng sanh vật cũng có linh hồn, cũng có thân xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân loại vậy.

Thế nên, hãy tha thứ cho chúng, hãy dung dưỡng chúng, và nhứt là đối với các gia súc: trâu, bò, ngựa, chó, mèo… chẳng khá sát hại, vì chúng đã giúp ích cho ta trong các việc sanh hoạt hằng ngày. Tóm lại, không có sự sát sanh vô cớ nào có thể tha thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cữ hẳn.

2. ĐẠO TẶC: Câu: “Bần cùng sanh đạo tặc” cần phải là một câu chữa mình của bọn bất lương vô đạo. Những kẻ này ngày vẩn vơ đầu đường xó chợ, tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc. Lớp người cặn bã của xã hội này, sống ngoài vòng pháp luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an ninh của dân chúng, chuyên lo giết người cướp của đoạt giựt tài sản của lương dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội nhân gây ra những tai biến trong những gia đình cần lao kiệm tiết, là nguyên nhân của sự nghèo sự khó, họ phá hoại hạnh phúc của con người.

Cơ hàn đói khó, thay vì phải làm lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi này rồi đến cái lỗi khác, phạm tội này rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân chủng. Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt, những kẻ ấy dầu họ không bị luật hình của loài người phân xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành vi đen tối, nếu họ không chịu ăn năn chừa lỗi, sửa tánh tu thân, bỏ thói vô nghì, lánh điều phi nghĩa.

3. TÀ DÂM: “Muôn việc lành hiếu thuận đứng đầu, ngàn việc dữ tà dâm đứng trước”. Sách sử thường bảo như thế.

Lần giở xem sử sách, thời thấy tội ác ấy lan diễn ra khắp nơi, từ trào nội cho đến thứ dân, từ trong gia đình đến kẻ xa người lạ, nó là mầm gây ra biết bao thảm trạng! Gương của vua Tề với vợ Thôi Tử, An Lộc Sơn với Dương Quý Phi há chẳng còn lưu liên hậu thế. Giàu ỷ của hiếp dâm kẻ khó, quan ỷ quyền cường bức đám dân hèn. Gian phu, dâm phụ từ xưa đến nay luôn luôn đều có.

Muốn tránh sự bại hoại nền luân lý nước nhà, muốn giữ gìn tiếng tăm của gia thế, phải đừng để dục tình lôi cuốn, bắt chước gương xưa trau giồi lòng hiếu trung trinh tiết.

4. LƯỠNG THIỆT: Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây ra, ác lưỡng thiệt này đã làm duyên cớ cho những sự hiểu lầm nhau, những sự cãi vã gây gổ sanh oán sanh thù. Sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi đã tạo những sự chia rẽ, những cuộc phân tranh, phá tan sự đoàn kết tình thân yêu giữa nhân loại. Nó cũng là nguồn cội của bao nhiêu bất hòa, hiềm khích.

Để giải trừ những tai vạ ấy, phải giữ cho lời nói mình được thành thật, chánh đáng; được vậy trong hương đảng mới bớt rầy rà, ngoài xã hội không điều xích mích, và mình cũng không còn chịu ác cảm, tránh sự miệt khinh của kẻ khác.

5. Ỷ NGÔN: Nói đến tội ác nầy tức là nói đến những vụ chủ ỷ quyền nhiếc xài tôi tớ, quan ỷ thế mắng chưởi dân ngu. Kẻ giàu có thường ỷ tiền bạc xài xỉ người nghèo, kẻ xảo quyệt ỷ sự khôn lanh nói những điều thất thiệt, kẻ học thức ỷ sự khôn ngoan dùng lời nói hạ nhục người dốt nát.

Hãy tránh những sự hiếp người như thế ấy, vì những kẻ dưới tay mình cũng có đầu óc, cũng biết nghĩ suy, nhưng họ bạc phước vô phần nên phải chịu lụy mình vậy. Nếu họ có lỗi lầm hãy dạy dỗ họ, dùng những cam ngôn mỹ từ, những lời trang nghiêm êm dịu chỉ bảo, không khá bao biếm mà mang điều tội lỗi.

6. ÁC KHẨU: Những tiếng thề thốt lỗ mãng, chưởi mắng tục tằn làm ra tội này; con chưởi mẹ mắng cha không kể luân thường thảo hiếu; mạnh bạo hăm he đánh giết những kẻ yếu hèn, hiếp đáp xóm chòm cô bác. Mở miệng ra chưởi gió mắng mây, trù rủa gia đình, không kiêng Thần Thánh. Tối ngày kêu réo Phật Trời, mời thỉnh Long cung, làm cho tội lỗi càng thêm chồng chập.

Hãy bỏ những tiếng tục tằn thô lỗ làm cho đời sống được êm dịu thanh bay hơn. Đối với cha mẹ phải có lễ độ, với gia đình, với bà con cô bác, với xóm chòm quen thuộc, lời nói mình phải đoan trang nghiêm chỉnh. Đối với con cháu trong nhà không nên nói những điều ác đức, phải dùng lời nói dịu dàng hiền hậu dạy dỗ chúng.

7. VỌNG NGỮ: Thêm thừa huyễn hoặc, có nói không, không nói có, ác vọng ngữ đã làm nguyên nhân cho những sự bất công của nhân loại. Thương người nào kiếm cách bào chữa giấu giếm sự quấy và thêu thùa sự tốt ra; ghét ai đặt điều nói xấu và che đậy các điều phải của họ. Khoe khoang tự đắc, xảo trá đa ngôn, những kẻ điêu ngoa làm cho thiên hạ khinh khi miệt thị.

Muốn tránh những điều khiến cho tư cách nhân quần phải bị giảm hạ, hãy tập tánh nói năng chân chánh, bỏ lối láo xược trớ trêu. Chẳng nên tráo chác với người, bỏ tiếng xảo ngôn và phải dùng lời chơn chất.

8. THAM LAM: Tánh tham lam đã làm cho loài người phải chịu bao nhiêu thảm khổ: chiến tranh, cướp bóc, giết người… Tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế… Những sự ấy đã xô đẩy con người vào chẳng biết bao nhiêu cuộc chiến đấu ác liệt, gây nên những thảm họa tầy trời. Những tấn tuồng giặc giã cướp của sát nhơn, những vụ hối lộ, những vụ tranh thế giành quyền đã làm cho nhân sanh điêu linh trong vòng tai nạn khốc hại. Cái tham ấy cũng đã làm cho con người đau buồn hận khổ, phải khóc đứng than ngồi, phải liều mình tự sát chỉ vì sự ham muốn không được thực hiện; người ta quyên sinh vì tình yêu, vì lợi quyền, vì thất trận… Những cuộc cấu xé lẫn nhau, những vụ nồi da xáo thịt, những tương sát tương tàn, những điều hung hăng bạo ác cũng do sự tham lam mà ra cả. Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sự khổ. Vả lại, ở đời phải có những lúc thăng trầm chìm nổi, có thì ta xài, không ta nhịn, can gì phải bày mưu tính kế chiếm đoạt của kẻ ngoài. Của là của chung trong thiên hạ, đời ta còn, nó còn; đời ta mất, nó mất. Gương Thạch Sùng, Vương Khải há không để lại cho ta một bài học đích đáng lắm ru? Thế nên hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình, hãy dẹp lòng vị kỷ tham lam, lo vun trồng phước đức, bố thí kẻ nghèo hèn, rán công phu sám hối để có thể yên vui nơi miền Cực Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần này.

9. SÂN NỘ: Tánh nóng nảy thường xúi con người làm những chuyện bất công sái phép, chém giết oán thù nhau. Kẻ thắng kiêu hãnh, người bại hổ ngươi, nên sự hềm thù càng lan rộng. “Giận mất khôn”, cơn giận làm cho con người cuồng trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ dằn bạo tợn, chẳng còn nghĩ đến việc công bình, lẽ phải trái.

Diệt được nó, tâm ta được thảnh thơi, trí ta được thong thả. Hãy mở lượng khoan hồng dung tha kẻ lầm lỗi. Hãy nhẫn nhịn và chẳng nên cãi cọ, tranh luận hơn thua làm cho nảy sanh ra những điều hềm khích.

10. MÊ SI: Tội ác này do sự thiếu óc phán đoán, thiếu sự nghĩ suy mà ra; vì vậy con người ít hay phân biệt được lẽ phải trái, bo bo giữ thiển kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn nhận chân lý. Suốt cả đời ngu muội, chỉ biết mê man theo những vật nhỏ nhen, mau tan, mau rã, chỉ biết tin bướng làm càn, không tìm hiểu con đường giải thoát.

Hãy xóa bỏ những điều mê tín, qui thuận theo tinh thần đạo đức, lánh chốn mê lầm, tỉnh cơn mộng huyễn, phá tan màn vô minh che mờ tâm trí, lần bước trên con đường đạo hạnh, đi đến chỗ Bất diệt, Bất sanh.

III. Luận Về Bát Chánh

Trừ xong ba nghiệp chướng, hãy làm theo tám điều chánh và sau khi diệt được thập ác rồi, tự nhiên mười điều lành hiện ra: như thế ta đã đi thêm được một bước trên con đường Đạo hạnh. Những sự tấn bộ ấy không có nghĩa là đạt được mục đích. Thế nên, cần phải hành luôn Đạo Bát Chánh tiếp theo, vì đó là quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê đồ, tấn triển trên đường giải thoát.

Bát Chánh gồm có: 1. Chánh kiến 2. Chánh tư duy 3. Chánh nghiệp 4. Chánh tin tấn 5. Chánh mạng 6. Chánh ngữ 7. Chánh niệm 8. Chánh định.

1. CHÁNH KIẾN: Chánh: đúng sự thật. Kiến: thấy, xem xét. Chánh kiến: dòm thấy, xem đúng theo sự thật.

Phàm con người thường hay bị bản ngã lôi cuốn trí mờ ám làm cho sai chạy ít nhiều sự thật. Khi vì thiếu sự sáng suốt, khi vì tư thù, khi vì lợi kỷ, khiến cho con người không biết đường ngay nẻo thẳng nên sự phán đoán không công bình chánh đáng làm cho kẻ khác chịu oan tình. Vì thế mục Chánh Kiến dạy ta phải đem hết trí năng truy cứu các sự rắc rối, cẩn thận xem xét tránh sự lạc lầm trong khi phê đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự quan sát cực điểm, cách xét đoán tận tường, tránh cho ta những tà kiến (sự xem xét lầm lạc) sai chạy, khiến ta dẹp bản ngã đã làm cho trí tuệ mịt mờ u ám, giúp cho ta hiểu biết rõ ràng, minh bạch, cách phán đoán được ngay thẳng công bình.

Chẳng thế, nó còn giúp cho ta hiểu biết các điều tục lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm mầu tôn giáo khiến ta xua đuổi các điều tà mị, bỏ các sự say mê, trở về với đạo lý, thoát đọa hồng trần. Nó tránh cho ta tất cả những sự giả dối và nhờ thế, nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành Đạo.

2. CHÁNH TƯ DUY: Tu tưởng chân chánh. Sanh ở trong trần con người thường hay bị các thị dục cám dỗ: lợi danh, quyền tước, nghĩa vợ tình chồng… cái tư tưởng đã rù quến tâm trí mãi mãi quay cuồng vào những sự ấy, không thế nào thoát ly ra được. Ấy về phần tà.

Phần chánh dạy rằng: tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư tưởng cho thanh cao, trí rán tìm cái Chân lý, Chân lý ấy là cái Đạo của mình đối với nhân loại, của mình đối với Trời Phật, của mình đối với mình. Vì thế, hãy đặt tư tưởng mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh linh trong vòng trầm luân oan nghiệt. Hãy tin tưởng Phật Trời và cầu nguyện đấng Thiêng liêng ban bố phước lành cho nhân chúng. Hãy tìm con đường giải thoát cho mình bằng cách lạc Đạo an bần, xả thân tu tỉnh.

3. CHÁNH NGHIỆP: Việc làm chánh đáng ngay thẳng.

Đối với kẻ xuất gia đầu Phật, ngoài những lúc tham thiền nhập định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc kinh viết sách, những lúc công quả cho nhà Thiền, chẳng có làm việc chi có thể tạo thành ác nghiệp cả.

Những kẻ tại gia cư sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh nhai, mưu cuộc sống còn; kẻ buôn tảo bán tần, người việc này việc nọ, tóm lại cũng vì xác thân mà ra cả. Tuy nhiên, dầu đời sống của họ có bị sự sinh nhai chi phối, song cái chi phối ấy khác hẳn với kẻ gian tà đạo tặc, chẳng có làm việc gì xảo trá bất nhân. Trong cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ cũng nguyện bỏ những nghề nghiệp gây tai hại cho con người: nuôi điếm, bán á phiện, buôn rượu, đầu cơ, cho vay cắt cổ v.v…

Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn hàng, song tại có họ làm các nghề nghiệp ấy, con người mới bị hư hỏng, trụy lạc, hoang đàng, trà đình tửu điếm… Họ là đồng lõa mà phạm nhân là những kẻ nghiện ngập say sưa.

