Tài nguyên sinh vật biển của nước ta như thế nào

Việt Nam nằm bên bờ Biển Đông, có đường bờ biển dài trên 3.260 km, vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền.

  • Vai trò của nguồn tài nguyên biển trong chiến lược biển Việt Nam

  • Thả hơn 40 vạn sinh vật biển vào vịnh Nha Trang

Du khách lặn ngắm san hô tại Hòn Tằm (Khánh Hòa). Ảnh: Tiên Minh/TTXVN

Thế kỷ 21 được xem là thế kỷ của biển và đại dương. Hầu hết các quốc gia có có biển (trong đó có Việt Nam) đều rất coi trọng phát triển kinh tế biển; đẩy mạnh khai thác không gian, mặt biển, tài nguyên, tiềm năng, lợi thế của biển để phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp với bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và đặc quyền kinh tế biển.

Việt Nam nằm bên bờ Biển Đông, có đường bờ biển dài trên 3.260 km, vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền. Bình quân khoảng 1 km2 đất liền có xấp xỉ 4 km2 vùng lãnh hải; cứ 100 km2 đất liền có 1 km chiều dài bờ biển. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ven biển có diện tích 208.560 km2, chiếm 51% tổng diện tích cả nước với dân số hơn 40 triệu người, chiếm gần 50% dân số cả nước.


Biển Việt Nam có trên 3.000 hòn đảo, phân bố tập trung ở ven bờ Tây Bắc Vịnh Bắc Bộ. Một số đảo ven bờ miền Trung và Tây Nam Bộ và 2 quần đảo ngoài khơi là quần đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng, quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa.

Theo kết quả điều tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường: Diện tích đất dải ven biển chỉ tính các huyện tiếp giáp với biển có gần 6 triệu ha, trong đó đất nông nghiệp hơn 2 triệu ha, đất lâm nghiệp khoảng 1,8 triệu ha. Ở khu vực ven biển, rừng ngập mặn còn khoảng 250.000 ha phân bố ở vùng ven biển phía Nam và phía Bắc, riêng miền Trung rừng ngập mặn còn lại rất ít. Diện tích đầm phá phấn bố tập trung ở ven biển miền Trung từ Thừa Thiên - Huế đến Bình Thuận, chiếm gần 40.000 ha. Đây là các thủy vực nông có bản chất môi trường nước lợ, mặn và là môi trường phát triển thủy sản rất tốt. Ngoài ra còn có khoảng 290.000 ha bãi triều và hàng vạn ha vùng cát phân bố dọc ven biển miền Trung.

Tài nguyên nước mặt ven biển Việt Nam phân bố trên phạm vi rộng dọc theo bờ biển từ Móng Cái đến Hà Tiên, với nhiều loại hình đa dạng phụ thuộc vào địa hình, địa mạo. Đặc điểm này đặt ra nhiều thách thức đối với công tác quản lý tài nguyên nước. Trữ lượng khai thác nước dưới đất vùng ven biển và trên các đảo lên đến hơn 14 triệu m3/ngày, thuộc diện tương đối dồi dào. Tuy vậy, do phân bố xen kẽ các phần diện tích nước mặn nên khó khai thác, song chất lượng nước ngầm ven biển đều đạt tiêu chuẩn cho phép.

Đặc biệt, các bể dầu khí ở thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được đánh giá là có triển vọng khai thác, với trữ lượng phát hiện khoảng 4 tỷ m3 dầu quy đổi (tính đến hết năm 2010). Khoáng sản ven bờ biển, trên các đảo cũng được đánh giá có triển vọng tốt, đã ghi nhận trên 300 mỏ và điểm quặng, điểm khoáng có hóa sắt; xác định trên 59 mỏ, điểm quặng titan.

Theo kết quả điều tra, đánh giá mới nhất: Ven biển Việt Nam có tổng trữ lượng hơn 600 triệu tấn quặng titan-ilmenit (bao gồm cả zircon, monazite…). Trữ lượng cát thủy tinh của 13 mỏ đã được thăm dò và đánh giá lên đến hơn 144 triệu m3. Vùng ven biển cũng là nơi tập trung nhóm khoáng sản vật liệu xây dựng như đá vôi, xi măng, sét, đá ốp lát… Biểu hiện kết hạch sắt-magan, sa khoáng silmenit-zicon-monazite có casiterit và vàng đi kèm, phi kim loại, khí hydrate dưới đáy biển, vùng biển sâu cũng có tiềm năng lớn và khả năng khai thác.

