Quá trình anh xâm nhập Ấn Độ (1612-1805) Show
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.6 KB, 74 trang ) ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG diện tích thuộc địa rất lớn nhằm hướng đến mục tiêu: “Mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc”. Thời kì đầu, Anh cũng thông qua hoạt động buôn bán để từng bước xâm nhập vào Ấn Độ. Sau khi dần gạt bỏ các đối thủ của mình và lợi dụng sự suy yếu của Ấn Độ, Anh tiến hành đẩy mạnh các hoạt động xâm nhập và bước đầu xâm chiếm tiến đến độc chiếm Ấn Độ: “Miếng mồi khổng lồ, thơm ngon đầy hương vị Á Đông dã nằm gọn trong bụng sói. Giờ đây con thú dữ bắt đầu nghĩ đến chuyện tiêu hóa miếng mồi đó” [12, tr.72]. Vì vậy, đến năm 1805, phần lớn lãnh thổ Ấn Độ đã bị thực dân Anh xâm chiếm và đặt ách cai trị. Tình hình ấy đã để lại những di chứng lâu dài cho Ấn Độ. 2 3 Với những hệ quả mà chủ nghĩa thực dân mang lại, nghiên cứu quá trình xâm nhập của thực dân Anh đối với đất nước Ấn Độ, một mặt giúp ta hiểu sâu sắc hơn về phương thức, thủ đoạn bành trướng của thực dân Anh ở Ấn Độ. Bước đầu xâm nhập làm cơ sở dẫn đến những biến đổi về kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa và giáo dục của Ấn Độ. Bên cạnh đó, Việt Nam và Ấn Độ đã có mới quan hệ mật thiết với nhau từ nghìn năm nay, cũng bị thực dân phương Tây xâm lược, thống trị. Vì vậy, nghiên cứu quá trình thực dân Anh xâm lược Ấn Độ giúp chúng ta có thể hiểu sâu sắc hơn về lịch sử hai nước, cảm thông với những khó khăn hiện nay mà hai dân tộc phải đối mặt với di chứng của thực dân để lại. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề: Quá trình Anh xâm nhập Ấn Độ (1612 - 1805) làm khóa luận tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Từ quá khứ đến hiện tại, Ấn Độ luôn có một vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Chính vì thế, Ấn Độ là một một kho tàng bí ẩn, là một đề tài vô cùng hấp dẫn, lí thú và đang được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, khám phá, trong đó có nghiên cứu lịch sử Ấn Độ buổi đầu thời cận đại. Nghiên cứu về Ấn Độ buổi đầu thời cận đại, đặc biệt là quá trình Anh xâm nhập Ấn Độ có các công trình nghiên cứu cơ bản sau: - Các công trình nghiên cứu tổng quan về lịch sử Ấn Độ: Đầu tiên phải kể đến tác phẩm Lịch sử Ấn Độ của Vũ Dương Ninh (chủ biên). Tác phẩm là công trình chuyên khảo viết về lịch sử đất nước Ấn Độ từ thời khởi thủy đến thế kỉ XX. Bên cạnh đó, nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ còn được đề cập đến trong các công trình: Các nước Nam Á của nhà xuất bản Sự thật, Ấn Độ qua các thời đại của Nguyễn Thừa Hỷ… Kết quả của các công trình được nêu ở trên đã trình bày lịch sử phát triển của Ấn Độ theo hệ thống cắt lát hoặc tiến trình theo hình thức thông sử. Tuy nhiên, đặc điểm chung của các công trình nghiên cứu trên chưa coi quá trình thực dân Anh xâm nhập Ấn Độ là đối tượng nghiên cứu chính. Mặc dù vậy, những sử liệu được đề cập trong các công trình là cơ sở quan trọng để đề tài nghiên cứu về quá trình thực dân Anh xâm nhập Ấn Độ một cách hoàn thiện và hệ thống. 3 4 - Các công trình nghiên cứu về quá trình thực dân Anh xâm nhập Ấn Độ: Một trong những công trình nghiên cứu được các học giả quan tâm khi nghiên cứu về quá trình các nước thực dân phương Tây xâm nhập Ấn Độ là tác phẩm Ấn Độ hôm nay và ngày mai (bản dịch tiếng Việt) của R.Panmơđớt từng là phó chủ tịch Đảng cộng sản Anh là công trình nghiên cứu quý báu về lịch sử Ấn Độ. Trong tác phẩm này, ông đã nghiên cứu tương đối sâu về quá trình xâm nhập của thực dân phương Tây vào Ấn Độ và nền thống trị của thực dân Anh ở Ấn Độ. Tác phẩm cũng đã nhấn mạnh đến sự biến đổi của xã hội thuộc địa Ấn Độ. Tiếp đến, công trình Bán đảo Ấn Độ (từ đầu thế kỉ XVI đến năm 1857) của Phạm Cao Dương cũng đã nghiên cứu về “cuộc giao tiếp với Tây phương” của Ấn Độ cũng như những biến đổi trong xã hội Ấn Độ thời kì thuộc địa. Tác phẩm Bán đảo Ấn Độ từ 1857 đến 1947 là công trình đề cập khá sâu sắc sự biến đổi xã hội của Ấn Đô dưới thời thuộc địa và các phong trào quốc gia Ấn Độ và sự đấu tranh giành độc lập của nhân dân Ấn Độ cũng như sự trao trả độc lập cho Ấn Độ của thực dân Anh. K.Marx, người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, ngay từ năm 1853 đã có những bài viết đăng trên báo “Diễn đàn hàng ngày của New York”, nghiên cứu về Sự thống trị của Anh ở Ấn Độ, trong các bài viết, Mác đã nêu lên những hành động mang tính chất thực dân của công ty Đông Ấn Anh trong giai đoạn đầu của nền thống trị thực dân. Các công trình nghiên cứu về Ấn Độ ngày càng phong phú, góp phần bổ sung, hoàn thiện bức tranh lịch sử Ấn Độ qua các thời kì. Tuy nhiên, những công trình tiếp cận được các tác giả đều chưa coi quá trình Anh xâm nhập Ấn Độ là đối tượng nghiên cứu chính nên vấn đề này chưa được phản ánh đúng mức. Trong khi đó, quá trình Anh xâm nhập Ấn Độ đã để lại cho Ấn Độ nói riêng và các nước thuộc địa nói chung những bài học sâu sắc, đồng thời những hậu quả mà chủ nghĩa thực dân đã để lại cho các nước thuộc địa trong lịch sử và ngày nay. Mặc dù vậy, nhưng những nguồn sử liệu trước đó là cơ sở, là tiền đề quan trọng để đề tài kế thừa, phát triển trong quá trình nghiên cứu. 4 5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu vấn đề quá trình Anh xâm nhập Ấn Độ, chúng tôi hướng đến các mục đích sau: - Thứ nhất: Làm rõ cơ sở tác động đến sự xâm nhập của thực dân Anh vào Ấn Độ bao gồm các yếu tố như tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Ấn Độ trước khi thực dân Anh xâm lược, các yếu tố nội tại của nước Anh và quốc tế tác động đến Anh xâm nhập Ấn Độ. - Thứ hai: Nghiên cứu quá trình thực dân Anh xâm nhập Ấn Độ từ năm 1612 đến năm 1805. - Thứ ba: Đánh giá đặc điểm, tác động mà quá trình Anh xâm nhập Ấn Độ đối với Ấn Độ, Anh và quan hệ quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau: - Thứ nhất: Nghiên cứu tình hình Ấn Độ trước khi thực dân Anh xâm nhập cũng như các nhân tố tác động Anh xâm nhập Ấn Độ. - Thứ hai: Phân tích quá trình xâm nhập Ấn Độ của thực dân Anh qua các giai đoạn trên phương diện chính trị, kinh tế, quân sự. - Thứ ba: Trên cơ sở phân tích quá trình Anh xâm nhập Ấn Độ để đánh giá đặc điểm, tác động của quá trình xâm nhập của thực dân Anh vào Ấn Độ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Xét ở phương diện tổng thể, đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình Anh xâm nhập Ấn Độ từ năm 1612 đến năm 1805. Bên cạnh đó đề tài còn nghiên cứu tình hình Ấn Độ trước khi thực dân phương Tây xâm lược cũng như các nhân tố tác động dẫn đến quá trình Anh xâm nhập vào Ấn Độ và đặc điểm, của quá trình này để từ đó góp phần làm rõ đối tượng nghiên cứu chính. