Trước sự lớn mạnh của lực lượng cách mạng Trung Quốc Quốc dân đảng đã

Trước sự lớn mạnh của Cách mạng Trung Quốc, tập đoàn Tưởng Giới Thạch đã

B. cấu kết với thực dân Anh để tiêu diệt lực lượng của Đảng cộng sản Trung Quốc.

C. đưa 20 vạn quân sang Mĩ để huấn luyện quân sự và âm mưu lật đổ Đảng cộng sản.

D. huy động toàn bộ Quân đội chính quy tấn công vào vùng giải phóng do Đảng Cộng sản nắm giữ.

Xem lời giải

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Thành lập và thời kỳ Tôn Trung Sơn
    • 1.2 Dưới quyền Tưởng Giới Thạch tại Trung Quốc đại lục
    • 1.3 Thời kỳ tại Đài Loan
  • 2 Lập trường chính trị
    • 2.1 Chủ trương chính trị
    • 2.2 Lập trường hai bờ
  • 3 Cơ cấu tổ chức
  • 4 Quan hệ đối ngoại
  • 5 Căn cứ ủng hộ
  • 6 Tư tưởng thời kỳ Đại lục
  • 7 Các đảng liên kết với Quốc dân Đảng
  • 8 Kết quả bầu cử
    • 8.1 Bầu cử tổng thống
    • 8.2 Bầu cử lập pháp
    • 8.3 Bầu cử địa phương
  • 9 Chú thích
  • 10 Tham khảo

Lịch sửSửa đổi

Thành lập và thời kỳ Tôn Trung SơnSửa đổi

Quân cách mạng tấn công Nam Kinh vào năm 1911
Quốc dân Đảng gọi tôn kính người sáng lập đảng- Tôn Trung Sơn- là "Quốc phụ".

Nguồn gốc tư tưởng và tổ chức của Quốc dân Đảng là công lao lớn nhất của nhân vật dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa Tôn Trung Sơn. Ông là người sáng lập tổ chức Hưng Trung Hội tại Honolulu, Hawaii vào ngày 24 tháng 11 năm 1894[4], với mục tiêu thực hành cách mạng, đánh đổ triều đình nhà Thanh hủi bại, phục hưng đất nước Trung Hoa. Những nguyên tắc cơ bản của Hưng Trung Hội dựa trên những ý tưởng chính trị sơ khai của nhóm Tứ đại khấu mà Tôn là một thành viên. Các tài liệu lịch sử của Trung Quốc Quốc dân Đảng đều ghi nhận Hưng Trung Hội là tổ chức đầu tiên của Đảng và lấy ngày 24 tháng 11 năm 1894 làm ngày lễ kỷ niệm thành lập Đảng đầu tiên.

Cùng thời với Tôn, bằng nhiều con đường khác nhau, nhiều tổ chức cách mạng cũng được được hình thành cùng với mục tiêu đánh đổ nhà Thanh, phục hưng Trung Hoa. Năm 1905, Tôn Trung Sơn liên hiệp lực lượng với các đoàn thể chống phong kiến Hoa Hưng hội, Quang Phục hội tại Tokyo, Nhật Bản để hình thành Trung Quốc Đồng minh Hội vào ngày 20 tháng 8 năm 1905, tổ chức cam kết phế truất triều Thanh và lập một chính phủ cộng hòa. Tổ chức lên kế hoạch và ủng hộ Cách mạng Tân Hợi năm 1911 và thành lập Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 1 tháng 1 năm 1912. Tuy nhiên, Tôn Trung Sơn không có quyền lực quân sự và nhượng lại cho Viên Thế Khải chức vụ đại tổng thống lâm thời của nước cộng hòa. Ngày 11 tháng 8 năm 1912, Đồng minh Hội, Thống nhất Cộng hòa Đảng, Quốc dân Công Đảng, Quốc dân Cộng tiến Đảng và Cộng hòa Thực tiến hội hợp nhất, đến ngày 13 tháng 8 tuyên bố: "chế độ cộng hòa, quốc dân là chủ thể của đất nước, chúng tôi vì để mọi người không quên lẽ đó, nên để tên là Quốc dân Đảng". Ngày 25 tháng 8 năm 1912, Quốc dân Đảng được thành lập tại Hội quán Hồ Quảng tại Bắc Kinh,, chính thức tuyên bố Quốc dân Đảng ra đời[5]

Thành viên có thế lực nhất của đảng là Tống Giáo Nhân, ông huy động ủng hộ lớn từ giới thân sĩ và thương nhân cho Quốc dân Đảng nhằm chủ trương một chế độ dân chủ nghị viện lập hiến. Đảng phản đối phái chủ nghĩa quân chủ lập hiến và tìm cách kiềm chế quyền lực của Viên Thế Khải. Quốc dân Đảng giành được số ghế nhiều nhất trong bầu cử quốc hội lần thứ nhất vào tháng 12 năm 1912-tháng 1 năm 1913. Tuy nhiên, Viên Thế Khải nhanh chóng bắt đầu bác bỏ quốc hội trong các quyết định. Tống Giáo Nhân bị ám sát tại Thượng Hải vào năm 1913. Các thành viên của Quốc dân Đảng dưới quyền Tôn Trung Sơn nghi ngờ Viên Thế Khải đứng sau âm mưu nên họ tổ chức Cách mạng thứ hai vào tháng 7 năm 1913 song thất bại. Viên Thế Khải tuyên bố Quốc dân Đảng tiến hành lật đổ và phản bội, ra lệnh trục xuất thành viên của Quốc dân Đảng khỏi Quốc hội.[6][7] Viên Thế Khải cho giải tán Quốc dân Đảng vào tháng 11 (một phần lớn thành viên của đảng đào thoát sang Nhật Bản) và giải tán quốc hội vào đầu năm 1914.

