Vùng núi Trường Sơn Bắc gồm các dãy núi song song

a) Vùng núi Trường Sơn Bắc

- Giới hạn từ phía nam sông Cả tới dãy Bạch Mã.

-Gồm các dãy núi song song và so le nhau theo hướng tây bắc-đông nam.

- Trường Sơn Bắc thấp và hẹp ngang, được nâng cao ở hai đầu: phía bắc là vùng núi Tây Thừa Thiên-Huế, ở giữa thấp trũng là vùng đá vôi Quảng Bình và vùng đồi núi thấp Quảng Trị.

- Mạch núi cuối cùng (dãy Bạch Mã) đâm ngang ra biển là ranh giới với vùng núi Trường Sơn Nam.

b) Vùng núi Trường Sơn Nam

-Phía Nam dãy Bạch Mã đến vĩ tuyến 11 oB.

- Gồm các khối núi và cao nguyên. Khối núi Kon Tum và khối núi cực Nam Trung Bộ được nâng cao, đồ sộ.

- Địa hình núi với những đỉnh núi cao trên 2000m nghiêng đầu dần về phía đông, sườn dốc dựng chênh vênh bên dải đồng bằng hẹp ven biển. Tương phản với địa hình núi ở phía đông là các bề mặt cao nguyên badan Plây Ku, Đăk Lăk, Di Linh tương đối bằng phẳng, có các bậc độ cao khoảng 500-800-1000m và các bán bình nguyên xen đồi ở phía tây, tạo nên sự bất đối xứng rõ rệt giữa hai xườn Đông-Tây của vùng Trường Sơn Nam.

"Trường Sơn" đổi hướng tới đây. Đối với các định nghĩa khác, xem Trường Sơn (định hướng).

Dãy núi Trường Sơn, hoặc gọi dãy núi Trung Kì (chữ Pháp: chaîne Annamitique, cordillère Annamitique), là dãy núi chủ yếu ở bán đảo Đông Dương, dài chừng 1.100 kilômét, là đường phân thuỷ của sông Mê Kông và hệ thống sông ngòi đổ vào biển Đông, đi song song với bờ biển, về tổng thể hiện ra hình vòng cung thoai thoải theo hướng tây bắc - đông nam, cũng là dải núi dài phân chia ranh giới Việt Nam và Lào, chỗ này là rừng thường xanh ẩm gần như còn sót lại của toàn cầu, do đó có danh hiệu là "hành lang xanh". Cấu tạo địa chất phức tạp, đoạn phía bắc chủ yếu do đá vôi, sa thạch, đá hoa cương và đá gơnai tạo thành; đoạn phía nam có nếp uốn làm lộ ra nền đá aplit, ở một ít khu vực chúng nó bị dòng dung nham bazan che lấp, cao nguyên do dòng dung nham hình thành có cao nguyên Bolaven ở miền nam Lào, cao nguyên Kon Tum và cao nguyên Đà Lạt ở miền nam Việt Nam.

Dãy núi Trường SơnDãy núi Trung Kì

Dãy núi Trường Sơn

Điểm cao nhấtĐỉnhPhou BiaĐộ cao2.819 m (9.249 ft)Kích thướcChiều dài1.100 km (680 mi) NW/SEChiều rộng130 km (81 mi) NE/SWĐịa lýCác quốc giaLào and Việt NamToạ độ dãy núi18°35′30″B 103°48′0″Đ / 18,59167°B 103,8°Đ / 18.59167; 103.80000Địa chấtThời kìKỉ Tam Điệp

Dãy núi Trường Sơn, hoặc gọi dãy núi Trung Kì, là dãy núi chủ yếu ở bán đảo Đông Dương, là đường phân thuỷ của sông Mê Kông và hệ thống sông ngòi đổ vào biển Đông, đi song song với bờ biển, về tổng thể hiện ra hình vòng cung thoai thoải theo hướng tây bắc - đông nam, cũng là dải núi dài phân chia ranh giới Việt Nam và Lào. Dãy núi kéo dài dằng dặc, liên tiếp không ngừng, dài chừng 1.100 kilômét (680 dặm Anh), dốc phía đông cao chót vót, ép sát đồng bằng duyên hải hẹp nhỏ. Đỉnh núi cao nhất có đỉnh Phou Bia cao 2.819 mét, đỉnh Phu Xai Lai Leng cao 2.720 mét, đỉnh Ngọc Linh cao 2.598 mét so với mức mặt biển. Dãy núi chỉ có số ít đường đèo, trọng đó trọng yếu nhất chính là đèo Mụ Giạ, là một phần của đại lộ xuyên Á 131 (AH131) nối liền vịnh cảng Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh với Thà Khẹt, tỉnh Khăm Muộn; ngoài ra vẫn có đèo Keo Nưa là một phần của đại lộ xuyên Á 15 (AH15) nối liền ngã ba Bãi Vọt, Hà Tĩnh với Thà Khẹt, Khăm Muộn.

