Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng sau cách mạng Tháng Tám

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt không chỉ đối với dân tộc Việt Nam bởi nó đã lật đổ chế độ quân chủ phong kiến, đánh tan xiềng xích thực dân, giành chính quyền về tay Nhân dân, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình; nước Việt Nam có tên trên bản đồ thế giới, trở thành chủ thể trong quan hệ quốc tế với tư cách và vị thế của một quốc gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền, là nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á… mà còn là sự kiện đánh dấu sự sụp đổ của chế độ thực dân kiểu cũ, thúc đẩy phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc chống lại sự đô hộ của các cường quốc khắp các quốc gia ở Á, Phi, Mỹ Latinh.

Đây không chỉ là cuộc cách mạng có tầm vóc và sức ảnh hưởng lớn trong thế kỷ XX mà còn là cuộc cách mạng ít đổ máu nhất trong lịch sử. Có được thành công đó là nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức cùng quá trình tập dượt cho quần chúng đấu tranh trong suốt 15 năm kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. V.I. Lênin từng tổng kết: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền khó hơn”. Đối với Việt Nam còn khó hơn gấp bội bởi trong bối cảnh sau cách mạng, đất nước kiệt quệ dưới ách đô hộ của thực dân - phong kiến, ngân sách trống rỗng, nhân dân đa số bị mù chữ, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nạn đói triền miên,… cùng lúc phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, theo sau là sự liên kết chống lưng của các cường quốc. Vậy mà một chính quyền cách mạng non trẻ đã có thể “chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam” vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” đó, gây dựng tiền đề tạo nên những mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc về sau.

Nhân kỷ niệm 75 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng và Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước xuất bản cuốn sách Cách mạng Tháng Tám - Xây dựng và củng cố chính quyền 1945 - 1946 (Văn kiện Đảng và Nhà nước).

Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng sau cách mạng Tháng Tám

Khác với nhiều công trình nghiên cứu trước đây về Cách mạng Tháng Tám dưới góc độ phân tích diễn biến các sự kiện lịch sử, cuốn sách tập hợp các văn kiện của Đảng và Nhà nước bao gồm các chỉ thị, nghị quyết, lời kêu gọi… cùng hàng loạt sắc lệnh và biên bản họp Hội đồng Chính phủ, được chia thành các cụm chủ đề theo diễn tiến thời gian nhằm đem lại cái nhìn vừa toàn cảnh vừa cụ thể về nội tình công tác chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Chính phủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, để từng bước tháo gỡ, khắc phục khó khăn, kịp thời đối phó với thù trong, giặc ngoài, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, từng bước xác lập, xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ. Đặc biệt, các biên bản họp Hội đồng Chính phủ được chọn đưa vào cuốn sách là những tài liệu lần đầu tiên được công bố dưới dạng toàn văn, tái hiện chân thực sự việc, sự kiện, diễn biến từng phiên họp lúc bấy giờ, trong không khí vô cùng gấp rút để xây dựng, củng cố và hoàn thiện bộ máy chính quyền nhà nước. Trên thực tế, trong hai năm 1945-1946, Chính phủ đã họp hàng trăm phiên. Tuy nhiên, biên bản những phiên họp được lựa chọn đưa vào cuốn sách là những phiên họp giải quyết những vấn đề cơ bản, cấp bách và đôi khi là những tình huống gay cấn nhất. Qua đó, ta thấy được sự hết lòng vì dân, vì nước, vì sự nghiệp cách mạng; thấy được bản lĩnh, sự nhạy bén, sắc sảo, sáng tạo về chính trị cùng sự kết hợp, vận dụng linh hoạt, tổng hợp các phương pháp, kế sách về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao… của vị lãnh tụ thiên tài - Chủ tịch Hồ Chí Minh trước tình thế đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”. Nội dung các văn kiện lịch sử được đề cập trong cuốn sách là cơ sở mang lại góc nhìn đối chiếu với thành công của các sự kiện lịch sử dân tộc thời kỳ này, đồng thời là nền tảng minh chứng cho những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam và vai trò lãnh đạo duy nhất đúng của Đảng ta.

Nội dung cuốn sách được chia thành 4 phần chính:

Phần 1: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giới thiệu những tài liệu về Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với văn kiện mở đầu là Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, đánh dấu nhãn quan nhạy bén về nhìn nhận thời cơ và tình thế cách mạng, từ đó kịp thời có những chủ trương, quyết sách đúng đắn chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa và quá trình đấu tranh giành chính quyền, đưa đến thắng lợi của cuộc cách mạng, sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 02/9/1945.