Thế nên mục Chánh Nghiệp răn cấm chúng ta làm các nghề ấy.

Kẻ tại gia cư sĩ cũng chẳng sát hại vô cớ các sanh vật, hoặc không đánh đập chém đâm ai có thể gây ra nhiều điều tội lỗi.

4. CHÁNH TIN TẤN: Tín ngưỡng chân chánh và lướt tới.

Phái vô thần luận thường cho rằng thân xác tức con người. Thân còn tức người còn, thân mất là người mất. Không có Thánh, Thần, Trời, Phật; không quả báo luân hồi; cũng chẳng có tội, có phước, có vía, có hồn. Đời là thân xác con người, sống là tranh đấu, mạnh được yếu thua. Thế nên biết bao nhiêu mánh khóe gian hùng, bao nhiêu ngón điêu ngoa xảo trá, bao nhiêu tàn bạo ngược ngang đều được đem ra dùng cả thảy.

Vì vậy, mục Chánh Tin Tấn này khuyên hãy rán giữ đức tin cho mạnh mẽ. Dầu các thị dục có lớn lao thế mấy, dầu cho có sức lực gì cám dỗ hay bức bách bỏ lòng tín ngưỡng Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng thể lôi kéo được. Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu vớt quần sanh thoát nơi khổ hải của Đức Thế Tôn, phải nhớ rằng sanh linh đang chìm đắm trong bể hồng trần, rằng ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy, rằng ta có cái bổn phận giác ngộ trần gian, bỏ những oan trái luân hồi cay nghiệt. Muốn thế trước hết phải tìm phương tự giác, nhắm cảnh Niết Bàn tấn tới; quyết chí tu thân đắc thành Đạo quả hầu dìu dắt bá tánh thập phương xa miền tục lụy. Người bỏ hết các sự rầu buồn, các điều tà vạy, dẹp lục căn lục trần, và rán làm cho tinh thần được thêm sáng suốt, rèn luyện các đức tánh cho thiện mỹ: yên tịnh, hỉ lạc, nghiêm tranh, quyết gắng công phu, một lòng bước tới Niết Bàn đặng quyết có tế độ chúng sanh thoát khỏi luân hồi quả báo.

5. CHÁNH MẠNG: Sanh mạng chân chánh, trong sạch.

Ở đời, người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quí trọng săn sóc nó. Ấy cũng do lục căn mà ra: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Mắt ưa xem sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay, mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân ưa sự sung sướng, ý ưa chức phận cao.

Người ta tìm đủ phương thế bổ dưỡng thân xác mình, làm cho trí tuệ càng ngày càng thêm mờ ám, ngu đần, không còn lo lắng đến sự tiêu diệt. Thế nên, hãy xa lánh những điều làm tinh thần bị đen tối; bỏ hết đài các xa hoa, thân mình tự chủ để tìm chỗ bất diệt bất sanh; thiền định đặt làm thể, trí tuệ đặt làm mạng, linh hồn nhập Liên hoa, siêu sanh vào cõi Niết Bàn.

6. CHÁNH NGỮ: Lời nói chơn thật.

Lục căn làm cho con người nhiễm lục trần.

Vì muốn nuôi dưỡng xác thân nên mới sanh ra các điều ham hố là nguồn cội các tội lỗi. Trong những tội lỗi ấy, cũng có nghiệp chướng của miệng lưỡi: lưỡng thiệt (làm cho thiên hạ bất hòa nhau); ỷ ngôn (lời chưởi mắng kẻ dưới tay); ác khẩu (tiếng độc ác tục tằn, chưởi rủa Thần Thánh); vọng ngữ (nói láo, nói huyễn hoặc).

Hãy tập lời nói mình cho chân chánh, đúng với sự thật; hãy bỏ hết những xảo ngôn tráo chác, những tiếng thô lỗ cộc cằn, phàm những khi bàn luận việc chi, phải nói lời tỏ tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới bề trên, lời nói phải cho hiền lương đức hạnh, và những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ phải đều có ích lợi cho chúng sanh và đều hạp với tinh thần đạo đức.

7. CHÁNH NIỆM: Ghi nhớ sự chân chánh.

Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng, có cũng tưởng, không cũng tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng tưởng, thương cũng tưởng, ghét cũng tưởng. Thất tình lục dục bắt buộc con người phải phí biết bao nhiêu tâm cơ, bao nhiêu trí não phụng sự nó. Danh lợi, cảm tình, uy quyền, phú quí… được hằng ngày ghi nhớ. Vì thế con người mãi mãi lăn lộn trong sáu đường, không thoát khỏi vòng sanh tử.

Để thoát chỗ luân hồi bỏ cuộc đời lầm than hoạn họa, hãy rán tưởng niệm phương pháp hành đạo, bỏ các điều phù phiếm, ghi nhớ công lao Đức Phật đối với quần sanh, bia tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác thân do tứ đại (đất, nước, lửa, khí) tạo thành và sớm muộn gì nó cũng sẽ bị tan rã. Đặng vậy, ta mới bỏ được các sự xúc động, các mối dục tình, tránh điều khổ lụy do nó gây nên.

8. CHÁNH ĐỊNH: Suy gẫm chân chánh.

Con người thường hay có những ý định làm cho mình được sáng thêm lên, được giàu thêm lên, được sung sướng thêm lên… nghĩa là những ý định hoàn toàn nhỏ-nhen thấp thỏi. Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả tạm, nay vầy mai khác, thân thế lạc luân, của cải gia tài như đám phù vân trước gió, nước bọt, mây bèo. Những cái Sanh, cái Bịnh, cái Lão, cái Tử được đặt lên cuộc đời của người này rồi đến người khác… rồi đến người khác nữa, nghĩa là tất cả nhân loại không thiếu sót một ai. Thế mà, họ vẫn cuống cuồng tâm trí theo bã lợi danh, mùi phú quí, đi theo những vặt vụn tiểu ti eo hẹp.

Họ không chịu hiểu rằng, ngoài kiếp phù du của trần thế, có cái gì không di không dịch, vĩnh viễn trường tồn. Nếu lấy sự Thiền định phá tan màn u minh che phủ, thì thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn, hết khổ, hết quả báo luân hồi. Và khi ta dùng sự Chánh Định dẹp bỏ hết các sự phiền não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị dục lôi kéo vào những nẻo tà, tâm ta chẳng còn xao động, trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt không nhiễm ô cảnh ngoại, dứt tuyệt hết phàm trần, lần bước đi đến cõi Giải thoát.

IV. Cách Thờ Phượng, Hành Lễ Và Sự Ăn Ở Của Một Tín Đồ Phật Giáo Hòa Hảo

1. THỜ PHƯỢNG Từ trước đến nay, các chùa chiền đã tạo quá nhiều hình tượng. Đành rằng vì tôn kính đấng Từ Bi mới làm ra thờ phượng Ngài, nhưng cũng có kẻ lợi dụng để thủ lợi. Bây giờ chúng ta không nên tạo thêm nữa. Làm thế, chúng ta không cố ý hủy báng sự phượng thờ của các chùa chiền. Cách thờ phượng tùy theo điều kiện của các sư mà chúng ta cũng có thể sùng ngưỡng đặng. Nhưng riêng về cư sĩ ở nhà không nên tạo thêm nữa; nên thờ đơn giản cho lòng tin tưởng trở lại tâm hồn hơn ở vào sự hào nhoáng bề ngoài. Từ trước chúng ta thờ trần điều là di tích của Đức Phật Thầy Tây An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng là cùng tông phái với chúng ta, làm sái phép, sái với tôn chỉ của Đức Phật, nên toàn thể trong Đạo đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư dùng màu dà để biểu hiệu cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại không phân biệt chủng tộc và cá nhân. Vì vậy chúng ta dùng nó trong chỗ thờ phượng để tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật.

Nếu trong nhà chật, nội bàn Thông Thiên với một lư hương không cũng được, bởi vì sự tu hành cốt ở chỗ trau tâm trỉa tánh hơn là do sự lễ bái ở ngoài. Còn người nào có cốt Phật trong nhà để vậy cũng đặng. Hình tượng bằng giấy không nên chừa lại và phải đốt đi. Kẻ nào phải ở chung đậu với người khác không có tu hiền hay không cùng một Đạo với mình, hoặc nhà cửa nhỏ hẹp quá không có chỗ phượng thờ, thì đến khi cúng kiếng chỉ vái thầm và niệm Phật trong tâm cũng đặng.

Về cách cúng Phật, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn nhang dùng đặng báng mùi uế trược. Ngoài ra chẳng nên cúng một món gì khác cả. Bàn thờ ông bà cúng món chi cũng đặng.

Ngoài sự thờ Phật, Tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những anh hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn tích.

2. HÀNH LỄ Chỉ thờ lạy đức Phật, Tổ tiên, ông bà cha mẹ lúc còn sống và các vị anh hùng cứu quốc. Với những kẻ khác, nên bỏ hẳn sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi.

Tất cả các hành động trong Đạo hay ngoài đời, trước khi làm điều gì phải tính toán một cách cẩn thận, đừng làm chuyện ngông cuồng vô ý thức. Một đừng ỷ lại vào kẻ mạnh, hai đừng ỷ lại vào sự cứu vớt của Thần Thánh, ba đừng ỷ lại sự binh vực của Thầy mình. Luôn luôn, lúc nào cũng phải nhớ câu Nhơn Quả của Phật dạy, nếu Nhơn toàn thiện thì Quả cũng sẽ do đó được toàn thiện vậy. Kẻ nào hành động ngông cuồng không suy xét cẩn thận để đến đỗi thất bại đem đến sự khó khăn, khổ não, rồi trách cứ kẻ mạnh sao không cứu mình, Thầy sao không giúp mình, Trời Phật sao không độ mình, thì sự lầm lạc ấy rất đáng thương hại.

Mỗi người hãy nên lấy trí thông minh nhận xét đạo lý hay lời nói của Thầy mình, chớ đừng lấy đức tin thọ lãnh những lời nói đó trong khi mình chưa hỏi tường tận. Như thế, mình mới có thể tấn hóa trên con đường đạo đức.

Những điều sơ lược giải thích trên đây mong rằng toàn thể trong Đạo suy gẫm kỹ càng và thực hiện để bài trừ sự mê tín ngông cuồng của thiểu số người trong Đạo, làm cho tư tưởng thiện hòa của Phật Đạo được phát triển mau chóng.

3. TANG LỄ Lúc ông bà cha mẹ từ trần, tục để tang chúng ta vẫn giữ theo cổ lệ, chỉ cần sửa đổi các sự như sau đây:

Bây giờ chúng ta đã quy y đầu Phật thì phải do sự thành tâm cầu nguyện, và đem sức khấn vái của anh em trong Đạo cầu nguyện cho vong linh người chết được siêu sinh nơi cõi thọ. Chẳng nên rước những ông thầy dưng bông, đốt giấy tiền vàng bạc xá phướn lầu kho, vì đó là chuyện tốn tiền vô ích, bởi vì ta nên nhận định rằng xác thịt là hư hoại, thì trong lúc chết chỉ nên đem chôn cất cho kín đáo, đừng để hôi thúi có hại cho người sống, như thế là đủ rồi. Còn hiếu sự do hồi còn sanh tiền và do sự tu hành, sự thành tâm cầu nguyện chớ không phải có tiền rước người khác cầu nguyện mà đạt được hiếu thuận nhơn nghĩa. Chỉ vọng bàn giữa nhà hay giữa trời mà cầu nguyện, rồi im lặng đi chôn.

Về việc cúng kiến ông bà cha mẹ, có chi cúng nấy, trong những ngày kỷ niệm theo như tục lệ. Còn về việc đãi đằng hương đảng thì tùy ý. Những điều nào xét ra giản tiện, ít lãng phí cứ làm.

4. CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT Mỗi người đứng trước bàn Phật niệm “Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật” (ba lần), và “Nam -Mô A-Di-Đà Phật” (ba lần).

Vái: “Phật-Tổ, Phật-Thầy, nay mình thành tâm cầu nguyện cho tên…. (tên người chết), nhờ ơn Đức Phật từ-bi cứu-độ vong-linh được thoát chốn mê-đồ, vãng-sanh miền Cực-Lạc!”

Trong lúc ở nhà hay trong lúc đưa đám tang gì cũng vậy, nếu có tổ chức sắp hàng chắp tay niệm: “Nam-mô Tây-phương Cực lạc thế-giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi tiếp dẫn vong linh A-Di-Đà Phật” (nếu người chết là nhà sư thì câu chót đọc: “Tiếp dẫn Đạo sư A-Di-Đà Phật”.

NÊN LƯU Ý: Tang-gia đừng nên khóc-lóc làm trở-ngại sự siêu-thoát anh-linh của người chết.

