Âm tính và dương tính nghĩa là gì

Về mặt khái niệm, nếu xét nghiệm tốt nhất cho một căn bệnh nặng có LR + thấp và TT cao, thì có thể hiểu rằng một kết quả xét nghiệm dương tính có thể không làm tăng xác suất sau test trên TT ở bệnh nhân có tỷ lệ trước test thấp nhưng đáng lo ngại (có lẽ rơi vào khoảng 10% hoặc 20%).

Vấn đề có thể được giải quyết theo toán học (tỷ lệ trước test × LR = tỷ lệ sau test) hoặc trực quan hơn bằng cách sử dụng toán đồ Fagan. Toán đồ Fagan được sử dụng để quyết định cần phải xét nghiệm hay không

Âm tính và dương tính nghĩa là gì
Trên toán đồ, một đường nối ngưỡng điều trị (25%) trên đường xác suất sau test qua LR+ (2,0) cắt đường LR giữa tại một xác suất trước test khoảng 0,14. Rõ ràng, một xét nghiệm dương tính ở bệnh nhân có bất kỳ xác suất trưoc test < 14% vẫn sẽ dẫn đến một xác suất sau test thấp hơn ngưỡng điều trị. Trong trường hợp này, siêu âm tim sẽ vô dụng vì ngay cả kết quả dương tính sẽ không dẫn đến quyết định điều trị; do đó, 14% xác suất thử nghiệm là ngưỡng xét nghiệmcho xét nghiệm này Mô tả ngưỡng xét nghiệm và điều trị.
Âm tính và dương tính nghĩa là gì
. Một thử nghiệm với một LR khác+ sẽ có một ngưỡng thử nghiệm khác.

Trong ví dụ này, bệnh nhân được cho là có ngưỡng điều trị (TT) là 25% đối với nhồi máu cơ tim cấp. Khi xác suất của MI vượt quá 25%, liệu pháp tiêu huyết khối được đưa ra. Các bác sĩ lâm sàng có thể sử dụng toán đồ Fagan để quyết định có nên làm siêu âm tim nhanh trước khi điều trị tiêu huyết khối. Giả sử rằng siêu âm tim có độ nhạy giả định là 60% và đặc hiệu là 70% đối với bệnh nhồi máu mới, tỷ lệ phần trăm tương ứng với tỷ suất có thể xảy ra (LR) của kết quả xét nghiệm dương tính (LR+) của 60/(100 70) = 2. Một đường kết nối TT 25% trên đường xác suất sau khi thử nghiệm với LR+ (2,0) trên đường LR giữa có một xác suất trước khi thử nghiệm khoảng 0,14. Một kết quả xét nghiệm dương tính ở bệnh nhân có xác suất trước khi thử nghiệm < 14% vẫn tạo ra một xác suất sau khi thử nghiệm ít hơn TT.

Theo Fagan TJ. Thư: Toán đồ định lý Bayes. New England Journal of Medicine 293:257, 1975.

Đường ngang thể hiện xác suất sau test.

Ví dụ này xem xét một xét nghiệm không gây nguy hiểm cho bệnh nhân. Nếu xét nghiệm có những nguy cơ nghiêm trọng (ví dụ như đặt catheter), ngưỡng xét nghiệm phải cao hơn; có thể thực hiện tính toán định lượng nhưng phương pháp này khá phức tạp. Do đó, giảm độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm hoặc tăng nguy cơ của nó sẽ giúp thu hẹp phạm vi xác suất của bệnh tới ngưỡng xét nghiệm là chiến lược tốt nhất. Cải thiện khả năng chẩn đoán phân biệt hoặc giảm nguy cơ của xét nghiệm sẽ mở rộng phạm vi xác suất tới ngưỡng xét nghiệm là chiến lược tốt nhất.

Một ngoại lệ có thể xảy ra đối với việc không làm xét nghiệm, đó là khi xác suất trước test dưới ngưỡng xét nghiệm (nhưng vẫn đáng lo ngại), có thể là nếu kết quả test âm tính có thể giảmxác suất sau thử nghiệm dưới ngưỡng mà tại đó có thể cân nhắc chẩn đoán loại trừ bệnh. Sự xác định này đòi hỏi một sự đánh giá chủ quan về mức độ chắc chắn cần thiết khi kết luận rằng bệnh có thể bị loại trừ, và bởi có xác suất thấp, cần đặc biệt chú ý đến bất kỳ nguy cơ nào của xét nghiệm.

Bài viết bởi TS.BS Đoàn Thi Hồng Hạnh - Khoa Xét nghiệm, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hạ Long

Khi triển khai một kỹ thuật xét nghiệm mới, nhất là với các xét nghiệm định tính và bán định lượng, người quản lý Phòng xét nghiệm thường quan tâm đến các chỉ số sau: Độ nhạy và độ đặc hiệu của Phương pháp xét nghiệm. Khi đề cập đến Độ nhạy và Độ đặc hiệu có hai khái niệm là Dương tính giả và âm tính giả.