Dãy núi Trường Sơn có hướng tây bắc - đông nam, nghiêng đổ vào bên trong Việt Nam, là biên giới tự nhiên của Việt Nam, Lào và Campuchia. Toàn bộ Trường Sơn chia làm hai phần Trường Sơn Nam và Trường Sơn Bắc. Địa thế núi Trường Sơn Bắc cao sừng sững, đỉnh núi cao phần nhiều đạt từ 1.500 - 2.000 mét trở lên, trong đó Phu Xai Lai Leng là đỉnh núi cao nhất. Địa thế núi Trường Sơn Nam khá thấp, và lại dần dần chuyển tiếp về gò đồi và cao nguyên hình dạng sóng. Dốc phía tây của dãy núi khá thoai thoải, tạo thành cao nguyên bên trong nước Lào và Campuchia; dốc phía đông gần như thẳng đứng, ép sát bờ biển, có nhiều dốc dựng đứng và mũi đất lấn ra biển. Khoáng sản phong phú, nhiều rừng rậm và động vật hoang dã. Dãy núi Trường Sơn đã tạo thành khung xương của địa hình Việt Nam. Trong đó, dốc phía đông của dãy núi Trường Sơn từ sông Lam đến sông Vu Gia, địa thế cao chót vót, sát gần bờ biển, là bộ phận hẹp nhất của cả nước Việt Nam. Dốc phía tây thì địa thế bằng phẳng, có xu hướng nghiêng về thềm sông Mê Kông. Lúc chiến tranh Việt Nam, đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng đi sát bên dãy núi Trường Sơn qua lại thông suốt miền trung và miền nam Việt Nam, rất nhiều chuyện xưa truyền kì trong lịch sử chiến tranh Việt Nam đã xảy ra ở chỗ này.

Cấu tạo địa chất phức tạp, đoạn phía bắc chủ yếu do đá vôi, sa thạch, đá hoa cương và đá gơnai tạo thành; đoạn phía nam có nếp uốn làm lộ ra nền đá aplit, ở một ít khu vực chúng nó bị dòng dung nham bazan che lấp, cao nguyên do dòng dung nham hình thành có cao nguyên Bolaven ở miền nam Lào, cao nguyên Kon Tum và cao nguyên Đà Lạt ở miền nam Việt Nam. Đi về phía nam bắt đầu chuyển sang uốn cong, lên cao, rồi kết thúc ở đồng bằng Sài Gòn. Trước chỗ đó, ở phía tây Nha Trang lên cao đến 2.300 mét trở lên.

Dải Trường Sơn kéo dài từ thượng nguồn sông Cả trên đất Lào giáp Nghệ An tới tận cực nam Trung Bộ. Nó bao gồm toàn bộ các dãy núi nhỏ hơn ở Bắc Trung Bộ và các khối núi, cao nguyên Nam Trung Bộ, xếp thành hình cánh cung lớn mà mặt lồi quay ra Biển Đông.

Trường Sơn được chia thành Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam, ngăn cách bởi đèo Hải Vân và núi Bạch Mã.

Trường Sơn Bắc gồm nhiều dãy núi song song nhau theo hướng tây bắc - đông nam. Đầu đại Cổ sinh, nơi mà nay là Trường Sơn Bắc vốn chỉ là một địa máng giữa khối nâng Kon Tum và khối Đông Bắc. Vận động uốn nếp Hercynia (250 triệu đến 400 triệu năm trước) đã tạo ra nếp uốn Trường Sơn Bắc dính liền vào khối Kontum. Trải qua những giai đoạn bóc mòn và xâm thực khác nhau trong quá khứ, Trường Sơn Bắc trở thành dãy núi thấp và có một số bề mặt san bằng.[1]

Dãy Trường Sơn Bắc bắt đầu từ phía nam sông Cả và kéo dài đến dãy Bạch Mã, gồm các dãy núi chạy song song và sole nhau theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, càng về phía Nam dãy Trường Sơn càng sát bờ biển, có nhiều dãy núi đâm ngang thẳng ra biển như Hoành Sơn (giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình), và Bạch Mã (giữa Thừa Thiên Huế và Quảng Nam). Sườn phía đông dốc, sườn phía tây thoai thoải.

Đoạn từ Vinh (Nghệ An) vào đến Đà Nẵng bề ngang đồng bằng chỉ từ 40 km đến 60 km, chỗ hẹp nhất Đồng Hới(Quảng Bình) chỉ khoảng 37 km. Cao độ trung bình của dãy Trường Sơn Bắc khoảng 2.000 m, thỉnh thoảng có những đỉnh cao trên 2.500 m. Các đỉnh núi cao nhất là: Phu/Pu Xai Lai Leng (biên giới Việt-Lào, Nghệ An) 2711 m, Phu/Pu Ma (Nghệ An) 2194 m, Phu/Pu Đen Đin (Nghệ An) 1540 m, Rào Cỏ (biên giới Việt-Lào, Hà Tĩnh) 2235 m, Động Ngài (Thừa Thiên Huế) 1774 m, Bạch Mã (ranh giới Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng) 1444 m. Khối núi Kẻ Bàng ở tỉnh Quảng Bình cao tới 1178 m, có động Phong Nha được công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Các dãy núi con của Trường Sơn Bắc là: dãy Pu/Phu Lai Leng, dãy Giăng Màn, Bạch Mã.

