Yếu tố cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất là gì

2. Lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng nhất của sản xuất


Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự thay đổi, phát triển của phương thức sản xuất.
6
Dù hình thức xã hội của sản xuất như thế nào, người lao động và tư liệu sản xuất bao giờ cũng vẫn là những nhân tố của sản xuất. Muốn có sản
xuất nói chung thì người lao động và tư liệu sản xuất phải kết hợp với nhau. Con người sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo
ra sản phẩm cho xã hội. Lực lượng sản xuất là yếu tộ động, luôn luôn biến đổi dẫn đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Nếu mối quan hệ giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất thích hợp thì sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy có thể nói rằng lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng nhất của sản
xuất. Trong thực tế lịch sử xã hội loài người, sự phát triển của sản xuất đều được đánh dấu bằng sự tiến bộ không ngừng của lực lượng sản xuất. Các cuộc
cách mạng kỹ thuật đã mang lại sự thay đổi vượt bậc của quá trình sản xuất xã hội về cách thức sản xuất, phương thức tổ chức quản lý..
Sự khác nhau giữa một thời đại này với một thời đại kinh tế khác là phương thức chế tạo,là những tư liệu lao động dùng để chế tạo chứ không
phải là cái người ta chế tạo ra. Những tư liệu lao động là thước đo sự phát triển của người lao động và là những chỉ số của những quan hệ xã hội trong
đó người lao động làm việc. Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội chính là ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của
lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi và
do đó phương thức sản xuất cũ được thay thế bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế
xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình này diễn ra một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan.
3. Nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
a. Khái niệm Hiện nay nhiều khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực. Ngân hàng thế
giới cho rằng: nguồn nhân lực là tồn bộ vốn người thể lực, trí lực, kỹ năng,
7
nghề nghiệp… mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất, kinh doanh, hay trong một hoạt động nào đó.
Chúng ta có thể hiểu, nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức vị thế xã hội…
tạo nên năng lực của người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt
động xã hội. Khi ta nói tới nguồn lực con người là ta nói tới con người với tư cách là
chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội. Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn
lực khoa học - công nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định nhất, bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả
khi nguồn lực con người được phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng và phong phú. Xã
hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn lực con người và có chất lượng ngày càng cao. Muốn thực hiện được điều đó, cần có
sự quan tâm ngay trong q trình đào tạo, trong q trình sử dụng và phân cơng lao động xã hội.
- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đây là giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở các nước
có điểm xuất phát thấp từ một nền nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu của nước ta trong thời kỳ quá độ là Xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu này, việc phát triển và sử dụng nguồn nhân
lực để phát triển kinh tế phải được đặt lên hàng đầu. b. Nhân tố người lao động là nhân tố quyết định trong lực lượng sản
xuất Lực lượng sản xuất đó là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động của
con người và tư liệu sản xuất.Trong đó lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn
8
thể nhân loại là công nhân, là người lao động [V.I.Lênin: Tồn tập, Nxb Tiến bộ, Matxơcơva, 1977, t.38, tr.430] chính người lao động là chủ thể của quá
trình lịch sử sản xuất, với sức cạnh tranh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động mà trước hết là công cụ lao động tác động vào đối
tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng
lên, đặc biệt là trí tuệ của con người khơng ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao.
Cùng với người lao động thì cơng cụ thì cơng cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản
xuất. Cơng cụ lao động cũng là sản phẩm do trí tuệ của con người sáng tạo ra. Với q trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ
thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hồn thiện và nó đã làm biến đổi tồn bộ tư liệu sản xuất.
Từ sự biến đổi và phát triển của hai yếu tố tư liệu lao động và sức lao động mà lực lượng sản xuất không ngừng phát triển. Suy đến cùng nhân tố
người lao động chính là nhân tố quyết định nhất trong lực lượng sản xuất. Ngày nay trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò
ngày càng to lớn. Lao động trí tuệ ngày càng đó vai trò chủ yếu, nó thúc đẩy sản xuất phát triển bằng những ứng dụng thành tựu khoa học vào sản xuất.
Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại khơng còn là thói quan, kinh nghiệm của họ và là tri thức khoa học.
Chủ nghĩa xã hội có được xây dựng thành cơng hay khơng, tùy thuộc vào chúng ta có phát huy tốt nguồn lực con người hay không? Khi Việt Nam
bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa. [Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.10,
tr.310]. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xây dựng trên lĩnh vực kinh tế,
9
người lao động đã trở thành người làm chủ đất nước làm chủ trong quá trình tổ chức quản lý sản xuất, từ việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh tới
tổ chức sản xuất kinh doanh và làm chủ trong quá trình phân phối sản phẩm. Điều đó tạo ra điều kiện để phát huy nguồn lực con người, phát triển kinh tế -
xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất nước ngày càng giàu đẹp.
II. VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA - HIỆN ĐẠI HĨA CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
a. Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Theo quan điểm của Đảng ta xác định công nghiệp hóa là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và
quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại
tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Cơng nghiệp hóa ở nước ta có đặc điểm phải gắn liền với hiện đại hóa
bởi vì cuộc cách mạng khoa học hiện đại đã và đang diễn ra một số nước phát triển bắt đầu nền kinh tế cơng nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Do đó chúng
ta cần phải tranh thủ ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, tiếp cận với nền kinh tế tri thức để hiện đại hóa những ngành, những khâu
những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt. Ở nước ta cơng nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội; tăng cường sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc. Mục tiêu tổng qt của sự nghiệp cơng nghiệp hóa của nước ta được Đảng cộng sản
Việt Nam xác định tại Đại hội lần thức VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX là Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa
10
b. Vai trò của nguồn nhân lực đối với q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc đến nay đã có tới 30 nước hồn thành cơng nghiệp hóa. Một lợi thế cho những người đi sau là có sẵn vô vàn
bài học thành công và thất bại của những người đi trước. Người ta đã tổng kết và kể ra rất nhiều con đường cơng nghiệp hóa khác nhau: Cơng nghiệp hóa cổ
điển và phi cổ điển. Cơng nghiệp hóa cổ điển đây là kiểu cơng nghiệp hóa mà các nước Tây
Âu và Mỹ đã thực hiện ở thế kỷ 18, 19. - Công nghiệp loại 2: phi cổ điển là của các nước đi sau tiến hành cơng
nghiệp hóa một cách chủ động theo định hướng của Chính phủ. Nước ta đi theo con đường này, và con đường này có xu hướng rút ngắn thời gian hồn
thành. Nói tới cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa người ta đến vốn và công nghệ
hiện đại. Nhưng điều đó chỉ hồn tồn đúng với con đường cơng nghiệp hóa cổ điển, kinh nghiệm của các nước cơng nghiệp hóa con đường thứ hai cho
thấy hồn tồn khơng phải như vậy mà nhân tố quan trọng nhất chính là con người
Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là con đường duy nhất để phát triển nền kinh tế - xã hội đối với bất cứ quốc gia nào nhất là các nước chậm phát triển
và đang phát triển. Trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, con người - nguồn nhân lực với tư cách là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội.
Chính là yếu tố quyết định nhất, động lực cơ bản nhất. Thực tế đã chứng minh nguyên nhân dẫn đến sự thành cơng của các quốc gia vùng lãnh thổ có nền
cơng nghiệp phát triển ở Châu Á. Họ đã có chính sách ưu tiên phát triển giáo dục hợp lý tạo ra nguồn nhân lực có tay nghề, chun mơn kỹ thuật cao đáp
ứng tốt cho cơng nghiệp hóa. Nếu như cơng nghiệp hóa của các nước Châu Âu kéo dài gần 100 năm thì các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông, Singapo chỉ mất hai ba mươi năm đã xây dựng được một nền cơng
11
nghiệp hiện đại. Rò ràng nguồn nhân lực trở thành yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng mang tính quyết định nhất đối với sự phồn thịnh của quốc gia.
Đảng ta xác định nhân tố con người chính xác là vốn con người, vốn nhân lực bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống
của dân tộc là vốn quý nhất, quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước để xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Vì thế giải phóng tiềm năng con người, để phát huy tối đa nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là một trong những quan
điểm đổi mới có tính đột phá trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Con người Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 - Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII xác định xây dựng với những đức tính Lao động chăm chỉ
với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng suất cao. Vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội, thường xuyên học tập, nâng cao hiểu
biết, trình độ chuyên mơn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
2. Tính tất yếu khách quan phải phát triển và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả ở nước ta hiện nay
a. Yêu cầu ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điều kiện một nền kinh tế thấp kém, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Dù miền
Bắc đã có hơn 50 năm và cả nước đã có trên 30 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng một phần lớn thời gian vẫn là tình trạng một chủ nghĩa xã hội thời
chiến. Bên cạnh thành tựu to lớn phục vụ cho công cuộc kháng chiến và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thì chúng ta cũng mắc phải những
khuyết điểm nghiêm trọng trong tổ chức quản lý, những năm 80 lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sau 20 năm đổi mới nền kinh tế đã có
những thay đổi quan trọng, đã tương đối ổn định và phát triển tạo nên thế và lực mới của cách mạng nước ta, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
12
Tuy nhiên, trình độ lực lượng sản xuất kém phát triển đang còn là cản trở chủ yếu của việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà quan hệ sản xuất
này vốn mang bản chất xây dựng hoá nền sản xuất xã hội. Người lao động yếu tố động nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất vẫn còn hạn chế,
chưa đáp ứng được cơng cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ, tốc độ gia tăng dân số cao, số
người trong độ tuổi lao động lớn tạo nên sức ép trên thị trường lao động thể hiện tỉ lệ thất nghiệp năm 2004 là 5,6 lao động trong khu vực nông thôn vẫn
chiếm tỷ lệ lớn, năm 2004 lực lượng lao động nơng thơn có 32,7 triệu người chiếm tỷ lệ 15,6 lực lượng lao động cả nước, trong đó khi lực lượng lao
động thành thị là 10,55 triệu người chiếm 24,4 [Nguyễn Tiệp - Phát triển thị trường lao động nước ta các năm 2005 - 2010 - Nghiên cứu kinh tế 326 - tr
52]. Tỷ lệ lao động qua đào tạo của ta còn thấp chủ yếu vẫn là lao động giản
đơn. Thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề và lành nghề cao; chưa có tác phong cơng nghiệp, cơ cấu cấp trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động qua đào
tạo còn bất hợp lý năm 2003 Cao đẳng, đại học và trên đại học trung học chuyên nghiệp - công nhân kỹ thuật là 1- 0,9 -2,7.
Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều yếu kém, chương trình học không phù hợp với thực tế của thị trường lao động. Sinh viên học thụ
