Bài học chủ yếu trong việc ký kết Hiệp định Sơ bộ

Mục lục bài viết

  • 1. Hiệp định sơ bộ ngày 06.3.1946 là gì ?
  • 2. Nguyên nhân dẫn đến ký kết hiệp định sơ bộ ngày 06/03/1946
  • 3. Nội dung chính của Hiệp định
  • 4. Bài học về chiến lược và nghệ thuật đàm phán
  • 5. Liên hệ với công cuộc xấy dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay

1. Hiệp định sơ bộ ngày 06.3.1946 là gì ?

Hiệp định sơ bộ Pháp - Việt ngày 06.3.1946 là hiệp định kí tại Hà Nội ngày 06.3.1946 giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đặc uỷ viên Hội đồng các Bộ trưởng Vũ Hồng Khanh (đại diện Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà) với Xanhtơni (J.Sainteny), người thay mặt đô đốc Đacgiăngliơ, thừa uỷ quyền Chính phủ Pháp.

2. Nguyên nhân dẫn đến ký kết hiệp định sơ bộ ngày 06/03/1946

Cuối năm 1945 và đầu năm 1946, tình hình ở Việt Nam cực kỳ phức tạp. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nằm trong vòng vây của các thế lực thù địch trong và ngoài nước – những kẻ chỉ trực chờ cơ hội để lật đổ chính phủ cách mạng non trẻ.

Từ năm 1945, ở miền Bắc Việt Nam, 180.000 quân của Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa Dân quốc) hiện diện với danh nghĩa giải giáp quân đội phát xít Nhật. Quân đội Tưởng khi sang Việt Nam còn kéo theo đám phản động người Việt là các đảng Việt Quốc và Việt Cách. Mục đích của quân Tưởng và đám tay sai rất rõ ràng: “Tiêu diệt cộng sản và bắt giữ Hồ Chí Minh”. Nếu chỉ giải giáp 3,5 vạn quân Nhật ở miền Bắc thì Tưởng đâu cần điều tới 18 vạn quân như vậy! Tham vọng của lực lượng Tưởng Giới Thạch là bành trướng sang Việt Nam hoặc chí ít tạo ra một chế độ phục tùng Trung Hoa Dân quốc ở đây.

Trong khi đó, ở miền Nam Việt Nam, quân viễn chinh Pháp núp bóng quân Anh (giải giáp quân Nhật) để gây hấn, khủng bố, lấn chiếm, mưu toan phá bỏ thành quả cách mạng. Pháp không chỉ dừng lại ở miền Nam mà còn ủ mưu đưa quân ra miền Bắc thiết lập trở lại chế độ thực dân cũ trên toàn đất nước ta.

Trước tình thế thù trong giặc ngoài như vậy, đã khéo léo khi thì hòa hoãn với Tưởng để chĩa mũi nhọn vào thực dân Pháp, khi lại tạm hòa hoãn với Pháp để đối phó với quân Tưởng.

Một sự kiện bất ngờ đã xảy ra. Sáng 6/3/1946, quân Tưởng đã chủ động nổ súng vào tàu chiến Pháp tiến vào cảng Hải Phòng ở miền Bắc. Quân Pháp phản pháo ngay lập tức. Giao tranh kéo dài đến trưa hôm đó, với thương vong và thiệt hại cho cả hai bên.

Trước đó Việt Nam và Pháp đã bí mật đàm phán với nhau nhiều lần. Pháp cũng muốn dàn xếp với Việt Nam để được đưa quân ra Bắc an toàn, tránh tình trạng bị kháng cự mãnh liệt như ở miền Nam.

Tuy nhiên đàm phán bế tắc quanh vấn đề độc lập của Việt Nam. Phía ta không chấp nhận “tự trị” còn phía Pháp không chấp nhận “độc lập”.

Trong bối cảnh xảy ra vụ bắn nhau Pháp-Hoa, vào sáng ngày 6/3/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra công thức mới để phá vỡ thế bế tắc, đó là thay từ “độc lập” bằng từ “tự do” đi kèm với định nghĩa. “Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do…”. Ta và Pháp đã nhanh chóng ký được bản Hiệp định sơ bộ vào chiều 6/3/1946.

Như vậy ở đây Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã nhân nhượng vào đúng thời điểm Pháp chịu sức ép từ quân Tưởng nổ súng.

Đảng ta không thể nhân nhượng sớm hơn (khi Pháp còn chưa sứt đầu mẻ trán vì quân Tưởng), cũng không thể muộn hơn vì có nguy cơ lớn Pháp và Tưởng sau vụ “choảng nhau” sẽ bình tĩnh lại và cấu kết với nhau cùng chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - khi đó tình hình sẽ vô cùng khó khăn cho ta.