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu quá trình Anh xâm nhập Ấn Độ từ năm 1612 đến năm 1805. Nghiên cứu trong khoảng thời gian đó, đề tài tiếp cận quá trình 5 6 Anh xâm nhập Ấn Độ và đặc điểm, tác động của quá trình xâm nhập đó đối với Anh cũng như đối với Ấn Độ và quan hệ quốc tế. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận nghiên cứu: Nghiên cứu của đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng hai phương pháp cơ bản là phương pháp lịch sử và phưng pháp lôgic. Sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, đề tài đặt các sự kiện, quá trình, hiện tượng trong bối cảnh lịch sử, gắn với thời gian cụ thể và nằm trong mối quan hệ biện chứng với các sự kiện khác để thấy được sự tác động, mối quan hệ. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp liên nghành khác như: Phân tích - tổng hợp; so sánh - đối chiếu; thống kê - mô tả,… để làm rõ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra. 6. Đóng góp của đề tài Đề tài nghiên cứu quá trình xâm nhập Ấn Độ của Anh từ năm 1612 đến năm 1805. Cho nên, đóng góp quan trọng của đề tài là đã chỉ ra được các giai đoạn, đặc điểm của quá trình Anh xâm nhập Ấn Độ và đánh giá được tác động của quá trình xâm nhập đó đối với sự phát triển của nước Anh cũng như những hệ quả đối với đất nước Ấn Độ. Việt Nam và Ấn Độ có mối quan hệ từ lâu đời và cùng bị chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược. Vì vậy, việc tìm hiểu quá trình Anh xâm nhập Ấn Độ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về lịch sử hai nước và cảm thông trước những khó khăn mà hai dân tộc phải đối mặt với di chứng thực dân để lại, từ đó phát triển mối quan hệ thâm tình Ấn - Việt lên một tầm cao mới trong giai đoạn toàn cầu hóa như hiện nay. Kết quả của đề tài có thể giúp cho việc nghiên cứu, tìm hiểu cũng như việc giảng dạy về lịch sử Ấn Độ nói riêng, lịch sử châu Á nói chung và phục vụ nhu cầu tham khảo của những ai quan tâm. 6 7 7. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm 3 chương: - Chương 1: Ấn Độ trước sự xâm nhập của thực dân Anh. - Chương 2: Quá trình thực dân Anh xâm nhập Ấn Độ (1612 - 1805). - Chương 3: Một số nhận xét, đánh giá về quá trình thực dân Anh xâm nhập Ấn Độ (1612 – 1805). 7 8 NỘI DUNG Chương 1: ẤN ĐỘ TRƯỚC SỰ XÂM NHẬP CỦA THỰC DÂN ANH 1.1. Ấn Độ trước khi thực dân Anh xâm nhập 1.1.1. Tình trạng cát cứ ở Ấn Độ Cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVIII, những cuộc khủng hoảng trong nội bộ triều đình Môgôn liên tiếp xảy ra. Những cuộc li khai của các tiều vương quốc diễn ra ngày một nhiều và các cuộc đấu tranh chống phong kiến bùng nổ ở khắp nơi trên đất Ấn Độ. Một vài quan lại cao cấp có khả năng cố gắng duy trì sự thống nhất nhưng vô hiệu. Điều này làm cho đế quốc Môgôn ngày một tan rã mất hết tính thống nhất như ban đầu. Đây là cơ sở để Anh xâm nhập Ấn Độ. Sau thời kì trị vì của Acơba các vị vua tiếp theo đã thực hiện những chính sách sai lầm trong việc trị nước. Điều này đã khơi sâu thêm chia rẽ dân tộc đã tồn tai từ lâu trong lòng xã hội Ấn Độ. Do vậy, những phong trào chống đối phong kiến Môgôn và các cuộc li khai đã làm cho tình trạng cát cứ ở Ấn Độ ngày một sâu sắc. Một phong trào phản phong rộng lớn của người Dojat bùng nổ ở Tây Bắc Ấn Độ trong những năm cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII. Sau nhiều lần nổi dậy tấn công vào chính quyền Môgôn, năm 1671 - 1672, họ đã đánh chiếm Đêli, đuổi cổ bọn phong kiến và bọn thầu thuế. Tuy bị đàn áp, họ vẫn không ngừng đấu tranh và tiến tới thành lập một vương quốc độc lập ở phía Nam Đêli. Mở đầu cho cuộc li khai là của Asaf Jah với xứ Dekan. Asaf Jak nguyên là tể tướng của triều đình Đêli và năm 1722 nhưng vì bất lực trước thời cuộc nên ông từ chức và năm 1724 ông được cử làm tổng đốc Dekan: “Tại đây ông đã cai trị như một vị tiểu vương độc lập đối với triều đình Môgôn” [9, tr.54], tiểu quốc Hyderabab đã hình thành từ đó với một triều đại tồn tại cho mãi đến năm 1949. Tiếp theo là xứ Audh ở miền trung lưu Hằng Hà: “Xứ này cũng tự xưng độc lập vào năm 1724” [9, tr.54]. Mấy năm sau đến lượt xứ Bengan, viên tổng đốc ở đây là Alivardi Khan đã lợi dụng tình thế, không chịu nộp cống phẩm và không nhận chủ quyền của hoàng đến Môgôn nữa. Xa hơn nữa, về phía Bắc sông Gange, “một số các tay giang hồ Rohilla từ A Phủ Hãn kéo sang cũng chiếm cứ một phần lãnh thổ lập ra xứ Rohilkkhand” [9, tr.55]. Cuộc đấu tranh của các dân tộc 8 9 Ấn Độ chống nền thống trị Môgôn cũng diễn ra khắp nơi. Đáng chú ý nhất là phong trào khởi nghĩa của người Marat ở miền nam Ấn Độ. Từ khi bị phong kiến Môgôn chinh phục, đất nước của người Marat là Maharaxra bị phân chia thành những thái ấp lớn trao cho bọn địa chủ Hồi giáo. Vì vậy, họ đã nổi dậy chiến đấu. Năm 1674, một phần lớn đất đai của người Marat được giải phóng và thành lập một vương quốc mới Maharaxra. Cũng trong thời gian này, nhiều vương quốc độc lập khác dần dần xuất hiện ở vùng Bengan, Aodơ, Haiderabat, Rajatxtan Hoàng đế Môgôn vẫn tự coi mình là kẻ thống trị tối cao, nhưng thực tế quyền hạn bị thu hẹp khá nhiều. Tình trạng cát cứ và sự phức tạp của xã hội Ấn Độ dẫn đến sự suy yếu của đất nước này suốt một thời gian dài. Các tiểu vương tồn tại độc lập đã ảnh hưởng rất lớn đến cục diện thống nhất và tiềm lực đất nước. Điều này đánh dấu quá trình suy tàn của chế độ phong kiến Ấn Độ và đất nước này đã trở thành miếng mồi béo bở cho tham vọng xâm nhập của các nước thực dân. Tình trạng cát cứ ở Ấn độ giai đoạn này diễn ra khá sôi nổi, liên tiến các tiểu vương quốc tuyên bố độc lập. Điều này đã bộc lộ rõ rệt sự suy tàn của đế quốc Môgôn cũng như tiềm lực đất nước. Nó đánh dấu giai đoạn mạt kì của chế độ phong kiến ở Ấn Độ. Giữa lúc đó, thực dân phương Tây đã đặt chân lên Ấn Độ và từng bước tiến hành cuộc “chiến tranh ăn cướp” trên bán đảo rộng lớn này. 1.1.2. Những chuyển biến về kinh tế, xã hội của Ấn Độ Thế kỉ XVI, lịch sử thế giới đã bước sang một thời kì mới - thời kì cận đại với những phát minh sáng tạo của loài người và đã đạt được những thành tựu rực rỡ làm chuyển biến cả đời sống xã hội. Cùng với sự chuyển biến đó nhiều quốc gia dân tộc đã tự thân vận động, cố gắng vươn lên để hòa nhịp chung vào đời sống kinh tế - chính trị thế giới. Trong khi châu Âu đang chuyển mình thì châu Á vẫn mang vẽ tĩnh lặng và im lìm, dường như họ “cam chịu” để tiếp tục đi theo những truyền thống cũ. Lịch sử Ấn Độ vẫn lê từng bước viết tiếp trang sử của chế độ phong kiến, nhưng có sự chuyển biến theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Ấn