động, thiếu tính sáng tạo. Các trường đào tạo nghề sử dụng các máy móc đã lỗi thời, lạc hậu mà thực tế đã khơng còn sử dụng….
Chất lượng thì đã vậy, lại kết hợp thêm việc phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực bất cập, thiếu đồng bộ càng tăng thêm mâu thuẫn về cung cầu nguồn
nhân lực cả về số lượng và chất lượng ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu nghiêm trọng lao động có trình độ,
gây rất nhiều khó khăn cho việc phát triển về nhiều mặt ở vùng này. Những nơi cần thì khơng có, còn những nơi đã có nhiều rồi như ở các thành phố lớn
thì lại càng nhiều thêm gây ra một sự lãng phí rất lớn cho xã hội.
13
Trước thực trạng đó việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả cao là một vấn đề bức thiết. Nguồn nhân lực chính là yếu tố quyết định
thành cơng của cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, nhất là trong thời đại của khoa học công nghệ hiện nay. Người lao động nước ta có động lực học
tập tốt, thơng minh, tự tin cao, khéo léo, có thể thành giỏi nếu được giáo dục, tự tin và cần có một mơi trường thuận lợi để phát huy.
b. Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực cũng là yêu cầu và xu thế chung của thế giới.
Ngày nay khi loài người đã bước vào cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3 thì nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế đóng
vai trò đặc biệt quan trọng. Các nước công nghiệp phát triển đã chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hàm lượng chất xám trong các
sản phẩm làm ra ngày càng tăng lên. Khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, nhanh chóng được ứng dụng vào q trình sản xuất tạo ra khối lượng sản
phẩm đồ sộ. Các sản phẩm này ngày càng tiến tới phục vụ tối đa cho nhu cầu của con người. Nhiều ngành sản xuất mới, máy móc thiết bị, cơng nghệ mới,
các nguồn năng lượng mới… ra đời tạo bước phát triển nhảy vọt cho lực lượng sản xuất. Suy đến cùng những thành tựu ấy đều ra con người sáng tạo
ra, con người đóng vai trò chủ thể. Chính vì thế xu thế phát huy yếu tố, nguồn nhân lực là xu thế chung
toàn cầu. Nguồn nhân lực có chất lượng cao về trí tuệ và tay nghề ngày càng trở thành một lợi thế cạnh tranh cho mỗi quốc gia. Nếu nguồn nhân lực chỉ
hàm chứa lao động giản đơn thì sẽ là một sức ép đối với quá trình tăng trưởng và phát triển ở các nước chậm phát triển.
Nguồn nhân lực có dồi dào hay khơng là do chính sách đào tạo. Nước Mỹ rất có ý thức chuẩn bị nguồn nhân lực trong mối quan hệ phát
triển. Cựu tổng thống Mỹ George Bush nhấn mạnh làm cho học sinh Mỹ chiếm hàng đầu thế giới về kết quả các môn tốn và khoa học tự nhiên, làm
14
cho nước Mỹ có văn hóa và kỹ năng cần thiết để có khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, những chuẩn mực về kĩ năng và năng suất lao động, về hiệu quả kinh tế, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh
ngày càng phụ thuộc vào việc vận dụng những tiến bộ công nghệ và tri thức khoa học. Chỉ có con người làm chủ được tiến bộ công nghệ và tri thức khoa
học mới. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi mới trở thành quốc
sách hàng đầu với các quốc gia. Các nước phát triển lợi dụng ưu thế về vốn, kỹ thuật, đẩy nhanh đào tạo nhân tài, tranh giành người tài với các nước khác.
Các nước đang phát triển tăng cường đầu tư kinh phí cho khoa học công nghệ giáo dục đào tạo nhân tài, đồng thời ngăn ngừa chảy máu chất xám bằng
những chính sách ưu đãi thích hợp. Chính phủ Ấn Độ đầu tư 1,1 tổng sản phẩm kinh tế quốc dân, 87 tổng đầu tư khoa học công nghệ cho đào tạo
[Định hướng phát triển đội ngũ tri thức Việt Nam - tr.57]. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản là nước bại trận bị chiến tranh
tàn phá nặng nề nhưng quốc gia này vẫn khẳng định sự lựa chọn truyền thống trong giáo dục. Hệ thống giáo dục Nhật Bản được ưu tiên trên nhiều khía
cạnh, được sự quan tâm tạo điều kiện của gia đình và xã hội. Hàn Quốc bị ảnh hưởng nhiều của nền văn hóa Nho học Trung Hoa nên rất chú trọng phát triển
giáo dục. Nhờ đó đầu tư trong giáo dục của Hàn Quốc không ngừng tăng lên trong 50 năm qua. Đối với Trung Quốc, họ có chính sách mạnh dạn tìm người
tài. Trước mắt Trung Quốc đang thực hiện việc phát hành thẻ xanh, một loại thẻ dành cho những kỹ thuật viên, các nhà đầu tư, các nhà doanh nghiệp với
đặc quyền vào Trung Quốc không cần visa. Trước xu thế chung của thế giới, chúng ta không thể đứng ngồi cuộc.
Trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa phát triển kinh tế đất nước chúng ta cần hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nước ta tham gia vào rất nhiều
các tổ chức kinh tế như ASEAN, APEC và đặc biệt khi gia nhập vào tổ chức
15
thương mại thế giới WTO thì tính cạnh tranh của nền kinh tế phải được nâng cao. Do đó việc nắm được khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại để chủ động
trong quá trình sản xuất, kinh tế đối ngoại… rất quan trọng, chúng ta phải xác định rõ ràng những chính sách thích hợp để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.
3. Những giải pháp để phát triển và sử dụng nguồn nhân lực nước ta hiện nay
a. Giảm tỷ lệ gia tăng dân số tạo điều kiện để nguồn nhân lực phát huy tốt
Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nhận định Gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng
cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế phát triển về trí tuệ, văn hóa và thể lực của giống nòi. Nếu
xu hướng này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xa đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt.
Trong những năm qua tốc độ gia tăng dân số ở nước ta đã giảm chỉ còn dưới 2. Nhà nước thực hiện kế hoạch hóa gia đình, mỗi gia đình chỉ có 1-2
con để ni dạy cho tốt. Thế nhưng từ năm 2003 dân số nước ta lại có dấu hiệu tăng nhanh trở lại, vì vậy trong giai đoạn tới chúng ta vẫn phải tiếp tục
thực hiện chính sách kế hoạch hóa dân số và gia đình để trong tương lai đảm bảo tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động hàng năm hợp lý, hình thành
nguồn nhân lực chất lượng cao, tiến tới cân bằng cung và cầu lao động. b. Nâng cao hiệu quả của hệ thống giáo dụcđào tạo
Phát triển giáo dục, đào tạo lao động giải pháp có tính chiến lược lâu dài để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển cung lao động
chuyên môn kỹ thuật trên thị trường lao động. Giáo dục đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Các giải pháp cụ thể là:
