Trầm cảm lâu sẽ bị gì?

Các rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi buồn trầm trọng hoặc dai dẳng đủ để ảnh hưởng vào hoạt động chức năng và thường là do giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong các hoạt động. Nguyên nhân chính xác không rõ nhưng có thể liên quan đến việc di truyền, thay đổi nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh, chức năng của hóc môn thần kinh bị thay đổi và các yếu tố tâm lý xã hội. Chẩn đoán dựa trên tiền sử. Điều trị thường bao gồm thuốc, trị liệu tâm lý, hoặc cả hai và đôi khi trị liệu sốc điện.

Thuật ngữ trầm cảm thường được dùng để chỉ bất kỳ rối loạn trầm cảm nào. Một số được phân loại trong Cẩm nang chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần, Ấn bản thứ năm (DSM-5) theo các triệu chứng cụ thể:

Các loại khác được phân loại theo bệnh nguyên:

  • Rối loạn trầm cảm do một tình trạng bệnh lý khác

  • Rối loạn trầm cảm do chất gây nghiện/thuốc

Thuật ngữ trầm cảm thường được sử dụng để miêu tả giảm khí sắc hoặc nản lòng do những thất vọng (ví dụ tai họa tài chính, thiên tai, bệnh nặng) hoặc những mất mát (ví dụ như cái chết của người thân). Tuy nhiên, các thuật ngữ chuẩn hơn cho những loại khí sắc như vậy là mất tinh thần và sự thương tiếc.

Những cảm giác tiêu cực về sự mất tinh thần và đau buồn, không giống như những người trầm cảm, làm như sau:

  • Xảy ra trong sóng có xu hướng gắn liền với suy nghĩ hoặc nhắc nhở về sự kiện

  • Giải quyết khi hoàn cảnh hoặc sự kiện được cải thiện

  • Có thể xen kẽ với những giai đoạn cảm xúc tích cực

  • Không đi kèm với cảm giác vô dụng và tự ghê tởm

Tâm trạng thấp thỏm thường kéo dài vài ngày chứ không phải vài tuần hoặc vài tháng, và những suy nghĩ tự tử và mất chức năng kéo dài ít có khả năng xảy ra hơn nhiều.

Nguyên nhân chính xác gây các rối loạn trầm cảm là không rõ ràng, nhưng có sự đóng góp bởi yếu tố di truyền và môi trường.

Tính di truyền chiếm khoảng một nửa bệnh nguyên (ít hơn trong trầm cảm khởi phát muộn). Do đó, trầm cảm phổ biến hơn trong số các thân nhân bậc 1 của bệnh nhân trầm cảm, và phù hợp với các cặp song sinh cùng trứng. Cùng với đó, các yếu tố di truyền có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của phản ứng trầm cảm đối với các sự kiện bất lợi.

Các yếu tố tâm lý xã hội dường như cũng có liên quan. Những căng thẳng lớn trong cuộc sống, đặc biệt là sự chia rẽ và mất chủ yếu, thường đi trước những giai đoạn trầm cảm lớn; tuy nhiên, các sự kiện như vậy thường không gây trầm cảm kéo dài, trầm trọng trừ những người có xu hướng rối loạn khí sắc.

Những người có một giai đoạn trầm cảm lớn có nguy cơ cao hơn của các giai đoạn tiếp theo. Những người ít hồi phục và/hoặc những người có khuynh hướng lo âu có thể sẽ có nguy cơ phát triển chứng rối loạn trầm cảm. Những người như vậy thường không phát triển các kỹ năng xã hội để thích nghi với áp lực cuộc sống. Sự hiện diện của các rối loạn tâm thần khác làm tăng nguy cơ mắc chứng rối loạn trầm cảm nặng.

Phụ nữ có nguy cơ cao hơn, nhưng không có lý thuyết giải thích tại sao. Các yếu tố có thể bao gồm:

  • Phơi nhiễm nhiều hơn hoặc đáp ứng mạnh với căng thẳng hàng ngày

  • Nồng độ monoamine oxidase cao hơn (enzym có vai trò làm giảm các chất dẫn truyền thần kinh được coi là quan trọng đối với khí sắc)

  • Tỷ lệ rối loạn chức năng tuyến giáp cao hơn

  • Sự thay đổi nội tiết xảy ra với kinh nguyệt và mãn kinh

Trong rối loạn cảm xúc theo mùa, các triệu chứng phát triển theo mùa, điển hình là vào mùa thu hoặc mùa đông; rối loạn có xu hướng xảy ra trong khí hậu với mùa đông dài hoặc khắc nghiệt.