Viên Thế Khải xưng là hoàng đế vào tháng 12 năm 1915. Trong khi lưu vong tại Nhật Bản, Tôn Trung Sơn thành lập Trung Hoa Cách mệnh Đảng vào ngày 8 tháng 7 năm 1914, song nhiều đồng chí cũ của ông như Hoàng Hưng, Uông Tinh Vệ, Hồ Hán Dân và Trần Quýnh Minh từ chối tham gia hay ủng hộ các nỗ lực của ông nhằm kích động khởi nghĩa vũ trang chống Viên Thế Khải. Nhiều nhà cách mạng cũ không tham gia tổ chức mới của Tôn Trung Sơn, và ông phần lớn đứng bên lề phong trào cộng hòa trong giai đoạn này. Tôn Trung Sơn trở về Trung Quốc vào năm 1917 để lập một chính phủ quân sự tại Quảng Châu, mục đích là nhằm chống đối Chính phủ Bắc Dương song không lâu sau bị lật đổ và phải lưu vong tại Thượng Hải. Tại đó, ông khôi phục sự ủng hộ, lập lại "Trung Quốc Quốc dân Đảng" vào ngày 10 tháng 10 năm 1919 trong tô giới Pháp tại Thượng Hải và lập trụ sở của đảng tại Quảng Châu vào năm 1920.

Năm 1923, Quốc dân Đảng và chính phủ tại Quảng Châu của họ chấp thuận viện trợ từ Liên Xô sau khi bị các cường quốc phương Tây từ chối công nhận. Các cố vấn Liên Xô mà nổi bật nhất là Mikhail Borodin đến Trung Quốc vào năm 1923 nhằm giúp đỡ tái tổ chức và củng cố Quốc dân Đảng theo quy tắc của Đảng Cộng sản Liên Xô, lập ra một cấu trúc đảng kiểu Lê-nin-nít tồn tại cho đến thập niên 1990. Đảng Cộng sản Trung Quốc hợp tác với Trung Quốc Quốc dân Đảng theo chỉ thị của Quốc tế cộng sản, các thành viên cộng sản được khuyến khích gia nhập Quốc dân Đảng song duy trì bản sắc đảng riêng biệt của mình, hình thành Mặt trận Liên hiệp thứ nhất giữa hai đảng. Các cố vấn Liên Xô cũng giúp Trung Quốc Quốc dân Đảng lập một học viện chính trị nhằm đào tạo các tuyên truyền viên với các kỹ thuật huy động quần chúng, và đến năm 1923 một phụ tá của Tôn Trung Sơn là Tưởng Giới Thạch được phái đi Moskva để học tập quân sự và chính trị trong nhiều tháng.

Từ ngày 20 đến ngáy 30 tháng 1 năm 1924, Trung Quốc Quốc dân Đảng cử hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất tại Quảng Châu, Tôn Trung Sơn đề xuất "liên Nga dung Cộng", tuyên bố cải tổ trong đảng hoàn thành. Đại hội bao gồm các đại biểu phi Quốc dân Đảng như thành viên cộng sản, họ chấp thuận tư tưởng chính trị của Tôn Trung Sơn, gồm chủ nghĩa Tam Dân: dân tộc, dân quyền, dân sinh.

Dưới quyền Tưởng Giới Thạch tại Trung Quốc đại lụcSửa đổi

Tướng Giới Thạch đảm nhiệm quyền lãnh đạo Trung Quốc Quốc dân Đảng sau khi Tôn Trung Sơn từ trần vào năm 1925.

Tôn Trung Sơn mất vào năm 1925, quyền lãnh đạo chính trị của Trung Quốc Quốc dân Đảng thuộc về Uông Tinh Vệ và Hồ Hán Dân, lần lượt là thủ lĩnh của phái tả và phái hữu trong đảng. Tuy nhiên, quyền lực thực tế nằm trong tay Tưởng Giới Thạch, ông là hiệu trưởng Trường Quân sự Hoàng Phố, và gần như kiểm soát hoàn toàn quân đội. Nhờ ưu thế về quân sự, Tưởng Giới Thạch lãnh đạo thầy trò Trường quân sự Hoàng Phố phát động Đông chinh, bình định Quảng Đông, thành lập Chính phủ Quốc dân tại Quảng Châu. Quốc dân Đảng lúc này trở thành một chính quyền đối địch với Chính phủ Bắc Dương đặt tại Bắc Kinh.[8]

Tháng 1 năm 1926, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Trung Quốc Quốc dân Đảng quyết định tiếp nhận di chúc của Tôn Trung Sơn và cương lĩnh chính trị của đại hội thứ nhất, tái khẳng định chủ trương chính trị "phản đế phản quân phiệt". Đại hội quyết định duy trì chấp hành chính sách tam đại là liên Nga, dung Cộng, phù trợ nông-công. Đối với Phái Hội nghị Tây Sơn hữu khuynh, thi hành khai trừ đảng tịch[9] Tưởng Giới Thạch đảm nhận chức Chủ tịch Ủy ban Thường vụ của Quốc dân Đảng vào ngày 6 tháng 7 năm 1926. Không như Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch biết tương đối ít về phương Tây và thấm nhuần sâu sắc văn hóa Trung Hoa. Theo thời gian, ông ngày càng gắn bó với văn hóa và truyền thống Trung Hoa. Ông học tập siêng năng điển tịch cổ điển Trung Hoa và lịch sử Trung Hoa.[8] Trong thời gian được phái sang Liên Xô, Tưởng Giới Thạch từng gặp Leon Trotsky và các nhà lãnh đạo Liên Xô khác, song nhanh chóng kết luận rằng mô hình chính quyền Xô viết không phù hợp với Trung Quốc.