5. HÔN NHƠN Bổn phận cha mẹ phải chọn lựa đôi bạn cho con một cách xứng đáng bằng sự quan sát tường tận về đức tánh đôi trai gái. Không nên ép uổng con mình quá đáng, vì như thế làm cho khốn khổ nó về sau, nhưng cũng không nên để chúng quá tự do mà sự thiếu kinh nghiệm làm cho đời chúng phải hư hỏng.

Nên bỏ tục lệ thách giá đòi tiền và đòi lễ vật. Thông gia hai bên không nên làm khó cho nhau. Cũng chẳng nên bày ra tiệc, lễ linh đình tốn kém nhiều tiền, làm cho trở nên nghèo khổ.

6. NHỮNG ĐIỀU ĐƯỢC TRÁNH HẲN HOẶC ĐƯỢC CHÂM CHẾ HOẶC NÊN LÀM

  1. UỐNG RƯỢU: Phải cữ tuyệt. Nhưng khi có tiệc lễ với người ngoài và không phải nhằm ngày chay lạt, có thể dùng một đôi chút rượu thật nhẹ để đừng có tỏ sự chia rẽ với kẻ ngoại Đạo. Nếu say sưa sẽ phải tội lỗi.
  1. THUỐC PHIỆN: Phải cữ tuyệt, không được hút một điếu nào hết. Những kẻ hút, muốn vào Đạo phải bỏ hút rồi mới được nhìn nhận. Trừ ra những người đau mà thầy thuốc bảo phải dùng một chút ít hợp với các vị thuốc khác mới có thể châm chế đặng.
  1. CỜ BẠC: Phải cữ tuyệt. Những kẻ cờ bạc muốn vào Đạo phải thệ nguyện bỏ cờ bạc rồi mới được nhìn nhận. Về sự này, chẳng có cuộc vui nào có thể châm chế đặng.
  1. ĐỐI ĐÃI CÁC TĂNG SƯ: Tất cả bổn đạo nên cung kính các tăng sư tu hành chân chánh. Nếu các ông ấy có dạy điều chánh lý, phải nghe lời. Đối với những hạng tu hành mà mình biết rõ là dối thế (như mấy ông thầy đám…) hãy tìm cách khuyên can các ông trở lại con đường chân chánh của Đạo Phật. Nếu các ông vẫn tiếp tục làm điều tà mị, mình phải bài trừ triệt để và giảng giải cho quần chúng cùng những tín đồ nhà Phật hiểu đặng xa lánh họ.
  1. ĐỐI VỚI CHÙA CHIỀN: Những ngày vía của các Đức Phật, ngày rằm hay ba mươi, mình muốn đi chùa cũng tốt, đặng lễ Phật, dưng hoa, không có cấm. Nếu chùa nào nghèo, hư, rách, mà mình giúp đỡ được càng tốt (có điều mình không nên mua sắm hình tượng cho nhiều).

Khi đến chùa cũng phải tôn trọng sự thờ phượng trong chùa, không nên hủy báng.

  1. ĐỐI VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC VÀ NHÂN SANH: Đối với những người theo tôn giáo khác, không nên động chạm đến cách thức tu hành của họ. Nhứt là không ỷ đông hiếp đáp hoặc nói xấu người ta. Nếu họ có làm dữ với mình, thì mình cũng chẳng được phép vì sự dữ của họ mà trả thù, và phải luôn luôn làm lành với họ. Mình phải hoài hoài làm phải với những kẻ ấy, dầu họ có làm quấy với mình cũng mặc và phải nhẫn nhịn họ.

Đối với nhân sanh, bao giờ cũng phải hòa hợp với họ, và làm cho đôi đàng có thiện cảm với nhau. Phải biết thương xót đến họ và nếu khi nào họ cần dùng, phải rán sức giúp đỡ họ.

  1. ĐỂ TÓC: Tất cả bổn đạo nên biết rằng Thầy không có buộc để tóc, vì đó thuộc về phong tục chớ chẳng phải về tôn giáo; nhưng sở dĩ Thầy để tóc là muốn giữ kỷ niệm cái phong tục cổ của Tổ Tiên và tỏ cho thiên hạ biết Thầy không chịu ảnh hưởng cái đời văn minh cặn bã của phương Tây. Thấy vậy, nhiều người trong bổn đạo yêu mến Thầy liền bắt chước, vì thế số đông người hiểu lầm rằng để tóc là tu. Thật ra tu là tu, để tóc là để tóc, và tu không phải là để tóc, để tóc không phải là tu. Nếu để tóc mà không chịu trau tâm sửa tánh cũng chẳng phải là kẻ tu hành. Từ rày trở đi đã thoát được ách người Pháp và tùy theo phong trào tiến hóa của nước nhà, Thầy cho phép bổn đạo tự do cải cách hầu hòa hợp với lương dân cùng tôn giáo khác.
  1. SỰ HỌC: Sự học hành không làm trở ngại cho đạo đức. Trái lại nhờ nó mình biết được rõ ràng giáo lý cao siêu của tôn giáo. Nó tránh cho mình những sự lạc lầm, bỏ các điều dị đoan mê tín. Nó làm cho mình dẹp bỏ các điều huyễn hoặc, không bàn bạc những chuyện xa vời (như tiên đoán thiên cơ chẳng hạn…).

Vậy hãy tự mình học hỏi (học chữ quốc ngữ) và hãy cho con cháu mình vào trường học tập đặng sự hiểu biết của chúng thêm rộng rãi. Vả lại, sự hiểu biết về khoa học không cản trở sự tu hành và nó giúp mình nghiên cứu Phật Đạo một cách rành rẽ.

  1. THỂ DỤC: Người trong bổn đạo nam nữ bất luận, phải giữ gìn thân thể cho khỏe mạnh. Như thế nên luyện tập những môn thể dục nào hợp với sức khỏe, nếu mình muốn, bởi vì xác thịt có khỏe mạnh tinh thần mới sáng suốt, như vậy mình mới có thể làm sự đạo nghĩa một cách đắc lực.
  1. ĂN Ở: Kẻ tu hành ăn uống phải có điều độ. Tránh những món ngon sống nấu toàn đồ độc cho cơ thể ăn vào sanh bịnh.

Phải giữ gìn thân thể sạch sẽ và từ nhà cửa cho đến chỗ ăn, chỗ nằm, phải biết trọng vệ sinh. Bỏ những thói quen ăn ở dơ bẩn, vì xác thịt dơ dáy thì tinh thần không thể nào mở mang được, và vì Thần Thánh chỉ gần những kẻ trong sạch; nên nếu ai muốn được tiếp-độ phải trong sạch vừa tinh-thần lẫn vật-chất.

  1. CÁCH LÀM ĂN: Cách làm ăn phải y như mục Bát Chánh đã dạy: – Bỏ những sự bất chánh: lường cân, tráo đấu, buôn lậu, đầu cơ, buôn rượu, bán thuốc phiện… – Làm những nghề lương thiện, không có lường gạt ai, bỏ những thói gian xảo.

7. ĐIỀU KIỆN VÀO ĐẠO Người nào muốn quy y phải có hai người bổn đạo cũ, có đức hạnh tiến cử và bảo lãnh, đến Ban Trị Sự trong làng cho người làm đầu biết và người làm đầu phải đọc hết thể lệ về sự tu hành cho người quy y nghe, hỏi coi có bằng lòng quy y như lời nguyện dạy và răn cấm trong Đạo chăng. Nếu họ bằng lòng, biểu họ về nhà cho ông bà, cha mẹ biết, hoặc nguyện trước bàn thờ ông bà, tổ tiên rằng: Ngày… tháng… con chịu quy y theo Đạo. Sau đó, người làm đầu (Hội trưởng) cho cuốn sách nhỏ này. Chỗ nào không có Ban Trị Sự, hai người bổn đạo cũ phải dìu dắt người mới, rồi sau sẽ dẫn đến Ban Trị Sự gần đó, không bắt buộc thề thốt chi hết, vì người muốn tu do nơi sự phát nguyện của mình thôi. Khi nào mình không muốn giữ Đạo, mình phải cho người tiến cử hay đặng bôi tên mình ra. Không người nào được phép xưng mình là người trong Đạo mà lại không giữ luật. Kẻ nào làm trái với luật lệ trong sự đạo đức dầu không xin thôi Đạo hay là chưa bị bôi tên cũng bị trách nhiệm việc làm của họ và bị coi như người ngoại Đạo.

Nên nhớ rằng: Đức Phật sẽ dìu dắt và ủng hộ những kẻ nào làm ăn chơn thật, hiền lành, đúng theo giáo lý của Ngài; chớ không bao giờ Ngài lại ủng hộ những kẻ gian tà xảo quyệt, làm các việc hung ác ngông cuồng trái những lời mà Ngài đã chỉ dạy.

  1. Sự Cúng Lạy Của Người Cư Sĩ Tại Gia

BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ ÔNG BÀ

– Cầm hương xá 3 xá, quì xuống, chắp tay đưa lên trán nguyện: Cúi kính dưng hương trước Cửu-Huyền, Cầu trên Thất-Tổ chứng lòng thiềng. Nay con tỉnh-ngộ quy-y Phật, Chí dốc tu hiền tạo phước-duyên. – Cắm hương, rồi đứng ngay thẳng chắp tay vào ngực đọc tiếp: Cúi đầu lạy tạ Tổ-Tông, Báo ơn sanh-dưỡng dày công nhọc-nhằn. Rày con xin giữ Đạo hằng, Tu cầu Tông-Tổ siêu thăng Phật-đài. Nguyện làm cho đẹp mặt mày, Thoát nơi khổ hải Liên-đài được lên. Mong nhờ Đức Cả bề trên, Độ con yên-ổn vững bền cội tu. – Lạy 4 lạy.

BÀI NGUYỆN TRƯỚC BÀN THỜ PHẬT

– Cầm hương xá 3 xá, quì xuống, chắp tay đưa lên trán đọc bài Quy-Y: • Nam-Mô Ta-Bà Giáo-Chủ Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (tam niệm). • Nam-Mô Thập Phương Phật. Nam-Mô Thập Phương Pháp. Nam-Mô Thập Phương Tăng. • Nam-Mô Phật-Tổ, Phật-Thầy, Quan Thượng-Đẳng Đại thần, chư quan cựu thần, chư vị sơn-thần, chư vị Năm Non Bảy Núi, cảm-ứng chứng-minh, nay con nguyện cải-hối, ăn-năn, làm lành lánh dữ, quy-y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo. – Cắm hương lạy 4 lạy cũng được, hoặc cắm hương đứng ngay thẳng, chắp tay vào ngực đọc tiếp: • Nam-Mô Tây-Phương Cực-Lạc Thế-Giới Đại-Từ Đại-Bi Phổ-Độ Chúng-Sanh A-Di-Đà Phật. • Nam-Mô nhứt nguyện cầu: Thiên-Hoàng, Địa-Hoàng, Nhơn-Hoàng, Liên-Hoa hải-hội, Thượng Phật từ-bi, Phật-Vương độ chúng, thế-giới bình-an. • Nam-Mô nhị nguyện cầu: Cửu-huyền Thất-tổ Tịnh-độ siêu-sanh. • Nam-Mô tam nguyện cầu: Phụ-mẫu tại đường tăng long phước thọ, phụ-mẫu quá khứ trực vãng Tây-phương. • Nam-Mô tứ nguyện cầu: Bá-tánh vạn dân từ-tâm bác-ái, giải-thoát mê-ly. • Nam-Mô ngũ nguyện cầu: Phật-Tổ, Phật-Thầy từ-bi xá tội đệ-tử tiêu tai tịnh sự, trí-huệ thong-minh, giai đắc đạo quả. – Lạy bốn lạy, rồi xá: • 1 xá chính giữa niệm: Nam-Mô A-Di-Đà Phật. • 1 xá bên trái niệm: Nam-Mô Đại-Thế-Chí Bồ-tát. • 1 xá bên mặt niệm: Nam-Mô Quan-Thế-Âm Bồ-tát.

BÀN THÔNG THIÊN

Cầu nguyện bàn Phật xong, ra bàn Thông Thiên cầu nguyện 4 hướng (lấy bàn Thông Thiên làm hướng chánh) trước mặt, sau lưng, hai bên vai.

Hướng chánh bàn Thông Thiên có nguyện đọc bài Quy-Y, còn ba hướng kia chỉ đọc bài Tây-phương ngũ nguyện, (mỗi hướng đọc rồi lạy 4 lạy).

(Khi cầu nguyện nếu không thể lạy được thì xá 3 xá).

Lạy đứng hay lạy quì tùy theo lúc yếu mạnh.

NIỆM PHẬT

Cúng xong muốn niệm Phật cũng được. Ngồi bán già thẳng lưng niệm: Nam-Mô A-Di-Đà Phật.

Hay niệm: Nam-Mô Tây-phương Cực-lạc Thế-giới tam thập lục vạn ức, nhứt thập nhứt vạn, cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu đại-từ đại-bi phổ-độ chúng-sanh A-Di-Đà Phật.

(Niệm Phật nhiều ít, tùy theo sức mình, lúc cầu nguyện và niệm Phật chỉ niệm trong tâm).