Triệu chứng hoặc rối loạn trầm cảm có thể đi kèm với các rối loạn cơ thể khác, bao gồm rối loạn về tuyến giáp Tổng quan về chức năng tuyến giáp Tuyến giáp, nằm ở vùng cổ trước, ngay dưới sụn nhẫn, gồm 2 thùy được nối bởi một eo tuyến giáp. Các tế bào nang trong tuyến sinh ra 2 hoóc môn tuyến giáp chính: Tetraiodothyronine (thyroxine... đọc thêm , rối loạn về tuyến thượng thận Tổng quan về chức năng tuyến thượng thận Tuyến thượng thận nằm ở cực trên của mỗi thận (xem hình: Tuyến thượng thận.), bao gồm phần vỏ phần tủy Vỏ thượng thận và tủy thượng thận có chức năng nội tiết riêng biệt. Vỏ thượng thận sản xuất đọc thêm , u não Tổng quan về các khối u trong sọ Các khối u nội sọ có thể tại não hoặc các cấu trúc khác (ví dụ, dây thần kinh sọ, màng não). Các khối u thường phát triển ở tuổi thanh niên hoặc trung niên nhưng có thể phát triển ở mọi lứa... đọc thêm

Trầm cảm lâu sẽ bị gì?
lành tính hay ác tính, đột quỵ Tổng quan về Đột quỵ Đột quỵ là một nhóm bệnh không đồng nhất liên quan đến sự gián đoạn đột ngột và cục bộ của dòng máu não gây ra tổn thương thần kinh. Đột quỵ có thể là Thiếu máu cục bộ (80%), điển hình là do... đọc thêm
Trầm cảm lâu sẽ bị gì?
, AIDS Nhiễm trùng HIV/AIDS ở người Nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) là hậu quả của nhiễm 1 trong số 2 retrovirus tương tự nhau (HIV-1 và HIV-2) chúng phá hủy tế bào lympho CD4 + và làm giảm khả năng miễn dịch... đọc thêm
Trầm cảm lâu sẽ bị gì?
, bệnh Parkinson Bệnh Parkinson Bệnh Parkinson là một rối loạn thoái hóa chậm tiến triển, được đặc trưng bởi run tĩnh trạng, tăng trương lực cơ, giảm vận động và vận động chậm, và sau cùng ổn định tư thế và/hoặc dáng đi. Chẩn... đọc thêm , và xơ cứng rải rác Xơ cứng rải rác (MS) Xơ cứng rải rác (MS) được đặc trưng bởi mất các mảng myelin ở não và tủy sống. Các triệu chứng thường gặp gồm những bất thường về vận nhãn, dị cảm, yếu cơ, co cứng, rối loạn tiểu tiện và rối... đọc thêm
Trầm cảm lâu sẽ bị gì?
(xem bảng Một số nguyên nhân gây ra các triệu chứng trầm cảm và hưng cảm Một số nguyên nhân của triệu chứng trầm cảm và hưng cảm
Trầm cảm lâu sẽ bị gì?
).

Trầm cảm lâu sẽ bị gì?

  • 1. Ghasemi M, Phillips C, Fahimi A, et al: Mechanisms of action and clinical efficacy of NMDA receptor modulators in mood disorders. Neurosci Biobehav Rev 80:555-572, 2017. doi: 10.1016/j.neubiorev.2017.07.002

Các triệu chứng và dấu hiệu của rối loạn trầm cảm

Trầm cảm gây ra các rối loạn nhận thức, tâm thần vận động và các dạng rối loạn chức năng khác (ví dụ như tập trung kém, mệt mỏi, mất ham muốn tình dục, mất hứng thú hoặc thích thú trong hầu hết các hoạt động trước đây, rối loạn giấc ngủ) cũng như tâm trạng chán nản. Những người bị rối loạn trầm cảm thường có ý nghĩ tự tử Hành vi tự sát Hành vi tự sát bao gồm tự sát hoàn thành và toan tự sát. Suy nghĩ về, xem xét, hoặc lên kế hoạch tự sát được gọi là tư tưởng tự sát. (Xem thêm Hướng dẫn Thực hành của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ... đọc thêm và có thể tìm cách tự sát. Các triệu chứng hoặc rối loạn tâm thần khác (ví dụ, các cơn lo âu Tổng quan các rối loạn lo âu Mỗi người thường trải qua nỗi sợ hãi và lo âu. Sợ hãi là phản ứng cảm xúc, thể chất và hành vi đối với một mối đe dọa có thể nhận biết được diễn ra tức thì từ bên ngoài (ví dụ như kẻ đột nhập... đọc thêm và hoảng sợ Cơn hoảng sợ và rối loạn hoảng sợ Một cơn hoảng sợ là sự khởi phát đột ngột của một giai đoạn ngắn, rời rạc với các khó chịu căng thẳng, lo âu, hoặc sợ hãi kèm theo các triệu chứng cơ thể và/hoặc triệu chứng nhận thức. Rối loạn... đọc thêm ) thường cùng tồn tại, đôi khi làm phức tạp thêm việc chẩn đoán và điều trị.