Độ nhạy của một xét nghiệm là tỷ lệ những trường hợp thực sự có bệnh và có kết quả xét nghiệm dương tính trong toàn bộ các trường hợp có bệnh. Công thức để tính độ nhạy như sau:

Độ nhạy = Số dương tính thật/(số dương tính thật + số âm tính giả)

Độ đặc hiệu của một xét nghiệm là tỷ lệ những trường hợp thực sự không có bệnh và có kết quả xét nghiệm âm tính trong toàn bộ các trường hợp không bị bệnh. Độ đặc hiệu được tính theo công thức sau:

Độ đặc hiệu = Số trường hợp âm tính thật/ (số trường hợp âm tính thật + số trường hợp dương tính giả)

Khi đề cập đến Độ nhạy và Độ đặc hiệu có hai khái niệm là Dương tính giả và âm tính giả. Vậy Dương tính giả và Âm tính giả là gì?

  • Dương tính giả là kết quả xét nghiệm Dương tính trong khi đó người đi kiểm tra thực sự không có bệnh.
  • Âm tính giả là kết quả xét nghiệm Âm tính trong khi đó người đi kiểm tra thực sự là có bệnh.

Như vậy, âm tính giả hay dương tính giả là tình trạng kết quả xét nghiệm thu được không chính xác với tình trạng bệnh.

Âm tính và dương tính nghĩa là gì

Dương tính giả là kết quả xét nghiệm Dương tính trong khi đó người đi kiểm tra thực sự không có bệnh

Chúng ta đều biết rằng mọi quy trình đều có những lỗ hổng. Ngay cả những xét nghiệm có độ chính xác cao nhất cũng chỉ cho ra kết quả đúng đến 99% mà thôi.

Có một số nguyên nhân dẫn đến kết quả xét nghiệm Dương tính giả và âm tính giả. Xin đơn cử một vài trường hợp dưới đây:

  • Khám bệnh, khai thác tiền sử, tư vấn trước xét nghiệm xem người bệnh bị bệnh vào thời gian nào? Người bệnh đã tuân thủ đúng các quy định trước khi lấy mẫu xét nghiệm chưa? Điều này vô cùng quan trọng vì nếu không tuân thủ sẽ dẫn đến sai lệch kết quả vì có 1 số yếu tố gây nhiễu.
  • Thời điểm lấy mẫu và cơ địa/tình trạng người bệnh lúc lấy mẫu rất quan trọng. Ví dụ: Xét nghiệm HIV trong giai đoạn cửa sổ sẽ cho kết quả âm tính giả vì cơ thể người làm xét nghiệm đã nhiễm virus HIV nhưng cơ thể lại chưa kịp tạo ra kháng thể chống lại virus HIV, do đó khi xét nghiệm cho kết quả âm tính. Một số ít trường hợp cho kết quả dương tính giả. Nghĩa là thực tế người bệnh không bị nhiễm HIV nhưng kết quả trả về lại là dương tính.Có thể gặp trường hợp này do nguyên nhân: nhầm lẫn trong quá trình xét nghiệm hoặc do người bệnh khi xét nghiệm đang mắc các bệnh như xơ gan, suy gan, lao.... hoặc người bệnh đang dùng một số loại thuốc ảnh hưởng tới khả năng nhận diện kháng thể HIV khi xét nghiệm.
  • Sốt xuất huyết có ba giai đoạn: giai đoạn sốt, giai đoạn sốc, giai đoạn hồi phục. Ở giai đoạn sốt rất khó nhận biết bệnh. Hơn thế nữa, mặc dù sốt xuất huyết đã có xét nghiệm chẩn đoán sớm nhưng vẫn có trường hợp âm tính giả. Sự khác nhau về thời điểm lấy máu là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng âm tính nhưng vẫn mắc sốt xuất huyết. Khi xét nghiệm công thức máu vào 1-2 ngày đầu tiên, lượng virus trong máu chứa nhiều nên một số trường hợp cho kết quả âm tính. Hay người bệnh làm xét nghiệm ở ngày thứ 5-6, giai đoạn virus trong máu đã giảm thì cũng có thể cho kết quả âm tính.
  • Chỉ số beta-HCG trong máu và trong nước tiểu đóng vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán mang thai sớm. Phương pháp dùng que thử thai nhanh để tìm sự biến đổi nồng độ beta-HCG trong nước tiểu cho kết quả nhanh và tiện lợi vì đây là phương pháp định tính (thử nghiệm cho kết quả âm tính hoặc dương tính). Phương pháp xét nghiệm định lượng nồng độ beta-HCG trong máu cho kết quả chính xác giúp bác sĩ chẩn đoán việc mang thai cũng như tầm soát các vấn đề khác liên quan như tính tuổi thai, chẩn đoán thai kỳ bất thường (thai ngoài tử cung), chẩn đoán nguy cơ sảy thai, tầm soát hội chứng Down. Mặc dù cả hai phương pháp đều cho kết quả chính xác rất cao và được áp dụng rộng rãi, trên thực tế (nếu loại trừ nguyên nhân do chất lượng que thử hoặc sai số của máy xét nghiệm) có rất nhiều trường hợp cho kết quả âm tính giả hoặc dương tính giả với nhiều nguyên nhân khác nhau. Nếu xét nghiệm được thực hiện quá sớm, trước khi cơ thể có thời gian để sản xuất đủ beta-HCG có thể dẫn tới kết quả âm tính giả. Do nồng độ beta-HCG thay đổi rất nhanh trong thời kỳ đầu mang thai, xét nghiệm định lượng beta-HCG nên được lặp lại trong vòng 48-72 tiếng để quan sát sự thay đổi của nồng độ hormone này. Một số loại thuốc như thuốc lợi tiểu, thuốc kháng dị ứng, thuốc an thần cũng có thể gây ra kết quả xét nghiệm beta-HCG âm tính giả. Nếu mẫu xét nghiệm có chứa protein, máu hoặc gonadotropin tuyến yên dư thừa có thể dẫn tới kết quả xét nghiệm dương tính giả. Tình trạng này cũng có thể xảy ra nếu cơ thể sản xuất ra loại kháng thể có mảnh vỡ của phân tử HCG.