Tất nhiên sự nhân nhượng ở đây là có nguyên tắc. Bản Hiệp định sơ bộ về cơ bản là có lợi cho ta (tất nhiên nếu có lợi 100% cho ta thì sẽ không thể ký kết được một hiệp định nào với Pháp). Hiệp định sơ bộ ngày 06.3.1946 là hiệp định kí tại Hà Nội ngày 06.3.1946 giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đặc uỷ viên Hội đồng các Bộ trưởng Vũ Hồng Khanh (đại diện Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà) với Xanhtơni (J.Sainteny), người thay mặt đô đốc Đacgiăngliơ, thừa uỷ quyền Chính phủ Pháp.

3. Nội dung chính của Hiệp định

Hiệp định gồm 5 nội dung chính sau:

“1. Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội, có tài chính của mình, nằm trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp.

2. Chính phủ Pháp cam đoan sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ.

3. Nước Việt Nam thuận để 15.000 quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam thay thế quân đội Trung Hoa giải giáp quân Nhật. Số quân Pháp này sẽ phải rút hết trong thời hạn 5 năm, mỗi năm sẽ rút 1/5.

4. Hai bên sẽ đình chiến ngay để mở một cuộc đàm phán chính thức. Trong khi đàm phán, quân hai bên ở đâu vẫn cứ đóng ở đấy.

5. Cuộc đàm phán chính thức sẽ tiến hành tại Hà Nội, Sài Gòn hoặc Paris với nội dung quan hệ ngoại giao của Việt Nam với nước ngoài, quy chế của Đông Dương, những quyền lợi kinh tế và văn hóa của nước Pháp ở Việt Nam.”

Như vậy, có thể thấy sau Hiệp định, nước Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ cộng hoà là một quốc gia tự do, có Chính phủ, Quốc hội, quân đội và tài chính riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Khối Liên hiệp Pháp và cam đoan thừa nhận kết quả cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ; nước Việt Nam đồng ý để 15.000 quân Pháp vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội Trung Hoa và sẽ rút hết sau 5 năm; hai bên đình chiến để mở cuộc đàm phán chính thức, trong khi đàm phán, quân đội hai bên giữ nguyên vị trí... Mặc dù phía Pháp chưa công nhận nền độc lập của Việt Nam, song bản Hiệp định lại mang tính chất văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên của nước Việt Nam độc lập ký với nước ngoài, có sự chứng kiến của đại diện các nước Mỹ, Anh và Trung Hoa. Điều này chứng tỏ rằng: Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp, "đối với nước Việt Nam ta, sự ký kết đó có một kết quả hay là nước Pháp đã thừa nhận nước Việt Nam là một nước tự chủ". Đánh giá về ý nghĩa quốc tế của bản Hiệp định, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Bản Hiệp định sẽ dẫn chúng ta đến một vị trí quốc tế ngày càng vững vàng, và đó là một thắng lợi chính trị lớn lao”. Như vậy, Hiệp định Sơ bộ đã tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh ngoại giao của Nhà nước Việt Nam DCCH trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, Hiệp định Sơ bộ Việt – Pháp đã biến thoả thuận tay đôi Hoa - Pháp thành thoả thuận tay ba Việt - Pháp - Hoa, kết thúc vai trò của lực lượng Tưởng Giới Thạch về mặt pháp lý theo quyết định của các nước lớn Đồng minh tại Hội nghị Potsdam. Việc đẩy quân đội Tưởng ra khỏi Việt Nam đã làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng nước ta. Khi kháng chiến toàn quốc nổ ra, thay vì phải đối đầu với hơn 30 vạn quân của các lực lượng thù địch, 20 triệu đồng bào Việt Nam chỉ còn phải chiến đấu chống 10 vạn quân Pháp. Bên cạnh đó, chúng ta có "hai điều lợi lớn: a) Phá được mưu mô bọn Tàu trắng, của bọn phát xít, và của bọn Việt gian, bảo toàn được thực lực; b) Dành được giây phút nghỉ ngơi để sửa soạn cuộc chiến đấu mới phối hợp với các cuộc chiến đấu của nhân dân Pháp, tiến tới giành độc lập hoàn toàn". Có thể nói rằng, mềm dẻo trong sách lược, cứng rắn trên nguyên tắc, Hiệp định Sơ bộ là bước đi cần thiết, hy sinh không gian để tranh thủ thời gian, biến thời gian thành lực lượng vật chất, củng cố thực lực một cách toàn diện để đối phó với kẻ thù chính là thực dân Pháp khi chúng không còn có lực lượng đồng minh hỗ trợ tại chỗ; đồng thời, việc chấp nhận cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc cũng chính là một hình thức san đỡ gánh nặng, chia lửa với đồng bào miền Nam ruột thịt.

4. Bài học về chiến lược và nghệ thuật đàm phán

Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 đã tạo nên sự thay đổi so sánh lực lượng quan trọng giữa ta và đối phương theo hướng có lợi cho ta. Với việc ký Hiệp định sơ bộ, Hồ Chủ tịch và Chính phủ ta đã biến điều khoản thay quân trong Hiệp định song phương Trùng Khánh giữa Pháp và Tưởng Giới Thạch thành thỏa thuận ba bên, gạt nhanh và không tốn sức 180.000 quân Tưởng cùng bè lũ tay sai của chúng ra khỏi Việt Nam, tránh cho nhân dân ta phải cùng một lúc chống hai kẻ thù hung ác.