Trầm cảm điển hình (rối loạn đơn cực)

Bệnh nhân có thể xuất hiện đau khổ, mắt rền rĩ, lông mày lằn rãnh, góc dưới của miệng hạ xuống, tư thế sụp, giao tiếp bằng mắt kém, thiếu biểu hiện trên khuôn mặt, cử động cơ thể ít và thay đổi giọng nói (ví dụ, giọng mềm, thiếu thân tình, sử dụng của từ đơn âm). Vẻ ngoài có thể bị nhầm lẫn với bệnh Parkinson Bệnh Parkinson Bệnh Parkinson là một rối loạn thoái hóa chậm tiến triển, được đặc trưng bởi run tĩnh trạng, tăng trương lực cơ, giảm vận động và vận động chậm, và sau cùng ổn định tư thế và/hoặc dáng đi. Chẩn... đọc thêm . Ở một số bệnh nhân, khí sắc trầm đến mức nước mắt khô; họ báo cáo rằng họ không thể trải nghiệm cảm xúc thông thường và cảm thấy rằng thế giới đã trở nên thiếu màu sắc và không có sự sống.

Dinh dưỡng có thể bị suy giảm nghiêm trọng, cần can thiệp ngay lập tức.

Một số bệnh nhân trầm cảm không chú ý đến vệ sinh cá nhân hoặc thậm chí con cái họ, những người thân yêu khác, hoặc vật nuôi.

Đối với chẩn đoán trầm cảm nặng, 5 triệu chứng sau phải xuất hiện gần như mỗi ngày trong cùng thời kỳ 2 tuần, và một trong số đó phải là khí sắc trầm hoặc mất các quan tâm thích thú:

  • Khí sắc trầm hầu hết trong ngày

  • Giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong tất cả hoặc gần như tất cả các hoạt động trong hầu hết thời gian trong ngày

  • Tăng cân đáng kể (> 5%) hoặc giảm cân hoặc tăng khẩu vị

  • Mất ngủ (thường mất ngủ kiểu tỉnh giấc giữa đêm) hoặc chứng ngủ nhiều

  • Kích động hoặc chậm chạp tâm thần vận động được quan sát bởi người khác của người khác (không phải tự nhận xét)

  • Mệt mỏi hoặc mất năng lượng

  • Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức hoặc không thích hợp

  • Suy giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung hoặc do dự thiếu quyết đính

  • Những suy nghĩ lặp lại về cái chết hoặc tự sát, toan tự sát, hoặc một kế hoạch cụ thể để tự sát

Rối loạn trầm cảm dai dẳng

Triệu chứng trầm cảm kéo dài 2 năm mà không thuyên giảm được phân loại là rối loạn trầm cảm dai dẳng (PDD), một thể loại hợp nhất các chứng rối loạn trước đây gọi là rối loạn trầm cảm điển hình mạn tính và loạn khí sắc.

Triệu chứng thường bắt đầu một cách âm thần trong thời thanh niên và có thể tồn tại trong nhiều năm hoặc nhiều thập niên. Số lượng các triệu chứng thường dao động ở trên và dưới ngưỡng trầm cảm điển hình.

Những bệnh nhân bị ảnh hưởng có thể thường ảm đạm, bi quan, mất hài hước, thụ động, thờ ơ, sống nội tâm, tự phán xét bản thân hoặc người khác quá mức, và phàn nàn. Bệnh nhân PDD cũng có nhiều khả năng bị rối loạn lo âu bên dưới Tổng quan các rối loạn lo âu Mỗi người thường trải qua nỗi sợ hãi và lo âu. Sợ hãi là phản ứng cảm xúc, thể chất và hành vi đối với một mối đe dọa có thể nhận biết được diễn ra tức thì từ bên ngoài (ví dụ như kẻ đột nhập... đọc thêm , sử dụng chất gây nghiện Rối loạn sử dụng chất Rối loạn sử dụng chất là một loại rối loạn liên quan đến sử dụng chất liên quan đến một mô hình hành vi bệnh lý, trong đó bệnh nhân tiếp tục sử dụng một chất mặc dù gặp phải những vấn đề đáng... đọc thêm hoặc rối loạn nhân cách Tổng quan về các Rối loạn nhân cách Những rối loạn nhân cách nói chung là các hình thái lan tỏa và kéo dài về nhận thức, phản ứng, và liên quan đến việc gây ra tình trạng đau khổ đáng kể hoặc suy giảm chức năng. Các rối loạn nhân... đọc thêm (ví dụ, rối loạn nhân cách ranh giới).

