Tại sao nói, xã hội hóa dịch vụ công ở việt nam hiện nay là tất yếu khách quan

Mục lục bài viết

  • 1. Khái niệm xã hội hóa
  • 2. Đặc điểm của xã hội hóa cá nhân
  • 3. Các giai đoạn của xã hội hóa cá nhân
  • 4. Mục tiêu của xã hội hóa
  • 5. Môi trường xã hội hóa
  • 5.1. Môi trường gia đình
  • 5.2. Môi trường nhà trường
  • 5.3. Môi trường nhóm xã hội
  • 5.4. Môi trường thông tin đại chúng

1. Khái niệm xã hội hóa

Xã hội hóa là một khái niệm được dùng khá phổ biến trong những năm gần đây và ngày càng có nhiều ngành khoa học quan tâm sử dụng. Khái niệm xã hội hóa được hiểu theo hai nghĩa, xã hội hóa xã hội và xã hội hóa cá nhân.

- Thứ nhất là xã hội hóa xã hội: Là sự tham gia rộng rãi của cộng đồng xã hội vào một số hoạt động mà trước đó chỉ có một ngành, một đơn vị chức năng nhất định thực hiện (ví dụ: xã hội hóa giáo dục, xã hội hóa y tế...)

Theo tác giả Côlin Fasen: Xã hội hoá là một quá trình động viên mọi tâng lớp nhân dân tham gia tích cực và chủ động vào một lĩnh vực xã hội nào đó, huy động hợp lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lục của Nhà nước và của nhân dân nhằm đạt được mục tiêu phát triển xã hội.

Như vậy, xã hội hóa là một quá trình mà lúc khởi đầu có thể chỉ do một chủ thể tham gia thực hiện, song do tầm quan trọng và ý nghĩa xã hội rộng lớn của nó đã đòi hỏi chủ thể hoạt động phải quảng bá rộng rãi ra toàn xã hội, tuyên truyền vận động nhằm thu hút sự quan tâm và tham gia đông đảo của xã hội... Mặt khác, do nhận thức được ý nghĩa thiết thực của nó, đông đảo người dân đã chủ động tham gia tích cực vào các hoạt động đó, biển quả trình đó thành một phong trào rộng khắp trong xã hội.

Chúng ta có thể thấy hàng loạt những hoạt động xã hội hóa đã và đang diễn ra hết sức sôi động trong giai đoạn gần đây và hiện nay ở nước ta như xã hội hóa y tế, xã hội hóa công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, xã hội hóa giáo dục, xã hội hóa thể thao, xã hội hóa công tác bảo hiểm xã hội.

Xã hội hóa thường là một quá trình phối họp hành động liên ngành có hiệu quả nhằm biến các mục tiêu phát triển xã hội của từng ngành, từng lĩnh vực thành các hoạt động xã hội phổ biến của người dân, do nhân dân tự giác thực hiện, với sự quan tâm, đầu tư thích đáng của nhà nước về kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhân lực và sự quản lý điều hành thống nhất. Do vậy, xã hội hóa các lĩnh vực trong đời sông xã hội chính là động lực, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của từng lĩnh vực nói riêng và của toàn xã hội nói chung.

-Hai là xã hội hóa cá nhân, được dùng để chỉ quá trình chuyển biến từ con người tự nhiên trở thành thành con người xã hội. Nói cách khác là quá trình mà cá nhân con người học hỏi, lĩnh hội những kinh nghiệm, văn hóa, lối sống, chuẩn mực giá trị... để hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách, trở thành thành viên của xã hội.

Xã hội học quan tâm nghiên cứu ở cả hai nội dung của khái niệm xã hội hóa, tuy nhiên ở nội dung này chỉ tập chung nghiên cứu xã hội hóa cá nhân. Khi nghiên cứu về xã hội hóa cá nhân có nhiều quan điểm khác nhau tiếp cận về vấn đề này.

-Theo từ điển xã hội học Đức: Xã hội hóa là quá trình thích ứng và cọ xát với các giá trị, chuẩn mực và các mẫu hình hành vi xã hội mà trong quá trình đó các thành viên xã hội tiếp nhận và duy trì khả năng hoạt động xã hội

-Xã hội hóa là quá trình cá nhân lĩnh hội một hệ thống những tri thức, giá trị, chuẩn mức (mở rộng ra là một nền văn hóa), nó cho phép cá nhân có thể hoạt động như một thành viên của xã hội và đó là quá trình con người học được cách đóng vai trò để gia nhập vào xã hội.