Đối với các trường Cao đẳng, Đại học, trung học chuyên nghiệp cần hoàn thiện chuẩn mực quốc gia về trường, lớp, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật
16
chất, trang thiết bị giảng dạy, nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo trong toàn hệ thống. Phân bố hợp lý các
trường đào tạo, các cấp trình độ trên các vùng trong phạm vi cả nước. - Mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp
trình độ: sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và liên thơng giữa các trình độ, đồng thời chuyển sang đào tạo theo định hướng cầu lao động, đào
tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất, cung cấp lao động có chất lượng về tay nghề, sức khỏe, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp và các
phẩm chất khác để đáp ứng được thị trường trong nước và nước ngoài. - Đa dạng hóa các loại hình trường, lớp, dạy nghề của Nhà nước, của tư
nhân và quốc tế, hình thành thị trường dạy nghề phù hợp với pháp luật. - Thực hiện quy hoạch, đầu tư tập trung vào hệ thống dạy nghề kỹ thuật
thực hành. Quan tâm xây dựng hệ thống trường dạy nghề trọng điểm quốc gia, trường cao đẳng dạy nghề, trong đó có các trường đạt tiêu chuẩn khu vực;
các tỉnh, thành phố đều có trung tâm dạy nghề, phát triển cơ sở dạy nghề ngoài cơng lập.
Bằng nhiều hình thức đa dạng đảm bảo cho mọi người được học nhất là người nghèo và con em các gia đình thuộc diện chính sách. Động viên phong
trào tồn dân thi đua xóa mù chữ, hồn thành phổ cập trung học cơ sở, trung học phổ thông. Cùng với đổi mới nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện
đại, phải tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước.
c. Nhà nước quan tâm đến chính sách quốc gia về việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động, tránh tình trạng chảy máu chất xám.
Nhà nước tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi cho các khu vực kinh tế phát triển, khuyến khích khu
vực kinh tế tư nhân làm giàu chính đáng. Đặc biệt là tạo môi trường đầu tư, chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế để phát triển một bộ phận lớn doanh
nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ hiện đại. Thực hiện định hướng của Chính
17
phủ là đến năm 2010, cả nước có khoảng 500 nghìn doanh nghiệp, giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động.
Tiếp tục cải cách khu vực kinh tế Nhà nước, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, tạo mở
thêm việc làm cho người lao động, phát triển các tập đoàn kinh tế Nhà nước trong những ngành sản xuất, dịch vụ quan trọng, kinh doanh ở phạm vi toàn
cầu như: hàng khơng, dầu khí, điện lực, viễn thơng vận tải viễn dương, ngân hàng, bảo hiểm,.. để tạo sự thu hút lao động chuyên môn kỹ thuật.
Đẩy mạnh các hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI, ODA… để đổi mới công nghệ, tạo ra thêm nhiều việc làm nâng cao trình độ tay nghề
của người lao động. Khuyến khích Việt kiều chuyển tiền về nước để tăng thêm vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tạo mở thêm việc làm cho người
lao động. Thực tế đã cho thấy rằng nguồn vốn này khá lớn, năm 2004 số tiền việt kiều chuyển về nước gần ngang bằng vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta.
Bên cạnh việc tạo mở thêm việc làm cho người lao động, đồng thời cũng đi đôi với nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động. Người lao
động được quan tâm đến cả đời sống vật chất và tinh thần. Họ cần được quan tâm chăm lo cho việc ăn, việc ở ngày càng tốt hơn, các doanh nghiệp khám
bệnh cho người lao động định kỳ để đảm bảo tốt sức khỏe có thể lao động tốt. Người lao động có thời gian vui chơi, giải trí để tái sản xuất sức lao động. Khi
mà những nhu cầu về chất, tinh thần của họ được đảm bảo thì họ có thể chuyên tâm vào hoạt động sáng tạo, đảm nhiệm tốt cơng việc của mình.
Hiện nay tình trạng chảy máu chất xám ở nước ta rất đáng lo ngại. Nhân tài đang có xu hướng muốn làm việc ở các nước có nền kinh tế phát
triển, ở đó họ được đáp ứng tốt về điều kiện làm việc cũng như sinh hoạt gấp hàng chục lần trong nước. Mất mát về người tài có nguy cơ làm cho nền kinh
tế nước ta khó mà phát triển nhanh chóng. Chúng ta cần có chính sách khuyến khích họ như tạo điều kiện về nhà ở, trả lương cao với đúng năng lực của họ
và cung cấp mọi cơ sở vật chất tốt nhất để họ có thể phát huy năng lực cống
18
hiến cho cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Chính sách này đã được áp dụng ở một số tỉnh, thành phố và thu được những tín hiệu đáng mừng, tuy
nhiên cần phải được đẩy mạnh hơn nữa.
19
KẾT LUẬN
Chưa bao giờ trong lịch sử, nhân tố con người lại đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế như thời đại ngày nay. Máy móc khơng chỉ
thay thế lao động cơ bắp mà còn nhân lên sức mạnh trí tuệ con người, lực lượng sản xuất chuyển từ dựa vào vật chất sang dựa nhiều hơn vào trí lực và
sức sáng tạo của con người, sức sáng tạo của con người là vô hạn, tài nguyên là hữu hạn. Cho nên kinh tế dựa vào tri thức mở ra những triển vọng to lớn,
những khả năng vô hạn của con người, giải quyết những vấn đề cơ bản và cấp bách mà mình đang phải đối mặt. [Đặng Hữu - Phát triển bền vững dựa trên
tri thức - Tạp chí lý luận chính trịsố 11 - 2004. tr 9 - 10]. Việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá
độ đã được Đảng và Nhà nước ta xác định đúng hướng. Trong điều kiện nước ta hiện nay để chiến lược phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đến thắng lợi, chúng ta phải lấy nguồn nhân lực con người Việt Nam - nguồn nhân lực quan trọng nhất làm động lực cho sự phát triển lâu bền. Để
bồi dưỡng và phát h Tuy nguồn lực con người Việt Nam với tư cách đó, chúng ta cần tạo ra
mối quan hệ hài hóa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội tạo ra mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, lợi ích quốc gia, dân
tộc và lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân khơng ngừng nâng cao trình độ học vấn cho người lao động mang tầm quốc tế, xây dựng con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa tiên tiến nhưng vẫn ln coi trọng những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, khơng đánh mất mình. Từ đó xây dựng và phát triển Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.
20