Để chẩn đoán rối loạn trầm cảm dai dẳng , bệnh nhân phải có khí sắc trầm trong hầu hết các ngày trong thời gian 2 năm cộng với 2 trong số những triệu chứng sau:

  • Chán ăn hoặc ăn quá nhiều

  • Mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều

  • Giảm năng lượng hoặc mệt mỏi

  • Lòng tự trọng thấp

  • Kém tập trung hoặc khó khăn trong việc đưa ra các quyết định

  • Cảm giác tuyệt vọng

Rối loạn khó chịu tiền kinh nguyệt

Rối loạn khó chịu tiền kinh nguyệt liên quan tới các triệu chứng khí sắc và lo âu mà có liên quan rõ ràng đến chu kỳ kinh nguyệt, khởi phát trong giai đoạn tiền kinh nguyệt và khoảng thời gian không triệu chứng sau khi có kinh nguyệt. Triệu chứng phải xuất hiện trong hầu hết các chu kỳ kinh nguyệt trong năm qua.

Đối với chẩn đoán rối loạn tiền kinh nguyệt, bệnh nhân phải có 5 triệu chứng trong tuần trước khi có kinh nguyệt. Triệu chứng phải bắt đầu thuyên giảm trong vòng vài ngày sau khi bắt đầu kinh nguyệt và đến mức tối thiểu hoặc biến mất hoàn toàn trong tuần ngay sau khi có kinh nguyệt. Các triệu chứng phải bao gồm 1 trong những điều sau:

  • Thay đổi khí sắc đáng kể (ví dụ, đột nhiên cảm thấy buồn hoặc khóc)

  • Sự cáu kỉnh hoặc tức giận rõ rệt hoặc gia tăng mâu thuẫn giữa các cá nhân

  • Khí sắc giảm đáng kể, cảm giác tuyệt vọng, hoặc những suy nghĩ tự hối lỗi

  • Ghi nhận sự lo âu, căng thẳng, hoặc một cảm giác chơi vơi

Ngoài ra, phải có 1 điểm sau:

  • Giảm sự quan tâm trong các hoạt động thông thường

  • Khó tập trung

  • Giảm năng lượng hoặc mệt mỏi

  • Sự thay đổi đáng kể trong cảm giác ngon miệng, ăn quá nhiều hoặc xung động thèm thức ăn cụ thể

  • Ngủ nhiều hoặc mất ngủ

  • Cảm thấy quá tải hoặc không kiểm soát

  • Các triệu chứng cơ thể như tức ngực hoặc sưng, đau khớp hoặc cơ, cảm giác bị phát phì và tăng cân

Rối loạn đau buồn kéo dài

Đau buồn kéo dài là nỗi buồn dai dẳng sau khi mất người thân. Nó khác với trầm cảm ở chỗ nỗi buồn liên quan đến mất mát cụ thể hơn là cảm giác thất bại chung chung liên quan đến trầm cảm. Trái ngược với đau buồn thông thường, tình trạng này có thể gây tàn tật rất cao và cần có liệu pháp được thiết kế đặc biệt cho chứng rối loạn đau buồn kéo dài.

Đau buồn kéo dài được coi là xuất hiện khi phản ứng đau buồn (điển hình là sự khao khát hoặc khao khát dai dẳng và/hoặc mối bận tâm về người đã khuất) kéo dài một năm hoặc lâu hơn và dai dẳng, lan tỏa và vượt quá các chuẩn mực văn hóa. Nó cũng phải đi kèm với 3 điều sau đây trong tháng trước ở mức độ gây ra tình trạng đau khổ hoặc tàn tật:

  • Không tin

  • Cảm xúc đau đớn

  • Cảm giác nhầm lẫn danh tính

  • Tránh nhắc nhở về sự mất mát

  • Cảm giác tê tái

  • Cô đơn dữ dội

  • Cảm giác vô nghĩa

  • Khó tham gia vào cuộc sống đang diễn ra

Rối loạn trầm cảm khác

Các nhóm triệu chứng có đặc điểm của một rối loạn trầm cảm mà không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn cho các rối loạn trầm cảm khác nhưng gây ra tình trạng khó chịu và suy giảm chức năng đáng kể trên lâm sàng được phân loại như rối loạn trầm cảm khác (biệt định hoặc không biệt định).