Tưởng Giới Thạch đặc biệt tận tâm với tư tưởng "huấn chính" của Tôn Trung Sơn. Tôn Trung Sơn tin rằng để thống nhất và cải tiến Trung Hoa cần dựa vào một cuộc chinh phạt quân sự, tiếp đến là một giai đoạn huấn chính với đỉnh điểm là chuyển đổi sang dân chủ. Sử dụng tư tưởng này, Tưởng Giới Thạch dựng bản thân thành một nhà độc tài của Trung Hoa Dân Quốc, cả trong thời kỳ đại lục và thời kỳ dời sang Đài Loan.[8]

Năm 1926, Tưởng Giới Thạch phát động Bắc phạt nhằm đánh bại các quân phiệt miền bắc và thống nhất Trung Quốc dưới quyền Quốc dân Đảng. Chính phủ Quốc dân bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm tổng tư lệnh của Quốc dân Cách mệnh Quân để tiến hành chiến dịch. Tưởng Giới Thạch được Liên Xô tiếp tế, chinh phục được một nửa Trung Quốc trong vòng chín tháng. Tuy nhiên, phân liệt bùng phát giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Trung Quốc Quốc dân Đảng, đe dọa đến Bắc phạt. Uông Tinh Vệ chiếm được Vũ Hán trong tháng 1 năm 1927, ông ta được điệp viên Liên Xô Mikhail Borodin giúp đỡ, tuyên bố Chính phủ Quốc dân đã dời đến Vũ Hán. Tưởng Giới Thạch chiếm được Nam Kinh trong tháng 3, ông cho dừng chiến dịch của mình và chuẩn bị tuyệt giao bạo lực với Uông Tinh Vệ và đồng minh cộng sản của ông ta. Hành động trục xuất thành viên cộng sản và cố vấn Liên Xô của Tưởng Giới Thạch dẫn đến khởi đầu Nội chiến Trung Quốc. Uông Tinh Vệ cuối cùng giao lại quyền lực cho Tưởng Giới Thạch. Joseph Stalin lệnh cho Đảng Cộng sản Trung Quốc tuân theo quyền lãnh đạo của Quốc dân Đảng. Đến khi chia rẽ được hàn gắn, Tưởng Giới Thạch tiếp tục chiến dịch Bắc phạt và tìm cách chiếm lấy Thượng Hải.[8] Quốc dân Cách mạng Quân chiếm được Bắc Kinh vào năm 1928, là thủ đô được quốc tế công nhận, điều này cho phép Quốc dân Đảng nhận được công nhận ngoại giao rộng rãi vào cùng năm. Thủ đô được chuyển từ Bắc Kinh đến Nam Kinh. Giai đoạn Quốc dân Đảng cai trị Trung Quốc từ năm 1927 đến năm 1937 có đặc điểm là tương đối ổn định và thịnh vượng, được gọi là thập niên Nam Kinh.

Các binh sĩ Quốc dân Cách mệnh Quân hành quân đến tô giới Anh tại Hán Khẩu trong Bắc phạt.

Sau Bắc phạt, Chính phủ Quốc dân dưới quyền Trung Quốc Quốc dân Đảng tuyên bố rằng Trung Quốc bị bóc lột trong nhiều thập niên theo các điều ước bất bình đẳng ký kết giữa ngoại quốc và nhà Thanh. Chính phủ Quốc dân Đảng yêu cầu ngoại quốc đàm phán các hiệp định có các điều khoản bình đẳng.[10] Trước Bắc phạt, Quốc dân Đảng ban đầu tán thành chủ nghĩa liên bang và quyền tự trị cấp tỉnh. Tuy nhiên, Quốc dân Đảng dưới quyền Tưởng Giới Thạch đặt mục tiêu lập một nhà nước độc đảng tập quyền với một ý thức hệ. Tháng 3 năm 1929, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Trung Quốc Quốc dân Đảng chính thức tuyên bố "thời kỳ quân chính" kết thúc, bắt đầu "thời kỳ huấn chính"[11], theo đó đảng lãnh đạo chính phủ trong khi chỉ dẫn cho nhân dân cách thức tham gia một hệ thống dân chủ. Chủ đề tái tổ chức quân đội được đưa ra một hội nghị quân sự vào năm 1929, châm ngòi Trung Nguyên đại chiến. Mặc dù Tưởng Giới Thạch cuối cùng giành thắng lợi, song xung đột giữa các phái hệ tác động nghiêm trọng đến tính sống còn của Quốc dân Đảng.

Năm 1931, do chia rẽ nội bộ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tư Trung Quốc Quốc dân Đảng được cử hành riêng biệt tại ba nơi là Nam Kinh, Quảng Châu, Thượng Hải. Ngày 12 tháng 12 năm 1931, Hội nghị toàn thể lần thứ nhất Ủy ban Trung ương Trung Quốc Quốc dân Đảng khóa IV được triệu tập, ra tuyên cáo Quốc dân Đảng thống nhất. Hội nghị thừa nhận toàn bộ ủy viên do ba đại hội tổ chức tại Nam Kinh, Quảng Châu, Thượng Hải bầu ra; Hội nghị chính trị trung ương không đặt riêng chức chủ tịch, đổi sang chế độ thường ủy.

Các binh sĩ Quốc dân Cách mạng Quân trong Chiến tranh Trung-Nhật.

Mặc dù Chiến tranh Trung-Nhật chính thức bùng phát vào năm 1937, song Nhật Bản bắt đầu xâm lược từ năm 1931 khi họ sắp xếp Sự kiện Phụng Thiên và chiếm đóng Mãn Châu. Trước ảnh hưởng gia tăng của cộng sản, Tưởng Giới Thạch cho rằng muốn chiến đấu với ngoại xâm thì trước tiên Quốc dân Đảng cần phải giải quyết xung đột trong nước, do đó ông bắt đầu nỗ lực thứ nhì nhằm tiêu diệt các thành viên Đảng Cộng sản Trung Quốc vào năm 1934. Được các cố vấn quân sự Đức chỉ dẫn, Quốc dân Đảng buộc cộng sản phải triệt thoái khỏi các căn cứ của họ tại miền nam và miền trung của Trung Quốc để chuyển đến các vùng núi trong một cuộc triệt thoái quân sự quy mô lớn gọi là Trường chinh. Phó Tổng tài Quốc dân Đảng Uông Tinh Vệ chủ trương giảng hòa với Nhật Bản. Ngày 1 tháng 1 năm 1939, Hội nghị lâm thời Ủy ban Chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng quyết định khai trừ đảng tịch Quốc dân Đảng và toàn bộ chức vụ công của Uông Tinh Vệ.