Từ khái niệm về xã hội hóa cá nhân nêu trên một số nhà xã hội học đã đưa ra khái niệm về xã hội hóa cá nhân như sau:

Xã hội hóa cá nhân là quá trình xã hội trong đó con người học tập và hành động dưới tác động của các yếu tổ xã hội sao cho phù hợp với những gì học được từ xã hội. Hay nói cách khác, xã hội học cá nhân là quá trình biến một cá thể người thành một con người xã hội, thành nhân cách.

Tóm lại: Xã hội hóa là một quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội, qua đó cá nhân học hỏi, lĩnh hội, tiếp nhận nền văn hóa của xã hội như một khuân mẫu tác phong xã hội, chuẩn mức, giá trị, ván hóa xã hội... để phù hợp với vai trò xã hội và hòa nhập được vào xã hội.

2. Đặc điểm của xã hội hóa cá nhân

- Xã hội hóa là một quá trình tất yếu của mỗi cá nhân.

+ Xã hội hóa là một quá trình hai mặt: một mặt cá nhân chịu sự tác động của xã hội; mặt khác, mỗi cá nhân có những đặc điểm riêng biệt, nhận thức, sáng tạo cùa mình mà họ lại tác động trờ lại xã hội.

+ Ở mỗi con người do sự đòi hỏi, yêu cầu của xã hội và khả năng xã hội của mỗi người mà quá trình xã hội hóa diễn ra khác nhau.

+ Xã hội hóa không phải là sự áp đặt cho cá nhân mà nội dung, cấp độ và các cơ chế của xã hội hóa đều mang tính lịch sử cụ thể.

+ Xã hội hóa chịu sự tác động của các thiết chế gia đình, nhà trường, cộng đồng, các tổ chức xã hội, các phương tiện truyền thông đại chúng...

3. Các giai đoạn của xã hội hóa cá nhân

Xã hội hóa bao gồm những giai đoạn khác nhau mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng, vấn đề này được các nhà xã hội học giải quyết theo các khía cạnh khác nhau. Neu căn cứ vào hoạt động lao động và sự trưởng thành cá nhân thì quá trình xã hội hóa được chia thành ba giai đoạn: Giai đoạn trước lao động, giai đoạn lao động, giai đoạn sau lao động.

Một số khác đưa ra sự phân chia theo từng giai đoạn phát triển của con người xã hội hóa trẻ em và xã hội hóa người lớn.

- Xã hội hóa trẻ em: Xã hội hóa trẻ được phân tích qua các giai đoạn phát triển của trẻ.

Sự bắt chước: đây là giai đoạn trẻ sao chụp lại những hành vi của những người xung quanh, nhưng chưa hiểu về ý nghĩa của các hành vi đó, Ví dụ đứa trẻ thấy mẹ gấp quần áo nó cũng bắt chước mẹ gấp quần áo. Hay thấy người lớn viết chúng cũng lấy bút vẽ.

Sự đồng nhất: là quá trình đứa trẻ lĩnh hội vị trí cuộc sống của cha mẹ, người thân nhận biết được những đặc điểm nhân cách, vị trí, vai trò của cha mẹ và những người xung quanh, qua đó dần hình thành trong trẻ có những hành vi ứng với các vai trò khác.

Sự xẩu hổ: là cơ chế cảm xúc khi đứa trẻ nhận biết hành vi của chúng vi phạm các chuẩn mực, nguyên tắc và sự mong đợi của các những nguời xung quanh, gia đình hay xã hội.

Sự biết lỗi: Trẻ cảm thấy mình có lỗi với mọi người và xấu hổ trước hành vi của mình. Chính nhờ cơ chế xấu hổ đứa trẻ tự điều chỉnh hành vi, cách ứng xừ của mình cho phù họp với các chuẩn mực chung nó có sức mạnh điều tiết, củng cố hành vi tích cực, ngăn chặn hành vi sai lệch. Chính điều đó giúp trẻ học hỏi các khuôn mẫu hành vi, các chuẩn mực xã hội, cách ứng xử được xã hội chấp nhận và loại bỏ những cái mà xã hội không chấp nhận.