Bao gồm những giai đoạn tái diễn với 4 triệu chứng trầm cảm kéo dài < 2 tuần ở những người chưa bao giờ đạt được tiêu chuẩn cho rối loạn khí sắc khác (ví dụ như trầm cảm ngắn tái diễn) và giai đoạn trầm cảm kéo dài nhưng bao gồm các triệu chứng không đủ để chẩn đoán một rối loạn trầm cảm khác.

Các biệt định

Trầm cảm chủ yếu và rối loạn trầm cảm dai dẳng có thể bao gồm một hoặc nhiều biệt định mô tả các biểu hiện bổ sung trong giai đoạn trầm cảm:

  • Đau khổ lo âu: Bệnh nhân cảm thấy căng thẳng và không thể nghỉ ngơi một cách bất thường; họ khó tập trung bởi vì họ lo lắng hoặc sợ rằng điều khủng khiếp có thể xảy ra, hoặc họ cảm thấy rằng họ có thể mất quyền kiểm soát bản thân họ.

  • U sầu: Bệnh nhân đã mất niềm vui trong hầu hết các hoạt động hoặc không đáp ứng với kích thích thường cảm thấy. Họ có thể chán nản và tuyệt vọng, cảm thấy tội lỗi quá mức hoặc không thích hợp, hoặc thức dậy sớm, chậm chạp tâm thần vận động đáng kể hoặc kích động tâm thần vận động, và chán ăn đáng kể hoặc giảm cân.

  • Không điển hình: Tâm trạng của bệnh nhân tạm thời sáng sủa lên khi phản ứng với các sự kiện tích cực (ví dụ như thăm trẻ em). Họ cũng có 2 trong số những triệu chứng sau đây: phản ứng thái quá đối với những lời phê bình hoặc từ chối, cảm giác nặng như chì (cảm giác nặng nề chủ yếu ở các chi), tăng cân hoặc tăng sự thèm ăn, và ngủ nhiều.

  • Loạn thần: Bệnh nhân có những hoang tưởng và/hoặc ảo giác. Những hoang tưởng thường liên quan đến tội ác hoặc phạm tội không thể tha thứ, những rối loạn không thể chữa được hoặc đáng xấu hổ, hoặc đang bị bức hại. Ảo giác có thể là ảo thính (ví dụ, nghe những lời buộc tội hoặc chỉ trích) hoặc ảo thị. Nếu chỉ được có các giọng nói được mô tả, cần phải cân nhắc cẩn thận xem liệu tiếng nói có phải là ảo giác thực sự hay không.

  • Căng trương lực: Bệnh nhân bị chậm chạp tâm thần vận động mức độ nặng, tham gia vào các hoạt động không chủ đích và/hoặc cách biệt; một số bệnh nhân nhăn nhó và nhại lời (echolalia) hoặc nhại động tác (echopraxia).

  • Khởi phát quanh thời kì sinh nở: Khởi phát trong thời kỳ mang thai hoặc trong 4 tuần sau khi sinh. Các đặc điểm loạn thần có thể hiện diện; giết trẻ sơ sinh thường có liên quan đến các giai đoạn loạn thần liên quan đến ảo giác ra lệnh để giết trẻ sơ sinh hoặc hoang tưởng rằng trẻ sơ sinh bị xâm nhập.

  • Hình thái trầm cảm theo mùa: Các giai đoạn này xảy ra ở một thời điểm cụ thể trong năm, phần lớn thường là mùa thu hoặc mùa đông.

  • Tiêu chuẩn lâm sàng (DSM-5)

  • Công thức máu, chất điện giải, và TSH, vitamin B12, và folat cần được thực hiện để loại trừ các rối loạn thể chất mà có thể gây ra tình trạng trầm cảm

Chẩn đoán rối loạn trầm cảm dựa trên việc xác định các triệu chứng và dấu hiệu và các tiêu chuẩn lâm sàng được mô tả ở trên. Các câu hỏi đóng cụ thể giúp xác định bệnh nhân có các triệu chứng theo yêu cầu của tiêu chuẩn DSM-5 để chẩn đoán trầm cảm điển hình. Để giúp phân biệt rối loạn trầm cảm với những biến đổi về khí sắc bình thường, phải có sự đau khổ hoặc suy giảm đáng kể trong các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực hoạt động quan trọng khác.