Phần 2: Xây dựng và củng cố chính quyền sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là thời kỳ đầu khó khăn nhất sau cách mạng, ở miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 trở ra), 20 vạn quân Tưởng kéo vào nước ta, theo sau là các đảng phái phản động hòng lật đổ chính quyền cách mạng; ở miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào), quân Anh kéo vào, dọn đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Lợi dụng tình hình, bọn phản động “ngóc đầu dậy” làm tay sai cho thực dân Pháp chống phá cách mạng. Thêm vào đó, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng, tài chính kiệt quệ; lũ lụt, hạn hán, thiên tai, mất mùa diễn ra liên tiếp; nhiều xí nghiệp còn nằm trong tay tư bản Pháp; các cơ sở công nghiệp của ta chưa kịp phục hồi sản xuất; hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Tàn dư văn hóa lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến hết sức nặng nề, hơn 90% dân số không biết chữ, tệ nạn xã hội tràn lan… Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành hàng loạt sắc lệnh, đồng thời tiến hành liên tục các cuộc họp Hội đồng Chính phủ, nhanh chóng, kịp thời đối phó với thù trong giặc ngoài, khắc phục khó khăn về kinh tế, tài chính, xây dựng và phát triển văn hóa, giáo dục, củng cố an ninh, quốc phòng và ngoại giao… từng bước củng cố, xây dựng chính quyền, tổ chức bộ máy nhà nước, giữ gìn nền độc lập.

Phần 3: Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I và Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giới thiệu những tài liệu về việc chuẩn bị, tổ chức cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trên phạm vi cả nước, bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất: sự ra đời của Quốc hội khóa I; Tuyên ngôn của Quốc hội Việt Nam; hồ sơ một số phiên họp, nghị quyết của Quốc hội về thành lập chính phủ mới, chủ quyền thuế quan và ngoại thương, phát hành giấy bạc… khẳng định tính pháp lý của chế độ mới. Tiếp đó là việc thành lập Ủy ban Dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trình Quốc hội bản Hiến pháp ngay sau khi cuộc Tổng tuyển cử kết thúc, bản Hiến pháp đầu tiên được ban hành và việc triển khai thực thi Hiến pháp... Sự ra đời của Quốc hội và Hiến pháp là cơ sở thể hiện tập trung ý chí và nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân, khẳng định tính chất Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, khẳng định tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với thế giới.

Phần 4: Kháng chiến, kiến quốc, bảo vệ nền độc lập (1946), tập hợp những tài liệu về chủ trương, đường lối của Đảng, các sắc lệnh, biên bản họp của Chính phủ trong việc tiếp tục củng cố chính quyền cách mạng, ứng phó khôn khéo với quân đội Tưởng và thực dân Pháp, hạn chế tối đa những thiệt hại, thể hiện sự yêu chuộng hòa bình và khát vọng chính nghĩa của dân tộc Việt Nam trước cộng đồng quốc tế. Đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc và chính sách ngoại giao linh hoạt, mềm dẻo là điểm nổi bật của thời kỳ này, cho thấy khả năng lãnh đạo tài tình của Đảng nhằm tận dụng mọi khả năng cần thiết củng cố nền độc lập, đồng thời tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho đất nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến với tư thế chủ động, bảo đảm cho những thắng lợi về sau.

Phần phụ lục của cuốn sách là một số hình ảnh lịch sử trước, trong và sau khi khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng, củng cố chính quyền, kháng chiến, kiến quốc và bảo vệ nền độc lập.

Đây là cuốn sách được biên soạn, biên tập công phu, dày 664 trang với 175 văn kiện, biên bản họp Hội đồng Chính phủ, cung cấp nhiều tài liệu có giá trị từ kho lưu trữ của Đảng và Nhà nước, qua đó giúp bạn đọc có cái nhìn tổng thể, toàn diện, khách quan và có hệ thống về một giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước.

1. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)

a)                Hoàn cảnh nước ta sau Cách mạng Tháng Tám

Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.

