So sánh công ước viên 1980 và luật thương mại năm 2024

Từ những năm 30 của thế kỷ XX, Viện nghiên cứu quốc tế về thống nhất luật tư (UNIDROIT) đã khởi xướng việc thống nhất các nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. UNIDROIT đã cho ra đời hai Công ước La Haye năm 1964. Công ước thứ nhất điều chỉnh việc hình thành hợp đồng và công ước thứ hai đề cập đến quyền và nghĩa vụ của người bán, người mua và các chế tài áp dụng khi một bên vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, hai công ước này rất ít được áp dụng trên thực tế. Năm 1968, trên cơ sở yêu cầu của các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, Uỷ ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) bắt đầu việc soạn thảo một Công ước thống nhất về pháp luật nội dung cho các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhằm thay thế hai Công ước trước đây. Cuối cùng, Công ước Viên về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1980 (CISG) được thông qua tại Viên (Áo), có hiệu lực ngày 1/1/1988 theo quy định tại Điều 99 của Công ước này. Trong hơn 30 năm qua, CISG đã trở thành một công cụ pháp lý quan trọng, được áp dụng rộng rãi trong mua bán hàng hóa quốc tế thông qua việc cung cấp một hành lang pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa. Khoản 1, Điều 1 CISG quy định CISG được áp dụng đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia khác nhau khi (i) các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước này, hoặc (ii) các quy tắc của tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của một quốc gia thành viên của Công ước này.

Năm 2013, Việt Nam đã chính thức gia nhập CISG. Cùng với tình hình hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát triển, CISG trở thành một nguồn luật quan trọng bổ sung vào hệ thống luật nội địa, điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hóa giữa Việt Nam và các quốc gia khác.

CISG được cộng đồng học thuật thế giới đặc biệt quan tâm, và trong thời gian ngắn trở lại đây, ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện khá nhiều công trình nghiên cứu, bình luận khoa học. Tuy nhiên, riêng đối với đề tài nghĩa vụ giao hàng hóa phù hợp với hợp đồng của bên bán, số lượng các bài nghiên cứu, bình luận, phân tích vẫn còn khiêm tốn, hầu hết chỉ dừng lại ở mức giới thiệu hoặc khái quát. Một số ít công trình nghiên cứu sâu về trách nhiệm hợp đồng và hệ thống chế tài thương mại có đề cập đến vấn đề “giao hàng hóa phù hợp với hợp đồng”. Song, đến nay vẫn chưa có đề tài nào cập nhật thật đầy đủ và chi tiết về hành vi giao hàng hóa không phù hợp theo quy định của CISG.

Do vậy, tác giả chọn đề tài gắn với hành vi vi phạm do giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng để phân tích những quy định của CISG, tập trung nghiên cứu chuyên sâu thông qua việc giải thích áp dụng và thi hành Công ước Viên 1980 từ thực tiễn giải quyết tranh chấp, và cuối cùng là liên hệ so sánh với các quy định tương tự trong Luật Thương mại.

Trong phạm vi đề tài, nội dung nghiên cứu nhằm hướng đến giải đáp những vấn đề sau:

Khái niệm và phân loại hành vi giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng

Hành vi giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng được hiểu là việc bên bán giao hàng không đúng với các tiêu chuẩn đã được thỏa thuận trong hợp đồng hoặc các yêu cầu theo quy định của pháp luật (trong trường hợp các bên không có thỏa thuận).

Theo quy định tại CISG nghĩa vụ giao hàng là nghĩa vụ cơ bản của bên bán theo hợp đồng mua bán hàng hóa bên cạnh nghĩa vụ bàn giao chứng từ và chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua. Trong đó giao hàng hóa phù hợp với hợp đồng hay quy định của CISG là một trong những yêu cầu quan trọng thuộc nghĩa vụ giao hàng của bên bán. Do đó, giao hàng hóa không phù hợp tức bên bán thực hiện nghĩa vụ một cách không phù hợp, hay nói cách khác là vi phạm hợp đồng. Hơn nữa, đối với hành vi vi phạm hợp đồng, CISG có sự phân biệt giữa vi phạm cơ bản và vi phạm thông thường. Sự phân biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các biện pháp xử lý hành vi vi phạm hợp đồng.

Do vậy, hành vi vi phạm do giao hàng hóa không phù hợp của bên bán cũng được phân loại theo tiêu chí này, bao gồm (i) hành vi giao hàng hóa không phù hợp cấu thành vi phạm cơ bản và (ii) hành vi giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng cấu thành vi phạm không cơ bản.

Trong đó, hành vi giao hàng hóa cấu thành vi phạm cơ bản nếu vi phạm đó gây tổn hại cho bên kia đến mức tước đi đáng kể những gì bên kia có quyền kỳ vọng từ hợp đồng, trừ khi bên vi phạm không tiên liệu được và một người bình thường trong cùng hoàn cảnh cũng không thể tiên liệu hậu quả đó. Còn lại, nếu không thỏa mãn các yếu tố trên, hành vi giao hàng hóa không phù hợp chỉ cấu thành vi phạm không cơ bản.