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ GS, TS. Nguyễn Ngọc Long - GS, TS. Nguyễn Hữu Vui. Bộ Giáo dục và Đào tạo. “Giáo trình Triết học Mác - Lênin” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2021.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)

Giáo trình Triết học Mác-Lênin(Nguyễn Ngọc Long)

Kinh tế chính trị Marx-Lenin

Địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch| Giá trị sử dụng| Giá trị thặng dư| Giá trị trao đổi| Lao động thặng dư| Hàng hóa| Học thuyết giá trị lao động| Khủng hoảng kinh tế| Lao động cụ thể và lao động trừu tượng| Lực lượng sản xuất| Phương thức sản xuất| Phương tiện sản xuất| Quan hệ sản xuất| Quy luật giá trị| Sức lao động| Tái sản xuất| Thời gian lao động xã hội cần thiết| Tiền công lao động

Giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (phần 1)

Ngày phát hành: 15/11/2019 Lượt xem 202725


I. Những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

1. Lực lượng sản xuất: Khái niệm lực lượng sản xuất đã được nhiều học giả trước Mác nêu ra, nhưng lại được kiến giải một cách duy tâm. Khái niệm này chỉ được kiến giải một cách khoa học lần đầu tiên vào tháng 3-1845, khi Mác viết tác phẩm Về cuốn sách của Phiđrích Lixtơ “Học thuyết dân tộc về kinh tế chính trị học”. Ở đây, Các Mác chỉ ra tính chất duy tâm trong lý luận của Lixtơ, vạch trần tính chất tư sản của lý luận đó. Các Mác chỉ ra rằng: lực lượng sản xuất không phải là cái “bản chất tinh thần” nào đó như Lixtơ nghĩ ra, mà là một sức mạnh vật chất. Ông viết: “Để xua tan vầng hào quang thần bí có tác dụng cải biến “sức sản xuất”, chỉ cần mở ra bản tổng quan thống kê đầu tiên ta gặp là đủ. Ở đó có nói về sức nước, sức hơi nước, sức người, sức ngựa. Tất cả những thứ ấy đều là “lực lượng sản xuất”[1].