Nam-Mô A-Di-Đà Phật, sáu chữ đi, đứng, nằm, ngồi, rán niệm chớ quên, không đợi gì thời khắc.

KHI ĂN CƠM

Mỗi khi ăn cơm với mắm muối chi cũng vậy đều nguyện vái Cửu huyền Thất tổ, ông bà cha mẹ quá vãng về ăn với mình để tỏ lòng hiếu thảo.

ĂN CHAY

Đến ngay đơm-quảy có chi cúng nấy.

Ăn chay ngày 14-15, 29-30, tháng thiếu 29 và mồng 1, có nhang thì đốt, không có thì nguyện không.

Hằng năm đến ba ngày xuân nhựt thì ngày 29-30 và mồng 1 phải ăn chay, trong mấy ngày ăn chay phải cúng chay, qua đến ngày mồng 2 có chi cúng nấy cũng được, đến ngày mồng 3 ra mắt không nên sát sanh loài vật mà cúng tế Trời Phật, chỉ dùng bông hoa mà cúng thôi.

ĐI XA NHÀ

Đi làm ruộng đến thời cúng, ngó về hướng Tây nguyện rồi xá 4 hướng. Còn đi xa nhà thì nguyện tưởng trong tâm cũng được.

VI. Lời Khuyên Bổn Đạo

Khi đã coi giảng thì phải tự xét mình và sửa sang những thói hư tật xấu, mình lầm lỗi thì rứt bỏ và giữ những điều răn cấm sau đây:

1. ĐIỀU THỨ NHỨT: Ta chẳng nên uống rượu, cờ bạc, á phiện, chơi bời theo đàng điếm, phải giữ cho tròn luân lý tam cang ngũ thường.

2. ĐIỀU THỨ NHÌ: Ta chẳng nên lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng, lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất, chẳng nên gây gổ lẫn nhau, hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng giận.

3. ĐIỀU THỨ BA: Ta chẳng nên ăn xài chưng dọn cho thái quá và lợi dụng tiền tài mà đành quên nhơn nghĩa và đạo lý, đừng ích kỷ và xu phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó.

4. ĐIỀU THỨ TƯ: Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay hoặc nguyền rủa, vì Thần Thánh không can phạm đến ta.

5. ĐIỀU THỨ NĂM: Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò, và không nên sát sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiến mà làm hết bịnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì nó ăn quen sẽ nhiễu hại ta.

6. ĐIỀU THỨ SÁU: Ta không nên đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng phí ấy mà trợ cứu cho những người lỡ đường đói rách, tàn tật.

7. ĐIỀU THỨ BẢY: Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay đạo đức, ta phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy.

8. ĐIỀU THỨ TÁM: Tóm tắt, ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo đức, nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây Phương an dưỡng mà học Đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh.

Tất cả thiện nam tín nữ trong tôn giáo nhà Phật, lúc rãnh việc nên thường coi kệ giảng mà giữ gìn phong hóa nước nhà, giữ những tục lệ chân chánh, bỏ tất cả những sự dị đoan mê tín thái quá mà làm cho đạo đức suy đồi.

Đạo-pháp thường hay dung với hòa, Xét người cho tột xét thân ta. Nếu người rõ phận vui lòng thứ, Ta thứ được người, người thứ ta.

DIỆU-PHÁP QUANG-MINH (Khùng Điên tự cảm tác)

(244 câu)

Gươm trí-huệ từ-bi chớp nhoáng, Bóng quang-âm ngày tháng dập-dồn. Ta thừa vưng sắc lịnh Thế-Tôn, Khắp hạ-giái truyền khai đạo-pháp.

Tùy phong-hóa dân-sanh phù-hạp, Chấp bút thần tả ít bổn kinh. Bởi luật trời mở rộng thinh-thinh, Tri phong-võ bất kỳ chuyển kiếp.

Giống Hồng-Lạc kim chi ngọc diệp, Nay đổi dời nhiều sự thấp hèn. Từ ngàn xưa Phật-pháp gài then, Nên ít kẻ tu hành đắc Đạo. Ta cũng tỏ đôi lời khờ khạo, Ngắm cảnh đời tâm não bắt cuồng. Hiệu Điên Khùng ban rải dư muôn, Khùng đạo-đức Khùng câu tuyệt-diệu.

Khùng toán biết âm-dương kết-liễu, Khùng huyền-cơ Khùng Đạo Thích-Ca. Hươi bút thần dẹp lũ cáo-xà, Loài độc-địa toan trừ dứt nọc.

Noi tục cổ xác Khùng để tóc, Phải đua chen tập tánh ông cha.

Mong dương-trần tỉnh giấc Nam-Kha, Trừ vật-dục trì chơn bất hoại.

Cặp mắt Thánh dòm xem tứ hải, Thương hồng-trần mượn xác tái sanh. Bởi vì đời văn-vật cạnh-tranh, Nên cấu xé cùng nhau thảm-não.

Sá chi kẻ ngu si khinh-ngạo, Vì trên đời nhiều hạng khác nhau. Đấng trung-thần dạ ngọc ước-ao, Người bội phản ghét-vơ đạo-lý.

Khùng cảm mến truyền câu hồi vị, Thà làm hiền mà biết non sông. Điên như ta Điên giống Tiên Rồng, Điên gở ách xích-xiềng thế tục.

Chuông Linh-khứu ba hồi giục-thúc, Đờn Lôi-âm khởi điệu êm tai. Con lành duyên khá trở gót hài, Điên quyết chí dắt người lánh tục.

Đạo mở cửa bày câu minh mục, Nước ma-ha tưới tắt lòng phàm. Cõi Trung-Ương luân chuyển phương Nam, Mở hội Thánh chọn người trung hiếu.

Tử vì nước còn ghi linh miếu, (1) Thác vì đời thanh-sử danh bia. Mũ cánh chuồn, đai giáp, mang hia, Tuy thô-kịch mà tâm chánh-trực.

Nước văn-minh chê đồ ấy nực, Mảng trau-tria xác thịt thanh bai. Cảnh dương-trần khó sánh Bồng-Lai, Về Tiên cảnh say mùi rượu Thánh. Chén quỳnh tương gác đều gai ngạnh, Vui tinh-thần bày biện cuộc cờ. Khi thừa nhàn trổi giọng ngâm thơ, Bày thi phú than qua thời thế.

Xuống dương-gian thân Điên nào nệ, Chốn hồng trần đuốc huệ liền khai. Cho nam-nhi sửa mặt râu mày, Hàng phụ-nữ giồi câu trinh-liệt.

Rán bắt chước những trang tuấn-kiệt, Gái anh hùng xưa có Trưng-Vương. Đuổi quân Tàu cứu vớt quê-hương,(1) Rửa xong hận thù chồng dốc trả.

Xưa Châu-Xáng thanh long phải tá, Ngăn Sư-Đồ đặng cứu Ngũ-Viên. Nói cho đời rõ biết Khùng Điên, Điên vận bĩ điên câu ái quốc.

Viết một ngọn lưỡi nầy một tấc, Đem Đạo lành ban rải nơi nơi. Mảng chờ trông bá tánh thảnh-thơi, Khắp bốn biển liên dây hòa-hảo.

Rừng bác-ái điên đời biến ảo, Điên như ta vì Đạo vì dân. Điên tu cầu Quân thánh rải ân, Cho bốn biển dân lành được hưởng.

Điên dẹp gác âm thinh sắc tướng, Tầm vô vi kiếm cảnh Niết-Bàn. Thuyền từ-bi thẳng cánh lướt sang, Qua Đông-độ vớt người hữu đức.

Bể ái hà gươm linh sớm dứt, Lòng bồ-đề sắt đá dám kình. Cả tiếng kêu lớn nhỏ đệ-huynh, Noi chí ấy sửa-sang thời-thế.

Trời quá buổi chinh chinh vừa xế, Chờ ít lâu cũng lặn về Tây. Lúc huỳnh-hôn đèn trí soi đầy, Tìm nẻo thẳng đi về Cực-Lạc.

Điên đàm luận ít câu dốt nát, Mong chị anh bàn-bạc thể-nào? Lời văn thô ý-kiến chẳng cao, Nội quang-cảnh tâm vô kỳ vật.

Đường đạo-đức bước đi từ nấc, Ngoại quan hình bất chấp kỳ hình. Phải bền lòng chặt nẻo sắt đinh, Rán kiếm chữ bất sanh bất diệt.

Chúng-sanh mê nên đem pháp thuyết, Giải thoát rồi pháp bất khả dùng. Nương gia-đình kính trọng cội thung, Lo nưng đỡ trong ngày tuổi hạc.

Thân Điên Khùng thế-gian tạm xác, Chén rượu nồng chẳng nếm mà say. Say lê-mê lết-mết tối ngày, Say đạo pháp say mùi hương khói.

Biết chừng nào chúng-sanh vượt khỏi, Bể ái hà rứt bỏ vẹn lau. Say như xưa nhằm lúc Huỳnh-Bào, Trần-Di ngủ say câu thành tựu.

Quyết đưa chúng về nơi non Thứu, Tạo Lư-bồng ngõ hội quần Tiên. Khương Tử-Nha sông Vị còn phiền, Câu không ngạnh chờ non phụng gáy.

Thuyền bát-nhã ta cầm tay lái, Quyết đưa người khỏi bến sông mê. Nên phải đành mang lốt làm hề, Mặc bá tánh khen chê cũng phải.

Chí quân-tử lòng nhơn vạn đại, Dốc làm sao rõ mặt tang bồng. Nghiên hai vai gánh nặng non sông, Vớt trăm họ lầm than bể khổ.

Ví như loại sanh cầm hồ thố, Còn thương nhau lại huống chi người. Đứa hai lòng sao chẳng hổ ngươi, Đáng thùa-thẹn với cây cùng cỏ.

Dấu bút tích tuông bay theo gió, Học sách chi phỉ báng ông cha. Thấy dân tình xem giảng ngâm nga, Lão xót dạ đôi lời trần tố.

Đức Khổng-Thánh người sanh nước Lỗ, Ngài còn xưng cuồng quyến giả hồ. Sá chi lời đạo-chích tục thô, Kẻ ngu xuẫn khi người nhân đức.

Danh hiền-sĩ non sông náo-nức, Giả như hồi Chiến-Quốc Xuân-Thu. Thầy Mạnh ra dùng đạo châu du, Lúc thập bát chư hầu rối loạn.

Bực Thánh-nhơn công lao chẳng chán, Huống chi ta nào dám than-van. Thấy đời mê chưa rõ Phật-đàng,

Nên tỏ ý khắp nơi đặng biết.

Coi ai có chứa bầu nhiệt huyết, Dùng đạo mầu cứu vớt sanh-linh. Nếu để chờ sấm nổ vang thinh, E bá tánh ăn-năn đã muộn.

Giảng với kệ ra đà bốn cuốn, Ít có người khám rõ cơ huyền. Ta dừng tay chờ đợi lịnh Thiên, Đức Ngọc-Đế xử phân cho chúng.

Đêm dài-dặn cạn dầu tim lụn, Chẳng thấy ai tìm kiếm bóng trăng. Để làm cho mích bụng chị Hằng, Nơi cung nguyệt chờ trông mõn dạ.

Thiếu chi kẻ đặng chim bẻ ná, Hiếm bao người đặng cá quên nôm. Ưa đồ ngon đút nhét đầy mồm, Chăng thèm kể cha hiền trông đợi.

Trương-Ban-Xương đành quên nhơn-ngỡi, Nỡ phụ-phàng vua Tống-Khâm-Tôn. Xem truyện xưa mà bắt hết hồn, Gớm cho kẻ thay lòng đổi dạ.

Gã Tần-Cối ít ai còn lạ, Dụng mưu thần giết thác Nhạc-Phi.

Thương trung thần ghét nịnh mặt lỳ, Dám thiết kế hại tôi lương-đống.

Thuở Hiến-Đế có nhà họ Đổng, Cũng chuyên quyền muốn tiếm giang-san. Nhờ Tư-Đồ thiết lập Liên-hoàn, Nghiệp nhà Hớn mới an một lúc,

Cảnh gian nan như Lưu-Hoàng-Thúc, Qua ở nhờ Viên-Thiệu dung thân. Quan-Công Hầu gìn chặt nghĩa ân, Vượt năm ải về thăm huynh trưởng.

Kẻ nghỉa khí thiên kim vạn lượng, Lũ nịnh-thần sách-sử nào khen. Xem tích xưa thẹn với bóng đèn, Đời lắm kẻ đầu trâu mặt ngựa.

Coi sự sống như Tiên nưa nửa, Mê mồi thơm như cá lục-châu. Sao chẳng lo thức tỉnh quày đầu, Cho khỏi thẹn với người thiên-cổ.

Cấp-cô-Độc là nhà bá hộ,

Còn đành lòng bố thí xã thân. Chữ vinh-hoa phú-quí chẳng cần, Miễn hiểu đạo hơn là châu báu.