Độ là một quốc gia rộng lớn và đông dân nằm ở phía Nam châu Á. Đầu thế kỉ XVI, lợi dụng sự suy yếu về quân sự do những cuộc chiến tranh liên miên giữa các vương quốc ở Ấn Độ, một quý tộc người Udơbếch ở Cabun là 9 10 Babua đã dẫn quân xuống miền Bắc Ấn. Năm 1526, Babua đánh chiếm Đêli và các vùng lân cận ở phái Bắc Ấn Độ, tự xưng là hoàng đế của đế quốc Đại Môgôn. Những người kế tục Babua tiếp tục mở mang bờ cõi, nhất là dưới thời người cháu của ông là Acơba (1556 - 1605), đất đai của đế quốc được mở rộng. Đến nửa sau thế kỉ XVII, biên giới của triều đại Môgôn lan tới tận phía Nam sông Gônđaviri. Tuy nhiên, một số vương quốc ở miền Nam bán đảo vẫn giữ được độc lập. Sau sự suy yếu của vương triều Hồi giáo Đêli, đất nước Ấn Độ bị chia làm nhiều công quốc lớn nhỏ, cùng với nó là sự tranh giành quyền lực diễn ra hết sức quyết liệt và đẫm máu. Chính vì thế đã tàn phá nền kinh tế Ấn Độ vốn đã bị suy yếu từ mấy thế kỉ trước. Đến thời trị vì của vương triều Môgôn, cùng với nỗ lực của triều đình và sự hợp tác của nhân dân đã khôi phục lại sản xuất, đưa nền kinh tế đất nước đi vào ổn định và chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn manh nha và phát triển những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, vương triều Môgôn thịnh đạt chưa được bao lâu thì lâm vào khủng hoảng sâu sắc, sự cường thịnh, phát triển của đế quốc Môgôn chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định. Đế quốc đại Môgôn đã không đưa lại sự thay đổi gì căn bản trong quan hệ kinh tế xã hội của Ấn Độ, những người kế vị vua Acơba đã không làm tròn trách nhiệm gánh vác giang sơn một cách xứng đáng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tan vỡ của đế quốc Môgôn chính là sự rạn nứt của cơ sở kinh tế, với chế độ ruộng đất phức tạp dựa trên sự phân chia đẳng cấp xã hội gây ra sự mâu thuẫn phá vỡ đi cơ cấu xã hội của nền kinh tế. Tuy ở một số vùng tồn tại chế độ tư hữu về ruộng đất nhưng cũng như đa số các nước châu Á quyền lực tối cao về ruộng đất thuộc về nhà nước. Nhà vua đại diện cho giai cấp phong kiến được xem là người sở hữu mọi ruộng đất trong nước, nhà nước thu tô dưới hình thức thuế gồm phần hoa lợi của nông dân tô thuế, không chỉ thu phần thừa mà cả những sản phẩm cần thiết cho đời sống nhân dân. Ruộng đất tuy là sở hữu của nhà nước phong kiến nhưng trên thực tế công xã nông thôn vẫn là đơn vị sản xuất và đóng thuế cơ bản trong xã hội. Ruộng đất của công xã được chia cho nông dân theo từng hộ và có quyền lưu truyền cho con cháu, mỗi nông hộ phải đóng thuế và gánh vác nhiều nông vụ khác, công xã thì giữ đồng cỏ, ao hồ, rừng núi làm của chung. Trong công xã các hộ nông dân ngoài việc canh tác còn làm thêm thủ 10 11 công nghiệp như: kéo sợi, dệt vải chủ yếu để dùng trong gia đình. Ngoài ra, mỗi công xã có khoảng 10 đến 12 thợ thủ công chuyên sản xuất đồ dùng cung cấp mọi nhu cầu phục vụ trong sinh hoạt đời sống. Dưới thời đế quốc Môgôn, các vương quốc cũng chiếm hữu nhiều ruộng đất, mỗi tiểu vương quốc cũng chiếm hữu nhiều ruộng đất, mỗi tiểu vương quốc có tổ chức quân đội riêng, thu thuế trong phạm vi lãnh thổ của mình và bắt nông dân gánh vác mọi nghĩa vụ phong kiến, một phần ruộng đất nằm trong tay các nhà thờ. Do đó, nông dân bị những đại biểu của giai cấp phong kiến bóc lột, hơn một nửa hoa lợi của họ phải nộp tô thuế, non một nữa còn lại họ phải nộp cho những người đứng đầu công xã, nhà thờ, thợ thủ công chung của công xã. Quan hệ nói trên đã kìm hãm sự phát triển của xã hội Ấn Độ. Tuy nhiên, vào thế kỉ XVI và nửa đầu thế kỉ XVII nền kinh tế có những bước tiến bộ nhất định. Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, từ thời cổ đại ở Ấn Độ nghề nông đã phát triển khá sớm gồm nhiều các loại cây như: lúa, bông và các loại hoa quả. Trong nông nghiệp đã đạt được trình độ tương đối cao, mỗi năm đất trồng trọt tăng từ 2 đến 3 vụ, mặc dù nông cụ căn bản còn thô sơ song đất được cày bừa kĩ, phân bón khá nhiều, các loại cây trồng như: lúa, bông, thuốc lá, chàm được chăm sóc tốt và cho sản lượng cao hơn nhiều và một số vùng đã xuất hiện lối chuyên canh: “Người ta trồng bông vải ở Dekan, trồng chàm ở miền Bắc, trồng mía ở Bihar, ở Bengan, lúa gạo ở các miền ẩm ướt hạ lưu Hằng Hà hay các đồng bằng duyên hải phía Đông” [9, tr.64]. Phạm vi phát triển mạnh mẽ nhất của Ấn Độ dưới thời các hoàng đế Môgôn là phạm vi công kỹ nghệ. Nổi tiếng nhất là ngành dệt, người ta dệt đủ mọi loại vải bông, một số lớn đã trở thành nổi tiếng trên thị trường thế giới. Bên cạnh ngành dệt là ngành luyện kim và ngành làm đồ châu báu cũng phát triển: “Ấn Độ ở thời này đã sản xuất được nhiều loại thép quý, súng ống, tàu bè và một vài phương tiện có thể so sánh với sản phẩm của Tây phương” [9, tr.65]. Nhà nước đã quan tâm đến sự phát triển các ngành kỹ nghệ của đất nước: “Kể từ thời Akbar, triều đình Môgôn đã để tâm tới hình thức quốc doanh trong kỹ nghệ. Một số các xí nghiệp thuộc loại này đã được thành lập với những số thợ đông đảo và người ta đã tìm cách hợp lí hóa các hoạt động sản xuất” [9, tr.66]. 11 12 Mặc dù nền kinh tế tự nhiên vẫn còn giữ địa vị thống trị tuy nhiên thương nghiệp và quan hệ hàng hóa tiền tệ đã phát triển và có liên quan chặt chẽ với phương thức sản xuất phong kiến: “Các hoạt động buôn bán các sản phẩm nông nghiệp này rất sầm uất, đặc biệt là từ khi các đường giao thông được mở mang nhiều” [9, tr.64]. Những con đường giao lưu kinh tế được mở rộng ngày càng sầm uất hơn, nhờ vậy, thương nghiệp đã có những bước tiến vượt trội, sự giao lưu giữa thành thị và nông thôn được mở rộng, việc trao đổi hàng hóa trở nên nhộn nhịp. Như vậy, những hình thức phân công lao động lâu đời giữa nghề nông và nghề thủ công trong nội bộ công xã bị phá vỡ dần, việc sản xuất ngày càng mang tính chất của quan hệ hàng hóa - tiền tệ, nghề thủ công gia đình biến thành sản xuất hàng hóa nhỏ, người thợ thủ công bị lệ thuộc vào tầng lớp thương nhân, một số xưởng lớn và công trường thủ công ra đời góp phần làm tan rã chế độ công xã nông thôn. Điều này chứng tỏ rằng ở Ấn Độ đã bắt đầu xuất hiện một số điều kiện để sau này dẫn tới sự tan rã của chế độ phong kiến và sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Một vấn đề khá quan trọng trong đời sống xã hội Ấn Độ là tình trạng phức tạp về dân tộc, tôn giáo và đẳng cấp. Trong khoảng 100 dân cư có rất nhiều dân tộc với trình độ phát triển khác nhau. Bên cạnh những bộ phận đang ở thời kì phong kiến trong những vương quốc độc lập thì vẫn còn không ít bộ lạc sống rải rác khắp các vùng biên giới phía bắc trong tình trọng rất lạc hậu. Những cuộc