Âm tính và dương tính nghĩa là gì

Âm tính giả là kết quả xét nghiệm Âm tính trong khi đó người đi kiểm tra thực sự là có bệnh

Trong quá trình thực hành lâm sàng cần tuân thủ các nguyên tắc sau;

  • Kiểm tra/đối chiếu với tiền sử, bệnh sử, triệu chứng lâm sàng của người bệnh xem có phù hợp không khi có kết quả xét nghiệm (bác sỹ biện luận kết quả xét nghiệm).
  • Nếu không phù hợp sẽ nhiều khả năng là kết quả âm tính giả hoặc dương tính giả.
  • Khi thấy triệu chứng lâm sàng/bệnh sử/tiền sử không phù hợp với kết quả xét nghiệm, Bác sỹ lâm sàng cần phải trao đổi với khoa xét nghiệm để kiểm tra lại kết quả, phân tích nguyên nhân và nếu cần sẽ xét nghiệm lại. Ví dụ: Nếu không chắc chắn với kết quả xét nghiệm HIV thì hãy kiểm tra lại sau khoảng 1-3 tháng để cho kết quả chính xác.
  • Xét nghiệm HBsAg Là xét nghiệm quyết định chẩn đoán viêm gan B. Để kết luận có viêm gan B hay không phải làm xét nghiệm HBsAg chứ không phải là xét nghiệm HBV DNA. Tuy nhiên có một số trường hợp có dương tính giả nghĩa là người bệnh không mắc viêm gan B nhưng xét nghiệm vẫn cho kết quả dương tính. Trong trường hợp này cần phải tiến hành xét nghiệm khẳng định (confirmatory test) bằng xét nghiệm trung hoà hoặc thử nghiệm với một test chuẩn khác. Với những người bệnh trong tình trạng này, nên gặp nhân viên phòng xét nghiệm để được tư vấn và giải quyết .Ngược lại có một số người bệnh mắc viêm gan B nhưng kết quả xét nghiệm lại âm tính. Đó là các trường hợp âm tính giả. Nguyên nhân âm tính giả có thể là do lỗi kỹ thuật hoặc do sử dụng các test có độ nhạy thấp không có khả năng phát hiện những bệnh nhân có nồng độ HBsAg thấp. Trong trường hợp này cần thử lại với các xét nghiệm có độ nhạy cao để có kết luận cuối cùng.

Âm tính và dương tính nghĩa là gì

Mọi quy trình đều có những lỗ hổng dẫn đến kết quả âm tính giả, dương tính giả

  • Các Phòng xét nghiệm lựa chọn các hóa chất/sinh phẩm đạt chất lượng cao (có độ nhạy và độ đặc hiệu cao).
  • Các thiết bị xét nghiệm cần bảo dưỡng/bảo trì/hiệu chuẩn thường xuyên theo quy định.
  • Nhân viên thực hiện xét nghiệm được đào tạo thành thạo trong việc thực hiện quy trình xét nghiệm chuẩn.
  • Người bệnh nên chọn khám ở những bệnh viện uy tín và có thể tìm hiểu trước về độ chính xác của xét nghiệm. Ví dụ các khoa xét nghiệm của Hệ thống Vinmec (đã đạt tiêu chuẩn ISO 15189:2012).
  • Bên cạnh đó, người bệnh chú ý tuân theo chỉ dẫn trước khi xét nghiệm, cố gắng cung cấp thông tin chi tiết và chính xác nhất cho bác sĩ, tuyệt đối không nên nói dối vì bất kì lí do nào.

Để đăng ký khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, Quý Khách có thể liên hệ Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc, hoặc đăng ký khám trực tuyến TẠI ĐÂY

XEM THÊM: