Tại sao phải duy trì nòi giống

Mấy thanh niên chưa lấy vợ hoặc sao tôi không rõ:
1. Lập gia đình trễ: nữ trứng, nam tinh trùng giảm chất lượng.
2. Phụ nữ sau 30 sinh con nhiều rủi ro.
3. Sinh con trễ khoảng cách thế hệ khiến việc hiểu con rất khó, nhất là dậy thì.


Phản hồi một số quan điểm từ bài viết “Hôn nhân đồng tính và những hệ lụy”: http://www.thanhtra.com.vn/tabid/77/newsid/67727/temidclicked/1062/seo/Hon-nhan-dong-tinh-va-nhung-he-luy/Default.aspx

Tại sao phải duy trì nòi giống


Cấm hôn nhân cùng giới vì “không thể sinh sản duy trì nòi giống được”?


Nếu lấy lý do không thể duy trì nòi giống được thì những người vô sinh, những người đã mãn dục là những người đầu tiên bị cấm kết hôn. Như vậy những cặp vợ chồng đang chung sống với nhau và không có con (vì lý do sức khỏe hay lựa chọn), vậy họ có phải là gia đình hay không, và có nên bị hủy bỏ hôn nhân không khi mà mục đích “duy trì nòi giống” không đạt được? Đây là một sự xúc phạm và phân biệt đối xử nghiêm trọng tới nhiều nhóm người khác nhau trong xã hội.

Việc cho rằng hôn nhân chỉ là hình thức “xác nhận cha mẹ cho đứa trẻ được sinh ra” là hạ thấp giá trị của gia đình và con người. Thú vật không cần tới hôn nhân vẫn có thể duy trì giống nòi. Thực tế khi nhà nước bảo hộ cho hôn nhân bằng pháp luật, việc bảo hộ đó không nhằm để kích thích sinh sản. Định chế hôn nhân là một định chế xã hội, không phải là một định chế sinh vật. Và giá trị hôn nhân nằm ở tính xã hội, quan hệ và đời sống giữa những con người với nhau, đó là sự phó thác, chia sẻ và tình yêu với nhau.

Lật ngược câu hỏi lại, vậy liệu việc cấm hôn nhân cùng giới có góp phần thúc đẩy việc sinh sản duy trì nòi giống hay không? Câu trả lời là hoàn toàn không. Vậy nên việc cấm người đồng tính với lý do họ không duy trì nòi giống được trở nên hoàn toàn vô nghĩa. Con người ngày càng tự do hơn và sẽ không làm những gì đi ngược lại với tự do của mình. Việc cấm người đồng tính kết hôn không làm họ tự nhiên mong muốn kết hôn với người khác giới. Cũng như việc cho phép họ lấy nhau cũng không ảnh hưởng gì tới khả năng sinh sản của các cặp khác giới.

Có quan điểm cho rằng hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới sẽ làm tỷ lệ đồng tính tăng lên, ai cũng kết hôn đồng tính thì xã hội sẽ tuyệt chủng. (!) Lập luận này dựa trên một số lầm tưởng phổ biến như: “Đồng tính là trào lưu. Đồng tính là bệnh. Đồng tính có thể tập nhiễm.” Và những kiến thức này đã được khoa học công nhận là… sai. Đồng tính không phải là trào lưu, không phải là bệnh, không phải là một hành vi tình dục đơn thuần, mà là một xu hướng tính dục tự nhiên bao gồm cảm xúc và tình cảm tự nhiên trong đó. Người dị tính không bao giờ tự nguyện bước vào một mối quan hệ đồng tính, cũng như người đồng tính cũng không bao giờ mong muốn bước vào một mối quan hệ dị tính.


Bản chất duy trì nòi giống là gì?

Một quan điểm phổ biến là hay đánh đồng việc “duy trì nòi giống” và “giao hợp thụ thai.” Trước hết cần khẳng định người đồng tính không phải là người vô sinh. Hai người đồng tính không thể “giao hợp thụ thai” nhưng họ hoàn toàn có thể có con với sự hỗ trợ khoa học. Một số người có thể nói việc này không tự nhiên, nhưng tất cả những thành tựu khoa học đều là để con người vượt qua những giới hạn của tự nhiên: từ kính cận, thuốc men, cho tới quần áo đều là không tự nhiên. Việc hỗ trợ sinh sản cho cặp đồng tính cũng tương tự như những cặp hiếm muộn, chưa kể là dễ dàng hơn về mặt kỹ thuật. Nếu cho rằng quyền đi đôi với nghĩa vụ, anh được sinh ra thì anh phải sinh sản duy trì nòi giống, thì chẳng khác gì một quan hệ “đổi chác” thời tiền sử, thậm chí còn lạc hậu hơn. Không tính các yếu tố thảm họa thiên tai, nguy cơ tuyệt chủng ngày nay của con người là từ chính nền văn minh hiện đại và khai thác tài nguyên kém bền vững, chứ chưa bao giờ các nhà khoa học cho rằng nguy cơ tuyệt chủng là do khả năng sinh sản của loài người.

