Ví dụ về y học chứng cứ

Khái niệm

Y học chứng cứ ( hay y học dựa vào chứng cứ – Evidence based Medicine – EBM) là một khái niệm được đề cập lần đầu tiên năm 1972 bởi Giáo sư Archie Cochrane trong quyển sách của ông có tựa đề “Effectiveness and Efficiency: Random Reflections on Health Services”, và đã trở thành một “học thuyết” y khoa trong thế kỷ 20 và 21, thay thế dần quan niệm y học truyền thống là lấy kinh nghiệm và suy đoán lâm sàng làm nền tảng. Trên thế giới hiện nay hầu như bất cứ bộ môn nào trong y khoa cũng đều ứng dụng các nguyên lý và phương pháp y học chứng cứ (YHCC) trong chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh.

Thực ra, việc tìm kiếm những chứng cứ tốt để làm cơ sở thực hành cho y khoa có lẽ đã bắt đầu từ việc thử nghiệm của nhân vật Daniel trong Kinh thánh năm 600 trước Công nguyên về so sánh chế độ ăn chay và ăn thịt. Đến thời Phục Hưng, các nghiên cứu về bệnh tật của các nhà khoa học đã dọn đường cho sự ra đời của YHCC như James Lind ( bệnh Scurvy năm 1754 ), Edward Jenner (bệnh đậu mùa năm 1756), Pierre Louis (nghiên cứu về trích máu năm 1835),…

    Định nghĩa của David Sackett (1934 – 2015), cha đẻ của YHCC nêu rõ “YHCC là một phương pháp thực hành y khoa dựa vào các dữ liệu y học một cách sáng suốt và có ý thức nhằm nâng cao chất lượng điều trị và chăm sóc người bệnh”. Đó là một qui trình tổng hợp gốm 3 yếu tố: chứng cứ khoa học, kinh nghiệm lâm sàngđặc điểm cụ thể của mỗi người bệnh.

Tầm quan trọng của YHCC

  • Cung cấp các luận cứ khoa học chính xác cho phương pháp chẩn đoán và điều trị của thầy thuốc dựa trên kết quả thống kê y học.
  • YHCC lấy người bệnh làm trung tâm nên buộc người thầy thuốc phải hết sức cẩn thận khi đề ra một chẩn đoán hay một phương pháp điều trị.
  • Lưu ý người thầy thuốc về sự tuân thủ tỉ lệ giữa hiệu quả điều trị và tính kinh tế khi sử dụng thuốc cho người bệnh.
  • Thay đổi trong mối quan hệ giữa thầy thuốc và người bệnh. Thầy thuốc có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin về bệnh trạng của người bệnh, giải thích mọi thắc mắc của người bệnh về cách điều trị và các phương tiện điều trị. Người bệnh sẽ tự lựa chọn và quyết định các dịch vụ điều trị.

Vì sao YHCC chưa được phổ biến rộng rãi?

Tuy quan trọng và ngày càng trở nên là một xu thế tất yếu trong giáo dục và thực hành y khoa, nhưng YHCC đã phải gánh chịu không ít sự hoài nghi và phản đối từ chính những người thầy thuốc thực hành và chính điều này đã làm cho việc triển khai YHCC gặp không ít vướng mắc.

  • Việc không coi trọng ý kiến cá nhân và kinh nghiệm lâm sàng làm nhiều người cảm thấy khó chịu vì họ cho rằng cảm nhận lâm sàng và ý kiến cá nhân luôn phải được tôn trọng tuyệt đối trong việc đưa ra các quyết định điều trị cho người bệnh. Đây thực sự là một vướng mắc căn bản vẫn chưa được giải quyết triệt để vì trong hệ thống giáo dục y khoa, nhất là ở nước ta, tinh thần tôn sư trọng đạo luôn được coi trọng. Hơn nữa, y khoa không đơn thuần là khoa học mà còn là nghệ thuật. Nghệ thuật biểu hiện ở trực giác, cảm nhận của người thầy thuốc về tình trạng của người bệnh và cách giải quyết vấn đề dựa trên cảm nhận đó. Trực giác là một phần không thể thiếu được trong y khoa. Cảm nhận tuy quan trọng nhưng không thể là một phương pháp tốt để đương đầu với những căn bệnh phức tạp. Tuy nhiên, YHCC không bác bỏ hoàn toàn trực giác và cảm nhận lâm sàng mà chỉ xếp nó thuộc nhóm chứng cứ ít quan trọng hơn mà thôi. Và trong hành trình chẩn đoán và điều trị, nó vẫn là điều cần thiết.
  • YHCC yêu cầu người thầy thuốc cập nhật những thông tin khoa học mới nhất để đưa ra quyết sách điều trị và dự phòng hiệu quả và kinh tế nhất. Nhưng lượng thông tin y học ngày càng nhiều, mà thời gian tra cứu của bác sĩ ngày càng ít do quá bận rộn với công việc chuyên môn (tại bệnh viện và…phòng mạch) và họp hành khác. Mặt khác, cho dù thầy thuốc hiểu rõ các dữ kiện khoa học nhưng chẩn đoán không ra bệnh hoặc chẩn đoán sai thì cũng không áp dụng được dữ kiện đó.
  • Người thầy thuốc không không phải cái máy mà là một con người với đầy đủ hỉ, nộ, ái, ố, cũng có lúc mệt mỏi, căng thẳng hay buồn bực, giận hờn và có lúc còn bị ảnh hưởng bởi cách xử sự, thái độ của người bệnh và thân nhân. Ngoài ra, người ta còn đề cập đến sự ảnh hưởng của trường phái, ý kiến của những cá nhân có uy tín hoặc ở vị trí cao tại cơ sở thực hành,…

Trước nay, người bệnh thường đặt trọn niềm tin vào giới thầy thuốc vì họ tin rằng họ được điều trị theo những cách thức tốt nhất dựa vào chứng cứ khoa học nghiêm túc. Sẽ ra sao nếu họ biết được phần lớn các thầy thuốc không biết hoặc không thích sử dụng YHCC trong công việc hàng ngày?

YHCC ra đời với mong muốn thay đổi tình trạng này. Định nghĩa của YHCC nêu rõ là sử dụng các dữ liệu y học “một cách sáng suốt và có ý thức”. Dữ liệu y học ở đây là kết quả nghiên cứu y khoa đã được công bố trên các tập san y học chuyên môn được cộng đồng khoa học công nhận. Người thầy thuốc phải biết cách phân loại, đánh giá, chọn lọc dữ liệu tốt nhất, kết hợp với kinh nghiệm lâm sàng và thông tin từ người bệnh để có hướng điều trị tối ưu cho cá nhân người bệnh đó.

  Bs. Phan Minh Trí/Báo Thuốc và Sức khỏe

Chủ đề