Trương Học Lương bắt cóc Tưởng Giới Thạch trong Sự biến Tây An vào năm 1937 và buộc Tưởng Giới Thạch chấp thuận một liên minh với Đảng Cộng sản Trung Quốc để kháng Nhật. Tuy nhiên, trong nhiều tình huống liên minh chỉ nằm trên danh nghĩa; sau một giai đoạn hợp tác ngắn ngủi, quân đội hai bên bắt đầu giao chiến riêng rẽ với Nhật Bản. Xung đột giữa Trung Quốc Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn phổ biến trong chiến tranh. Trong khi Quốc dân Đảng chịu tổn thất nặng khi giao chiến với Nhật Bản, Đảng Cộng sản Trung Quốc mở rộng lãnh địa của họ theo chiến thuật du kích trong các khu vực nhật Bản chiếm đóng.

Chính phủ Quốc dân thu phục Đài Loan tại Đài Bắc, ngày 15 tháng 10 năm 1945.

Liên Xô tuyên chiến với Nhật bản ngay trước khi Nhật Bản đầu hàng và chiếm được Mãn Châu. Liên Xô từ chối cho quân đội của Quốc dân Đảng tiến vào khu vực này và giúp cho Đảng Cộng sản tiếp quản các nhà máy và vật tư của Nhật Bản. Nội chiến toàn diện giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc bùng phát vào năm 1946. Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc của cộng sản nhanh chóng phát triển ảnh hưởng và quyền lực do một số sai lầm của phía Quốc dân Đảng. Thứ nhất, Quốc dân Đảng thu nhỏ đột ngột quy mô quân đội sau khi Nhật Bản đầu hàng tạo ra một nhóm cựu chiến binh thất nghiệp và bất mãn. Thứ hai, chính phủ của Quốc dân Đảng tỏ ra hoàn toàn không có năng lực quản lý kinh tế, dẫn đến lạm phát phi mã. Thứ ba, Tưởng Giới Thạch lệnh cho quân đội bảo vệ các thành thị khiến cộng sản có cơ hội tự do di chuyển tại nông thôn. Ban đầu, Quốc dân Đảng nhận được vũ khí và đạn dược từ Hoa Kỳ, tuy nhiên do Trung Quốc xảy ra lạm phát phi mã, tham nhũng phổ biến và các điều tệ hại kinh tế khác, họ tiếp tục để mất sự ủng hộ của quần chúng. Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman viết rằng "Nhà họ Tưởng, họ Khổng và họ Tống đều là kẻ trộm", đã lấy 750 triệu USD trong viện trợ của Hoa Kỳ.[12]

Năm 1938, Đại hội Đại biểu Toàn quốc Lâm thời Trung Quốc Quốc dân Đảng xác định chế độ tổng tài, bầu cử Tưởng Giới Thạch làm Tổng tài Trung Quốc Quốc dân Đảng. Tháng 5 năm 1945, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 khai mạc tại Trùng Khánh, quyết định Tưởng Giới Thạch tiếp tục nhậm chức tổng tài, quyết định ngày 12 tháng 11 cùng năm triệu tập Quốc dân Đại hội.[13]:46

Sau khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, Đài Loan trở về dưới quyền cai trị của Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 25 tháng 10 năm 1945. Xung đột giữa người Đài Loan bản địa và người đến từ Trung Quốc Đại lục gia tăng sau khi Nhật Bản đầu hàng, đỉnh điểm là cuộc khởi nghĩa đổ máu của người bản địa bị quân đội của Quốc dân Đảng trấn áp vào ngày 28 tháng 2 năm 1947. Do hậu quả từ sự kiện này, người Đài Loan phải chịu đựng "Khủng bố trắng", một cuộc trấn áp chính trị do Quốc dân Đảng lãnh đạo làm chết hoặc mất tích trên 30.000 tri thức, nhà hoạt động Đài Loan và những người Đài Loan bị nghi là chống đối Quốc dân Đảng.[14]

Ngày 16 tháng 7 năm 1949, Quốc dân Đảng thành lập Ủy ban Bất thường Trung ương tại Quảng Châu, quy định rằng mọi mệnh lệnh chính trị của Chính phủ Quốc dân đều vô hiệu nếu không được ủy ban này phê chuẩn[15]:689. Tháng 8 năm 1949, Văn phòng Tổng tài Quốc dân Đảng được thành lập tại Thảo Sơn, Đài Bắc[13]:60. Đến cuối năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm soát hầu như toàn bộ Trung Quốc đại lục, Quốc dân Đảng triệt thoái đến Đài Loan cùng một lượng đáng kể ngân khố quốc gia và khoảng hai triệu người gồm binh sĩ và nạn dân. Một số thành viên của đảng ở lại Đại lục và tuyệt giao với trung ương Quốc dân Đảng để thành lập Ủy ban cách mạng Quốc dân đảng Trung Quốc, một trong tám đảng nhỏ được đăng ký của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và vẫn tồn tại đến nay.

Thời kỳ tại Đài LoanSửa đổi

Trụ sở cũ của Trung Quốc Quốc dân Đảng tại Đài Bắc (1949-2006); đối diện với Phủ Tổng thống.

Trụ sở của Trung Quốc Quốc dân Đảng được đặt tại số 11 Đường Trung Sơn Nam vào ngày 10 tháng 12 năm 1949.[16] Năm 1950, Tưởng Giới Thạch lên nắm quyền tại Đài Bắc theo "Điều khoản lâm thời Thời kỳ động viên dẹp loạn". Điều khoản tuyên bố thiết quân luật tại Đài Loan và ngưng một số tiến triển dân chủ, trong đó có bầu cử tổng thống và nghị viện, cho đến khi có thể thu phục Đại lục. Tưởng Giới Thạch sau đó còn khởi xướng Kế hoạch Quốc Quang nhằm tái chiếm Đại lục vào năm 1965, song cuối cùng từ bỏ vào tháng 7 năm 1972 sau nhiều nỗ lực bất thành. Trung Quốc Quốc dân Đảng ủng hộ các cuộc khởi nghĩa giai đoạn 1950–1958 tại Đại lục của người Hồi giáo từng thuộc lực lượng Quốc dân Đảng. Một cuộc chiến tranh lạnh cùng với một vài xung đột quân sự nhỏ diễn ra trong những năm đầu. Nhiều cơ quan chính phủ trước đặt tại Nam Kinh được tái tổ chức tại Đài Bắc dưới quyền chính phủ của Quốc dân Đảng. Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan giữ ghế của Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc cho đến năm 1971.