Trường Sơn Bắc là nơi gặp gỡ của hai luồng thực vật di cư từ Himalaya xuống và từ Malaysia lên. Thảm thực vật ở đây, vì vậy, rất phong phú. Động vật cũng theo hai luồng thực vật di cư và hội tụ ở Trường Sơn Bắc.[2] Hẹp ở 2 đầu

Trường Sơn Nam là hệ thống dãy núi và khối núi, gờ núi cao bao bọc phía Đông của Tây Nguyên, chạy dài từ khối núi Ngọc Linh đến mũi Dinh. Các dãy núi và khối núi chính thuộc Trường Sơn Nam là khối núi Ngọc Linh, dãy núi An Khê, Chư Đju, Tây Khánh Hòa, Chư Yang Sin. Sườn của các dãy núi và khối núi này đổ dốc xuống các đồng bằng duyên hải từ Quảng Nam đến Nha Trang. Phần địa hình cao từ Kontum trở vào là Khối nâng Kontum hay Tây Nguyên.

Các đỉnh núi cao trong dãy núi Trường Sơn Nam gồm: Ngọc Linh (2598 m) cao nhất Nam Trường Sơn và hơn mười ngọn khác cao trên 1200 m cùng thuộc khối núi Ngọc Linh, Ngọc Krinh (2025 m), Kon Ka Kinh (1761 m), Vọng Phu (2051 m), Chư Yang Sin (2405 m), Bon Non (1692 m), Chư Braian (1865 m), M'non Lanlen (1623 m), M'non Pantar (1644 m), và nhiều đỉnh khác.

Do địa hình phức tạp, nên chế độ nhiệt độ, mưa, thủy văn, đất và lớp phủ thực vật ở Nam Trường Sơn rất đa dạng. Dãy Trường Sơn Nam còn chạy theo hướng Tây Nam

  • Bài hát Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây của Hoàng Hiệp
  • Bài hát Sợi nhớ sợi thương của Phan Huỳnh Điểu
  • Bài hát Tình ca của Phạm Duy (1953):
Đất nước tôi! Dẫy Trường Sơn ẩn bóng hoàng hôn Đất miền Tây chờ sức người vươn, đất ơi!
  • Bài hát Trên đỉnh Trường Sơn ta hát của Huy Du:
Trên đỉnh Trường Sơn ta hát bài ca Đất nước chan hòa mênh mông rừng xanh chiến lũy điệp trùng Đường Trường Sơn ta qua trái tim sao giục giã Hành quân đi lớp lớp như dòng sông nước chảy dạt dào.
  • Bài hát Gặp nhau trên đỉnh trường Sơn của Hoàng Hà:
Muôn dặm Trường Sơn, ta lại chia tuyến đường đi đánh Mỹ, Đi giải phóng quê nhà, tới chiến trường xa. Mỗi bước tôi đi, lòng càng nhớ bao đồng chí. Những người chiến sĩ yêu nước Lào. Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn
  • Bài hát Bước chân trên dải Trường Sơn của Vũ Trọng Hối:
Ta vượt trên triền núi cao Trường Sơn Đá mòn mà đôi gót không mòn
  • Bài hát Hát giữa đại ngàn Trường Sơn của Quỳnh Hợp, phổ thơ Nguyễn Anh Nông.
  • Trường ca Trường Sơn của Nguyễn Anh Nông (2009), Nhà xuất bản Văn học.
  • Dự án Trường ca Trường Sơn của Phạm Duy, sau hai trường ca Con đường cái quan và mẹ Việt Nam: Con Ðường Cái Quan là chiều dài, Mẹ Việt Nam là chiều sâu, còn Trường Sơn sẽ là chiều cao. Tôi hy vọng còn đủ sức để có thể vượt qua khỏi trở lực cuối cùng trong đời mình ! . Sau những thành công của hai bản trường ca trước, trường ca Trường Sơn được nhiều người chờ đón. Tuy nhiên, do biến cố năm 1975, dự định này đã không thực hiện được cho đến khi ông qua đời.[3]
  • Đường Trường Sơn

  1. ^ (Lê 2009, tr. 154)
  2. ^ (Lê 2009, tr. 158)
  3. ^ MẸ VIỆT NAM

  • Lê Bá Thảo (2009). Thiên nhiên Việt Nam (ấn bản 6). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
  • Lê Bá Thảo (2001). Việt Nam - Lãnh thổ và Địa lý. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Dãy Trường Sơn.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Dãy_Trường_Sơn&oldid=68455868”

Video liên quan

Chủ đề