Mức độ nặng được xác định bởi mức độ đau và tàn tật (thể chất, xã hội, nghề nghiệp) và theo thời gian triệu chứng. Bác sĩ nên nhẹ nhàng nhưng trực tiếp hỏi bệnh nhân về bất kỳ suy nghĩ và kế hoạch nào với mục đích gây tổn hại cho bản thân hoặc người khác, bất cứ mối đe dọa và/ tự sát Hành vi tự sát Hành vi tự sát bao gồm tự sát hoàn thành và toan tự sát. Suy nghĩ về, xem xét, hoặc lên kế hoạch tự sát được gọi là tư tưởng tự sát. (Xem thêm Hướng dẫn Thực hành của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ... đọc thêm , và các yếu tố nguy cơ khác. Loạn thần và căng trương lực gợi ý tình trạng trầm cảm nặng. Các đặc điểm u sầu gợi ý trầm cảm nặng hoặc vừa. Đồng diễn các vấn đề thể chất, rối loạn sử dụng chất gây nghiện Rối loạn sử dụng chất Rối loạn sử dụng chất là một loại rối loạn liên quan đến sử dụng chất liên quan đến một mô hình hành vi bệnh lý, trong đó bệnh nhân tiếp tục sử dụng một chất mặc dù gặp phải những vấn đề đáng... đọc thêm , và rối loạn lo âu Tổng quan các rối loạn lo âu Mỗi người thường trải qua nỗi sợ hãi và lo âu. Sợ hãi là phản ứng cảm xúc, thể chất và hành vi đối với một mối đe dọa có thể nhận biết được diễn ra tức thì từ bên ngoài (ví dụ như kẻ đột nhập... đọc thêm có thể làm tăng mức độ nghiêm trọng.

Rối loạn thể chất cũng phải được loại trừ như là một nguyên nhân của các triệu chứng trầm cảm. Nhược giáp Suy giáp Chứng suy giáp là thiếu hụt hormone tuyến giáp. Chẩn đoán bằng các đặc điểm lâm sàng như xuất hiện khuôn mặt điển hình, giọng nói chậm khàn, da khô và nồng độ các hormone tuyến giáp thấp. Điều... đọc thêm

Trầm cảm lâu sẽ bị gì?
thường gây ra các triệu chứng trầm cảm và là phổ biến, đặc biệt là ở người cao tuổi. Cụ thể là, bệnh Parkinson Bệnh Parkinson Bệnh Parkinson là một rối loạn thoái hóa chậm tiến triển, được đặc trưng bởi run tĩnh trạng, tăng trương lực cơ, giảm vận động và vận động chậm, và sau cùng ổn định tư thế và/hoặc dáng đi. Chẩn... đọc thêm , có thể biểu hiện với các triệu chứng giống triệu chứng trầm cảm (ví dụ mất năng lượng, thiếu biểu lộ, ít vận động). Khám thần kinh Giới thiệu về khám thần kinh Khám thần kinh bắt đầu bằng sự quan sát cẩn thận bệnh nhân ngay khi họ bước vào phòng khám và trong suốt quá trình thăm khám. Bệnh nhân nên được hỗ trợ càng ít càng tốt để những khiếm khuyết... đọc thêm cần thực hiện kĩ càng để loại trừ rối loạn này.

Có sẵn một số bảng câu hỏi ngắn để sàng lọc trầm cảm. Chúng giúp gợi ra một số triệu chứng trầm cảm nhưng không thể dùng đơn độc để chẩn đoán. Tuy nhiên, nhiều công cụ trong số này hữu ích trong việc xác định những người có nguy cơ cần đánh giá chi tiết hơn. Một số công cụ sàng lọc được sử dụng rộng rãi hơn bao gồm Bảng câu hỏi sức khỏe bệnh nhân-9 (PHQ-9) và Thang đánh giá trầm cảm Beck (BDI).

Không có phát hiện trong phòng thí nghiệm là đặc trưng bệnh của rối loạn trầm cảm. Tuy nhiên, xét nghiệm kiểm tra là cần thiết để loại trừ các tình trạng thể chất có thể gây ra trầm cảm (xem bảng Một số nguyên nhân gây bệnh trầm cảm Một số nguyên nhân của triệu chứng trầm cảm và hưng cảm

Trầm cảm lâu sẽ bị gì?
). Các xét nghiệm bao gồm công thức máu toàn phần, nồng độ hóc môn kích thích tuyến giáp, và chất điện giải thường quy, vitamin B12 và nồng độ folat ở người cao tuổi testosterone mức độ. Đôi khi việc kiểm tra việc sử dụng ma túy là cần thiết.

  • Hỗ trợ

  • Tâm lý trị liệu

  • Thuốc

Trầm cảm, đặc biệt ở những bệnh nhân đã có > 1 giai đoạn, có khả năng tái diễn; do đó, các trường hợp nặng thường đòi hỏi liệu pháp điều trị duy trì lâu dài.

Hầu hết những người bị trầm cảm được điều trị như bệnh nhân ngoại trú. Bệnh nhân có ý tưởng tự tử đáng kể, đặc biệt là khi thiếu hỗ trợ gia đình, cần phải nhập viện, cũng như những người có các triệu chứng tâm thần hoặc khiếm khuyết thể chất.