Căn cứ xác định hành vi giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng

Khi giao kết hợp đồng, các bên có thể thống nhất với nhau về các yếu tố như số lượng, chất lượng, mô tả và cách thức đóng gói hàng hóa. Khi có tranh chấp xảy ra, các yếu tố này là căn cứ để xác định sự phù hợp của hàng hóa so với hợp đồng.

Trong trường hợp các bên không có bất kỳ thỏa thuận nào, thì hàng hóa là đối tượng của các quan hệ mua bán dưới sự điều chỉnh của pháp luật vẫn phải đảm bảo phù hợp với những tiêu chuẩn cơ bản nhất, cụ thể phải phù hợp với (i) mục đích sử dụng thông thường hoặc (ii) mục đích sử dụng cụ thể trong trường hợp bên bán được biết về mục đích này, hoặc (iii) hàng mẫu mà các bên đã thống nhất và (iv) cách thức đóng gói, bảo quản hàng hóa để bảo vệ hàng hóa.

Hệ quả pháp lý phát sinh do hành vi giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng

Điểm nổi bật khi nhắc đến hệ quả pháp lý của hành vi giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng là việc bên mua phải thông báo đến bên bán về sự không phù hợp của hàng hóa trong một thời gian xác định, quá thời gian này bên mua mất quyền khiếu nại về những khiếm khuyết, sai sót của hàng hóa. Ngoài ra, cũng trong một thời hạn nhất định, bên bán được phép bằng chi phí của mình khắc phục sự không phù hợp của hàng hóa mà không gây ra bất cứ trở ngại nào cho bên mua. Chỉ khi bên mua đã hoàn thành nghĩa vụ thông báo mà bên bán không tiến hành khắc phục thiếu sót của hàng hóa trong thời hạn quy định, bên mua mới được quyền áp dụng một hoặc một số các biện pháp xử lý bao gồm: yêu cầu giao hàng hóa thay thế, yêu cầu sửa chữa hàng hóa, giảm giá, hủy bỏ hợp đồng. Và không phụ thuộc vào việc áp dụng các chế tài khác, bên mua được quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của bên bán gây ra. So với CISG, Luật Thương mại có quy định khác biệt đối với việc xử lý hành vi vi phạm, bao gồm các chế tài thương mại như (i) buộc thực hiện đúng hợp đồng, (ii) tạm ngừng thực hiện hợp đồng, (iii) đình chỉ thực hiện hợp đồng, (iv) hủy bỏ hợp đồng, (v) buộc bồi thường thiệt hại, và (vi) phạt vi phạm.

Ngoài ra, trong một số trường hợp, bên bán được quyền yêu cầu miễn trách nhiệm đối với sự không phù hợp của hàng hóa, chẳng hạn sự không phù hợp của hàng hóa là do trở ngại khách quan.

Một số điểm bất cập của Luật Thương mại cần được hoàn thiện dựa trên việc học hỏi các quy định cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp của CISG

Thứ nhất, đối với nghĩa vụ cung cấp hàng hóa phù hợp với mục đích sử dụng cụ thể, bên cạnh quy định hiện nay của Luật Thương mại “Trường hợp hợp đồng không có quy định cụ thể thì hàng hóa được coi là không phù hợp với hợp đồng khi hàng hóa đó không phù hợp với mục đích sử dụng cụ thể nào mà bên mua đã cho bên bán biết vào thời điểm giao kết hợp đồng”, tác giả khuyến nghị nên bổ sung sự giới hạn nghĩa vụ của bên bán rằng “nếu bên mua trên thực tế đã không dựa trên sự tin cậy vào năng lực và khả năng đánh giá của bên bán để chọn lựa hàng hóa phù hợp với mục đích sử dụng cụ thể; hoặc việc bên mua trông cậy vào bên bán là bất hợp lý, bên bán sẽ không có nghĩa vụ cung cấp hàng hóa phù hợp với mục đích cụ thể đó của bên mua”. CISG đã có quy định rất hữu ích để bảo vệ quyền lợi của bên bán trong những tình huống mặc dù biết về mục đích sử dụng của bên mua nhưng chất lượng của hàng hóa để phù hợp với mục đích đó nằm ngoài khả năng chi phối và quyết định của họ (bên mua đã hành động không dựa trên sự tin cậy vào năng lực của bên bán); hay những yêu cầu liên quan đến sự phù hợp của hàng hóa với mục đích cụ thể đó nằm ngoài khả năng đánh giá, kiến thức chuyên môn của họ. Trong những trường hợp như vậy, việc quy định nghĩa vụ giao hàng hóa phù hợp với mục đích của bên mua là bất hợp lý đối với bên bán.