Trên đảo Đại Đảm của Kim Môn có biển ghi "Tam Dân chủ nghĩa thống nhất Trung Quốc"

Đến thập niên 1970, Trung Quốc Quốc dân Đảng thúc đẩy thành công cải cách ruộng đất, phát triển kinh tế, thi hành một hệ thống dân chủ ở mức độ thấp trong chính phủ, cải thiện quan hệ giữa Đài Loan và Đại lục và tạo ra kỳ tích kinh tế Đài Loan. Tuy nhiên, Quốc dân Đảng kiểm soát chính phủ trong một nhà nước độc tài một đảng cho đến các cải cách từ cuối thập niên 1970 đến thập niên 1990. Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan từng được cho đồng nghĩa với Quốc dân Đảng. Trong thập niên 1970, Quốc dân Đảng bắt đầu cho phép các cuộc "bầu cử bổ sung" tại Đài Loan để lấp chỗ trống cho các đại biểu cao tuổi trong Quốc hội.

Ngày 5 tháng 4 năm 1975, Tổng tài Tưởng Giới Thạch từ trần[13]:133. Ngày 28 tháng 4 năm 1975, Tưởng Kinh Quốc kế nhiệm làm Chủ tịch Trung Quốc Quốc dân Đảng. Năm 1981, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Trung Quốc Quốc dân Đảng thông qua "Đề án Quán triệt lấy chủ nghĩa Tam Dân thống nhất Trung Quốc" và "Đề án Sửa đổi Điều lệ Đảng Trung Quốc Quốc dân Đảng", thành lập "Đại đồng minh chủ nghĩa Tam Dân thống nhất Trung Quốc"[17][18]. Mặc dù không cho phép các đảng đối lập tồn tại, các đại biểu Đảng ngoại (ngoài đảng) được dung thứ. Trong thập niên 1980, Quốc dân Đảng tập trung chuyển đổi chính phủ từ hệ thống độc đảng sang hệ thống dân chủ đa đảng và đi theo hướng "Đài Loan hóa". Đảng Dân chủ Tiến bộ được thành lập vào ngày 28 tháng 9 năm 1986, Quốc dân Đảng từ đó bắt đầu cạnh tranh với đảng này trong các cuộc bầu cử nghị viện.

Ngày 13 tháng 1 năm 1988, Tưởng Kinh Quốc từ trần. Ngày 27 tháng 1, Lý Đăng Huy trở thành quyền chủ tịch của Đảng, đến tháng 7 thì chính thức trở thành Chủ tịch Trung Quốc Quốc dân Đảng. Năm 1991, thiết quân luật chấm dứt khi Tổng thống Lý Đăng Huy kết thúc Điều khoản lâm thời Thời kỳ động viên dẹp loạn. Toàn bộ các đảng bắt đầu được phép tranh cử tại bầu cử mọi cấp, kể cả bầu cử tổng thống. Lý Đăng Huy là tổng thống được bầu cử dân chủ đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc, và là người lãnh đạo của Quốc dân Đảng trong thập niên 1990, ông tuyên bố ủng hộ tích cực "quan hệ đặc thù hai quốc gia" với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, phía Đại lục liên kết ý tưởng này với Đài Loan độc lập.

Quốc dân Đảng đối diện với một cuộc phân liệt vào năm 1993, dẫn đến hình thành Tân Đảng vào tháng 8 năm 1993. Một cuộc phân liệt nghiêm trọng hơn nhiều trong đảng diễn ra trong bầu cử tổng thống năm 2000. Trước việc Liên Chiến được chọn làm ứng cử viên tổng thống của đảng, Tống Sở Du phát động một cuộc ứng cử độc lập, kết quả là trục xuất Tống Sở Du và các ủng hộ viên của ông, họ lập ra Đảng Thân dân vào ngày 31 tháng 3 năm 2000. Ứng cử viên Quốc dân Đảng xếp thứ ba, Tống Sở Du xếp thứ nhì trong cuộc bầu cử. Nhằm ngăn ngừa các thành viên bỏ Quốc dân Đảng để theo Đảng Thân dân, Liên Chiến đưa đảng ra xa chính sách ủng hộ độc lập của Lý Đăng Huy và trở nên tán thành hơn với mục tiêu tái thống nhất Trung Quốc. Thay đổi này khiến Lý Đăng Huy bị trục xuất khỏi đảng, các ủng hộ viên của Lý Đăng Huy thành lập Liên minh Đoàn kết Đài Loan vào ngày 24 tháng 7 năm 2001.

Năm 2006, Trung Quốc Quốc dân Đảng bán trụ sở của mình tại số 11 Đường Trung Sơn Nam tại Đài Bắc cho Tập đoàn Trường Vinh lấy 2,3 tỷ Đài tệ (96 triệu USD). Quốc dân Đảng chuyển đến một tòa nhà nhỏ hơn trên Đường Bát Đức tại phần phía đông của thành phố.[19] Trong thời gian cầm quyền tại Đài Loan, Quốc dân Đảng tích lũy được một đế chế kinh doanh rộng lớn gồm các ngân hàng, công ty đầu tư, hãng hóa dầu, đài phát thanh truyền hình, qua đó khiến Quốc dân Đảng trở thành chính đảng giàu nhất thế giới, với tài sản từng được ước tính là khoảng 2-10 tỷ USD.[20] Mặc dù nguồn quỹ này có vẻ đã giúp ích cho Quốc dân Đảng đến giữa thập niên 1990, song sau đó nó dẫn đến các cáo buộc tham nhũng (thường gọi là "vàng đen"). Sau năm 2000, tài sản tài chính của Quốc dân Đảng có vẻ như là mắc nợ nhiều hơn có lợi, và Quốc dân Đảng bắt đầu đa dạng tài sản của họ. Tháng 7 năm 2014, Quốc dân Đảng báo cáo tổng tài sản là 26,8 tỷ Đài tệ (892,4 triệu USD) và lợi nhuận thu được là 981,52 triệu Đài tệ trong năm 2013, là một trong các chính đảng giàu nhất trên thế giới.[21]

Liên Chiến [giữa] và đoàn đại biểu Trung Quốc Quốc dân Đảng viếng Lăng Tôn Trung Sơn tại Nam Kinh trong chuyến thăm của họ đến Đại lục vào năm 2005.