- Xã hội hóa người lớn

Khác với xã hội hóa trẻ em, xã hội hóa người lớn diễn ra theo 2 khuynh hướng thích nghi và phát triển.

Khuynh hướng thích nghi: một số nhà xã hội học khẳng định rằng, sự thay đổi của quá trình xã hội hóa ở người lớn được giải thích bằng sự thích nghi, bởi đây là thời kỳ trưởng thành, thời kỳ mà người lớn phải trải qua nhiều những đòi hỏi, thách thức và những khủng hoảng trong cuộc sống (khá khác biệt so với trẻ em). Cuộc sống của người lớn được biết đến với hàng loạt những cuộc khủng hoảng mong đợi và bất ngờ mà cần phải nhận thức được và vượt qua. Chẳng hạn có thể xem sự vận động chậm chạp của cơ thể cùng với sự gia tăng tuổi tác là một cuộc khủng hoảng mong đợi, một trong hai vợ chồng mất sớm là một cuộc khủng hoảng bất ngờ. Do đó, buộc phải nhận thức được, vượt qua và thích nghi với những vẩn đề khó khăn để tìm cách giải quyết sao cho mình có thể đạt được những mong muốn của bản thân và phù họp với các giá trị chuẩn mực của xã hội.

Khuynh hướng phát triển: quá trình xã hội hóa người lớn không kết thúc bằng sự vượt qua một cuộc khủng hoảng này và chuyển sang cuộc khủng hoảng khác. Trong khi, cá nhân vượt qua và tìm cách thích nghi với các vấn đề của cuộc sống, chính là lúc cá nhân góp phần duy trì và phát triển các kinh nghiệm xã hội, các giá trị và chuẩn mực xã hội. Đồng thời, chính việc giải quyết các cuộc khủng hoảng chính là yếu tố tạo thành cơ sở cho sự phát triển của nhân cách.

Như vậy, xã hội hóa cá nhân được thực hiện trong suốt cuộc đời mỗi người, xã hội hóa diễn ra ở trẻ em khác với xã hội hóa của người lớn về chất, mặc dù có những mô hình văn hóa, hành vi ứng xử,... của thời thơ ấu có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Với trẻ em, khi tương tác với môi trường xung quanh chúng phải làm theo các kinh nghiệp và chuẩn mực đã được định sẵn cho các hành vi, thái độ của chúng. Với người lớn phải thích nghi với điều kiện sống xung quanh để thực hiện các hành vi, thái độ, việc làm cho phù hợp với vai trò đã được học. Trong quá trình thích nghi đó, người lớn có thể loại bỏ hoặc thay đổi một số kinh nghiệm, chuẩn mực không còn phù hợp với xã hội đó, giữ lại những giả trị, chuẩn mực và kinh nghiệm phù hợp, từ đó con người vừa tuân theo, vừa phát triển những hạt nhân hợp lý của nền văn hóa trước để truyền lại cho thế hệ sau, tạo nên sự tồn tại xã hội.

Tóm lại, xã hội hóa là quá trình con người học hỏi cách dóng “vai” nhất định để gia nhập vào xã hội. Đó là sự tương tác giữa yếu tố chủ quan và yểu tố khách quan giữa con người và xã hội; quá trình luôn luôn nảy sinh trên cơ sở của sự thống nhất biện chứng giữa cá nhân và xã hội; qua đó thúc đẩy hơn nữa sự phát triển xã hội cũng như sự hoàn thiện nhân cách của các cá nhân.

4. Mục tiêu của xã hội hóa

Trong lúc xã hội hóa, con người học bí quyết để trở nên thành viên của một nhóm, một cộng đồng hoặc xã hội. Chu trình này không những giúp mọi người làm quen với các group xã hội mà nhờ đó các nhóm xã hội này có thể tự kéo dài theo thời gian.

Xã hội hóa có những mục đích cho cả thanh không đủ niên và người lớn. Nó dạy trẻ em những yếu tố nền tảng cho sự nhận thức bản thân và toàn cầu xung quanh. quá trình xã hội hóa cũng giúp các cá nhân hình thành nhân cách để thích ứng, thích hợp với các giá trị tiêu chuẩn xã hội. Qua đấy cá nhân duy trì được năng lực hoạt động xã hội.