Hiện trong vùng biển của nước ta cũng đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau. Trong tổng số các loài được phát hiện, có khoảng 6.000 loài động vật đáy, hơn 2.000 loài cá, 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 94 loài thực vật ngập mặn, 225 loài tôm biển, 14 loài cỏ biển, 15 loài rắn biển, 12 loài thú biển, 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước.

Nhiều loài rùa quý hiếm sinh sống tại bãi biển Hòn Cau (Bình Thuận). Ảnh: Nguyễn Thanh/TTXVN

Các rạn san hô, thảm cỏ biển, rong biển, rừng ngập mặn, thực vật phù du, động vật phù du, sinh vật đáy, cá biển, chim biển, thú biển và bò sát với nhiều loài có giá trị kinh tế cao, đã và đang được khai thác, phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển và trên các đảo. Đó là chưa kể đến tài nguyên vị thế của cảng biển, du lịch, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng thủy triều… cũng đã được phát hiện, khai thác, sử dụng phục vụ phát triển kinh tế biển và quốc kế, dân sinh.

Riêng chất lượng nước ven biển, vùng cửa sông, ngoài khơi của Việt Nam nhìn chung còn tốt, đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ven biển. Các hệ sinh thái đặc thù như hệ sinh thái đảo, cồn cát, đất ngập nước, cửa sông, đầm nuôi thủy sản, rạn san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn, đầm phá, vũng - vịnh, vùng triều… tạo nên sự đa dạng, phong phú của biển Việt Nam. Đây là những hệ sinh thái có giá trị kinh tế, giá trị bảo tồn được ghi nhận, góp phần đưa nước ta trở thành một trong những trung tâm đa dạng sinh học của thế giới.

Văn Hào (TTXVN)

Góp phần phát triển biển đảo bền vững

25 năm qua, Trung tâm Điều tra tài nguyên-môi trường biển (Tổng cục Biển và hải đảo Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã nỗ lực xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu phục vụ phát triển kinh tế biển, hải đảo và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển Đông.

Chia sẻ:

Từ khóa:

  • Tài nguyên biển,
  • Biển Đông,
  • đặc quyền kinh tế,

Sau hơn 30 năm đổi mới chính sách, nền kinh tế Việt Nam nói chung và tại vùng ven biển nói riêng đã phát triển mạnh mẽ. Phát triển kinh tế dịch chuyển theo hướng công nghiệp hóa và đô thị hóa có xu thế tiến ra biển. Trong những năm vừa qua, ước tính kinh tế biển đóng góp khoảng 48% GDP, trong đó các ngành kinh tế biển có đóng góp lớn là dầu khí 64%, đánh bắt và chế biến hải sản 14%, vận tải biển và dịch vụ cảng biển 11%, du lịch biển khoảng 9%...Song áp lực của phát triển ngày càng gia tăng đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên, cũng như các giá trị khác của vùng biển và ven biển luôn là vấn đề bức xúc hiện nay.

Suy giảm tài nguyên sinh học

Theo đánh giá của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, sự suy giảm chất lượng môi trường biển làm cho môi trường sống của các loài sinh vật biển bị phá hủy, mất đa dạng sinh học. Nhiều loài sinh vật biển hiện đang giảm về số lượng, có loài đã tuyệt chủng cục bộ. Có đến 236 loài thủy sinh quý hiếm bị đe dọa ở cấp độ khác nhau, trong đó có hơn 70 loài sinh vật biển đã bị liệt kê trong sách đỏ Việt Nam. Nhiều loài trong số này hiện vẫn đang là đối tượng khai thác bằng nhiều hình thức khác nhau, kể cả hình thức tận diệt bằng hóa chất và chất nổ. Sự suy giảm đa dạng sinh học kéo theo sự suy giảm số lượng loài sinh vật có giá trị kinh tế.

Do nguồn lợi hải sản đang bị khai thác theo chiều hướng không bền vững, nên ngày càng bị cạn kiệt dần về số lượng và suy giảm cả về chất lượng. Các nguồn cá dự trữ bị suy giảm từ 4 triệu tấn vào năm 1990 xuống còn 3 triệu tấn như hiện nay. Kích thước trung bình của cá và tính đa dạng loài cũng giảm đáng kể.