Nếu một rối loạn cơ thể hoặc là thuốc có độc tính có thể là nguyên nhân, trước tiên cần phải điều trị trực tiếp các rối loạn bên dưới. Tuy nhiên, nếu nghi ngờ chẩn đoán hoặc nếu triệu chứng không rõ ràng hoặc bao gồm ý tưởng tự sát hoặc cảm giác vô vọng, một thử nghiệm điều trị với một thuốc chống trầm cảm hoặc một thuốc chỉnh khí sắc có thể có ích.

Rối loạn đau buồn kéo dài có thể được hưởng lợi từ liệu pháp tâm lý dành riêng cho chứng rối loạn này.

Cho đến khi bắt đầu cải tiến rõ ràng, bác sĩ có thể cần phải xem bệnh nhân hàng tuần hoặc hai tuần một lần để hỗ trợ và giáo dục và theo dõi sự tiến triển. Việc gọi điện có thể hữu ích cho việc tái hẹn khám.

Bệnh nhân và người thân có thể lo lắng hoặc ngại ngần về việc có rối loạn tâm thần. Bác sĩ có thể giúp giải thích rằng trầm cảm là một rối loạn y học nghiêm trọng gây ra bởi rối loạn sinh học và cần điều trị đặc hiệu và tiên lượng điều trị là tốt. Bệnh nhân và người thân cần được trấn an rằng trầm cảm không phải phán ánh một tính cách xấu xa (ví dụ như lười biếng, yếu đuối). Nói với bệnh nhân rằng con đường phục hồi thường dao động, điều này giúp họ nhận ra vô vọng chỉ là quan điểm cá nhân và có thể giúp họ cải thiện sự tuân thủ điều trị.

Khuyến khích bệnh nhân tăng dần các hoạt động đơn giản (ví dụ như đi bộ, tập thể dục thường xuyên) và tương tác xã hội phải được cân bằng với sự thừa nhận mong muốn tránh các hoạt động. Bác sĩ có thể đề nghị bệnh nhân tránh tự đổ lỗi và giải thích rằng những tư tưởng đen tối là một phần của rối loạn và sẽ biến mất.

Nhiều thử nghiệm đối chứng cho thấy rằng liệu pháp tâm lý, đặc biệt là liệu pháp hành vi nhận thức và liệu pháp tương tác cá nhân, có hiệu quả ở những bệnh nhân rối loạn trầm cảm chủ yếu, cả về điều trị các triệu chứng cấp tính và để giảm khả năng tái phát. Bệnh nhân trầm cảm nhẹ có xu hướng có kết quả tốt hơn những bệnh nhân trầm cảm nặng hơn, nhưng phổ cải thiện sẽ cao hơn ở những người bị trầm cảm nặng hơn.

Một số loại thuốc và thuốc có thể được sử dụng để điều trị trầm cảm:

ECT liên quan đến gây cơn co giật bằng điện trong điều kiện được kiểm soát. Cơ chế hoạt động của nó là không chắc chắn nhưng việc tạo ra hoạt động co giật dường như không thể thiếu với tác dụng chống trầm cảm của nó. ECT hiện đại, được cung cấp khi có thuốc an thần nặng/gây mê toàn thân, thường được dung nạp tốt nhưng tình trạng lú lẫn và suy giảm trí nhớ có thể xảy ra trầm trọng. Phần lớn điều này được cải thiện và khỏi sau 6 tháng sau một đợt điều trị ECT, nhưng tình trạng quên ngược chiều có thể tồn tại trong thời gian dài. Điều này đặc biệt đúng đối với những kỷ niệm từ vài tháng trước khi ECT. Những bệnh nhân bị suy giảm nhận thức ở lần khám ban đầu, những người được điều trị động kinh hai bên, những bệnh nhân cao tuổi và những bệnh nhân dùng lithium có nguy cơ cao bị suy giảm trí nhớ và lú lẫn.

Những điều sau đây thường được điều trị bằng ECT nếu thuốc không có hiệu quả:

  • Trầm cảm nặng có tự sát

  • Trầm cảm với sự kích động hoặc chậm phát triển tâm thần

  • Trầm cảm có hoang tưởng

  • Trầm cảm trong thai kỳ

Bệnh nhân chống đối ăn có thể cần ECT để ngăn ngừa tử vong. ECT đặc biệt có hiệu quả đối với trầm cảm loạn thần.

Đáp ứng từ 6 đến 10 lần điều trị ECT thường tốt và có thể cải thiện cho bệnh nhân. Tái phát sau khi ECT là phổ biến, và liệu pháp dùng thuốc thường được duy trì sau khi ngừng ECT.