Thuận lợi cơ bản là trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu được hình thành. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. Ở trong nước, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thổng từ Trung ươnga đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của đất nước. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng cường. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Khó khăn nghiêm trọng là hậu quả do chế độ cũ để lại như nạn đói, nạn dốt rất nặng nề, ngân quỹ quốc gia trống rỗng. Kinh nghiệm quản lý đất nước của cán bộ các cấp non yếu. Nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận, và đặt quan hệ ngoại giao. Với danh nghĩa Đồng minh đến tước khí giới của phátxít Nhật, quân đội các nước đế quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng Việt Nam và khuyến khích bọn Việt gian chống phá chính quyền cách mạng nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nước ta. Nghiêm trọng nhất là quân Anh, Pháp đã đồng lõa với nhau nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, hòng tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. "Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ mới, vận mệnh dân tộc như "ngàn cần treo sợi tóc", Tổ quốc lâm nguy.

b) Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng

Trước tình hình mới, Trung uơng Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt phân tích tình thế, dự đoán chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức? mạnh mới của dân tộc để vạch ra chủ trương, giải pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng là:

Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết", nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập.

Về xác định kẻ thù, Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông Dương và chỉ rõ "Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng". Vì vậy, phải "lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược"; mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào, V. V...

Về phương hướng, nhiệm vụ, Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương thực hiện là: "củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân". Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện" đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và "Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế" đối với Pháp.

Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ thị đã xác định đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm luợc. Đã chỉ ra kịp thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược mới của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là xây đựng đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước. Đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ thể về đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống giặc ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Những nội dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc được Đảng tập trung chỉ đạo thực hiện trên thực tế với tinh thần kiên quyết, khẩn trương, linh hoạt, sáng tạo, trước hết là trong giai đoạn từ tháng 9-1945 đến cuối năm 1946. Như việc bầu cử Quốc hội, lập Chính phủ chính thức, ban hành Hiến pháp, xây dựng các đoàn thể nhân dân, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, xóa nạn mù chữ, khai giảng năm học mới, tập luyện quân sự, thực hiện hòa với quân Tưởng ở miền Bắc để chống thực dân Pháp ở miền Nam và hòa với Pháp để đuổi Tưởng về nước...

c)Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm

Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng giai đoạn 1945-1946 đã diễn ra rất gay go, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao và đã giành được những kết quả hết sức to lớn.

Về chính trị - xã hội: Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử. Hiến pháp dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máy chính quyền từ Trung ương đến làng, xã và các cơ quan tư pháp, tòa án, các công cụ chuyên chính như Vệ quốc toàn, Công an nhân dân được thiết lập và tăng cường. Các đoàn thể nhân dân như Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được xây dựng và mở rộng. Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập.

Về kinh tế, văn hóa: Đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được hồi phục. Cuối năm 1945, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện. Tháng 11-1946, giấy bạc "Cụ Hồ" được phát hành. Đã mở lại các trường lớp và tổ chức khai giảng năm học mới. Cuộc vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới đã bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm 1946, cả nước đã có thêm 2.5 triệu người biết đọc, biết viết.

Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến và phát động phong trào Nam tiến chi viện Nam Bộ, ngăn không cho quân Pháp đánh ra Trung Bộ. Ở miền Bắc, bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng và Chính phủ ta đã thực hiện sách lược nhân nhượng với quân đội. Tưởng tay sai của chúng để giữ vững chính quyền, tập trung lực lượng chổng Pháp ở miền Nam. Khi Pháp - Tường ký Hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), thỏa thuận mua bán quyền lợi với nhau, cho Pháp kéo quân ra miền Bắc, Đảng lại mau lẹ chỉ đạo chọn giải pháp hào hoãn, dàn xếp với Pháp để buộc quân Tưởng phải rút về nước. Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Phôngtennơbờlô (Phongtennebleau, Pháp), Tạm ước 14-9-1946 đã tạo điều kiện cho quân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.

Ý nghĩa của những thành quả đấu tranh nói trên là đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững chính quyền cách mạng; xây dựng được những nền móng đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới, chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; chuẩn bị được những điều kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.

Nguyên nhân thắng lợi: Có được những thắng lợi quan trọng đó là do Đảng đã đánh giá đúng tình hình nước ta sau Cách mạng Tháng Tám, kịp thời đề ra chủ trương kháng chiến, kiến quốc đứng đắng; xây đựng và phát huy được sức manh của khối đại đoàn kết dân tộc; lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch, V.V..

Bài học kinh nghiệm trong hoạch định và chỉ đạo thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc giai đoạn 1945-1946 là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cành, cụ thể. Tận đụng khả năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ địch bội ước.

Loigiaihay.com