Chẳng sớm lo chần-chờ sợ Lão, E sau nầy tâm não đoạn trường. Lũ gian-hùng mang lấy họa-ương, Trời đất xử những người bội phản.

Phải chỗi dậy nương dày hùng-tráng, Chữ đại hùng đại lực từ-bi. Vậy mới trang quân-tử nam-nhi, Thân dốc vẹn hai câu ngay thảo.

Đời cũng lắm bao người giá áo, Nương bả vinh nhiều hạng túi cơm. Thấy dân ngu trong dạ sẵn hờm, Quyết kiếm thế đặng toan lừa dối.

Ngọn bút sắt chỉ đường người tối, Gậy kim-cang đưa chúng lên đàng. Kíp nương theo trực chỉ Tây-phang, Đến cực-lạc tìm nơi an dưỡng.

Dẹp cầy cáo dùng cây thiền-trượng, Lánh ta bà cõi thế đua chen. Được vinh-hoa khinh-bỉ kẻ hèn, Bạn phản bạn như ngươi Bùi-Kiệm.

Trên mặt đất hạng người ấy hiếm, Thấy Tiên mù xô xuống giữa dòng. Nhìn Trịnh-Hâm lão bắt mủi lòng, Than cặn-kẽ kêu dân sớm tỉnh.

Viết ít câu cho đời ngâm vịnh, Phận tài sơ xin hãy thứ tha. Yêu nhơn-sanh trổi giọng hùng ca, Tạm nghiêng bút vẽ tranh thế tạo.

Trong bá tánh nhìn xem châu đáo, Chớ vội vàng chê Lão ngu-si. Rạch lang tâm những đứa vô nghì, Nhắc sơ tích người xưa trong sử.

Khuyên bá-tánh vạn-dân gìn-giữ, Lão chúc cầu thiên-hạ thái-bình. Đứng trung cang hành thiện truy kinh, Mong trên dưới cùng nhau thảo-thuận.

Đã thấy lộ cơ trời báo ứng, Diệt loài gian tầm kiếm con Tiên.

Nợ hồng-trần túc trái tiền khiên, Ta quyết dẹp cứu nàn dương thế,

Noi chí đức Hoàng Thang luật chế, Đời không hay những việc xa vời. Gặp cơn mưa ta hãy cho tơi, Lúc hạn nắng từ-bi giúp nón.

Cảnh thế tạo càng ngày thỏn-mỏn, Giống vi-trùng thường đục phổi tim. Đến cơn đau phương thuốc phải tìm, Gặp Biến-Thuốc, Hoa-Đà lai thế.

Kim với cổ nhìn xem thế-hệ, Sợ có ngày hoạch tội ư thiên. Nẻo đục trong cạn tỏ cơ-huyền, Mực đã cạn lòng yêu chẳng mãn.

Ai coi qua xin đừng bỏ lảng, Gắng công-trình vạch lá tìm sâu. Nay dương-trần gặp buổi mưa ngâu, Phải sớm hứng giọt sương Đông-hạ.

Điên nhơn-nghĩa điên vì đạo cả, Thôi chào đời khép cửa buồn duyên. Có thiện-căn sớm lại cửa thiền, Câu niệm Phật chờ ngày chung cuộc.

Nam-mô Định-Tâm Vương Bồ-Tát Ma-Ha Tát.

Hòa-Hảo, ngày 10-4 năm Canh-Thìn

THIÊN LÝ CA

(310 câu)

PHAN lòng chữ dạ chớ hoài lo, NGỌC ẩn non Côn tợ lửa lò. CHÂU lạc đường dê nương bước ngựa, Núi truông qua đặng rán lần dò.

Vườn hoa ngó khỉ giọng chiu-chít, Cảnh nguyệt coi gà tiếng ó-o. Tường-tận đã nghe xê cống liếu, Hương thôn bỏ xế xự xang hò.

Đoc ngược lại bốn câu trên (tứ nguyệt nghịch độc)

Hò xang xự xế bỏ thôn hương, Liếu cống xê nghe đã tận tường. O-o tiếng gà coi nguyệt cảnh, Chít-chiu giọng khỉ ngó hoa vườn.

Quỉ ma hay phá rối người tu, Đạo-đức chư nhu rán chí hành. Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh, Chớ quên tiếng nguyện chốn non xanh.

Đêm thanh vắng tiếng đờn khoan-nhặt, Nghe cho tường giọng bắc hòa nam. Thích-Ca còn phế tước-hàm, Đài cao cửa rộng mà ham tu hành.

Hiền đệ Châu muốn nghe lời ngọc, Lão tỏ bày hình vóc nhiệm-sâu.

(Câu nầy của Đức Thầy thêm. Đoạn sau đây có khúc của ông đò, có khúc của Đức Thầy viết xen kẽ).

Thiên ý không riêng mối đạo mầu, Rằng truyền yếu-lý nhiệm cao sâu. Chuyển miền Nam-Địa càng thâm-diệu, Lọc lẽ tà tâm sự đứng đầu.

Nguồn bạch thủy trong veo thấy dạng, Lẽ nhiệm mầu chưa hản trò ôi! Đêm ngày buồn-bã vô hồi, Kìa trên Tiên-cảnh vị-ngôi sẵn dành.

Đạo rải khắp năm canh tỏa bút, Dạy tận-tường chẳng chút nào sai. Cổ nhơn tích để phân bày, Đường chơn nẻo chánh âu ai rán tầm.

Thuyền bát-nhã chí tâm trực thẳng, Thả ra khơi cứu dẫn khách trần. Phù-sanh lắm cuộc lao thân, Ngày đêm ta-thán muôn phần đớn-đau.

Trông đợi người tài cao đức trọng, Hầu rõ thông thiên-võng lẽ nao. Chí tâm tường lãm thấp cao, Dạy cho rõ biết Thiên-Tào nơi đâu.

Ngồi nghĩ cạn thêm sầu cho thế, Bởi ít ai cải chế đường tà. Sợ e nhiễm trược đọa sa, Sợ cho lắm kẻ chan hòa lụy tuôn.

Sợ nhiều kẻ dạ buồn đổi chí, Quên những câu chánh kỷ hóa nhơn. Mảng lo tìm kiếm tước quờn, Thất kỳ vọng tưởng lánh chơn đường lành.

Trong buổi khổ mau mau tránh khổ, Rán tầm vào đến chổ an cư. Học câu hỉ-xả đại từ, Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần.

Câu bát-chánh rán mài chạm dạ, Tứ mục-điều người khá hành y. Muôn thu thiên định nhứt kỳ, Hạ-nguơn sắc-lịnh khai kỳ Long-hoa.

Rán vẹt phá sương mù trước mắt, Chớ để cho quỉ dắt linh hồn. Lão đây vưng lịnh Phật-tôn, Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành.

Khá chí tâm học hành kinh sám, Thoát nơi miền hắc-ám phong-ba. Trở chơn cho kịp Long-Hoa, Long-Hoa có mặt ấy là hiền nhơn.

Đền nợ thế nghĩa-ơn trọn vẹn, Lấy tinh-thần hiệp vén ngút-mây. Chớ nên bắt-bẻ Phật-Thầy, Ngày sau phải chịu đọa đày chớ than.

Cuối năm Thìn sẽ lo vẫn chuyển, Xứ “Hà tiên” linh hiển cơ-quan. Nhơn sanh sẽ hiệp một đàng. Hết Thìn rồi lập Nhơn-Hoàng hội ra.

Khuyên sanh-chúng gần xa phân cạn, Dựng Nhơn-Hoàng cho rạng Á-Đông. Chúng-sanh phải tưởng giống-dòng, Hiệp tâm hiệp trí cột đồng nhà Nam.

Phật chỉ dạy qui tam lập hội, Dựng cho rồi một cội thành ba. Chớ mong yến thử ẩm hà, Mười ngàn năm lẻ cửa nhà đâu con.

Ta nhắc lại héo von cho trẻ, Cứ đâu lưng đừng rẽ đừng chia. Cả kêu lớn nhỏ quày vìa, Trên hòa dưới thuận chớ lìa chớ phân.

Long-Hoa hội ân-cần lo lập, Lập cho rồi tam-thập-lục nhơn. Lôi-Âm giục khởi tiếng đờn, Thất-Sơn dấy loạn là cơn hiểm-nghèo.

Nơi phía trước cheo leo tiếng khóc, Đứng sau lưng hình-vóc dảy chưn. Nước kia lửa nọ tưng bừng, Thảm cho thế sự lẫy-lừng nạn tai.

Thời cũng tại không ai tu niệm, Cứ lẳng-lơ ngạo biếm khoe-khoang. Đến nay là buổi tai nàn, Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân.

Đến Thân–Dậu Thánh-Thần náo động, Thảm cho trần nhà trống ruộng hoang. Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn, Nạn tai dồn-dập xóm làng còn chi.

Khuyên sanh-chúng rán ghi mối Đạo, Lòng hằng lo ngay thảo nghe con. Tương dưa giữ phận cho tròn, Cuối niên Thân–Dậu mất còn sẽ phân.

Trong một giáp ân-cần suy tính, Muốn làm hiền rán nhịn đừng than. Đến nay gần buổi khoa tràng, Minh-quân xuất thế khắp tràng thảnh-thơi.

Đến Thân–Dậu cơ trời thấy lộ, Hết đao binh qui cổ diệt kim. Gia vô bế hộ im-lìm, Lập thành mối Đạo rõ điềm xưa kia.

Thì dân-chúng danh bia hậu thế, Phật, Thánh, Tiên kềm chế lập thành. Diệt tà lập chánh đành-rành, Ba mầu nắm chặt Nam-thành xử phân.

Trong tam giáo ân-cần mở Đạo, Trường ngoại bang phục đáo như xưa. Phật Tiên vận chuyển lọc-lừa, Chúng-sanh rán nhớ muối dưa hội nầy.

Trên cùng dưới sum vầy một buổi, Dựng mười hai may rủi mới hay. Làm cho rõ mặt râu mày, Thương-nguơn hồi phục là ngày an cư. Cuối Thân–Dậu y như Thượng-cổ, Thời nhơn sanh hết khổ đến may. Đế-Vương xuất thế là ngày, Dậu, Thân bình-trị trong ngoài âu ca.

Phân chỉ rành gần xa để dạ, Chớ đảo-điên phải đọa phải sa. Nghĩ suy cho thấu mới là, Một bầy Hồng-Lạc nay đà thảnh-thơi.

Khuyên sanh-chúng nhớ lời ta tỏ, Trước cùng sau chỉ rõ mối đàng. Nhơn-sanh giữ phận chớ than, Minh-Vương xuất thế mới an dân lành.

*****

Gội ơn Trời độ khỏi sai lầm, Xin giúp chí bền, chí dục tâm. Hộ mạng thần Quan-Âm trợ lực, Nguyện thân ý nhiệm xứng công thần.

Từ-bi Trời Phật độ quần sanh, Cứu khỏi tai ương vạn sự lành. Đệ-tử gội nhuần ân đức cả, Chung thân quyết chí dốc làm lành.

*****

Đoạn dưới đây là hoàn toàn của Đức Thầy (chép theo bổn chánh).

Buồn vơi mượn bút tay đề, Đã rời trần-thế dựa kề Tiên-bang. Tay chèo miệng nói lang-mang, Chúng-sanh cách trở nghèo nàn hỡi ai.

Lục châu ta dạo bằng nay, Thấy trong lê-thứ quá dài gian-nan. Động tình tá quốc an bang, Nước nhà vững đặt Nam-đàng hiển-vinh.

Bây giờ ta mượn kệ kinh, Khuyên ai mau kíp sửa mình cho an. Bữa xưa giảng-kệ một nang, Bởi vì ta mắc dời thoàn cảnh xa.

Ngày nay ta cũng nôm-na, Gẫm trong lê-thứ hằng-hà lụy rơi. Chừng nào mới đặng thảnh-thơi, Qua năm Tuất–Hợi Phật Trời định phân.

Chim Ô đà dựa cầu Ngân, Người xưa trở gót cho gần người nay. Người nay rồi vẹn thảo ngay, Thì là thấy tạn mặt mày người xưa.

Nguyện cầu gắng chí sớm trưa, Cầu cho bá-tánh sớm ưa tu hành. Đầu đuôi ta tỏ ngọn ngành, Mau mau trau-trỉa chữ lành cho xong.

Đến chừng lập hội mới mong, Trở vể chúa cũ mới hòng xuê-xang. Người hiền như thể cỏ lan, Người hung chết rất chật đàng thảm thay.

Cả kêu kìa hỡi là ai, Quan trường rời dứt mặt mày chùi lau. Lui chơn ra khỏi cho mau, Tìm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan.

Theo ta đến chốn Tiên-bang, Đặng coi các nước hội hàng Năm-Non.

Đạo Phật vốn ngàn xưa rạng tỏ, Nay lu-lờ bị mõ cùng chuông, Thấy chúng-sanh đắp Phật bán buôn, Mà tội lỗi ngàn muôn lao-lý.

Cho đó hiểu nhiều câu huyền-bí, Rán nghĩ suy bền chí mới mầu. Dẹp lợi-danh dẹp hết mộng sầu, Đặng trở lợi với cha cùng chúa.