Nhìn vấn đề duy trì nòi giống ở một tầm mức cao hơn, con người ngày nay là một con người xã hội, chứ không còn là con người giống loài thuở hoang sơ nữa. Vì vậy mà khi được sinh ra, trách nhiệm của con người đầu tiên cho đến sau cùng là trách nhiệm với đời sống xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống chứ không phải trách nhiệm phối giống cho loài. Chưa kể đến trong thực tế, bằng sự phân công lao động xã hội và những đóng góp của mình, người đồng tính vẫn góp phần vào sự sinh tồn của giống loài, hay cao hơn, là cho sự phát triển của xã hội loài người văn minh.

--

Bài viết tham khảo nhiều quan điểm từ bài viết "Hôn nhân bình đẳng và vô điều kiện" của tác giả Lê Trần Huy Phú. (Link gốc)

Cấm hôn nhân cùng giới vì “không thể sinh sản duy trì nòi giống được”?Nếu lấy lý do không thể duy trì nòi giống được thì những người vô sinh, những người đã mãn dục là những người đầu tiên bị cấm kết hôn. Như vậy những cặp vợ chồng đang chung sống với nhau và không có con (vì lý do sức khỏe hay lựa chọn), vậy họ có phải là gia đình hay không, và có nên bị hủy bỏ hôn nhân không khi mà mục đích “duy trì nòi giống” không đạt được? Đây là một sự xúc phạm và phân biệt đối xử nghiêm trọng tới nhiều người trong xã hội.


Tại sao phải duy trì nòi giống
Ảnh: ca hát tôn vinh sự đa dạng của cuộc sống của giới trẻ Việt NamViệc cho rằng hôn nhân chỉ là hình thức “xác nhận cha mẹ cho đứa trẻ được sinh ra” là hạ thấp giá trị của gia đình và con người. Thú vật không cần tới hôn nhân vẫn có thể duy trì giống nòi. Thực tế khi nhà nước bảo hộ cho hôn nhân bằng pháp luật, việc bảo hộ đó không nhằm để kích thích sinh sản. Định chế hôn nhân là một định chế xã hội, không phải là một định chế sinh vật. Và giá trị hôn nhân nằm ở tính xã hội, quan hệ và đời sống giữa những con người với nhau, đó là sự phó thác, chia sẻ và tình yêu với nhau.Lật ngược câu hỏi lại, vậy liệu việc cấm hôn nhân cùng giới có góp phần thúc đẩy việc sinh sản duy trì nòi giống hay không? Câu trả lời là hoàn toàn không. Con người ngày càng tự do hơn và sẽ không làm những gì đi ngược lại với tự do của mình. Việc cấm người đồng tính kết hôn không làm họ tự nhiên mong muốn kết hôn với người khác giới. Cũng như việc cho phép họ lấy nhau cũng không ảnh hưởng gì tới khả năng sinh sản của các cặp khác giới.

Bản chất duy trì nòi giống là gì?

Một quan điểm phổ biến là hay đánh đồng việc “duy trì nòi giống” và “giao hợp thụ thai.” Trước hết cần khẳng định người đồng tính không phải là người vô sinh. Hai người đồng tính không thể “giao hợp thụ thai” nhưng họ hoàn toàn có thể có con với sự hỗ trợ khoa học. Một số người có thể nói việc này không tự nhiên, nhưng khoa học phát triển chẳng phải để con người vượt qua những giới hạn của tự nhiên hay sao: từ kính cận, thuốc men, cho tới quần áo đều là không tự nhiên. Việc hỗ trợ sinh sản cho cặp đồng tính cũng tương tự như những cặp hiếm muộn, chưa kể là dễ dàng hơn về mặt kỹ thuật.Nếu cho rằng quyền đi đôi với nghĩa vụ, anh được sinh ra thì anh phải sinh sản duy trì nòi giống, thì chẳng khác gì một quan hệ “đổi chác” thời tiền sử, thậm chí còn lạc hậu hơn. Không tính các yếu tố thảm họa thiên tai, nguy cơ tuyệt chủng ngày nay của con người là từ chính nền văn minh hiện đại và khai thác tài nguyên kém bền vững, chứ chưa bao giờ các nhà khoa học cho rằng nguy cơ tuyệt chủng là do khả năng sinh sản của loài người.Nhìn vấn đề duy trì nòi giống ở một tầm mức cao hơn, con người ngày nay là một con người xã hội, chứ không còn là con người giống loài thuở hoang sơ nữa. Vì vậy mà khi được sinh ra, trách nhiệm của con người đầu tiên cho đến sau cùng là trách nhiệm với đời sống xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống chứ không phải trách nhiệm phối giống cho loài. Chưa kể đến trong thực tế, bằng sự phân công lao động xã hội và những đóng góp của mình, người đồng tính vẫn góp phần vào sự sinh tồn của giống loài, hay cao hơn, là cho sự phát triển của xã hội loài người văn minh.