Nguyên nhân chính yếu là do sự gia tăng trong xuất khẩu thủy sản, dẫn đến sản lượng đánh bắt hàng năm vượt quá nguồn dự trữ có sẵn. Mặt khác các biện pháp đánh bắt bất hợp pháp và mang tính hủy diệt như sử dụng chất nổ, xyanua, xung điện, mắt lưới nhỏ...vẫn chưa được kiểm soát chặt chẽ, không chỉ làm suy giảm các tài nguyên biển, mà còn gây tổn hại cho môi trường sống của các loài hải sản. Đó là chưa kể đến ảnh hưởng của dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật trong nguồn nước tích tụ qua lại các bậc dinh dưỡng của chuỗi thức ăn, mà các loài thủy hải sản được coi là một trong những mắt xích cuối.

Giá trị về độ phủ của rạn san hô và độ đa dạng loài cũng có chiều hướng suy giảm trong những năm gần đây, ở một số vùng hơn 30%. Một số loài thủy sản quan trọng sống ở rạn đang suy giảm trầm trọng, như tôm Bác sỹ, tôm Hùm, Hải sâm, cá Bướm, cá Thiên thần, cá Đuôi gai...Mật độ nhóm cá kích thước lớn có giá trị thương mại cao đang giảm một cách trầm trọng. Tương tự như đối với rạn san hô, thảm cỏ biển cũng đang bị thu hẹp dần do tai biến thiên nhiên, lấn biển để xây dựng ao nuôi thủy sản, các công trình ven biển và do ô nhiễm. Các điểm ‘nóng” về suy giảm thảm cỏ biển là Vịnh Hạ Long, đầm phá Tam Giang-Cầu Hai, đảo Phú Quốc đồng thời, diện tích rừng ngập mặn suy giảm một cách rõ rệt, từ 408.500ha vào năm 1943, đến năm 2000 chỉ còn 155.290ha.

Ô nhiễm ven bờ gia tăng

Qua số liệu điều tra của Tổng cục Môi trường, nước mặt ven biển trên địa bàn cả nước đã có biểu hiện ô nhiễm bởi tổng lượng chất thải rắn lơ lửng (TSS), nhu cầu ô xy hóa học (COD), chất dinh dưỡng, Coliform...Đặc biệt, ô nhiễm xuất hiện tại nhiều đoạn sông lấy nước cấp cho sinh hoạt. Nhiễm mặn nguồn nước mặt đang là vấn đề nổi cộm ảnh hưởng đến nhiều nguồn nước và diện tích đất trồng trọt, nhất là ở khu vực Miền Nam . Nguyên nhân chính làm suy giảm chất lượng nước mặt ven biển là do thay đổi thời tiết, việc sử dụng nước thiếu kiểm soát của các ngành kinh tế và các hộ gia đình, do mô hình canh tác chưa hợp lý. Biểu hiện TSS rõ nhất tại Ba Lạt, Định An và Rạch Giá; Xianua ở hầu hết các khu vực từ Trà Cổ đến Quy Nhơn và một số kim loại khác tại vùng Ba Lạt. Tại các vùng khai thác mỏ và chế biến khoáng sản, có đồng, thủy ngân và các chất phóng xạ gây ô nhiễm nước và trầm tích biển ngày càng gia tăng như ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Dung Quất, Gành Rái, Rạch Giá. Cộng với hoạt động nuôi trồng thủy sản phát sinh đáng kể chất thải rắn đổ trực tiếp ra biển. Với trên 600.000ha nuôi tôm, hàng năm xả ra môi trường gần 3 triệu tấn chất thải rắn. Bên cạnh đó, sự suy thoái đất gia tăng cả về tốc độ và mức độ nghiêm trọng với 3,2 triệu ha đất đồng bằng và ven biển bị thoái hóa. Ô nhiễm đất ven biển còn do tác động xấu của của hàng loạt vấn đề như xói mòn, thoái hóa, nghèo dinh dưỡng, nhiễm mặn, axit hóa, ô nhiễm, hạn hán, ngập lụt, suy giảm chất hữu cơ, xói lở ở các bờ sông, bờ biển. Vì vậy, để khai thác hiệu quả tiềm năng vùng biển và vùng ven biển, bảo vệ và duy trì lâu dài các giá trị tài nguyên sinh vật biển và môi trường biển, cần có Chiến lược quản lý tổng hợp đới bờ Việt Nam có tầm nhìn đến năm 2030, nhằm khắc phục các điểm yếu của phương cách quản lý tài nguyên, môi trường hiện hành, thông qua việc áp dụng giải pháp mang tính tổng hợp, hài hòa và tối ưu các mục tiêu sử dụng, đảm bảo tính vẹn toàn và khả năng cung cấp bền vững các sản phẩm và dịch vụ của các hệ thống biển và ven biển./.

Văn Hào (TTXVN)

Video liên quan

Chủ đề