Thứ hai, hiện nay quyền khắc phục của bên bán được quy định tại Điều 41 Luật Thương mại với đề mục “Khắc phục trong trường hợp giao thiếu hàng, giao hàng không phù hợp với hợp đồng”. Tác giả cho rằng việc giao thiếu hàng cũng là một trường hợp không phù hợp về mặt số lượng của hàng hóa, nên có thể gộp chung đề mục của điều luật thành “Quyền khắc phục sự không phù hợp của hàng hóa”. Và phần nội dung của điều luật sẽ bao gồm hai vấn đề chính là quyền khắc phục trước khi hết thời hạn giao hàng (đã được quy định tại Khoản 1, Điều 41) và quyền khắc phục sau thời hạn giao hàng (cần được bổ sung). Trong đó, nội dung của quyền khắc phục sau thời hạn giao hàng của bên bán có thể được xây dựng dựa trên nội dung của Điều 48 CISG và các vấn đề được mở rộng từ thực tiễn giải quyết tranh chấp tại mục 2.2. của đề tài. Nhìn chung sẽ bao gồm việc ghi nhận quyền khắc phục sau thời hạn của bên bán, điều kiện áp dụng, cách thức thực hiện quyền, sự đồng ý của bên mua…

Thứ ba, về việc ghi nhận quyền giảm giá của bên mua, có thể học hỏi quy định của CISG tại Điều 50 như sau: “Khi hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, bất kể tiền hàng đã được thanh toán hay chưa, bên mua có quyền giảm giá hàng hóa theo tỷ lệ giữa giá trị thực tế của hàng hóa được giao so với giá trị của hàng hóa nếu phù hợp với hợp đồng tại cùng thời điểm và địa điểm nhận hàng, trừ trường hợp bên bán đã thực hiện các biện pháp khắc phục đối với sự không phù hợp của hàng hóa hoặc bên mua đã từ chối đề nghị khắc phục của bên bán”. Nội dung điều luật được này dựa trên sự tham khảo tất cả các vấn đề liên quan đến quyền giảm giá mà tác giả đã phân tích và lý giải sự cần thiết phải bổ sung vào Luật Thương mại hiện hành.

Cuối cùng, liên quan đến việc phân định hành vi giao hàng không phù hợp cấu thành vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản, hiện nay đã được quy định tại Luật Thương mại, tuy nhiên cần được hướng dẫn chi tiết hơn để việc áp dụng vào thực tế đạt hiệu quả cao và giải quyết được những vụ việc phức tạp. Chẳng hạn nội dung điều luật hiện nay cần được hướng dẫn như thế nào là “gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm họ không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”, gắn với “mức độ thiệt hại của bên mua” và “khả năng giải quyết sự không phù hợp của hàng hóa”. Ngoài ra, quy định hiện hành của Luật Thương mại cần được thêm vào căn cứ đánh giá về “khả năng bên bán hay một người bình thường trong cùng hoàn cảnh có thể tiên liệu được hậu quả của hành vi vi phạm”, nếu căn cứ này không thỏa mãn thì dù mức thiệt hại gây ra cho bên mua có đáng kể cũng không cấu thành vi phạm cơ bản. Sự quy định đầy đủ về việc kết luận vi phạm cơ bản nhằm hạn chế sự tùy tiện dẫn đến hậu quả hủy bỏ hợp đồng. Luật Thương mại phải được cập nhật những nội dung còn thiếu sót và hướng dẫn cụ thể các yếu tố đã tồn tại trong quy định nhưng còn khó khăn khi áp dụng.

Từ những nghiên cứu về lý luận, nội dung quy định của Công ước Viên và Luật Thương mại Việt Nam, cũng như những vấn đề được đào sâu phân tích thông qua các bản án, phán quyết từ thực tiễn giải quyết tranh chấp, tác giả mong muốn đóng góp một vài khuyến nghị của mình với hy vọng có thể góp phần hoàn thiện pháp luật thương mại Việt Nam liên quan đến hành vi giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng. Hoạt động thương mại ở Việt Nam ngày càng sôi động, đi kèm với nhiều vấn đề tranh chấp càng phức tạp hơn. Để bảo vệ tốt nhất lợi ích của các chủ thể nói riêng và giúp cho hoạt động mua bán hàng hóa ngày càng phát triển, quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại phải được gia cố vững chắc, linh hoạt, bao quát được nhiều khía cạnh vấn đề để điều chỉnh tốt các quan hệ thương mại, trong đó có quan hệ mua bán hàng hóa.

Ngoài ra, những nội dung khác trong phạm vi đề tài này đã giúp làm sáng tỏ phần nào những nội dung của CISG cũng như Luật Thương mại về hành vi giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng. Sự so sánh, phân biệt những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai văn bản pháp lý giúp cho việc hiểu và vận dụng các quy định được chính xác, linh hoạt hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập CISG. Việc nắm bắt bức tranh toàn cảnh của CISG và Luật Thương mại giúp các doanh nghiệp chủ động bảo vệ lợi ích của mình tốt hơn khi tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa đang và sẽ diễn ra sôi nổi đi kèm với những rủi ro thách thức khôn lường.