Nếu chẳng lo cũng như lá úa, Lá úa vàng nó rụng người ôi! Ngàn năm mới có một đời, Tới chừng lập hội Phật-Trời xử phân.

Ai muốn gần bệ ngọc các lân, Thì phải rán lập thân nuôi chí. Ta cho đó ít câu hữu lý, Diệt tâm trần lập chí hiền-nhơn.

Đục trong đà tỏ nguồn cơn, Lời ta khuyên đó như đờn Bá-Nha. Mặc ai biếm nhẻ gần xa, Lòng ta ta biết ai mà mặc ai.

Đây khuyên đó đắng cay rán chịu, Mặc người trên bận-bịu chẳng phê. Muốn cho thân vượt khỏi lề, Cắm sào trì chí một bề lo tu.

Kim ngọc nan tri tường đông hải, Phật tà phàm tục tất nan tri. Ẩn xác phàm phu gìn Thích-đạo, Mặc tình thế sự chúng khinh-khi.

Mấy kẻ tu mi tròn nhơn đạo, Hiền nhơn thức tỉnh kiến huyền-vi. Ngay thẳng hiếu trung trang hiền thảo, Kim thời bá-tánh gọi ngu-si.

Nợ thế đền xong mong giai lão, Hiền thần hiếu nghĩa đáng nên ghi. Lâm sầu mộng ở trong trần thế, Việc tu hành như ế chợ đông.

Mãng lo danh lợi não-nồng, Chữ tu để dạ chớ hòng lợt phai. Mặc tình ai gièm-pha tai tiếng, Sửa tâm lành như miếng hoa thơm.

Đến chừng hoa nở nhụy đơm, Thì là trần-thế mới hờm bẻ hoa. Câu đạo-lý thiệt tường thiệt tận, Khuyên dương-trần bớt giận đừng gây.

Kia kia súng nổ trời Tây, Đến năm Thân–Dậu tai đầy sấm vang. Hung-đồ với lũ dọc ngang, Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu.

Thấy đạo-lý còn lu chưa tỏ, Dân ganh hiền ghét ngõ làm chi? Buồn đời xuống bút làm thi, Thương dân chịu chữ cố lỳ dạy dân.

Nào nào dân có biết ân, Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi. Lời châu ngọc khuyên ai để dạ, Nay gặp người quái lạ tỏ phân.

Hãy mau khuya sớm chuyên cần, Đặng xem chư-quốc non Tần giành chia. Nay nhằm lúc đêm khuya lặng-lẽ, Nhắn ít lời cho kẻ đàng xa.

Phật-nhi tâm tánh thật-thà, Ông còn phân biệt chánh tà nữa thôi? Dương-trần thường bạc như vôi, Gặp cơn bát loạn mới hồi tâm hung.

Lúc áo-não cội thung lo-liệu, Gắng bền lòng bận-bịu vì ai.

Thất-sơn lộ vẽ đài lầu, Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của ta.

Khuyên bổn-đạo gần xa nuôi chí, Lẽ nhiệm-mầu huyền-bí nơi đây. Bây giờ nương bóng cờ tây, Mượn phần xác thịt tỏ bày thiệt hơn.

Thương sanh-chúng đòi cơn dạ ngọc, Ta quyết gìn chủng-tộc giang-sơn. Ta khùng mà chẳng có cơn, Cũng không có tánh giận hờn bá gia.

Cười rồi khóc thiết-tha liệu-điệu, Vợ xa chồng bận-bịu thê lương. Chẳng cần trà, quả, nồng hương, Miễn cho bá-tánh biết đường chơn tu.

Nghe kệ sám như ru giấc mộng, Lo chê cười hầu họng reo vang. Ỷ mình nhiều của giàu sang, Phụ khinh tông-tổ chẳng màng người xưa.

Mặc ý ai ghét ưa ưa ghét, Lấy tâm thần xem xét thể nao? Sấm vang thì lộ bảng vàng, Chư nhu thế-giới khắp tràng tới thi.

Chữ thi gần chữ sầu-bi, Bị ham của báu ly-kỳ máu rơi. Chừng đó mới trời ơi đất hỡi, Mang khổ hình vì bởi chẳng tu.

Ham vui quyền quí dại ngu, Chữ sang danh vọng như mù đi đêm. Ta nào có nói thêm cho chúng, Quá yêu đời viết túng ít câu.

Ít câu mà ý nhiệm sâu, Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn-ngoan. Đây sắp đến lầm than khắp chốn, Việc tu hành đâu tốn tiền chi.

Nầy nầy lời lẽ rán ghi, Sau đây sẽ thấy việc gì trên mây. Ta mắc lánh tà-tây đa sự, Làm Điên-Khùng cũng tự lẽ ni.

Ai là đáng bực tu-mi, Thương đời ta mới làm thi khuyên đời. Còn ẩn-nhẫn đợi thời đưa đến, Nên phải làm kẻ mến người khinh.

Người hiền tâm trí thông-minh, Người hung cứ mãi chống kình với ta. Theo học cổ nôm-na ít tiếng, Làm nhiều điều xao-xuyến nhơn tâm.

Chữ nhu ta học âm-thầm, Ai là người trí rán tầm cho ra. Để đến lúc phong-ba biến-chuyển, Cảnh hồng-trần tợ biển mênh-mông.

Mới là sợ chết ước-mong, Mà không ai cứu bởi lòng ác-gian. Tiếng đờn hò liếu cống-xang, Đêm khuya khuyên-nhủ khắp tràng chúng-sanh.

Chốn Phật-cảnh vắng tanh kẻ tới, Ta ra đời nên mới đổi thay. Bởi vì lời lẽ thẳng ngay, Cho nên chúng nó ghét bài phú thi.

Thấy tăng-chúng sầu bi dạ mỗ, Kệ khuyên trần nước đổ lá môn. Khắp cùng làng xóm hương thôn, Vì khôn quá thế nên tồn lại ngu.

Dạy đạo-đức người tu rạng lý, Mong cho người hữu chí làm theo. Không làm thì ắt mang eo, Làm xong vượt khổ qua đèo chông-gai.

H.H. tháng 7 năm Kỷ-Mão

ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC

(314 câu)

Để chơn đất bắc Thầy trò, Dân còn quê kịch hát hò nghêu-ngao. Xóm làng Đồng-Thạnh xôn-xao, Cùng nhau bàn-tán khác nào trong Nam.

Chúng dân tựu ngũ tùng tam, Kẻ ma người mị kẻ ham người cười. Làng nầy đông-đúc nhiều người, Dân tình cũng được đôi mươi tu hành.

Nhiều người già cả lòng lành, Có nhiều kỳ lão biết rành tích xưa. Tới đâu cũng ít người ưa, Nằm lăn ca hát sớm trưa dỗ-dành.

Trưng bày tích cũ đành-rành, Thiên-cơ đạo-đức tu hành phận tôi. Dân quê nghe nói hỡi ôi! Hung-đồ cường nghịch một hồi cười reo.

Đâu đây mà có hùm beo, Khéo bày bá-láp nghe theo làm gì? Thấy trong lê-thứ cũng kỳ, Đi đâu cũng bị dân thì ghét vơ.

Ngày đầu nhiều kẻ còn mơ, Trị chơi ít bịnh ngẩn-ngơ xóm riềng. Cũng không thèm trọng bạc tiền, Quyết lòng tìm kiếm người hiền mà thôi.

Bắc-kỳ dân ít mép-môi, Cũng còn cúng kiếng chè xôi ê-hề. Thương dân nên chịu nặng-nề, Lời ăn tiếng nói nhiều bề thấp cao.

Tớ thầy nào nệ cần-lao, Thương dân dạy-dỗ xiết bao nhọc-nhằn. Ngũ-luân lễ nghĩa năm hằng, Tam cang trung-trực người rằng ngu-si.

Viết ra mới bốn bài thi, Đặng cho trần thế biết thì Thần Tiên. Cũng xưng rằng hiệu Khùng Điên, Nhắc ra nhiều khúc Rồng-Tiên Hồng-Bàng.

THƠ rằng:

Nam-thiền vô ngại đại Hoành-Sơn, Nhiên khước hành vi kỷ khách huờn. Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc, Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn.

Vân-vân bạch-bạch thức sinh thần, Cổ quán thôn-hương nhứt dị nhân. Tiên-sinh hiện kiếp phò Lê-chúa, Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân.

Liên hồng cảm-kích vĩ long tuyền, Đồng-Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên. Kiển-sám truyền danh lưu hậu thế, Nam-Việt trung-thần đệ nhứt Tiên.

Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc-hà, Cổ súy lương thần vị phong ca. Thọ tử tâm trung trưng hùng khí, Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa.

Bốn bài thơ đã làm xong, Văn-nho bàn-bạc nhiều ông lắc đầu. Nghĩ ra mới biết cơ cầu, Người chi thi-phú công-hầu cổ nhơn.

Nghiệm suy lời lẽ thiệt hơn, Dặn-dò bá tánh thi ơn xóm làng. Nào ta có nói bướng càn, Về An-Giang tỉnh rõ ràng ai hay.

Từ đây Nam Bắc chuyển quay, Khi đây khi đó ra tài khuyên dân. Tuần-huờn tạo hóa cầm cân, Ở đây cũng dạy hương-lân đủ đều.

Xác nghèo nhà tợ cái lều, Cơ-hàn rách-rưới nhiều đều nan nguy. Tuy là gia-trạch hàn-vi, Nhưng mà hiền-đức khác gì người xưa.

Nhiều người lối xóm đẩy-đưa, Tấm lòng không mến mà ưa bề ngoài. Nước tràn ruộng lúa lạc loài,

Bắt đầu lo chuyện miệt-mài bắp khoai.

Giáo-truyền lời lẽ thẳng ngay, Hương-lân trùm-trưởng đắng cay nhiều bề. Thầy trò ra sức làm hề, Ca tuồng ly-loạn dựa kề biên-cương.

Có nhiều chệc khách Minh-hương, Đau lòng nhiều khúc thê-lương bên Tàu. Chú lùn Nhựt-Bổn hùng-hào, Chẳng thương sanh-mạng dân Tàu dại ngu.

Bởi chưng hung-bạo chẳng tu, Cho nên gây sự lu-bù chiến-tranh. Bắc-Kỳ Trung-Quốc giáp ranh, Sao không xem đó tu hành hiền lương.

Cá không ăn muối cá ươn, Chẳng nghe lời dạy lâm đường chông gai. Hát tuồng Trung-Quốc quá dai, Ta bèn bỏ bản hát bài tà-tinh.

Cả kêu lớn nhỏ đệ-huynh, Từ đây nhẫn nại chống kình làm chi. Bút nghiên lôi lại làm thi, Đặng cho sanh-chúng bớt nghi tinh-tà.

Cổ qui tài tận hận do Tần, Thiện chí tu trì lập vĩ thân. Tồn tại hư vô tầm Bát-nhã, Tiên kiếm thần thông chỉ huy cần.

Điền tan gia phế tế nhiên hàn, Khổ đáo ly kỳ ảo viễn cang. Nghị xuất Thần Tiên yên truyền đạo, Bần phú cơ đồ bất tự sang.

Nôn nải kìa ai nhọc mưu cầu, Thê thảm cho đời nẻo huyền sâu. Kiên cố của tiền thiên đạo lý, Cấp hồi ái truất trót canh thâu.

Thiên ý bất tư hoạnh trữ tài, Biên hình liên huệ tất ư giai. Kiệm kỷ tha lam mi hài-chí, Long trì phi ẩn tạo kiền khai.

Ngạo cảnh du vân triện Bắc-hà, Quá khứ trú đình vịnh ngân ca. Thanh tích cổ nhân tân cừ khí, Nghiên tòng bí khuyết bích-lư xa.

Thâm canh bất mến công hầu, Trông cho lê thứ gặp chầu vinh-huê. Ở đâu dân cũng còn mê, Tham câu danh lợi khó kề Thần-Tiên.

Tư lương một mối sầu riêng, Long thiền đãi ảnh vị thiên cô phần. Ngảnh ngao tái chí thi ân, Biện minh chí hứng đền lân dựa kề.

Huy hoàng hương nến tự thiên chi, Hội kiến truyền linh thuyết vĩnh kỳ. Lôi chất khai âm vô sắc thí, Ngại hồi bi hiện án tiền phi.

Rừng thông bên cạnh gần kề, Bôn-phi lê-thứ nhiều bề gian-nan. Bắc-kỳ còn hỡi hò khoan, Chúng dân đi cấy reo vang ruộng đồng.

Thấy đời cũng luống động lòng, Xứ quê nghèo cực muỗi mòng thiếu chi. Dạo miền thành-thị một khi, Chán-chê thế sự sầu-bi trong lòng.

Ca xang thảm cảnh não-nồng, Cả kêu dân-chúng Lạc-Hồng hỡi ơi! Giống xưa Tiên cảnh tuyệt vời, Ngày nay đã lạc đạo đời nhuốc-nhơ.