Ngày 28 tháng 3 năm 2005, ba mươi thành viên của Quốc dân Đảng dưới quyền Phó Chủ tịch Giang Bính Khôn sang thăm Trung Quốc Đại lục. Đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của Trung Quốc Quốc dân Đảng đến Đại lục từ khi họ chiến bại trước cộng sản vào năm 1949 (dù các thành viên Quốc dân Đảng kể cả Giang Bính Không trước đó từng tới thăm với tư cách cá nhân). Trong chuyến đi, Quốc dân Đảng ký kết một thỏa thuận mười điểm với Đảng Cộng sản Trung Quốc, những người đối lập gọi chuyến đi này là Quốc-Cộng hợp tác lần thứ ba. Đến tháng 5 năm 2005, Chủ tịch Liên Chiến đến thăm Đại lục và hội kiến Tống bí thư Hồ Cẩm Đào, là cuộc gặp đầu tiên giữa lãnh đạo hai đảng kể từ sau khi kết thúc nội chiến vào năm 1949.

Năm 2005, Mã Anh Cửu trở thành chủ tịch của Quốc dân Đảng, đến ngày 13 tháng 2 năm 2007, ông bị truy tố với cáo buộc biển thủ khoảng 11 triệu Đài tệ (339.000 USD), liên quan đến vấn đề "chi phí đặc biệt" trong thời gian ông làm thị trưởng Đài Bắc. Ngay sau đó, ông đệ đơn từ chức chủ tịch đảng và đồng thời chính thức tuyên bố tranh cử tổng thống. Tháng 12 năm 2007, Mã Anh Cửu trắng án mọi tội trạng và lập tức đệ đơn kiện các công tố viên. Mặc dù ông đã từ chức chủ tịch đảng, ông là ứng cử viên của đảng trong bầu cử tổng thống năm 2008 và giành thắng lợi. Ngày 25 tháng 6 năm 2009, Tổng thống Mã Anh Cửu ứng cử chức vụ chủ tịch đảng và trở thành ứng cử viên duy nhất đăng ký. Ngày 26 tháng 7, Mã Anh Cửu thắng cử, trở thành tân chủ tịch Quốc dân Đảng,[22] Điều này chính thức cho phép Mã Anh Cửu có thể gặp Tống bí thứ Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình và các phái đoàn Đại lục khác, do ông có thể đại diện cho Quốc dân Đảng với thân phận nhà lãnh đạo của một chính đảng Trung Quốc.[23]

Ngày 29 tháng 11 năm 2014, Quốc dân Đảng chịu tổn thất lớn trong bầu cử địa phương trước Đảng Dân Tiến, chỉ thắng tại sáu huyện thị. Mã Anh Cửu sau đó từ chức chủ tịch Đảng vào ngày 3 tháng 12 và thay thế là quyền Chủ tịch Ngô Đôn Nghĩa. Bầu cử chủ tịch đảng được tổ chức vào ngày 17 tháng 1 năm 2015 và Chu Lập Luân đắc cử. Ông nhậm chức vào ngày 19 tháng 2.[24] Tháng 5 cùng năm, ông cùng Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình tiến hành hội đàm tại Bắc Kinh. Đến tháng 7 cùng năm, Hồng Tú Trụ trong Đại hội đại biểu toàn quốc được chọn làm ứng cử viên tổng thống của Quốc dân Đảng. Ngày 17 tháng 10, Đảng bộ Trung ương Quốc dân Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lâm thời, quyết định phế trừ tư cách ứng cử viên của Hồng Tú Trụ, chọn Chu Lập Luân làm ứng cử viên. Trong bầu cử tổng thống năm 2016, Chu Lập Luân thất bại và tuyên bố từ chức chủ tịch đảng, Hoàng Mẫn Huệ tạm quyền chủ tịch đảng. Trong bầu cử chủ tịch đảng năm 2016, Hồng Tú Trụ trở thành nữ chủ tịch đầu tiên của Quốc dân Đảng.

Mục lục

  • 1 Tên gọi
  • 2 Bối cảnh
  • 3 Chiến tranh Bắc phạt (1926-1928) và Quốc-Cộng phân liệt
  • 4 Diễn biến
    • 4.1 Nội chiến lần thứ nhất
      • 4.1.1 Giai đoạn 1927-1937
    • 4.2 Chiến tranh Trung Nhật (1937–1945)
    • 4.3 Nội chiến lần thứ 2
      • 4.3.1 Tương quan lực lượng sau chiến tranh Trung-Nhật
      • 4.3.2 Giai đoạn 1946-1950
      • 4.3.3 Thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Quốc dân đảng rút chạy ra Đài Loan
  • 5 Nguyên nhân thắng lợi của Đảng Cộng sản
    • 5.1 Chính sách hợp lý của Đảng Cộng sản
    • 5.2 Sự yếu kém của Quốc dân đảng
  • 6 Sau nội chiến
  • 7 Tướng lĩnh
    • 7.1 Quốc dân đảng Trung Quốc
    • 7.2 Đảng Cộng sản Trung Quốc
    • 7.3 Quân phiệt
  • 8 Danh sách vũ khí
  • 9 Danh sách các trận đánh trong cuộc nội chiến
    • 9.1 Giai đoạn 1945-1949
      • 9.1.1 1945
      • 9.1.2 1946
      • 9.1.3 1947
      • 9.1.4 1948
      • 9.1.5 1949
    • 9.2 Giai đoạn sau 1949
      • 9.2.1 1950
      • 9.2.2 1951
      • 9.2.3 1952
      • 9.2.4 1953
    • 9.3 1954
      • 9.3.1 1955
      • 9.3.2 1960
      • 9.3.3 1950–1958
    • 9.4 1995-1996
  • 10 Xem thêm
  • 11 Chú thích
  • 12 Tham khảo

Tên gọiSửa đổi

Các tài liệu chính thức và sử liệu giáo khoa của Đảng Cộng sản Trung Quốc và chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi cuộc chiến là Chiến tranh Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (tiếng Trung: 中国人民解放战争), gọi tắt là Chiến tranh Giải phóng, hoặc Nội chiến Cách mạng lần thứ 3 (tiếng Trung: 第三次国内革命战争). Còn tài liệu tương đương của Trung Hoa Quốc dân đảng và chính quyền Trung Hoa Dân quốc thì coi đây là cuộc nổi loạn của "phỉ quân" Trung Hoa Cộng sản đảng chống lại Nhà nước và chính phủ trung ương, nên gọi là Kham loạn chiến tranh (tiếng Trung: 戡乱战争) (chiến tranh bình loạn) hoặc Chiến tranh kháng Cộng. Sách báo người Hoa hải ngoại thường gọi là Nội chiến Quốc - Cộng. Cộng đồng quốc tế gọi chung là Nội chiến Trung Quốc (Chinese Civil War). Một ít sử gia Đài Loan gom chung thời kỳ này và gọi là "Chiến tranh kháng Nhật - Cộng".