Hiệp định cũng thể hiện chủ quyền của ta với việc quy định rõ nước Pháp chỉ được đưa ra Bắc Việt Nam 15.000 quân thay thế quân Tưởng và phải rút hết trong vòng 5 năm. Vào thời điểm này ở miền Nam Việt Nam, quân Pháp có hai sư đoàn bộ binh thuộc địa số 3 và số 9 và một sư đoàn thiết giáp. Việc phải đưa sư đoàn bộ binh thuộc địa số 9 và sư đoàn thiết giáp ra Bắc Việt Nam đã tạm thời làm mỏng bớt lực lượng quân sự của Pháp ở Nam Bộ, tạo điều kiện cho quân và dân miền Nam có thêm điều kiện để củng cố, tăng cường lực lượng tiếp tục kháng chiến.

Có thể nói, căn cứ vào tương quan lực lượng giữa ta và đối phương lúc bấy giờ, Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 đã chứa đựng những điều khoản có lợi nhất mà phía Việt Nam có thể đạt được.Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 mở đầu thời kỳ tạm hòa hoãn giữa ta và Pháp. Một loạt hoạt động ngoại giao quan trọng do đích thân Hồ Chủ tịch và các vị lãnh đạo Việt Nam tiến hành với chính phủ Pháp trong năm 1946 cho tới trước ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 như: cuộc gặp của Hồ Chủ tịch với Cao ủy D'Argenlieu trên Vịnh Hạ Long ngày 24/3/1946, Hội nghị trù bị tại Đà Lạt tháng 4-5/1946, Phái đoàn Quốc hội Việt Nam thăm thiện chí Pháp tháng 4-5/1946, Hội nghị Fontainebleau tháng 7 – 9/1946 và chuyến thăm lịch sử của Hồ Chủ tịch tới Pháp từ đầu tháng 6 tới giữa tháng 9/1946 với việc ký kết Tạm ước 14/9/1946…

Các hoạt động ngoại giao nói trên đã khẳng định và nêu bật lập trường chính nghĩa, thiện chí mong muốn hòa bình, hữu nghị của Chính phủ và nhân dân ta, đồng thời vạch trần dã tâm xâm lược, lật lọng, hiếu chiến lỗi thời của chính quyền thực dân Pháp. Với Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, Chính phủ và nhân dân ta có thêm một thời gian rất cần thiết để củng cố, tăng cường lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp, điều mà Đảng và Hồ Chủ tịch biết chắc là không tránh khỏi.

Lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX sẽ mãi ghi nhớ bản Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 giữa Việt Nam và Pháp như một mốc son chói lọi, một kỳ tích khởi đầu quá trình phát triển của nền ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh, thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng vững vàng, tầm nhìn chiến lược, nghệ thuật đàm phán có nguyên tắc và sách lược linh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng ta trong những tháng ngày đầu tiên đầy khó khăn, gian khổ của chính quyền cách mạng, vừa phải chống cả thù trong lẫn giặc ngoài để giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ những thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945.

Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 cũng để lại cho chúng ta những bài học sâu sắc về những vấn đề chiến lược, sách lược như nhân nhượng có nguyên tắc, giành thắng lợi từng bước, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và tận dụng đúng thời cơ. Hiệp định sơ bộ Việt Nam – Pháp 6/3/1946 có thể được xem như là một sự vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm kinh điển của Lê Nin và Đảng Bolsevich Nga trong việc ký kết hiệp định Brest-Litovsk giữa nước Nga Xô-Viết với nước Đức đế quốc tháng 3/1918.

5. Liên hệ với công cuộc xấy dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay

Hiện nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, phức tạp trước sự vận động, biến đổi nhanh chóng, khó lường của tình hình thế giới, của các mối quan hệ quốc tế. Mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta là đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc - xây dựng đất nước phát triển bền vững, xây dựng thành công CNXH; độc lập, tự do của Tổ quốc, an ninh và phát triển là lợi ích tối cao của dân tộc. Để đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc, cần nhận thức rằng, bối cảnh tình hình mới đang làm cho hình thức tập hợp lực lượng, diễn biến các mối quan hệ quốc tế, các phương thức hợp tác cũng đa dạng và phong phú hơn. Trước những biến động đó, một mặt, chúng ta phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH - mục tiêu bất biến; mặt khác, cần ý thức đầy đủ mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh; nhân nhượng và đấu tranh trong hợp tác quốc tế. Trong một thế giới đang biến đổi sâu sắc, việc xử lý đúng đắn và hài hòa quan hệ của Việt Nam với các nước láng giềng và nước lớn, biết mình, biết người là điều kiện quan trọng để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc. Trên ý nghĩa ấy, những kinh nghiệm lịch sử từ việc ký kết Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) vẫn soi rọi con đường đưa đất nước đi tới phồn vinh.

Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)

Video liên quan

Chủ đề