chiến tranh liên miên giữa các tập đoàn phong kiến càng khơi sâu sự chia rẽ dân tộc và làm suy yếu đất nước. Hai tôn giáo lớn của Ấn Độ là Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Có khoảng 2/3 dân số theo Ấn Độ giáo, nhưng đạo Hồi được coi là tôn giáo chính thống của đế quốc đại Môgôn. Ngoài ra còn có đạo Phật và nhiều thứ tôn giáo nguyên thủy khác. Sự khác nhau về tôn giáo thường gắn liền với sự cách biệt về đẳng cấp. Bọn bóc lột thường lợi dụng điều đó để tăng cường áp bức bóc lột. Đồng thời sự phân chia đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ diễn ra khá phức tạp. Dưới vua có tăng lữ và quý tộc quân sự được coi là đẳng cấp cao nhất, những nhà buôn, bọn cho vay lãi, thợ thủ công, nông dân và binh lính là đẳng cấp tiếp theo, thấp nhất là đẳng cấp gồm nông dân và thợ thủ công nghèo khổ. Ngoài ra, những người Paria bao gồm những người bị khinh rẻ nhất, không ai đụng tới, đến cái 12 13 bóng của họ cũng bị coi làm uế tạp các nhà quyền quý, đi ngoài đường họ phải đeo chuông để những người ở đẳng cấp khác xa lánh. Ranh giới giữa các đẳng cấp được bảo về rất nghiêm ngặt. Người thuộc đẳng cấp trên không được kết hôn với người đẳng cấp dưới. Chế độ đẳng cấp dẫn đến tình trạng bất công và chia rẽ. Sự khác biệt về dân tộc, tôn giáo và đẳng cấp cùng với những thành kiến sâu sắc, những lễ nghi phức tạp, những tập tục lạc hậu làm trở ngại sự thống nhất và phát triển của Ấn Độ. Như vậy, toàn cảnh Ấn Độ đã bộc lộ, phơi bày ra trước mắt chúng ta một sự suy tàn, kiệt quệ rõ rệt. Nó đánh dấu giai đoạn mạt kì của chế độ phong kiến Ấn Độ. Một đất nước như thế, một xã hội như thế là miếng mồi được định đoạt trước cho sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân, chính giữa thời điểm ấy, thực dân phương Tây đã không ngần ngại từng bước tiến hành cuộc chiến tranh ăn cướp, giành giật, cướp đoạt lẫn nhau trên bán đảo rộng lớn đầy quyến rũ này. 1.1.3. Sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân ở Ấn Độ Từ thế kỉ XV, thực dân phương Tây đã dòm ngó và từng bước xâm nhập vào thị trường phương Đông, đặc biệt là Ấn Độ. Trong đó, tư bản Bồ Đào Nha là đại biểu đầu tiên ở châu Âu đặt chân lên Ấn Độ ngay từ cuối thời kì trung đại: “Người Bồ Đào Nha đã rất thích hợp để lãnh đạo các cố gắng của châu Âu khai thác nền thương mại của Ấn Độ Dương. Họ đã rất có kinh nghiệm trong hàng loạt các chuyến đi thám hiểm dài ngày và được chủ nghĩa dân tộc cuồng nhiệt thôi thúc họ” [21, tr. 14]. Năm 1498 có thể được coi là năm mở đầu cho một kỉ nguyên mới trong lịch sử Ấn Độ. Năm đó, Vasco de Gama đã cầm đầu bốn chiến hạm của Bồ Đào Nha đi vòng qua mỏm phía Nam châu Phi, tới được miền duyên hải Tây Nam Ấn Độ và đổ bộ lên đô thị Calicut. Giao tiếp giữa Ấn Độ và thế giới Tây phương từ đó trở nên đều đặn, mật thiết hơn trên cả hai phương diện thương mại và tinh thần. Sự xâm nhập của các thế lực phương Tây vào Ấn Độ đã diễn ra trong khoảng thời gian ba thế kỉ: “Thế kỉ XVI là thời kì của việc lập thương điếm. Thế kỉ XVII là thời kì lập ra các vùng đất thực dân và thế kỉ XVIII là thời kì chinh phục các vương quốc Ấn Độ” [12, tr.66]. Sau Vasco de Gama, 13 14 nhiều phái bộ khác đã được quốc vương Bồ Đào Nha cử sang Ấn Độ nhằm thiết lập những cơ sở thường trực cho các hoạt động thương mại và truyền giáo. Những chuyến buôn vượt biển này thường thực hiện theo những đợt gió mùa. Các lái buôn phải ở lại địa phương để tìm hàng, mua hàng và chờ đợi chừng vài tháng đến nữa năm để chờ gió mùa căng buồm về nước. Vì vậy, họ đã phải lập ra các thương điếm, một thứ trụ sở thường trực để tiến hành những việc giao dịch và cũng là nơi tích trữ hàng hóa: “Năm 1510, người Bồ do Albulkecco chỉ huy đã chiếm đóng và lập thương điếm ở Goa, sau đó là ở Đamao và Điu, tất cả đều nằm ở vùng biển Tây Ấn” [12, tr.67]. Goa đã được mệnh danh là “thành phố Vàng” trước sự ngưỡng mộ của người châu Âu. Vào lúc thế lực của người Bồ Đào Nha suy yếu ở Ấn Độ Dương, đến cuối thế kỉ XVI, một số đại thương gia Hà Lan đã hợp nhau thành lập một công ty để phái tàu tìm đường sang Ấn Độ. Năm 1602, công ty Đông Ấn của Hà Lan được thành lập, đến năm 1663, Hà Lan đã chiếm thương điếm Côchin của người Bồ ở bờ biển Tây Nam Ấn Độ: “Trong hơn một thế kỉ, Côchin đã trở thành một hải cảng tấp nập. Thuyền tàu cập bến chen chúc, chất lên đầy khoang những gia vị và sản vật quý như hồ tiêu,đậu khấu, dược liệu, xơ dừa và củi dừa khô” [12, tr.67]. Tiếp theo sau người Hà Lan, từ năm 1599 - 1600 một công ty Đông Ấn cũng được của Anh thành lập. Buổi đầu các hoạt động của người Anh cũng chỉ giới hạn trong phạm vi thương mại thuần túy. Họ lập các thương điếm ở Surat, Masulipatam, Armagaon và Madrat. Nhưng hoạt động buôn bán của người Anh ở bất cứ nơi đâu cũng vấp phải sự chống đối và cản trở của người Bồ Đào Nha. Ngoài ra, ở phía Đông vào năm 1560, người Anh cũng tới lập nghiệp ở Hugli trên bờ sông Hằng. Vì do bận bịu với các vấn đề ở châu Âu, đặc biệt là trong cuộc chiến tranh 100 năm, người Pháp đã tới lập nghiệp ở Ấn Độ trễ hơn các người châu Âu khác. Năm 1664, công ty Đông Ấn của Pháp được thành lập với những mục tiêu tương tự như những mục tiêu của các công ty V.O.C hay East India Company nhưng rộng rãi hơn ở chỗ công ty này còn nhằm thiết lập một bên một thuộc địa cư trú là Madagascar, một bên các thuộc địa khai thác là các xứ Ấn Độ: “Pháp là tên thực dân đến Ấn Độ sau cùng, nhưng lại có tham vọng 14 15 lớn. Nam 1664, Công ty đông Ấn Pháp thành lập đặt dưới sự kiểm soát của Côlbe, một đại thần của vua Louis XIV và là một tín đồ của chủ nghĩa trọng thương . Ngay từ đầu công ty Đông Ấn Pháp đã nuôi những tham vọng lớn. Chính phủ đã trao cho công ty những quyền hạn rất lớn đối với miền đất chinh phục: được quyền tuyên chiến, đình chiến. Công ty được chính phủ bảo trợ, bảo vệ tàu thuyền chống lại mọi địch thủ” [12, tr.70]. Trong khoảng từ năm 1666 đến năm 1670, sau những hoạt động tích cực, người Pháp đã lập được một số những cơ sở ở Ấn Độ Dương cho đến tận quần đảo Moluques, đặc biệt là ở Sugat và Bengan. Đồng thời, Đan Mạch, Thụy Điển, Áo và nhiều nước khác cũng lần lượt đặt chân lên mảnh đất phì nhiêu này. Các nước châu Âu đều thực hiện mưu đồ xâm lược thông qua hoạt động của các công ty Đông Ấn Độ - một tổ chức nắm độc quyền của mỗi nước trong việc buôn bán với phương Đông. Đến giữa thế kỉ XVIII, hoạt động của các công ty được đẩy mạnh, Pháp chiếm được một số ưu thế nhất định ở Ấn Độ, nhưng do những cuộc chiến tranh ở châu Âu và cuộc xung đột vũ trang giữa Anh - Pháp diễn ra ở Ấn Độ (1746 - 1763) Pháp bị thất bại nên Pháp chỉ giữ được Pongdiseri và 4 thành phố vùng