Bối cảnhSửa đổi

Các tập đoàn lãnh chúa quân phiệt Trung Quốc chính (1925)- các vùng màu hồng

Nhà Thanh, triều đại phong kiến cuối cùng tại Trung Hoa, sụp đổ năm 1911.[5] Trung Quốc rơi vào vòng kiểm soát của một số lãnh chúa quân phiệt lớn nhỏ, gọi là thời kỳ quân phiệt. Để đánh bại các quân phiệt này, vốn nắm quyền kiểm soát phần lớn miền Hoa Bắc và Hoa Nam, lực lượng phản đế và lực lượng quốc gia thuộc Quốc dân đảng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, tiến hành tìm kiếm trợ giúp từ nước ngoài. Tuy nhiên các nỗ lực tìm kiếm ủng hộ từ các quốc gia dân chủ phương Tây của Tôn Trung Sơn thất bại, và tới năm 1921 ông quay sang Liên Xô. Liên Xô vì lý do chính trị, theo đuổi chính sách hỗ trợ cả Tôn Trung Sơn lẫn đảng Cộng sản Trung Quốc mới thành lập. Như vậy cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu.

Năm 1923, Tôn Trung Sơn và đại diện Liên Xô là Adolph Joffe ra thông cáo chung tại Thượng Hải, theo đó Liên Xô hứa sẽ trợ giúp để thống nhất Trung Quốc.[6] Bản thông cáo này là lời tuyên bố hợp tác giữa Quốc tế III, Trung Quốc Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc.[6] Thành viên Quốc tế thứ ba là Mikhail Borodin tới Trung Quốc năm 1923 để hỗ trợ cho việc tái tổ chức và củng cố Quốc dân đảng, theo mô hình Đảng Cộng sản Liên Xô. Đảng Cộng sản Trung Quốc liên kết với Quốc dân đảng và thành lập Mặt trận thống nhất Trung Quốc lần thứ nhất.[3]

Năm 1923, Tôn Dật Tiên điều Tưởng Giới Thạch, một trong những phụ tá của mình từ thời Đồng minh hội, đến Moskva trong vài tháng để nghiên cứu quân sự và chính trị.[7] Tới năm 1924, Tưởng trở thành hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, và nổi lên với tư cách người kế nhiệm Tôn Dật Tiên lãnh đạo Quốc dân đảng.[7]

Phía Liên Xô cung cấp phần lớn tài liệu nghiên cứu, tổ chức và trang thiết bị, bao gồm đạn dược cho học viện.[7] Liên Xô cũng giúp đào tạo kỹ thuật vận động quần chúng. Với sự trợ giúp này, Tôn Dật Tiên đã có thể gây dựng nên một "đội quân của đảng" trung thành, mà ông định sử dụng để đánh bại quân đội của các lãnh chúa quân phiệt. Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng có người trong học viện, nhiều người trở thành giảng viên trong trường, kể cả Chu Ân Lai, với vai trò giảng viên chính trị.[8]

Thành viên đảng Cộng sản cũng được phép gia nhập Quốc dân đảng sau khi xét duyệt.[6] Bản thân đảng Cộng sản khi ấy cũng còn nhỏ yếu, chỉ có 300 thành viên vào năm 1922 và 1.500 thành viên năm 1925,[9] trong khi Quốc dân đảng năm 1923 đã có 50.000 thành viên[9].

Chiến tranh Bắc phạt (1926-1928) và Quốc-Cộng phân liệtSửa đổi

Chỉ vài tháng sau khi Tôn Dật Tiên chết năm 1925, Tưởng Giới Thạch, với vai trò tổng chỉ huy Quân đội cách mạng quốc gia, tiến hành cuộc Bắc phạt.[9] Tuy vậy, tới năm 1926, Quốc dân đảng đã phân hóa thành phái tả và phái hữu.[9] Những người Cộng sản trong hàng ngũ Quốc dân đảng cũng phát triển mạnh. Tới tháng 3 năm 1926, biến cố tàu Trung Sơn xảy ra, Tưởng đã kịp thời phá vỡ âm mưu bắt cóc mình, và áp đặt lệnh cấm thành viên đảng Cộng sản giữ các vị trí lãnh đạo trong Quốc dân đảng.

Quân chính phủ Quốc dân đảng bắt giữ nghi phạm Cộng sản.

Đầu năm 1927, sự tranh chấp Quốc Cộng dẫn tới sự phân liệt trong hàng ngũ cách mạng. Đảng Cộng sản và nhóm cánh tả của Quốc dân đảng quyết định chuyển thủ đô chính phủ Quốc dân từ Quảng Châu về Vũ Hán, nơi đảng Cộng sản có ảnh hưởng mạnh.[9] Nhưng Tưởng Giới Thạch và viên tướng-quân phiệt Lý Tông Nhân, người đánh bại lãnh chúa quân phiệt Tôn Truyền Phương, lại muốn chuyển về Giang Tây. Phe cánh tả bác bỏ đề xuất của Tưởng Giới Thạch, còn Tưởng lên án phe cánh tả "phản bội Chủ nghĩa Tam dân" của Tôn Dật Tiên khi nhận mệnh lệnh từ Quốc tế Cộng sản. Theo Mao Trạch Đông, sự khoan dung của Tưởng Giới Thạch đối với những người cộng sản trong Quốc dân đảng giảm đi khi quyền lực của Tưởng Giới Thạch gia tăng.[10]