Khi phân tích các yếu tố của lực lượng sản xuất C. Mác sử dụng nhiều cách phân loại khác nhau như: phân loại theo công dụng của lực lượng sản xuất thành tư liệu sản xuất và sức lao động. Trong tư liệu sản xuất lại bao gồm: tư liệu lao động ( công cụ lao động, phương tiện lao động) và đối tượng lao động; hoặc phân loại theo chủ thể sức sản xuất thành sức sản xuất tự nhiên và sức sản xuất của con người.

Theo cách phân chia thứ nhất, C. Mác cho rằng, khi xem xét quá trình lao động một cách trừu tượng, không phụ thuộc vào các hình thức lịch sử của nó, như là một quá trình giữa người và tự nhiên, thì “Nếu đứng về mặt kết quả của nó, tức là đứng về mặt sản phẩm mà xét toàn bộ quá trình, thì cả tư liệu lao động lẫn đối tượng lao động đều biểu hiện ra là tư liệu sản xuất, còn bản thân lao động thì biểu hiện ra là lao động sản xuất…. Định nghĩa này về lao động sản xuất, xét trên quan điểm của một quá trình lao động giản đơn”[2].

Theo cách phân chia thứ hai, “con người, với tính cách lực lượng sản xuất, không những sáng tạo ra của cải vật chất, mà cùng với sức sản xuất tự nhiên trở thành lực lượng cách mạng thúc đẩy sự phát triển của xã hội”[3].

C. Mác cho rằng sức sản xuất tự nhiên là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất. Ông viết: “Nếu không nói đến hình thái ít nhiều phát triển của nền sản xuất xã hội, thì năng suất lao động gắn liền với những điều kiện tự nhiên... Về mặt kinh tế, những điều kiện tự nhiên ở bên ngoài chia thành hai loại lớn: sự phong phú tự nhiên về những tài nguyên dùng làm tư liệu sinh hoạt, nghĩa là tính chất màu mỡ của đất đai, những dòng nước lắm cá, v.v., và sự phong phú tự nhiên về những tài nguyên dùng làm tư liệu lao động như thác nước chảy xiết, sông ngòi mà thuyền bè có thể đi lại được, gỗ, kim loại, than đá, v.v.. Vào buổi đầu của nền văn minh, loại tài nguyên thứ nhất có ý nghĩa quyết định, ở giai đoạn phát triển cao hơn thì loại tài nguyên thiên nhiên thứ hai có ý nghĩa quyết định”[4]. Tuy nhiên, C. Mác nhấn mạnh rằng sức sản xuất tự nhiên không đóng vai trò quyết định sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ (tức chiều hướng phát triển nhờ tăng năng suất lao động xã hội), ngược lại, “Một thiên nhiên quá hào phóng sẽ dắt con người đi như dắt tay một đứa trẻ em mới tập đi. Nó không làm cho sự phát triển của con người thành một sự tất yếu tự nhiên”[5].

C. Mác đề cao sức sản xuất của con người. Ông viết: “Chính sự cần thiết phải có sự kiểm soát của xã hội đối với một lực lượng nào đó của tự nhiên để tiết kiệm nó, chính sự cần thiết phải chiếm lấy nó hoặc phải thuần thục nó bằng những công trình đại quy mô do bàn tay con người dựng nên, - chính sự cần thiết đó đã đóng một vai trò hết sức quyết định trong lịch sử công nghiệp”[6]

Tóm lại, những luận điểm cơ bản về lực lượng sản xuất của C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa thời đại được đúc kết như sau:

- Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, phản ánh khả năng con người chinh phục tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được khái quát thành lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện của trình độ chinh phục tự nhiên của con người, lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội bảo đảm nhu cầu của con người. Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất, kỹ thuật nhất định. Tổng thể các yếu tố ấy là lực lượng sản xuất, bao gồm:

Sức lao động, bao gồm ba yếu tố: thể lực, trí lực và kỹ năng lao động. Lao động không chỉ bao gồm công nhân trực tiếp, mà còn gồm cả công nhân gián tiếp và các nhà quản lý. Cùng với quá trình phát triển của khoa học và công nghệ, tỷ lệ đội ngũ công nhân gián tiếp tăng lên.

Tư liệu sản xuất là những điều kiện cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động là yếu tố vật chất sản xuất mà con người dựa vào đó tác động lên đối tượng lao động. Đối tượng lao động là yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động của con người cùng với tư liệu lao động tác động lên làm biến đổi hình dáng, tính chất vật lý... của đối tượng lao động. Trong tư liệu lao động có công cụ sản xuất là nhân tố quyết định và một bộ phận là vật chuyển dẫn, là những điều kiện sản xuất chung, được gọi là kết cấu hạ tầng (như đường sá, bến cảng, hệ thống điện, viễn thông...). Trong quá trình phát triển, hệ thống kết cấu hạ tầng ngày càng trở nên quan trọng và có vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình sản xuất và sức sản xuất của nền sản xuất xã hội.

Khoa học kỹ thuật là một bộ phận của lực lượng sản xuất. Nó là cái cốt lõi, yếu tố quyết định trình độ của lực lượng sản xuất.