ven biển. Tuy nhiên Anh cũng chưa chiếm được nhiều đất đai lắm. Như vậy, với sức quyến rũ của mình, Ấn Độ trở thành điểm đến hấp dẫn của các nước thực dân phương Tây. Sự có mặt của các nước này không tránh khỏi một cuộc đọ sức diễn ra chính trên đất nước này. Điều này khiến Ấn Độ trở thành trung tâm của mọi tranh chấp và đưa lịch sử Ấn Độ bước sang một thời kì mới với mọi đau thương do chủ nghĩa thực dân để lại. 1.2. Các nhân tố tác động đến quá trình Anh xâm nhập Ấn Độ 1.2.1. Vị trí của Ấn Độ trong hoạt động thương mại thế giới Ấn Độ là một thế giới đầy huyền bí, kì diệu, và là một cái nôi của một nền văn minh lớn, phong phú và lâu đời. Đặc biệt, Ấn Độ còn là một quốc gia rộng lớn - một tiểu lục địa có vị trí quan trọng trong hoạt động thương mại của thế giới. Với vị trí hết sức đặc biệt khi có đến ba mặt giáp biển, Ấn Độ đã lấp ló hiện ra trước con mắt thèm thuồng của chủ nghĩa tư bản Anh khi sự phát triển 15 16 của kĩ thuật đi biển đạt đến đỉnh cao: “Người ta đã có những thuyền đi biển lớn ba cột buồm với độ vững bền có thể vượt qua được mọi sóng gió đại dương, lại có la bàn đưa đường chỉ lối một cách chính xác và an toàn cho những chuyến đi trên biển. Và thế là cánh cửa nhìn sang phương Đông đã mở” [12, tr. 65]. Nhờ sự phát triển của kỹ thuật hàng hải, hoạt động buôn bán được được đẩy mạnh và hình thành những trục đường thương mại mới trên bản đồ thương mại thế giới. Có thuyền buồm vững chắc và la bàn chỉ lối cùng với vị trí giáp biển thuận lợi, Ấn Độ trở thành mục tiêu để các nhà tư bản Anh đổ xô đến ngày một nhiều với mục đích đi buôn lấy lãi: “Nếu các nhà thám hiểm với đầu óc thơ mộng và phiêu lưu đã đặt nhiều mục đích có tính chất hiếu kì và thỏa mãn hiểu biết cho những chuyến đi xa sang phương Đông thì ngược lại, các nhà tư bản đã rất tỉnh táo và thực tiễn, không hề bị những tình cảm lãng mạn đối với miền đất xa lạ kia quyến rũ và lung lạc. Đối với họ đi sang phương Đông có nghĩa là đi buôn lấy lãi” [12, tr.65]. Từ lâu giữa phương Đông và phương Tây đã có những con đường liên lạc quan trọng và kể từ sau những cuộc thập tự chinh thì quan hệ giữa hai bên càng mở rộng hơn. Sau các cuộc phát kiến địa lí, cánh cửa nhìn sang phương Đông đã mở. Ấn Độ hiện ra là một đất nước rộng lớn cùng với sự giàu có về nguyên liệu, hương liệu đã hấp dẫn cơn thèm khát của các nhà tư bản Anh: “Những sản phẩm đầy rẫy ở phương Đông lại là những món hàng hết sức hiếm quý đối với thì trường châu Âu” [12, tr.65]. Những ông hoàng bà chúa và những nhà buôn lớn giàu có thừa tiền đã chán ngấy với các món thịt cừu hun khói một cách quê mùa và nhạt nhẽo. Họ cần ăn sang và ăn ngon, cần đến những kích thích của hồ tiêu, ớt và gia vị. Trong hoàn cảnh đó, Ấn Độ trở thành miền đất lí tưởng cho thương nhân Anh đặt chân: “Đó là phương Đông, là toàn bộ phương Đông mà bấy lâu người ta hằng mong ước” [12, tr.66]. Thế là hồ tiêu, món đặc sản phương Đông đã tăng giá vọt lên, trở thành cơn sốt trên những thị trường quý tộc châu Âu. Nó được quý như ngọc vàng hoặc còn quý hơn cả ngọc vàng, nên người ta chẳng quản sóng gió biển khơi: “Người ta ra đi, người ta đánh nhau, người ta sẳn sàng chết vì cái món gia vị cay thơm đó” [12, tr.66]. Ấn Độ trở thành một vùng đất đầy hứa hẹn cho các đoàn thương nhân đi vào buôn bán, trao đổi khi sự giàu có về 16 17 nguyên liệu và hương liệu và cả những sản phảm công nghệ “đã làm cho các du khách Âu châu ngạc nhiên hết sức” [9, tr.65]. Trong các thế kỉ XVI, XVII các thương gia Anh đã tới Ấn Độ để mua hương liệu, trao đổi hàng hóa trao đổi rất phong phú, đa dạng: “Thực sự bên cạnh hương liệu, các sản phẩm công nghiệp của Ấn, nhất là các hàng tơ lụa, bông vải đã có một hấp lực rất lớn trên thì trường thời đó” [9, tr.66]. Ấn Độ từ lâu đã nổi tiếng với các sản phẩm thủ công nghiệp đặc biệt là ngành dệt. Các trung tâm hoạt động được thấy ở rất nhiều nơi ở khắp xứ Bengan, nhiều nơi ở Orisa, ở Bihar, ở Benares, tiêu biểu là ở Khandesh, trung tâm chính của ngành dệt bông vải: “Tại những nơi này người ta dệt đủ mọi loại vải bông, một số lớn đã trở thành nổi tiếng trên thị trường thế giới như nansuk, percale, lampas Riêng miền Dacca thì nổi tiếng về những hàng vải mỏng, mềm nhẹ và hàng lụa” [9, tr.65]. Kĩ thuật in màu lên các hàng vải, lụa cũng đạt tới trình độ tinh vi và có thể sản xuất hàng loạt. Ngành dệt thảm ở Cachemire cũng rất nổi tiếng. Những xưởng thủ công không chỉ sản xuất cho nhu cầu trong nước mà còn xuất cảng một phần đáng kể ra nước ngoài. Cho nên, bên cạnh hồ tiêu, hương liệu, hàng hóa trở thành điểm hấp dẫn thương nhân Anh đến với Ấn Độ. Ngoài ra, Ấn Độ là một quốc gia rộng lớn và đông dân, bước vào thời cận đại của lịch sử thế giới, dân cư ở Ấn Độ có chừng 100 triệu người, bao gồm nhiều dân tộc khác nhau, có nền kinh tế phát triển có sự phân công lao động và nền văn hóa lâu đời phong phú đã trở thành một thị trường hấp dẫn cho giới thương nhân tìm đến thông thương: “Hiện tượng đặc biệt trong nền kinh tế Ấn Độ lúc này là sự phân công xã hội trong lao động đã phát triển đến một mức độ nhất định, nó biểu hiện ở chỗ vai trò trung tâm thương nghiệp, thủ công nghiệp của các thành phố tăng lên, nhiều thành phố mới xuất hiện quan hệ buôn bán trong và ngoài nước rộng lớn như đối với các nước: Ai Cập, Xrilanca, Trung Quốc, Lưỡng Hà, các nước Trung Á và Đông Nam Á” [13, tr.24]. Những sản phẩm hàng hóa của các nước ngoại quốc được đưa đến Ấn Độ tiêu thụ ngày một nhiều. “Đi sang Ấn Độ” đã trở thành một khẩu hiệu hấp dẫn đối với con người mong muốn làm giàu. Thế là một cuộc thập tự chinh mới bắt đầu, các tín đồ của chủ nghĩa trọng thương lần này ra đi không phải vì hình ảnh của chúa thiêng liêng mà chính vì hình ảnh của những đồng tiền vàng lấp lánh đang chờ đón họ. 17 18 Chính những điều đó đã làm cho Ấn Độ trở thành trung tâm điểm những chuyến đi sang phương Đông của các nhà trọng thương Anh. Đây trở thành một miền đất đầy hứa hẹn cho những giấc mơ “lấp lánh tiền vàng” của những đoàn thương gia. Với vị trí địa lí thuận lợi cũng như sự giàu có về hương liệu, sản phẩm thủ công và là một thị trường hấp dẫn đã thu hút những đoàn thương nhân tìm đến Ấn Độ thông thương. Do vậy, Ấn Độ có một vị trí rất quan trọng trong hoạt động thương mại của thế giới lúc bấy giờ. Điều này khiến Ấn Độ trở thành mục tiêu trong sự dòm ngó của chủ nghĩa thực dân Anh. 1.2.2. Hệ quả của các cuộc phát kiến địa lí Năm 1498 được xem là mốc quan trọng trong lịch sử đất nước Ấn Độ khi một hạm đội Bồ Đào Nha do hai anh em Vasco de Gama và Paul de Gama chỉ huy tới được hải cảng Calicut thuộc miền duyên hải Malabar phía Tây Nam Ấn Độ. Người