Ngày 7 tháng 4, Tưởng và một số lãnh đạo Quốc dân Đảng họp, và đưa ra quan điểm các hoạt động của Đảng Cộng sản làm rối loạn xã hội và kinh tế, và cần phải ngưng lại để cuộc cách mạng quốc gia có thể tiếp tục tiến triển. Kết quả của cuộc họp này là ngày 12 tháng 4, Tưởng Giới Thạch quay ra xử lý những người Cộng sản tại Thượng Hải. Quốc dân Đảng tiến hành thanh trừng khỏi hàng ngũ của mình các thành viên cánh tả, và hàng trăm đảng viên Cộng sản bị bắt giữ hay bị hành quyết.[11]

Công nhân, người lao động phản đối mạnh mẽ chủ trương của Tưởng. Nhưng Tưởng Giới Thạch không dám sử dụng binh sĩ đàn áp công nhân, sợ danh không thuận sẽ xảy ra binh biến. Bởi, binh lính luôn coi công nhân là bè bạn cùng một liên minh. Nhiều chỉ huy các đơn vị đã tỏ ra ngần ngừ, từ chối nhận lệnh đàn áp. Do đó, Tưởng Giới Thạch đã triệu tập Đỗ Nguyệt Sanh, Hoàng Kim Vinh, Trương Tiêu Lâm - 3 đầu lĩnh của Thanh Bang hội đến thành phố cấp huyện Cửu Giang họp kín, bàn mưu "mượn đao giết người". Tưởng nhờ ba ông trùm đưa quân bang hội đi đàn áp công nhân, người biểu tình thay cho quân đội. Lấy danh nghĩa công hội, Đỗ Nguyệt Sênh đã tuyển mộ và vũ trang cho gần 3.000 tên vô lại của Thanh Bang. Đạo quân này được Đỗ Nguyệt Sanh khoác cho những cái tên mỹ miều và ôn hòa là "Hiệp hội Công nhân Thượng Hải" và "Hiệp hội đồng tiến Trung Hoa". Đêm 11/4/1927, mượn danh nghĩa hai tổ chức này, Đỗ Nguyệt Sanh đã mời ủy viên trưởng Tổng công hội Thượng Hải Uông Thọ Hòa đến tư dinh dự tiệc bàn việc hợp tác. Giữa buổi tiệc, Đỗ viện cớ ra ngoài. Thích khách do Đỗ bố trí sẵn thừa cơ đã lẻn vào hạ sát Uông Thọ Hòa ngay tại bàn tiệc. Đúng 1 giờ sáng ngày 12/4/1927, 3.000 tên Thanh Bang, mỗi tên được Đỗ phát cho 10 đồng bạc trắng, mặc đồng phục quần short, áo xanh cộc tay, trên vai có khắc dấu hiệu chữ "công" tỏa đi các nơi đồng loạt tập kích các đội tự vệ của công nhân. Trời vừa sáng, lấy cớ "công nhân xung đột nội bộ, gây mất trị an", Tưởng Giới Thạch đã xua quân đội đi giải giới vũ khí cả hai bên. Thực tế, quân đội được lệnh lập hàng rào ngăn hai bên tấn công và chống trả nhau, tách hai phe giang hồ và công nhân, sau đó lập hành lang bảo vệ cho bọn Thanh Bang rút lui an toàn. Kết quả là 2.700 công nhân vũ trang bị tước vũ khí, 120 người chết, 180 người khác bị thương ngay sau đêm đụng độ đầu tiên. Đến khi trời tối, kịch bản cũ lại lặp lại… Hơn 3 tháng sau đó, Thượng Hải luôn náo loạn bởi hàng trăm vụ tập kích khác của Thanh Bang nhằm tiêu diệt lực lượng công nhân tự vệ. Phong trào công nhân Thượng Hải bị dìm vào bể máu và suy yếu, không còn đủ sức ngáng trở hay phản đối các chủ trương của Tưởng.[12]

Sự kiện này được gọi tên là "chính biến Thượng Hải", "biến cố ngày 12 tháng 4", hay là "cuộc thảm sát Thượng Hải".[13] Cuộc thảm sát đào sâu thêm hố chia cắt Tưởng và phe Vũ Hán của Uông Tinh Vệ. Đảng Cộng sản định tổ chức giành chính quyền tại một số thành phố lớn như Nam Dương, Trường Sa, Sán Đầu, và Quảng Châu. Đảng viên Cộng sản, cùng với nông dân và thợ mỏ tại Hồ Nam dưới sự lãnh đạo của Mao[14] tiến hành một cuộc nổi dậy, nhưng thất bại.[14] Tại Trung Quốc khi đó tồn tại ba thủ đô, thủ đô được quốc tế công nhận tại Bắc Kinh,[15] Phe Cộng sản và phe cánh tả thuộc Quốc dân đảng đóng thủ đô tại Vũ Hán,[16] và phe cánh hữu Quốc dân đảng đóng đô tại Nam Kinh, thành phố này sẽ tiếp tục đóng vai trò thủ đô của Quốc dân đảng trong suốt một thập kỷ kế tiếp.[15]

Đảng Cộng sản Trung Quốc nay bị trục xuất khỏi Vũ Hán bởi đồng minh của mình là phe cánh tả Quốc dân đảng, nhóm này đến lượt mình lại bị Tưởng Giới Thạch lật đổ. Quốc dân đảng tiếp đó tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh bắc phạt diệt lực lượng quân phiệt và đánh chiếm được Bắc Kinh vào tháng 6 năm 1928.[17] Tiếp đó, phần lớn miền đông Trung Quốc dần rơi vào tay chính quyền Nam Kinh, và chính quyền Quốc dân đảng tại Nam Kinh nhận được sự thừa nhận từ cộng đồng quốc tế như chính phủ hợp hiến duy nhất tại Trung Quốc. Quốc dân đảng tuyên bố nguyên tắc ba giai đoạn cách mạng, phù hợp với cương lĩnh của Tôn Dật Tiên: thống nhất vũ trang, bồi dưỡng chính trị, và dân chủ theo hiến pháp.[18]