Liệu pháp ánh sáng được biết đến nhiều nhất cho trầm cảm theo mùa nhưng dường như có hiệu quả tương đương với chứng trầm cảm không theo mùa.

Có thể cung cấp dịch vụ điều trị tại nhà với một thiết bị ánh sáng đặc biệt cung cấp 2500 đến 10.000 lux ở khoảng cách 30 đến 60 cm mà bệnh nhân có thể nhìn trong 30 đến 60 phút/ngày (lâu hơn với nguồn ánh sáng ít cường độ hơn).

Ở những bệnh nhân đi ngủ muộn vào ban đêm và dậy muộn vào buổi sáng, liệu pháp ánh sáng có hiệu quả nhất vào buổi sáng, đôi khi được bổ sung với 5 đến 10 phút phơi sáng trong khoảng thời gian từ 3 giờ chiều đến 7 giờ tối. Đối với bệnh nhân ngủ và dậy sớm, trị liệu ánh sáng có hiệu quả nhất trong khoảng thời gian từ 3 giờ chiều đến 7 giờ tối.

Kích thích thần kinh phế vị liên quan đến việc kích thích dây thần kinh phế vị từng nhịp thông qua một máy phát xung được cấy ghép. Nó có thể hữu ích cho trầm cảm kháng trị so với các phương pháp điều trị khác nhưng thường mất từ 3 đến 6 tháng để có hiệu quả.

Việc sử dụng kích thích từ xuyên sọ lặp đi lặp lại (rTMS) để điều trị cấp tính chứng rối loạn trầm cảm nặng đã có sự hỗ trợ đáng kể từ các thử nghiệm có đối chứng. rTMS tần số thấp có thể được áp dụng cho vỏ não trước trán bên phải (DLPC) và rTMS tần số cao có thể được áp dụng cho DLPC bên trái. Tác dụng phụ thường gặp nhất là nhức đầu và khó chịu ở da đầu; cả hai xảy ra thường xuyên hơn khi sử dụng tần số cao hơn tần số rTMS tần số thấp.

Các nhóm hỗ trợ (ví dụ, Liên minh Hỗ trợ Bệnh nhân bị Bệnh lưỡng cực và Trầm cảm [DBSA] ) có thể giúp bệnh nhân bằng cách cung cấp một diễn đàn để chia sẻ những kinh nghiệm và cảm xúc chung của họ.

  • 1. McIntyre RS, Lee y, Zhou AJ, et al: The efficacy of psychostimulants in major depressive episodes: A systematic review and meta-analysis. J Clin Pscyhopharmacol 37 (4):412-418, 2017. doi: 10.1097/JCP.0000000000000723

  • 2. Bergfeld IO, Mantione M, Hoogendoorn MLC, et al: Deep brain stimulation of the ventral anterior limb of the internal capsule for treatment-resistant depression: A randomized clinical trial. JAMA Psychiatry 73 (5):456-64, 2016. doi: 10.1001/jamapsychiatry.2016.0152

  • Trầm cảm là một rối loạn thường gặp liên quan đến khí sắc trầm và/hoặc gần như hoàn toàn mất quan tâm hoặc thích thú trong các hoạt động mà trước đây được thích; các biểu hiện cơ thể (ví dụ, thay đổi cân nặng, rối loạn giấc ngủ) và các biểu hiện nhận thức (ví dụ, khó tập trung) là phổ biến.

  • Trầm cảm có thể làm giảm đáng kể khả năng làm việc tại nơi làm việc và tương tác xã hội; nguy cơ tự sát là đáng kể.

  • Đôi khi các triệu chứng trầm cảm là do các rối loạn về thể chất (ví dụ, rối loạn tuyến giáp hoặc tuyến thượng thận, u não lành tính hoặc ác tính, đột quỵ, AIDS, bệnh Parkinson, xơ cứng rải rác) hoặc dụng một số thuốc nhất định (ví dụ, corticosteroid, một số thuốc chẹn beta, interferon, một số loại chất giải trí).

  • Chẩn đoán dựa trên tiêu chuẩn lâm sàng; rối loạn thể chất phải được loại trừ bằng cách đánh giá lâm sàng và xét nghiệm chọn lọc (ví dụ, CBC, chất điện giải, TSH, B12 và folat).

  • Điều trị liên quan đến liệu pháp tâm lý và thường là thuốc; các thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin (SSRI) thường được thử đầu tiên, và nếu chúng không hiệu quả, có thể thử dùng các thuốc tác động đến serotoninnorepinephrin và/hoặc dopamine khác.