Hôn nhân là dành cho ai?

Một lập luận phổ biến là người đồng tính hoàn toàn có thể yêu thương nhau, sống với nhau mà không cần hôn nhân. Thực ra điều này cũng hoàn toàn đúng với những người dị tính, các cặp khác giới vẫn có thể sống với nhau mà không cần hôn nhân. Vậy tại sao họ vẫn muốn kết hôn, tại sao những người dị tính thì có quyền còn người đồng tính thì không, khi mà hai mối quan hệ đều dựa trên nền tảng là sự yêu thương, chia sẻ và cam kết? Nếu câu trả lời là “vì người dị tính duy trì nòi giống được” thì xin đọc lại phần bên trên.Cuối cùng cũng chỉ là câu chuyện về sự bất bình đẳng. Đơn giản là một nhóm người cho rằng tôi có quyền kết hôn với người tôi yêu, còn chị thì không. Lý do bởi vì tôi cho rằng tôi bình thường, còn chị thì không. Đã có sự đánh tráo hai khái niệm: “số đông” với “bình thường”, và “số ít” với “bất thường.” Số người yêu người khác giới nhiều hơn không có nghĩa là người yêu người cùng giới là bất thường. Và pháp luật làm ra không phải phục vụ số đông hay tước đoạt quyền của số ít. Pháp luật là để bảo vệ tất cả mọi người. Cấm hôn nhân cùng giới cần phải được thừa nhận là hình thức phân biệt đối xử với người đồng tính.

Thay đổi pháp luật hay thay đổi xã hội trước?

Việc cho rằng nên để thái độ xã hội thay đổi trước khi thay đổi pháp luật là phiến diện. Không phải ngẫu nhiên nhiều trường đại học có môn học “Luật và Thay đổi Xã hội.” Kinh tế, giáo dục, khoa học vẫn sẽ phát triển nếu không có pháp luật. Kinh tế mua bán vật đổi vật không cần tới tiền, nhà băng vẫn có thể tồn tại, nhà nước không cần lập hệ thống giáo dục thì con người vẫn có thể tiếp thu học hỏi từ xung quanh. Cũng như xã hội chắc chắn cũng sẽ bình đẳng, tự do hơn một cách từ từ.Tuy vậy, chúng ta cần nhớ rằng nhận thức xã hội luôn thay đổi cực kỳ chậm nếu không dùng pháp luật như một công cụ để thúc đẩy nó. Pháp luật định hình nên chuẩn mực hành vi xử sự của con người. Khi hôn nhân đa hôn ở Việt Nam bị cấm, xã hội đã thay đổi rất nhanh chóng chuẩn mực về số lượng phối ngẫu trong hôn nhân, họ hiểu rằng hôn nhân chỉ là giữa hai người.Câu hỏi đặt ra là liệu hôn nhân phân biệt giới tính đã tới lúc hoàn thành sứ mệnh của mình chưa? Và nó sẽ để lại gì cho xã hội khi ra đi: sự tức giận và phản đối của những người vẫn xem hôn nhân là đặc quyền của người dị tính, hay liệu xã hội sẽ trở nên cởi mở hơn với người đồng tính? Nghiên cứu ở nhiều nước như Canada, Thụy Điển đều cho thấy tỷ lệ dân số ủng hộ hôn nhân cùng giới tăng nhanh lên rõ rệt từ sau khi nhà nước công nhận hôn nhân không phân biệt giới tính.Vấn đề còn lại chỉ là chúng ta có thực sự muốn thừa nhận quyền hôn nhân bình đẳng này hay không. Việc cho rằng nên thay đổi nhận thức xã hội trước khi thừa nhận hôn nhân cùng giới chỉ là một cách trì hoãn hay lảng tránh câu hỏi về bình quyền. Thực tế xã hội và pháp luật luôn cần đi song song, sự thay đổi nào cũng sẽ góp phần thúc đẩy sự thay đổi kia.Chỉ có điều chắc chắn là một ngày mà pháp luật còn chưa thừa nhận quyền bình đẳng yêu thương của tất cả mọi người, thì một ngày người đồng tính vẫn còn phải chịu kỳ thị và sống với niềm hạnh phúc quý giá nhưng không được thừa nhận của mình.*** Phản hồi một số quan điểm từ bài viết “Hôn nhân đồng tính và những hệ lụy”: http://www.thanhtra.com.vn/tabid/77/newsid/67727/temidclicked/1062/seo/Hon-nhan-dong-tinh-va-nhung-he-luy/Default.aspx