châu Âu đã choáng ngợp trước những cảnh tượng mới bày ra trước mắt mình. Phương Đông xa xôi, cổ kính, đầy huyền bí và giàu có, vô cùng hấp dẫn đã lấp ló hiện ra bên kia bờ đại dương. Dưới con mắt thèm thuồng của các nhà tư bản phương Tây, Ấn Độ đã hiện ra như một vùng đất lí tưởng. Sau Vasco de Gama, nhiều phái bộ khác đã được quốc vương Bồ Đào Nha cử sang Ấn Độ nhằm thiết lập những cơ sở thường trực cho các hoạt động thương mại và truyền giáo: “Tháng 3 năm 1500 một hạm đội hùng hậu gồm 33 tàu lớn và 1500 binh sĩ do Pedro Alvarez Cabral chỉ huy rời cảng Lisbonne sang Ấn Độ với sứ mạng thiết lập quyền bá chủ của Bồ Đào Nha trên các biển Ấn Độ” [12, tr.94]. Bước theo sau Bồ Đào Nha, các nước châu Âu tư bản trẻ trung như Hà Lan, Anh, Pháp đã đổ xô sang Ấn Độ phong kiến già cỗi ngày một đông như một cuộc chạy đua cuồng nhiệt có một không hai trong lịch sử: “Một hệ quả quan trọng của những phát kiến địa lí là sự thúc đẩy giao lưu thương mại giữa các vùng miền trên Trái Đất. Trước đây, hoạt động buôn bán đã được mở mang, tạo nên thị trường trong nước hay thị trường khu vực, kết nối các quốc gia lân bang. Địa Trung Hải chính là một trung tâm thương mại lớn thời cổ đại nối liền các thị trường Nam Âu, Bắc Phi và Trung Đông. Các phát kiến địa lí đã mở rộng phạm vi hoạt động hàng hải, chuyển dần trung tâm thương mại sang Đại Tây Dương, hình thành hai tuyến đường buôn bán lớn trên phạm vi thế giới: 1. Con 18 19 đường nối liền châu Âu với thị trương phương Đông, ra đời các công ty Đông Ấn Độ của Hà Lan, của Anh, của Pháp : 2. Con đường đi sang châu Mĩ, tạo nên “tam giác thương mại Đại Tây Dương” qua lại giữa ba châu lục Âu – Phi – Mĩ. Nhờ vậy, thị trương rộng lớn đã hình thành trên quy mô thế giới” [25, tr.12]. Đồng thời, những sản phẩm ở Ấn Độ lại là những món hàng hết sức quý hiếm với thị trường châu Âu. Những món hương liệu như hồ tiêu, ớt và gia vị ở Ấn Độ có giá rất cao trên thị trường châu Âu. Với sức hấp dẫn của thị trường Ấn Độ, những người theo chủ nghĩa trọng thương cũng theo gót chân những nhà thám hiểm để tìm đến vùng đất giàu có này với mục đích tìm kiếm thị trường. Là một quốc gia có truyền thống hàng hải lâu đời, thương nhân Anh khó có thể chấp nhận việc Bồ Đào Nha độc quyền các tuyến buôn bán với miền Đông Ấn. Mục tiêu thương mại luôn là động lực thôi thúc người Anh tìm đường sang buôn bán với phương Đông mà trung tâm điểm chính là Ấn Độ: “Trong hai thập niên 80 và 90 của thế kỉ XVI, việc nghiên cứu về thế giới phương Đông của người Anh được tổ chức một cách ráo riết và hệ thống. Có thể nói rằng, đến năm 1600 người Anh đã khá tường tận về con đường sang phương Đông qua mũi Hảo Vọng” [33, tr.35]. Sự tiến bộ trong nhận thức về phương Đông trong nửa cuối thế kỉ XVI đã thôi thúc các thương nhân Anh tiến hành các chuyến đi tiên phong về miền Đông Ấn. Như vậy, từ sau những cuộc phát kiến địa lí cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI lịch sử hàng hải thế giới có những bước phát triển và thay đổi không ngừng. Hoạt động buôn bán đã chuyển dần từ những vùng biển nhỏ, ven bờ ra đại dương, từ buôn bán theo khu vực lên thành trao đổi toàn cầu và hình thành những trục đường thương mại mới trên bản đồ thương mại thế giới. Vì vậy, các nước thực dân châu Âu đã tìm đến Ấn Độ ngày một đông với mong muốn độc chiếm thị trường giàu có này và chủ nghĩa thực dân Anh cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. 1.2.3. Cách mạng tư sản và cách mạng công nghiệp Anh Sau cuộc cách mạng tư sản giữa thế kỉ XVII, nước Anh đã có những chuyển biến căn bản về mặt chính trị và kinh tế. Trong suốt thế kỉ XVIII và 30 19 20 năm đầu thế kỉ XIX, ở Anh đã diễn ra một quá trính cách mạng, tuy không sôi nổi như những ngày nội chiến, nhưng đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển sản xuất. Đó là cuộc cách mạng công nghiệp tư bản chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử. Thành công của hai cuộc cách mạng mang ý nghĩa lớn lao này đã tác động rất lớn đến tiềm lực kinh tế cũng như xác lập vị thế nước Anh vào buổi đầu thời cận đại. Lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến, cuộc cách mạng tư sản Anh đã xóa bỏ được những trở ngại đối với sức sản xuất mới. Chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập, quốc hội Anh - cơ quan đại diện cho quyền lợi của liên minh cầm quyền, gồm giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc mới có quyền lực rất lớn. Chính điều này đã giúp những yếu tố kinh tế tư bản chủ nghĩa có điều kiện thuận lợi, phát triển mạnh mẽ. Chế độ chính trị mới là một lực lượng tích cực, một mặt thì tiếp tục xúc tiến việc thủ tiêu những quan hệ kinh tế cũ còn lại, mặt khác củng cố và phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Hệ thống bảo hộ mậu dịch, chế độ thuế khóa mới, việc thành lập đế quốc thuộc địa là những biểu hiện sự hoạt động của bộ máy chính quyền mới nhằm mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển trong mọi ngành kinh tế và hình thức tư bản chủ nghĩa thắng lợi về mọi mặt. Điều này cho phép Anh đẩy mạnh việc xâm nhập vào Ấn Độ. Không những thế, sau các cuộc cách mạng tư sản hoàn thành vào cuối thế kỉ XVII thì đến giữa thế kỉ XVIII, Anh dần dần trở thành một cường quốc thương nghiệp và thực dân, có một nền công nghiệp phát triển. Đạo luật hàng hải năm 1651 đã trợ giúp rất nhiều cho sự phát triển của thương nghiệp Anh. Đội thương thuyền và hạm đội Anh đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Anh đánh bại các đối thủ cạnh tranh lớn hơn là Hà Lan và Pháp. Sau cuộc cách mạng tư sản có tầm ảnh hưởng lớn ở châu Âu, cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã nhanh chóng đưa nước này trở nên giàu mạnh và đi đầu trong việc chế tạo vũ khí và phương tiện vận chuyển: “Những tiến bộ kĩ thuật được vận dụng vào ngành công nghiệp chiến tranh đã sản xuất ra nhiều loại vũ khí tối tân, những phương tiện vận chuyển hiện đại , những mạng lưới thông tin liên lạc nhanh đã làm cho những cuộc chiến tranh trở nên khốc liệt hơn với khả năng sát thương và sức tàn phá nặng nề gấp nhiều lần so với trước đây” [25, tr.58]. Đồng thời, với cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu tiên trong lịch sử này, nước Anh đã tạo cho mình một 20 21 bứt phá trong “bảng xếp hạng” các nước lớn ở châu Âu: “Vào đầu thời phát kiến địa lí, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là các quốc gia làm chủ đại dương, phát tài nhờ các con đường buôn bán với phương đông và khai phá Tân lục địa thì khi đi vào quá trình công nghiệp hóa, các nước này đã chậm chân, phải lùi xuống hàng thứ yếu” [25, tr.58]. Đến giai đoạn này, nước Anh đã đẩy vị thế của các nước này lùi về một bước trước sự lớn mạnh của quốc gia công nghiệp Anh. Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng tư sản và cách mạng công nghiệp, nước Anh đã khẳng định được sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản đối với chế độ phong kiến đã trở nên lỗi thời. Nhờ vậy, nếu như vào thế kỉ XVII Anh còn thua kém Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, thì đến những năm đầu thế kỉ XIX Anh không chỉ trở thành cường quốc công nghiệp hàng đầu, được mệnh danh là “công xưởng của thế giới”, mà còn làm bá chủ về hàng hải, xâm chiếm được nhiều thuộc địa rộng lớn và giàu có khắp mọi nơi. Sau khi cách mạng tư sản và cách mạng công nghiệp thành công cùng với hệ thống thuộc địa rộng lớn, nước Anh đã chiếm được vị trí hàng đầu trên mặt biển. Chính nhờ những lợi thế này Anh đã không ngần ngại tiến sang phương Đông, trung tâm điểm là Ấn Độ nhằm thực hiện tham vọng của mình, mặc dù ở đây đã có mặt của những vị khách phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp. 1.2.4. Nhu cầu thị trường và nguyên liệu Bước sang thế kỉ XVI, tình hình thế giới đã có những chuyển biến rõ rệt. Đây là thời kì các quốc gia phong kiến châu Âu đang bước vào giai đoạn suy tàn và song song với nó là mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa xuất hiện. Các cuộc cách mạng tư sản liên tiếp nổ ra và giành thắng lợi như cách mạng tư sản Nêđéclan, cách mạng tư sản Anh. Trong đó cách mạng tư sản Anh là cuộc cách mạng có ý nghĩa lớn đối với quá trình hình thành chủ nghĩa tư bản trên phạm vi châu Âu và thế giới. Đấy chính là sự chuyển mình của châu Âu để bước qua một giai đoạn mới trong lịch sử nhân loại. Đồng thời các cuộc cách mạng công nghiệp đã thu được nhiều thành quả rực rỡ, mở đường cho kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Trong cuộc vận động ấy, các nước tư bản phương Tây đã chuẩn bị hành trang cho mình bằng những cuộc xâm nhập và xâm lược các thuộc địa. Hệ thống thuộc địa là nơi cung cấp rất lớn nguồn nguyên nhiên liệu, 21 22 nguồn nhân công và là thị trường tiêu thụ sản phẩm cho sự phát triển của ngành công nghiệp của chính quốc. Thước đo sức mạnh của chủ nghĩa tư bản thực dân chính là các thuộc địa. Do đó, các nước tư bản phương Tây đã dựng mọi biện pháp, thủ đoạn “đầm đìa những máu và bùn nhơ” xâm chiếm các thuộc địa trên thế giới để tăng sức mạnh cho mình. Trong khi đó, ở phương Đông, từ thế kỉ XVI trở đi chế độ phong kiến đã đi vào giai đoạn suy tàn, khủng hoảng bằng những dấu ấn mờ nhạt cuối cùng của nó. Ở đây, mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện, tuy nhiên nó chưa có vị trí và những điều kiện thuận lợi để phát triển, bị chế độ phong kiến kìm hãm, cản trở. Vì thế nên sự khủng hoảng diễn ra ngày càng trầm trọng hơn. Trong khi đó, ở phương Tây các nước tư bản ở giai đoạn công nghiệp hóa. Chính điều này đã đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của nó đã tạo ra một khối lượng hàng hóa đồ sộ và yêu cầu bước thiết đặt ra lúc này là phải tìm kiếm nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm: “Yếu tố thị trường được kích thích trong phạm vi từng địa phương đến thị trường quốc gia và quốc tế. Điều đó tăng cường sự ràng buộc giữa các thị trường với nhau, giữa các quốc gia với nhau. Vấn đề thị trường trong nước và thị trường thế giới trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà nước với sự ủng hộ của giai cấp tư sản. Vấn đề xâm chiếm lãnh thổ qua các cuộc chiến tranh bao hàm một nội dung rộng hơn trước là chiếm các vùng giàu tài nguyên phục vụ cho nền công nghiệp trong nước, chiếm những thị trường có sức mua hầu như chưa khai thác và chiếm nguồn lao động rẻ mạt của người dân bản địa phục vụ những công trình đầu tư tại chỗ” [25, tr.58]. Sự chênh lệch giữa phương Đông và phương Tây hiện lên rõ nét, song song với sự phát triển như vũ bão của phương Tây thì nhìn sang phương Đông người ta vẫn thấy “đêm trường trung cổ” được hiện lên với tất cả sự lạc hậu và trì trệ của nó. Mặc dù vậy, người ta không thể phủ nhận những tiềm năng vốn có nơi đây và họ không dễ gì bỏ qua. Sau những cuộc phát kiến địa lí, châu Âu tư bản đã chóng ngợp trước những cảnh tượng đầy hấp dẫn hiện ra trước mắt mình, đó chính là phương Đông huyền bí, giàu có đã được hiện ra bên kia bờ Đại Dương. Do đó, các nước tư bản phương Tây đua nhau tìm kiếm thị trường và xâm lược 22 23 thuộc địa ở nhiều nơi. Trong đó, châu Á được xem là thị trường chính với sự trù phú về nguyên, nhiên liệu ở vùng đất giàu có này. Vì vậy, khoảng cách địa lí không thể ngăn cản nổi cơn sốt thèm khát của các nhà tư bản non trẻ châu Âu. Trong thời gian này, những sản phẩm đầy rẫy ở phương Đông lại là những món hàng hết sức quý hiếm đối với thị trường châu Âu. Hương liệu, gia vị và những đặc sản phương Đông đã tăng giá vọt lên một cách dễ sợ trên thị trường quý tộc châu Âu.Vì vậy, lý tưởng thương mại thực dân hóa đó ngày càng thắng thế trước động cơ tôn giáo và phù hợp với sự phát triển nội tại của xã hội châu Âu hậu kỳ phong kiến. Thế là một cuộc thập tự chinh mới bắt đầu, các tín đồ của chủ nghĩa trọng thương đã ra đi vì hình ảnh của những đồng tiền vàng đầy lấp lánh đang chờ đón họ. Trong những hoàn cảnh đó, dưới con mắt của các nhà tư bản phương Tây thì phương Đông, đặc biệt là vùng đất Ấn Độ hiện ra như một miền đất lý tưởng: “Đó là phương Đông, là toàn bộ phương Đông mà bấy lâu người ta hằng mong ước” [12, tr.66]. Điều này thôi thúc các nước phương Tây trong đó có Anh đến với Ấn Độ. 1.2.5. Chiến tranh kế vị Áo Hoàng (1740 - 1748) và cuộc chiến tranh Bảy năm (1758 - 1763) Cho tới giữa thế kỉ XVIII, người Âu châu đến Ấn Độ chủ yếu hoạt động trên lĩnh vực hàng hải và thương mại. Do vậy, sự can thiệp của họ vào nội bộ của Ấn Độ không đáng kể. Nhưng từ giữa thế kỉ XVIII trở đi, do ảnh hưởng của các biến cố xảy ra ở Âu châu như cuộc chiến tranh kế vị Áo Hoàng (1740 - 1748) và cuộc chiến tranh Bảy năm (1758 - 1763) nên chính sách của họ đã có những thay đổi rõ rệt. Những mưu toan xâm nhập vào lục địa Ấn nhằm thiết lập đế quốc đã bắt đầu được thực hiện. Người Pháp và người Anh đã tranh chấp với nhau kịch liệt: “Trong đàn thú dữ thực dân, Anh và Pháp là những con thú đến muộn hơn, nhưng hung hăng và xảo quyệt hơn. Chúng đã tranh mồi và hất cẳng hai địch thủ trước đó là Bồ Đào Nha và Hà Lan. Đến lượt chúng, một cuộc cắn xé dữ dội tranh ăn lại xảy ra, cuối cùng thực dân Anh đã hợm hĩnh cất lên bài ca chiến thắng” [12, tr.68]. Vào thế kỉ XVIII, các hoạt động thương mại của người Pháp ở Ấn Độ đã đạt được sự thịnh vượng rất đáng