Người hiền nghe thấu ngẩn-ngơ, Đớn đau sắp đến bơ-vơ một mình. Muốn xem được hội Long-Đình, Thì dân hãy rán sửa mình cho trơn.

Ở ăn cho vẹn mười ơn, Cảnh tình hiền-đức gặp cơn khải hoàn. Gắng công khỏi buổi nghèo nàn, Sum vầy một cuộc Hớn đàng toại thay.

Người nào vẹn được thảo ngay,

Dựa kề cửa Thánh đài mây an nhàn. Khuyên răn cuối xóm cùng làng, Giàu sang nắm giữ của ngàn làm chi.

Việc đời nhiều nỗi sầu-bi, Hạ-nguơn đã hết loạn-ly cơ đồ. Bây giờ còn hỡi mờ-hồ, Chẳng nghe dạy chỉ cơ-đồ về sau.

Thử xem cho biết vàng thau, Tình yêu sanh chúng chẳng nao tấc lòng. Tu hiền như thể phụng rồng, Mắt nhìn Tiên cảnh mây hồng toại thay.

Bây giờ rán chịu đắng cay, Ngày sau mới biết mặt mày Khùng Điên. Đạo đời nào có tư riêng, Minh-Vương sửa trị mới yên ngôi Trời.

Xa-xăm các chỗ các nơi, Đâu đâu cũng rán nghe lời tiên tri. Kẻ hung ngạo-nghễ khinh khi, Nữa sau đến việc sầu-bi nhiều bề.

Tớ Thầy non núi dựa kề, Cũng tìm am cốc liệu bề dạy khuyên. Quyết lòng rửa sạch tiền khiên, Ra oai ra lực hùng-yên mới là.

Bây giờ còn liệu tây tà, Cho nên đạo-đức khó mà cạn phân. Nam-thiền báu ngọc châu trân, Phật Tiên phân định tấm thân mới nhàn.

Duyên sự đê-mê cảnh Hớn-đàng, Lần dò cho thấu nẻo Tiên-bang. Xuê-xang mấy kiểng nhìn sương gió, Lòn cúi chờ trông lúc khải hoàn.

Mê-man danh-lợi cõi hồng trần, Có một hội nầy lập lấy thân. Nếu để trễ chầy e chẳng kịp, Khuyên ai khuya sớm gắng chuyên cần.

Huyền-vi cơ đạo kiến linh kỳ, Tự thán dương-trần tốc kham bi. Vô vị phi liên tâm phế kỷ, Điểm hồng nê địa tự thiên chi.

Chừng nào thấy được phụng hoàng, Rồng chầu chớp-nháng Hớn-đàng hiển-vinh. Sớm chiều rèn đúc kỉnh-tinh, Ngày sau mới thấy phép linh của Trời.

Ai ai cũng ở trong đời, Chốn nào không đạo là đời vô liêm. Xét suy cho cạn cổ kim, Hết tâm bền chí rạch tim xem nhìn.

Ta đây ưa ghét mặc tình, Dương-gian cứ mãi chống-kình làm chi. Chừng nào thượng-cổ hồi qui, Thế-trần mới hết khinh-khi Phật Trời.

Tu hành đạo-đức rao mời, Như người ngu dại với đời loạn-ly. Ở sao cho biết tôn-ti, Dể-ngươi Phật Thánh sầu-bi mãn đời.

Khùng-Điên ẩn-nhẫn tùy thời, Có-cơn giả dạng dắt đời hạ-nguơn. Mặc tình ai nói thiệt hơn, Thấp cao tai tiếng làm ơn cho đời.

Luân phiên Thầy Tớ tách vời, Chẳng nài lao-lý miễn đời bình an. Tiếng đờn hò liếu cống xang, Đêm khuya khuyên nhủ khắp tràng chúng-sanh.

Buổi nay nhằm lúc vắng thanh, Lời ta khuyên đó như cành ghẹo chim. Trau dồi đúng bực thanh liêm, Nữa sau mới biết thành kim đền đài.

Việc đời nhiều lúc khôi-hài, Quyết lòng cho thế một bài học hay. Chuyển miền Nam địa lung-lay, Nam Trung cùng Bắc một tay giáo đời.

Thiếu ai mà bị réo mời, Đầu trên xóm dưới thỉnh mời liên thinh. Trớ-trêu phải mượn kệ kinh, Mặc tình dân-sự biện minh lẽ nào.

THI

Thâm-trầm đạo-đức quá thanh-thao, Rừng-rú kệ-kinh cắt khoen rào. Rước đưa sanh-chúng rời bể ái, Thử-thét cho cùng cạn thấp cao.

Liên lụy trần mê bể ái hà, Bỗng xuất thoàn tình mượn thi ca. Thể-thống Thần Tiên kiên bế chí, Tương đồng sanh-chúng gội ma-ha.

Si lung á giá tọa phú hào, Tiên kiến hậu hiền quí kỷ cao. Thố tử hồ bi ghi chí hứng, Đại đồng đạo cả khắp trùm bao.

Toan ly bể khổ, khổ tới à! Dân-sự an-nhàn sướng dữ a! Ta mảng lòng lo gìn sanh-chúng, Gội nhuần ân-đức vịnh phong ca.

Ma-ha thoàn nhỏ đã dọn rồi, Chèo lái trương bườm chớ thả trôi. Bến giác bờ mê, mê phải tránh, Ly-biệt hồng trần hỡi ai ôi!

Liên-hoa chín phẩm ở ngọc tòa, Được lịnh Thiên-Hoàng nấy sai ta. Hạ-giái dạy khuyên truyền đạo-lý, Giả dạng Điên-Khùng mượn thi ca.

Ham vui đào mận chẳng xong rồi, Trung hiếu giữ-gìn phận con tôi. Thế-sự bao la ta chẳng quản, Tiên-cảnh non Bồng sẵn vị-ngôi.

Nước non náo-nức giống nòi Hồng, Gắng chí kiếm tìm chủ-nhơn ông. Tuổi trẻ đầu xanh khoanh tay rế, Liệu-lượng thâm tình tợ biển sông.

Thay cảnh đổi lòng nỗi biệt-ly, Muốn gặp bảng son với linh-kỳ. Noi sức bình-sanh quanh nước lửa, Có một ngày chờ hội ứng thi.

Hồn thơ Tiên Thánh sánh đạo mầu, Chẳng thấy việc đời mảng góp thâu. Tóm tắt ít lời âu diệt chủng, Thế-sự mê hồn lụy song mâu.

Cha nọ bồng con vợ khóc òa, Tan nát xóm diềng khổ dữ a! Nhà không kẻ ở, ôi! nói trước, Nếu chẳng tin lời gặp thiết-tha.

Lời xưa di tích rõ việc nầy, Ai muốn mắt phàm gặp Rồng Mây. Hãy rán nghe lời ta mách trước, Không gìn đạo-đức phải phơi thây.

Thương dân xuống bút tay đề, Dặn-dò bá-tánh chớ hề lợt-phai. Cuộc thế-giới chuyển lay như chóng, Khuyên dân tình hãy lóng mà nghe.

Lam-kiều hữu lộ vắng hoe, Ngục môn không cửa mà hè nhau đi. Thảm cho trẻ hài-nhi liệu-điệu, Vợ xa chồng bận-biệu thê lương.

Phong trần dày-dạn gió sương, Chư bang ham báu hùng-cường đua tranh. Còn một cuộc chiếu manh giành xé, Khắp hoàn-cầu ó-ré một nơi.

Dòm xem châu ngọc chiều mơi, Sao đời không sớm tách dời cõi mê. Để đến việc thảm-thê thê-thảm, Mắt phàm-trần tường lãm bi-ai.

Cũng đồng cốt-nhục hoài thai, Nên ta rán sức miệt-mài dạy khuyên. Thơ với phú Thần Tiên giáng bút, Bởi cơ trời đà thúc bên lưng.

Không tu chừng khổ cũng ưng, Tu hành gặp cảnh vui mừng toại thay!

Hoàng hôn tái sắc chuyển luân tài, Nhựt dạ yêu đời chỉ quá dai. Tỏ thuyết huyền-vi sanh-chúng rõ, Năng kỳ liên huệ tất biền lai.

Tư lương đeo đuổi giấc mộng sầu, Bớ hỡi dương trần khá liệu âu. Nước lửa đến chưn, ôi! khó nhảy, Co giò phóng riết lọt ngoài sâu.

Huyền cơ đạo-hạnh hãy rán tầm, Đời cùng Tiên Phật dụng nhơn tâm. Ngàn năm Thích đạo đành chôn lấp, Thương tưởng bá-gia nỗi lạc lầm.

Cảnh thảm khổ chiều mai sẽ đến, Sao dân còn triếu-mến trần-mê? Mắt nhìn ngoại quốc thảm-thê, Nam-bang cảnh khổ cũng kề bên tai.

Cuộc biến động nay mai nguy ngập, Một hội nầy rán lập thân danh. Kìa kìa các bực công khanh, Miễu son tạc để đành rành chẳng sai. Đất với nước hậu lai vinh-diệu, Đạo lo tròn yểu-điệu tấm thân. Một câu quân lý tứ ân, Ta đừng phai-lợt phong-thần bảng ghi.

Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn

(Chép theo bổn chánh của Đức Thầy do Đức Ông giữ)

“TRONG VIỆC TU THÂN XỬ KỶ”

Sự lễ bái không đủ cho ta tỏ ra một tín-đồ chân thành của đạo Phật được. Tai sao vậy?

Vì Đức Phật chẳng bao giờ ngỏ ý rằng “các người hãy lạy thờ ta cho nhiều rồi ta sẽ độ giúp các người” mà trái lại, Ngài dạy rằng: “Các người nên hiểu biết phận-sự con người phải làm gì trong kiếp sống và tìm kiếm chân tánh của mình”. Thiệt-hành theo giáo-lý của Ngài thì Ngài sẽ hướng-dẫn và ủng-hộ vậy.

Ta hãy đem đức-tin trong sạch mà thờ kỉnh Phật và hãy đem lòng lành mà hành-động y theo lời phán dạy của Phật.

Nếu ta cứ đem đức-tin thờ-phượng tôn-giáo bằng cách sai-lầm thì rất có hại cho đời mạng của ta. Như vậy chỉ tỏ ra một người rất mê-tín (mặc dầu đạo của ta thờ là một đạo rất chánh đáng).

Vậy đồng thời với Đức Tin và Lòng Lành phải để cho nó đi cặp luôn luôn.

Có đức tin (tin về thần quyền) mà thiếu lòng lành thì rất dễ bị tà-thần cám dỗ, bọn tăng-đồ lợi-dưỡng gạt-lường. Bởi những kẻ ấy thường bày ra cúng-kiếng để chuộc tội hoặc bắc-buộc ta thờ-kính một cách phiền-phức làm cho lòng u-tối của ta càng ngày càng u-tối thêm.

Còn có lòng lành mà thiếu đức tin vào công việc từ-thiện của mình thì lòng lành ấy thường hay thối chuyển vậy.

Vậy đồng thời với đức tin và lòng trí lành phải đi cặp luôn luôn.

Có đức tin và lòng lành rồi thì dùng trí-huệ mà bình-đoán cái đạo của ta đang học hay sẽ học một cách xác-thực, tìm hiểu cho rõ-ràng cái mục-đích ấy, như thế mới mong thoát khỏi tà kiến gạt-gẫmta đem đức tin, lòng lành cống hiến vào chỗ thấp hèn hay một ông thầy mê dốt.

Người học Đạo muốn mở-mang trí-huệ cần phải tìm phương-pháp diệt cái vô-minh (tối-tăm ngu-muội).

Muốn diệt cái vô-minh trước phải điêu-luyện khối tinh-thần cho mạnh-mẽ đặng tự lập con đường rõ-ràng, duy nhất của mối Đạo mình đang học để lấy đó làm cương-mục mà bài trừ những thành-kiến, cố chấp, thói quen, sự chần chờ, lòng ham muốn, tánh kiêu-ngạo, tật-đố, gièm-siểm, dua-nịch, ích-kỷ tư tâm, sự gây gổ, mê đắm trong bể dục-tình và sự phiền-não nó làm cho náo loạn cõi lòng. Nên bài trừ được nó rồi trí huệ tất mở-mang vậy.

Người có tâm nếu không tập suy-gẫm cho mở trí thì hay dễ bị lường gạt.

Người có trí mà vô tâm thì hay xảo trá. Nên trí và tâm người học Đạo cần tìm cách làm cho nó được phát-triển cả hai để lấy tâm làm chủ trì mọi việc, lấy trí mà phán xét mọi việc trước khi ta sắp đưa cho tâm chủ trì. Được như thế chắc-chắn ta học Đạo mau thành công đắc quả.

Đừng thấy ai theo mối Đạo nào đông-đảo rồi ta cũng vội theo Đạo ấy mà lúc đó ta chưa hiểu giáo-lý ấy như thế nào.