5. Môi trường xã hội hóa

5.1. Môi trường gia đình

Mỗi con người chúng ta từ khi sinh ra cho tới lúc chết đi đều gắn với một gia đình. Trong gia đình cá nhân sẽ tiếp nhận, học hỏi những kinh nghiệm sống, các quy tác ứng xử, hành vi, giá trị,... từ các thành viên trong gia đình đó như ông, bà, cha, mẹ, anh chị... Gia đình còn dạy cho các thành viên cách ứng xử để hòa nhập vào xã hội giúp cho thành viên có những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho sự phát triển, giúp họ trưởng thành, hoàn thiện (cả về mặt sinh học và xã hội), điều đó có nghĩa là chúng đã được xã hội hóa bằng những giá trị, chuẩn mực của chính gia đình mình và của xã hội để hình thành và phát triển nhân cách sống của mình.

Bên cạnh đó, giáo dục trong gia đình có ưu thế hon so với các giáo dục khác ià là bằng tình cảm, thông qua tình cảm, cha mẹ và những người thân giáo dục một cách toàn tâm, toàn ý. Giáo dục của cha mẹ đối với con cái trong gia đình nhiều khi bằng những hành vi của họ hon là bằng ngôn ngữ, do vậy, đứa trẻ dễ chấp nhận những kiếm thức mà gia đình truyền đạt. Thông qua những thông tin có lời và không lời, có chủ đích và không có chủ đích, gia đình là nơi xây dựng những kiến thức về cách sống, cách ứng xử của con người trong những môi trường khác nhau để đứa trẻ có thể thích ứng với những hoạt động đa dạng và phong phú ở xã hội.

5.2. Môi trường nhà trường

Nhà trường là môi trường xã hội hóa có ảnh hưởng quyết định đối với tốc độ, hình thức, nội dung và xu hướng của quá trình xã hội hóa. Trong xã hội truyền thống, nông nghiệp chậm phát triển thi gia đình đóng vai trò chủ yếu trong quá trình xã hội hóa thế hệ trẻ. Nhưng ở xã hội hiện đại, công nghiệp vai trò đó được chuyển dần sang cho các tổ chức xã hội khác nhau, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo. Trường học thay thế gia đình tiếp tục làm chức năng xã hội hóa trẻ thơ, trẻ em trước khi trưởng thành, hội nhập vào guồng máy lao động và hoạt động xã hội đều phải được đào tạo thông qua nhà trường.

Nhiệm vụ xã hội hóa chủ yếu của nhà trường là giáo dục, truyền đạt những kiến thức của nhân loại về văn hóa, khoa học tự nhiên, xã hội, nghề nghiệp và các kỹ năng khác trong hoạt động nhận thức, lao động của mỗi cá nhân. Đây là những kiến thức cơ bản sẽ phục vụ cho việc thực hiện những vai trò xã hội mà cá nhân phải đóng trong tương lai một cách thuần thục.

Trường học giúp cá nhân không chỉ tiếp thu những tri thức khoa học của các môn học mà còn cả những quy tắc và cách thức ứng xử, những giá trị, chuẩn mực, các khuôn mẫu, hành vi, tính kỷ luật, tổ chức trong quá trình học tập và rèn luyện, qua đó giúp người học có ý thức trách nhiệm với cá nhân, tập thể, cộng đồng thông qua hoạt động.

Tóm lại: Toàn bộ quá ưình giáo dục trong nhà trường là một môi trường xã hội hóa chính yếu mà người học tiếp nhận không chì liên quan đến việc tiếp nhận kiến thức, quy tắc, chuẩn mức mà cả các kỹ năng làm việc và kỹ năng xã hội khác để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.