kể. Những hàng hóa từ Ấn Độ được 23 24 chở về châu Âu như vải bông, các hàng vải mỏng, tơ lụa, các hương liệu, đã đem lại cho họ những món lời quan trọng, có thể lên tới 100%. Trong hoàn cảnh đó mọi sự can thiệp vào nội bộ của Ấn Độ để chiếm đoạt đất đai là không cần thiết. Tuy nhiên, do cuộc chiến tranh kế vị Áo Hoàng (1740 - 1748) và cuộc chiến tranh Bảy năm (1758 - 1763) đã làm thay đổi tất cả. Hai cuộc chiến tranh này diễn ra ở châu Âu nhưng đã làm cho tranh chấp Anh - Pháp tái diễn trên đất Ấn. Trong lúc Áo - Phổ kịch chiến trên chiến trường châu Âu, Anh - Pháp cũng tranh giành nhau ác liệt trên chiến trường Bắc Mỹ và Ấn Độ. Năm 1759, Anh đánh bại hải quân Pháp ở Raguxo và vịnh Quebec đoạt của Pháp vùng Quebec, Luyxanna và Ohaio ở Bắc Mỹ, độc chiếm hoàn toàn Canada. Trong thời gian chiến tranh kế vị Áo Hoàng diễn ra, từ năm 1743 đến năm 1748, Dupleix - một vị Tổng giám đốc các thương điếm của Pháp ở Ấn Độ, đã phải hoạt động tích cực để bảo vệ các quyền lợi của công ty Đông Ấn của Pháp và đã nhận thấy được những điều kiện thuận lợi cũng như sự cần thiết của việc thiết lập một đế quốc ở Ấn Độ. Một đối thủ lợi hại của Dupleix và cũng là người chiến thắng ở Ấn Độ là Robert Clive (1725 - 1774). Clive tới Ấn Độ tự hồi còn nhỏ tuổi và là một sĩ quan ưu tú của quân đội Anh: “Tên thực dân hung hăng đặt nền móng thống trị đầu tiên của Anh ở Ấn Độ là R. Clive, một sĩ quan có đầu óc phiêu lưu, võ biền, đã từng đến Ấn Độ từ năm 18 tuổi. Còn tên thực dân xảo quyệt nuôi mộng lập một đế quốc Pháp ở Ấn Độ là Duppleix, kẻ đã xây dựng những đơn vị quân đội đánh thuê người Ấn Độ (xipay) đầu tiên và đã từng lấy một người vợ lai Ấn” [12, tr.71]. Nhưng do không phù hợp với chính sách của chính phủ Anh và Pháp khi đặt chân đến Ấn Độ chỉ nhằm mục đích thương mại lương thiện nên số phận của hai nhân vật này đều có cái kết thương tâm: “Số phận của hai tên thực dân đó đều kết thúc không may mắn. Dupleix bị triệu hồi về nước và phá sản, còn Clive bị gọi ra tòa và cuối cùng đã phải tự sát” [12, tr.71]. Tuy không được công ty Đông Ấn của Anh và chính quyền Anh đồng ý về chính sách bành trướng lãnh thổ của ông ở Ấn, nhưng Clive đã may mắn hơn Dupleix ở chỗ là người Anh trong chiến tranh Bảy năm đã chú trọng nhiều tới các hoạt động trên mặt biển và ở hải ngoại trong khi người Pháp chỉ chú trọng tới lục địa Âu châu mà thôi. Chiến tranh Bảy năm đã làm cho tranh chấp Anh - Pháp 24 25 tái diễn trên đất Ấn nhưng thoạt đầu chỉ diễn ra dưới hình thức gián tiếp. Hai bên đã nâng đỡ các đồng minh người Ấn để chống lại nhau. Sau đó mới ra mặt trực tiếp để chống lại nhau: “Việc hai tên thực dân kẻ cướp cùng có mặt ở Ấn Độ và cùng nuôi dưỡng những mưu đồ chinh phục đất nước này đã không thể không dẫn đến mâu thuẫn và xung đột. Một cuộc chiến tranh sống mái đã diễn ra giữa Anh và Pháp trong hơn 20 năm trời giữa thế kỉ XVIII trên đất Ấn Độ. Duyên cớ bắt nguồn từ những cuộc tranh chấp giữa Anh và Pháp ở châu Âu và những mâu thuẩn trong việc ủng hộ các phe phái đối lập ở Ấn Độ” [12, tr.70]. Chiến tranh xảy ra ở cả trên bộ lẫn trên biển. Pháp đã từng kéo quân đến bao vây và đánh chiếm Madrat năm 1746 nhưng đã phải trả lại cho Anh hai năm sau đó. Thế lực Anh mạnh hơn, nhất là khi chúng đã đánh bại được quân đội của tiểu vương Bengan trong được Pháp ủng hộ trong trận Plassey (1757) và chiếm được vùng này. Thực dân Anh bèn dùng Cancutta để tiếp viện trực tiếp cho Madrat. Năm 1761, Anh tiến hành bao vây Pongdiseri của Pháp trong năm tháng. Quân Pháp kiệt quệ, đói khát phải hạ vũ khí đầu hàng. Thực dân Anh tràn vào triệt hạ toàn bộ thành phố, không để lại một viên gạch nguyên vẹn. Tháng 2 năm 1763, Anh, Bồ Đào Nha, Pháp, Tây Ban Nha kí “hòa ước Pari”, Phổ, Áo, Xacxong kí “hòa ước Hobendbo” kết thúc chiến tranh. Sau bảy năm chinh chiến, cục diện chính trị châu Âu thay đổi. Với hòa ước Pari năm 1763, Anh đã vĩnh viễn đập tan được ý đồ của Pháp chinh phục Ấn Độ, chỉ còn để lại cho Pháp năm thành phố ven biển. Trong cuộc chiến, Pháp đã thua Anh chủ yếu vì không có hạm đội mạnh trên biển, thiếu quân và tài chính, chính phủ Pháp lại ít quan tâm đến công ty so với chính phủ Anh và đặc biệt trong cuộc chiến tranh Bảy năm ở châu Âu (1758 - 1763) - đây được coi là cuộc đọ sức với quy mô lớn nhất tranh quyền bá chủ giữa Anh và Pháp ở thế kỉ XVIII, với chiến thắng trong cuộc chiến tranh này Anh đã chiếm ưu thế tuyệt đối ở Ấn Độ. Như vậy, Pháp - Anh là hai tên thực dân có tiếng ở châu Âu lúc bấy giờ đã tiến hành các cuộc đụng đầu trực tiếp với nhau trên chiến trường châu Âu cũng như ngay tại Ấn Độ. Cuộc chiến Kế vị Áo Hoàng và chiến tranh Bảy năm đã lôi kéo hai nước này tham chiến. Vẻ bề ngoài của cuộc chiến là việc ủng hộ các bên tham chiến nhưng thực chất là một cuộc đọ sức giành vị thế cũng như thị trường ảnh hưởng giữa Anh và Pháp. Với những ưu thế có được, Anh đã đặt dấu chấm 25 Mục lục
Hướng dẫn trả lời câu hỏi Lịch sử 8, bài 9: Ấn Độ thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX.
Thứ sáu - 08/12/2017 18:08
Hướng dẫn trả lời câu hỏi Lịch sử 8, bài 9: Ấn Độ thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XX.
I. Sự xâm lược và chính sách thống trị của Anh
©Bản quyền thuộc vềBài kiểm tra.Ghi rõ nguồn Bài kiểm tra.com khi sao chép nội dung này. Nêu những hậu quả của sự thống trị của Anh ở Ấn Độ?
Đề bài Nêu những hậu quả sự thống trị của Anh ở Ấn Độ.
Phương pháp giải - Xem chi tiết
dựa vào sgk trang 56 để trả lời. Lời giải chi tiết * Hậu quả sự thống trị của thực dân Anh ở Ấn Độ: - Quần chúng nông dân bị bần cùng hóa: người dân mất ruộng đất, thủ công nghiệp suy sụp, nền văn minh lâu đời bị phá hoại, mâu thuẫn giữa các sắc tộc, tôn giáo Ấn nảy sinh. - Nhân dân Ấn Độ mâu thuẫn sâu sắc với thực dân Anh, dẫn đến hàng loạt các cuộc đấu tranh chống thực dân Anh nổ ra. Loigiaihay.com
Sự xâm lược và chính sách thống trị của Anh
Mục I I. Sự xâm lược và chính sách thống trị của Anh - Từ đầu thế kỉ XVII Chế độ phong kiến Ấn Độ suy yếu. Các nước phương tây từng bước xâm lược Ấn Độ. - Giữa Thế kỉ XVIII Anh đặt cai trị Ấn Độ: - Lợi dụng sự khác biệt về đẳng cấp, tôn giáo và sự tồn tại của nhiều vương quốc để áp dụng chính sách “chia để trị”, ”dùng người Ấn trị người Ấn”. - Thực hiện chính sách ngu dân trong lĩnh vực tôn giáo. - Tận lực vơ vét, bóc lột người dân, biến Ấn Độ thành nơi tiêu thụ hàng hóa. - Đời sống nhân dân bần cùng và chết đói,... - Thực dân Anh thi hành chính sách bóc lột nặng nề, chỉ trong vòng 25 năm ( 1875 - 1900) đã có 15 triệu người chết đói.
ND chính
Sơ đồ tư duy Sơ đồ tư duy Sự xâm lược và chính sách thống trị của Anh Loigiaihay.com
|