Cũng đừng thấy người ta thờ Phật rồi vội-vã lập bàn thờ Phật, mà chưa hiểu ông Phật thể nào và tại sao phải thờ kính Đức Phật. Nếu tu như thế, thờ Phật như thế, thì càng tu càng thờ bao nhiêucàng tỏ ra cho thiên-hạ thấy rõ ta mê-tín bấy nhiêu. Đó cũng là cái đích để cho người vô Đạo nhắm đó mà bài-bác, nhạo chê hủy-bán và cũng rất uổng cho cái công-trình thành-kính lễ-bái của ta vậy.

Cho được tránh những điều ấy, trước khi thờ, học Đạo nào, hay theo ông thầy nào, ta hãy suy-gẫm phán-đoán kỹ-càng; chừng hiểu biết rõ-ràng ta sẽ hành theo Đạo ấy, Thầy ấy. Chẳng được như vậy, dầu mình theo Đạo rất chánh đáng, ông Thầy rất thông minh cũng chẳng có ích chi cho mình cả.

Sự đầu tiên của người hành Đạo là cốt sửa những tư-tưởng, tìm cách đánh đổ tư-tưởng xấu-xa, đem thay vào những tư-tưởng ôn-hòa, đạo-đức.

Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ

PHẬT LÀ GÌ?

Phật giả là Giác giả, Giác giả là Tỉnh giả.

Khi Đức Thích-Ca thành Phật thì Ngài nói pháp tứ-đế mà độ đời trước hơn các pháp, và chỉ con đường Trung-Đạo cho người hành theo.

ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO CỦA PHẬT:

Không trưởng-dưỡng xác thịt quá ư sung-sướng như: ăn nhiều, ngủ nhiều, chẳng lo làm công chuyện, chẳng học hỏi, vì sung-sướng thái quá thì sanh nhiều dục-vọng mê đắm, làm cho trí-đạo tối tăm, không thể đạt huệ được.

Không nên hành xác hay ép xác-thịt thái quá như: phơi nắng dầm sương, bỏ ăn, bỏ ngủ, làm lụng quá sức lực của mình, vì ép xác quá độ thì hay sanh bịnh-hoạn nhiều, người mà đa mang bịnh tật rồi, tinh-thần kém-cõi, nhọc-mệt, trí-hóa lu lờ, không đủ sức mà học Đạo đặng.

Nên người biết Đạo chẳng ép xác thái quá mà cũng chăng để nó sung-sướng quá độ, chỉ ăn ngủ có chừng mực, làm việc vừa với sức mình, gìn-giữ sức khỏe mới mong học được đạo-pháp.

Vậy Phật chẳng buộc ai phải ăn ở khỗ hạnh và cũng chẳng biểu ai ăn ở sung-sướng, chẳng ép ai ăn chay, chẳng xúi ai ăn mặn, tùy theo trình-độ và lòng nhơn của mình.

Điều cấn yếu là phải: làm hết các việc từ-thiện, tránh tất cả điều độc-ác, quyết rửa tấm lòng cho trong sạch.

CHƯ PHẬT CÓ BỐN ĐẠI-ĐỨC

Chư Phật có bốn đại-đức. Vậy ta niệm danh-hiệu Phật để nhớ Phật và rán sức làm theo bốn đại-đức của Phật đặng ngày sau chứng quả như Ngài. Bốn đức ấy là:

  1. Đức từ: Phật đối với chúng-sanh như mẹ với con, lúc nào cũng lo-lắng đến, hết lòng dìu-dắt, dạy-dỗ, không nỡ để chúng-sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não;
  2. Đức bi: Nếu chúng-sanh nào dạy-dỗ chẳng nghe, làm điều độc-ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót không cùng;
  3. Đức hỉ: Thường thường an vui mà làm những việc lành. Dầu gặp hoàn-cảnh trái-nghịch cũng chẳng vì thế mà sanh lòng buồn-bã;
  4. Đức xả: Ngài chẳng chấp một pháp nào trong thế-gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền-trần, tha-thứ hết thảy những ai tối-tăm lầm-lỗi, chẳng còn vướng-víu chi với cuộc lợi-danh, tài-sắc, nhìn cõi đời chẳng bao giờ sanh lòng luyến ái.

Vậy ta niệm Phật, phải biết đại đức của chư Phật và làm sao cho ta có thể đắc được bốn đức ấy.

Ta cũng nên bố-thí, nhẫn-nhục, trì-giới (để độ tham, sân, si).

Còn phương-pháp niệm Phật là để trừ cái vọng- niệm của chúng-sanh, vì trong tâm của chúng-sanh niệm niệm mê-lầm chẳng dứt; vì cái vọng-niệm về việc thế-trần ấy mà không cho cõi lòng an-lạc,phiền não ngăn che, chơn tâm mờ ám. Nên nay, hễ thành tâm niệm Phật thì nếu được một niệm Phật ắt lìa được một niệm chúng-sanh, mà niệm niệm Phật thì lìa tất cả niệm chúng-sanh. Cho đến khi nhứt tâm bất loạn, chừng ấy vọng niệm chúng-sanh đã dứt thì lòng ham muốn và các tình-dục còn đâu mà nảy sanh ra được?

Nên niệm Phật là niệm cái bản-lai thanh-tịnh của Phật cho lòng của mình nương theo đó mà được thanh-tịnh và chẳng còn trược nhiễm trần-ai.

Cần tu thập thiện thì sự niệm mới có hiệu quả. Tu thập thiện, dứt được thập ác (cũng gọi là tịnh tam nghiệp).

Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ

ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI CHÚNG-SANH

Một ông cha ở trong gia-đình vẫn có lòng thương xót hết các con, dù lớn nhỏ, khôn dại gì cũng vậy. Tại sao? Vì xét ra lớn nhỏ là tại đứa sanh ra trước, đứa sanh sau; khôn dại là tại đứa chăm học cùng biếng trễ, chớ cũng đồng là con đều do huyết nhục sanh ra. Vậy bổn-phận ông cha thì hết lòng lo dạy-dỗ các con, lo-lắng cho có gia-cư, nghiệp-nghệ, tài-sản để cho con, ruộng đất cho con. Vậy thì tình thương vẫn đồng, mà cái chỗ âu-yếm ban thưởng nhiều khi có khác, ấy là phải tùy theo mỗi đứa.

Tại sao vậy? Vì đứa nào hiếu thuận từ-hòa, dễ dạy, dễ hiểu, thì ông cha âu yếm hơn đứa ngỗ-nghịch, bạo tàn. Với đứa khó dạy thì ông chỉ biết than-thở mà thôi, chớ không thể âu-yếm đặng. Còn đứa nào cần-kiệm, lo giữ-gìn gia-sản của cha nó, chẳng cho hư-hoại, cẩn thận từ ly, dầu lời nói hay việc làm để bảo tồn danh-giá của cha nó, thì cha nó hằng ngày ban thưởng cho nó luôn, chớ không thể ban thưởng cho những đứa hoang chơi, tàn phá sự-nghiệp, làm những điều điếm-nhục gia môn! Những đứa ấy, ông cho có thể nén lòng mà rước lấy sự chế-nhạo, trách-cứ là nhiều lắm rồi, chớ làm sao mà ban thưởng đặng.

Cũng mường tượng như trên, hỡi các người! Đức Phật đối với chúng-sanh và môn-đồ như người cha đối với các hạng con trên đây vậy. Phật cũng yêu hết chúng sanh, dầu kẻ ngu người trí, yêu tất cả môn-đồ (dầu kẻ biếng-nhác với kẻ siêng-năng). Bởi tại duyên-nghiệp mỗi chúng-sanh chẳng đồng nhau, tu cao thấp khác nhau, nhưng mỗi chúng-sanh đều có Phật tánh. Vậy lòng từ-bi của Phật là vì thương xót chúng-sanh, lo dạy-dỗ chúng-sanh, nhưng mà sự gần gũi và ban phước-huệ vẫn có khác, vì phải tùy theo mỗi kẻ tín-đồ.

Người tín-đồ nào hằng ngày vâng lời Phật dạy, rán lo học hỏi, tìm kiếm đạo mầu, quí trọng chuyện lành thì Phật thường gần-gũi hơn đứa đã dạy nhiều lần mà chẳng chịu nghe theo, và thường ban thưởng cho kẻ tín-đồ nào quí trọng kinh luật của Phật, chăm lòng giữ theo giới-luật, cẩn thận từ lời nói việc làm, đừng để cho người ta nhạo-báng Phật hay chê-bai Thầy của mình. Còn những kẻ tín-đồ dối tu, chẳng vâng lời dạy, chẳng giữ giới-luật thì trên là Đức Phật và dưới là ông Thầy của kẻ ấy chỉ lấy lòng từ-bi mà nhận sự trách-cứ của kẻ ngoại đạo, chớ không thế nào mà gần-gũi và ban phước-huệ cho kẻ chẳng thành-tín kia đặng.

Bạc-liêu, ngày 24-8 Nhâm-Ngũ (1942)

THẬP NHỊ NHƠN-DUYÊN

Nhơn duyên thứ nhứt phát khởi từ màn vô-minh mà che lấp bản ngã (linh-hồn) nên làm cho người phải tăm tối mê say, gây tạo ác nghiệp, chịu nẻo luân hồi thống khổ.

Đây là 12 duyên sanh: Vô-minh sanh hành, hành sanh thức, thức sanh danh-sắc, danh-sắc sanh lục-nhập, lục-nhập sanh xúc-động, xúc-động sanh thọ-cảm, thọ-cảm sanh ái, ái sanh bảo-thủ, bảo-thủ sanh hữu, hữu sanh sanh, sanh sanh lão-tử.

Đó là 12 duyên-sanh, nó dắt đi từ kiếp nầy đến kiếp kia không có dứt; cái vô-minh nghĩa là tối tăm mê dốt, từ hồi vô-thỉ. Có mê dốt ta mới hành-động, rồi hành-động ấy sanh ra muôn pháp, nên mới có cái thức (biết), ví như loài cây cỏ, sắt đá (vô tình) không biết chi cả, đâu có danh-sắc, còn ta là loài hữu-tình cái biết ấy nên có xác-thịt và linh-hồn, danh-sắc. Xác thịt và linh-hồn có thì phải có 6 căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nhiễm với 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi là lục-nhập. Có lục-nhập mới có tiếp-xúc với mọi người và vạn vật, nên gọi là xúc-động, rồi từ chỗ tiếp-xúc mới thọ hưởng của tiền-trần nên gọi là thọ-cảm. Có thọ-cảm, thọ hưởng của tiền-trần rồi mới có cái ưa thích, quyến luyến, thâm tình nên gọi là ái.

Muôn việc chi ở đời, nếu ta yêu thích cái điều đó, thì ta phải gắng công giữ-gìn chặt-chịa nên gọi là bảo-thủ; mà gìn-giữ chặt chịa thì mới có sống, nếu không, làm sao mà ta sống, nên gọi là hữu. Rồi cái sống ấy, mến tiếc ấy mới đầu thai trở lại cõi trần đặng hưởng dụng nên gọi là sanh. Muôn loài vạn vật hễ sanh ra thì lớn, hễ lớn thì sẽ già bị trong tứ đại (đất, nước, gió, lửa) làm nên nào là tứ thời, cảm-mạo bất hòa, hễ già thì yếu đau, nếu đau tất là phải chết nên gọi là lão, tử. Ấy vậy cái nghiệp-nhơn của già chết, ấy là tại cái vô-minh mà ra tất cả.

MÔN HOÀN DIỆT

Nếu ta tìm con đường bát chánh đạo của Phật mà đi, giữ tâm thanh tịnh, làm việc nhơn từ, không lòng hờn-giận, chẳng dạ ghét-ganh, chuyên tâm niệm Phật, giúp thế độ đời, đừng chứa điều phiền-não và để bụng tham-lam ích-kỷ, gây mối thiện-duyên, lần lần trí-huệ mở-mang, cõi lòng sáng-suốt, thì màn vô-minh sẽ bị diệt mất.

Vô-minh bị diệt thì hành diệt; hành bị diệt thì thức diệt; thức bị diệt thì danh-sắc diệt; danh-sắc diệt thì lục-nhập diệt; lục nhập diệt thì xúc-động diệt; xúc-động diệt thì thọ cảm diệt; thọ cảm bị diệt thì ái diệt; ái bị diệt thì bảo-thủ diệt; bảo-thủ bị diệt thì hữu diệt; hữu bị diệt thì sanh diệt; sanh bị diệt thì lão, tửdiệt. Ấy là giải-thoát vậy.

Bạc-liêu, năm Nhâm-Ngũ (1942)

—————————————————————-

Nguồn: https://tuoitrephatgiaohoahao.com/p12a584/mon-hoan-diet

www.vietnamvanhien.org

http://www.vietnamvanhien.net - Tin tức cập nhật thường xuyên http://www.vietnamvanhien.info - với hơn 6300 tác phẩm http://www.vietnamvanhien.com - Kinh Tế & Tài Chánh http://www.vietnamvanhien.org - Thuần ngữ tải nhan Xem tất cả bài viết của Việt Nam Văn Hiến