5.3. Môi trường nhóm xã hội

Quan hệ giữa các cá nhân trong nhóm xã hội là tác nhân quan trọng ảnh hưởng nhiều đến quá trình xã hội hóa. Cá nhân từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành sẽ tham gia tương tác với rất nhiều loại nhóm khác nhau như nhóm cùng sở thích, nhóm lao động sản xuất, nhóm học tập, nhóm nghề nghiệp,... Những nhóm xã hội này có ảnh hưởng quan trọng đến việc thu nhận kinh nghiệm xã hội, hoàn thiện những kiến thức, kỹ năng, quy tắc ứng xử của cá nhân. Trong những nhóm này nhóm bạn bè cùng lứa tuổi có tác động mạnh mẽ đến cá nhân. Bởi, các thành viên trong nhóm ở lứa tuổi ngang nhau, đặc điểm tâm sinh lý và nhu cầu có sự tưong đồng nhau lên các thành viên trong nhóm dễ dàng chia sẻ, thảo luận về các mối quan tâm của lứa tuổi mà họ không được thực hiện ở các môi trường xã hội hoá khác như gia đình, nhà trường. Ví dụ ở lứa tuổi dậy thì, thời kỳ này thanh thiếu niên bắt đầu tách ta khỏi bố mẹ và những người thân khác để tham gia vào các nhóm bạn bè với những mối quan tâm và sở thích riêng, do đó trẻ sẽ bị ảnh hưởng bởi các thành viên trong nhóm. Do đó, ảnh hưởng của nhóm ngang hàng có thể là tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình xã hội hóa cá nhân.

Tuy nhiên khi cá nhân bước vào tuổi trưởng thành về xã hội thì nhóm lao động sản xuất, nhóm đồng nghiệp... lại đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với xã hội hoá cá nhân. Tại đó cá nhân tiếp tục được học hỏi để thực hiện vai trò lao động và chịu sự tác động của môi trường làm việc.

5.4. Môi trường thông tin đại chúng

Truyền thông đại chúng như báo, đài, ti vi, sách, internet... đóng vai trò quan trọng đối với quá trình xã hội hóa cá nhân. Các sản phẩm của truyền thông đại chúng đã trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày của đại đa số các thành viên trong xã hội. Truyền thông đại chúng cung cấp thông tin nhanh, đa dạng về các lĩnh vực của đời sống xã hội trong nước và thế giới.

Trong lĩnh vực xã hội hóa cá nhân, truyền thông đại chúng có tính hai mặt (tích cực và tiêu cực). Mặt tích cực giúp cá nhân có nhiều cơ hội học hỏi, tiếp xúc với thông tin đa dạng, phong phú để phục vụ cho nhu cầu phát triển của cá nhân, đặc biệt những cá nhân không có cơ hội đến trường, dễ dàng lĩnh hội được hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hóa, luật pháp và những quy định hành vi trong xã hội. Với các phương tiện truyền thông đại chúng phổ biến như truyền hình tác động đến cá nhân thông qua thị giác và thính giác đã ảnh hưởng đến quá trình xã hội hóa cá nhân nhiều nhất so với các phương tiện thông tin đại chúng khác. Mặt trái của truyền thông đại chúng là thông tin rất đa dạng, phức tạp, khó kiểm soát hết các thông tin, nhiều thông tin đăng tải với những nội dung không lành mạnh, không phù hợp làm méo mó, lệch lạc các chuẩn mực, văn hóa... ảnh hưởng mạnh đến lớp trẻ, những người có lối sống buông thả dễ bị kích động và dễ dẫn tới hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội.

Như vậy, truyền thông đại chúng mang lại rất nhiều lợi ích cho cá nhân trong việc tiếp nhận các luồng kiến thức, thông tin nhanh chóng, đa dạng, dễ dàng. Nhưng nó có thể đưa lại những kết quả tiêu cực, kích động những hành vi không được kiềm chế của những người trẻ tuổi, cuốn hút họ vào những trò chơi vô bổ, ngoài tầm kiểm soát của gia đình và xã hội. Do đó đòi hỏi cá nhân cần phải tiếp thu một cách có chọn lọc những nội dung trong quá trình xã hội hóa cá nhân.

Tóm lại: Các môi trường xã hội hóa thường không tác rời nhau, mà nó có sự tương tác lẫn nhau một cách hài hòa, linh hoạt giúp cho cá nhân được học hỏi, trải nghiệm, được bảo vệ, được thể hiện bản thân đúng với vị trí, vai trò của mình và tạo niềm tin vững chắc cho cá nhân phát huy được “cái iôi” trong xã hội.

Luật Minh Khuê (sưu tầm & tổng hợp)