Lực lượng sản xuất tồn tại một cách khách quan, người ta không được tự do lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình... “Vì mọi lực lượng sản xuất là lực lượng đã đạt được, tức là một sản phẩm của một hoạt động đã qua... không phải do họ tạo ra, mà do thế hệ trước tạo ra... Mỗi thế hệ sau đã có sẵn những lực lượng sản xuất do những thế hệ trước đây dựng lên và được thế hệ mới dùng làm nguyên liệu cho sự sản xuất mới"[7] . Do vậy, lực lượng sản xuất là có tính kế thừa và phát triển.

- Trong 3 yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất thì người lao động là yếu tố quyết định nhất, quan trọng nhất bởi con người lao động chế tạo ra tư liệu lao động, và một phần đối tượng lao động, đồng thời là người sử dụng, phát huy vai trò của tư liệu lao động, công cụ lao động. Ngay khoa học - kỹ thuật là yếu tố cốt lõi của lực lượng sản xuất, nhưng tự bản thân khoa học không thể gây ra bất kỳ sự tác động tích cực hay tiêu cực nào đối với thế giới, mà phải thông qua sự vận dụng vào hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát sinh tác dụng.

- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một dân tộc biểu lộ rõ nhất ở trình độ phát triển của phân công lao động.

- Lực lượng sản xuất có vai trò chức năng sáng tạo ra của cải vật chất và là động lực của sự phát triển xã hội

2. Quan hệ sản xuất:

Nếu phạm trù lực lượng sản xuất được các nhà khoa học trước C. Mác đề cập đến nhưng lại được giải thích một cách duy tâm và chỉ đến C.Mác mới được xem xét một cách duy vật khoa học thì phạm trù quan hệ sản xuất là sự sáng tạo riêng của C. Mác. Hàm nghĩa của quan hệ sản xuất được trình bày lần đầu tiên trong tác phẩm “Gia đình thần thánh”, khi C. Mác phân tích mối quan hệ giữa sản phẩm lao động với con người. Ông viết: “Vật thể, với tư cách là sự tồn tại vì con người, với tư cách sự tồn tại vật thể của con người, thì đồng thời cũng là sự tồn tại hiện có của con người vì người khác, là quan hệ người của anh ta đối với người khác, là quan hệ xã hội đối với người”[8]. Và rằng, trong quá trình “... sản xuất ra đời sống – ra đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như sản xuất ra đời sống của người khác bằng việc sinh con, đẻ cái – biểu hiện ngay ra là một quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội, quan hệ xã hội với ý nghĩa đó là sự hợp tác của nhiều cá nhân, không kể là trong những điều kiện nào, theo cách và nhằm mục đích gì... ”[9]. Rằng, “khi phát triển những lực lượng sản xuất của mình, nghĩa là khi sinh sống, thì con người cũng phát triển những quan hệ nhất định giữa họ với nhau,… tính chất của những quan hệ ấy tất yếu phải thay đổi cùng với sự biến cải và phát triển của những lực lượng sản xuất ấy”[10]. Từ cách gọi quan hệ trong quá trình sản xuất là “quan hệ xã hội” hay “quan hệ giao tiếp”, sau này, trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Các Mác và Ph.Ăngghen mới chính thức sử dụng khái niệm quan hệ sản xuất, các ông viết: “Phương thức sản xuất, những quan hệ trong đó các lực lượng sản xuất phát triển, đều không phải là những quy luật vĩnh cửu, mà chúng thích ứng với một trình độ phát triển nhất định của con người và của những lực lượng sản xuất của con người, và bất kỳ sự thay đổi nào trong lực lượng sản xuất của con người đều tất phải dẫn đến một sự thay đổi trong những quan hệ sản xuất của con người”[11]. Kế thừa và những tư tưởng của C.Mác và F.Ăngghen, chính V.I. Lênin sau này đã tiếp tục khẳng định: “...cũng như mọi hiện tượng trong giới tự nhiên đều có nguyên nhân vật chất, sự phát triển của xã hội loài người là do sự phát triển của những lực lượng vật chất, sản xuất quyết định. Quan hệ giữa người với nhau trong việc sản xuất những vật phẩm cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của con người là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Và chính những quan hệ ấy giải thích tất cả những hiện tượng của đời sống xã hội, những nguyện vọng, tư tưởng và luật pháp của con người”[12].

Có thể nêu ra rất nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng tổng hợp lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin có thể nêu một cách khái quát về quan hệ sản xuất như sau: Quan hệ sản xuất là khái niệm dùng để chỉ quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và trao đổi vật chất, thể hiện tập trung ở quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau và quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Trong các mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trao đổi và quan hệ phân phối sản phẩm, cũng như các quan hệ xã hội khác.

Một xã hội cụ thể thường bao gồm có ba loại quan hệ sản xuất cơ bản đó là: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội và tạo ra cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, để phân biệt xã hội này với xã hội khác. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định và có sự tác động trở lại quan hệ sản xuất đóng vai trò chủ đạo.

Quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của hoạt động sản xuất tinh thần của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, chính trị và những thiết chế tương ứng trong xã hội. Trong Lời tựa viết cho tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, Các Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất … hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”[13]. Quan hệ sản xuất là một mặt của phương thức sản xuất, nếu lực lượng sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của mối “quan hệ song trùng” của sản xuất vật chất, thì quan hệ sản xuất biểu hiện mặt thứ hai của quan hệ đó, tức là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất.

3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một trong những nguyên lý cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là quan hệ cơ bản của toàn xã hội, quyết định sự vận động phát triển của lịch sử xã hội loài người. Mối liên hệ này do C. Mác phát hiện ra và được trình bày trong nhiều tác phẩm của ông, trong đó, tập trung nhất ở “Hệ tư tưởng Đức”,“Sự khốn cùng của triết học”, Lời tựa cuốn “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, Bộ “Tư bản luận” và nhiều tác phẩm khác.

Trong Lời tựa cuốn “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, C.Mác đã chỉ rõ rằng, “trong sự sản xuất ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ. Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội...Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới cao hơn cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng xã hội cũ”[14]. Sau này, chính V.I. Lênin trong quá trình nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn chỉ đạo cách mạng cũng đi đến kết luận: “… chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Và dĩ nhiên là không có một quan điểm như thế thì không thể có một khoa học xã hội được”[15].

Từ những tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, Lênin có thể tóm lược những nội dung cốt lõi của mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất như sau:

- Một là, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai thành tố cơ bản cấu thành nên phương thức sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, ràng buộc lẫn nhau trong quá trình sản xuất xã hội. Mỗi phương thức sản xuất hay quá trình sản xuất xã hội không thể tiến hành được nếu thiếu một trong hai thành tố trên. Trong đó, lực lượng sản xuất chính là nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ của quá trình này còn quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình đó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải được điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp, thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ có sự thích ứng, phù hợp đó của quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất mới có thể tiếp tục phát triển.

- Hai là, trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Tính quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất được thể hiện trên hai mặt thống nhất với nhau: lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất đó và cũng do đó mà khi lực lượng sản xuất thay đổi thì cũng tất yếu đòi hỏi phải có những thay đổi nhất định đối với quan hệ sản xuất.

- Ba là, quan hệ sản xuất luôn có khả năng tác động ngược trở lại, đối với việc bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển lực lượng sản xuất. Quá trình tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất có thể diễn ra với hai khả năng: tác động tích cực hoặc tiêu cực. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với nhu cầu khách quan bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển của lực lượng sản xuất thì có tác động tích cực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu trái với nhu cầu khách quan đó thì nhất định sẽ diễn ra quá trình tác động tiêu cực. Lực lượng sản xuất phát triển không ngừng, trong khi đó quan hệ sản xuất lại có tính ổn định tương đối, vì nó gắn với các thiết chế xã hội, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội của nó. Chính vì thế mà Các Mác đã khẳng định: “Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ sản xuất, là xã hội, và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều là tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại”[16]. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thúc đẩy xã hội loài người phát triển không ngừng như một quá trình lịch sử - tự nhiên.

- Bốn là, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ mâu thuẫn biện chứng, tức là mối quan hệ thống nhất của hai mặt đối lập. Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là đi từ sự thống nhất đến mâu thuẫn và một khi mâu thuẫn được giải quyết thì tái thiết lập sự thống nhất mới; quá trình này lặp đi lặp lại trong lịch sử tạo ra quá trình vận động phát triển của phương thức sản xuất.

(còn tiếp)

TS. Lê Minh Nghĩa



[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Tập 42, Nxb CTQG – ST, H. 2000, tr. 354.

[2] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002, tập 23, tr.717

[3] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tập 3, tr.65

[4] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002, tập 23, tr.723

[5] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002, tập 23, tr.723

[6] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002, tập 23, tr.723

[7] Thư C.Mác gửi P.V.Annencốp 28/1/1846.

[8] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tập 2, tr. 65.

[9] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tập 3, tr. 42

[10] C.Mác gửi An-nen-cốp ngày 28 tháng Chạp năm 1846, t.27, tr.664.

[11] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995,tập 4, tr. 201 – 202.

[12] V.I.Lênin, Toàn tập, T.2, tr. 6-7.

[13] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 13, Nxb,CTQG, Hà Nội, 1995, tr15

[14] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1993; tập 13; tr 14 -.15.

[15] VVI. Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, : Những “người bạn dân” là thế nào, t.1, tr.163.

[16] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Tập 6, trang 553.

Lực lượng sản xuất là gì?

Lực lượng sản xuấtlà toàn bộ những năng lực thực tiễn được dùng trong quá trìnhsản xuất củaxã hội qua các thời kỳ nhất định, về mặt cấu trúc thì lực lượng sản xuất của xã hội bao gồm hệ thống nhữngtư liệu sản xuất và sức lao động mà người ta dùng cho việc sản xuất.

Khái niệm lực lượng sản xuất được dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ,… của quá trình sản xuất từ đó tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người. Với ý nghĩa như vậy lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc phản ánh căn bản trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người.

Trong bất cứ một xã hội nào để tạo ra của cải, vật chất cho xã hội không chỉ có người lao động mà còn phải có cả tư liệu sản xuất. Bởi lẽ nếu không có công cụ lao động phục vụ cho quá trình lao động thì con người sẽ không thể tác động để tạo ra của cải vật chất.