Show
Phát triển năng lực cảm thụ văn học ở Tiểu học Academic year: 2023/2024 Uploaded by: CommentsPreview textTRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHKHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC- - --TIỂU LUẬNĐẶC TRƯNG VĂN HỌC THIẾU NHI TRONG THƠTRẦN ĐĂNG KHOAHọc phần: PRIM1717 – Lí luận văn học & Văn học thiếu nhiThành phố Hồ Chí Minh, ngày ... tháng ... năm 202...TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHKHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC- - --TIỂU LUẬNĐẶC TRƯNG VĂN HỌC THIẾU NHI TRONG THƠTRẦN ĐĂNG KHOAHọc phần: PRIM1717 – Lí luận văn học & Văn học thiếu nhiHọ và tên:Mã số sinh viên:Lớp học phần:Giảng viên hướng dẫn: TS. GVCC. Nguyễn Tiến DũngThành phố Hồ Chí Minh, ngày .... tháng ... năm 202...3. Đối tượng nghiên cứu: Những đặc trưng được thể hiện trong những tác phẩmvăn học thiếu nhi của tác giả Trần Đăng Khoa.4. Phạm vi nghiên cứu: Những tác phẩm văn học thiếu nhi của Trần Đăng Khoatrong tập thơ “Góc sân và khoảng trời”:
5. Phương pháp nghiên cứu:Để triển khai tiểu luận, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:5 Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết:Phương pháp này giúp tôi phân lý thuyết đề tài trong tiểu luận ra nhiều phầnnhằm khai thác những khía cạnh khác nhau của vấn đề từ đó chọn lọc được những đặcđiểm, biểu hiện và nội dung nổi bật được thể hiện đặc trưng văn học thiếu nhi đặc biệtlà trong thơ Trần Đăng Khoa. Từ đó, tôi có thể chọn lọc được những thông tin quantrọng phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài trong tiểu luận.5 Phương pháp thu thập và tổng hợp tài liệu:Phương pháp này giúp tôi có thể tìm hiểu và chọn lọc được những thông tin, tàiliệu đa dạng từ các nguồn khác nhau để làm sáng tỏ những đặc trưng của các tác phẩmvăn học thiếu nhi trong thơ Trần Đăng Khoa. Từ những mối quan hệ giữa các thông tintài liệu được tìm hiểu tạo thành một chỉnh thể xây dựng một hệ thống lí luận đầy đủhoàn chỉnh giúp tôi có thể hiểu rõ, hiểu sâu về đối tượng nghiên cứu trong đề tài tiểuluận.6. Kết cấu đề tài:Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục tiểu luận đượctriển khai theo cấu trúc gồm 2 chương như sau:Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tàiChương 2: Đặc trưng của văn học thiếu nhi trong thơ Trần Đăng Khoa.CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI1. 1 Khái quát chung về văn học thiếu nhi và đặc trưng của văn học thiếu nhi1.1 Khái niệm văn học thiếu nhiTrong Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,NXB GD 1992, tr) theo nghĩa hẹp văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn họchay phổ cập khoa học dành riêng cho thiếu nhi. Tuy vậy, khái niệm văn học thiếu nhicũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường(cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi.Một quan niệm khác cho rằng, văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học nhằmgiáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm là thiếu nhivà nhiều khi cũng là người lớn. Tác giả của văn học thiếu nhi không chỉ là chính cácem, mà cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi. Những tác phẩm này được thiếu nhithích thú tìm đọc bởi các em đã tìm thấy ở đó cách nghĩ, cách cảm cùng những hànhđộng gần gũi với chính các em. Hơn thế, các em còn tìm được một lời nhắc nhở, mộtsự răn dạy với những nguồn động viên, khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích...trong quá trình hoàn thiện tính cách của mình. (Vân Thanh, Nguyên An, Bách khoathư văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2002, tr).Như vậy, Văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhận vật trung tâmhoặc là thiếu nhi, hoặc là người lớn, hoặc là con người, hoặc là thế giới tựnhiên..ưng được nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ, có nội dung gần gũi, quen thuộc với vốntrải nghiệm của trẻ, được các em thích thú, say mê và có tác dụng hoàn thiện đạo đức,tâm hồn cho trẻ (Bùi Thanh Truyền (chủ biên) (2019), Văn học thiếu nhi , Nhà xuấtbản Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.1.1 Đặc trưng của văn học thiếu nhiVăn học thiếu nhi có một vai trò to lớn trong việc giáo dục toàn diện về đạo đức,trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, cho các em. Có thể nói tính giáo dục là một đặc trưng nổibật mang tính sống còn của văn học thiếu nhi. Chính chức năng này đã đem đến chovăn học thiếu nhi một sức mạnh có tác động cải tạo cách nhìn, cách nghĩ và giáo dụcđạo đức cho các em. Giúp trẻ phát triển toàn diện về chân – thiện – mỹ.Đến với tác phẩm văn học thiếu nhi, người đọc được tiếp xúc với nhiều vẻ đẹpphong phú, đa dạng của bản thân đời sống, từ cây cỏ hoa lá đến phong cảnh núi biểnvà muôn loài động vật. Khung cảnh đẹp, thơ mộng đầy màu sắc, những âm thanh vàvật quen thuộc giàu chất nhạc với hệ thống thanh điệu, những biện pháp sông thanh,điệp vần, từ đồng âm khác nghĩa, từ láy... Đó là lý do nói văn học thiếu nhi giàu hìnhảnh, thi tính và nhạc tính.Tác giả trong văn học thiếu nhi luôn nhìn cuộc đời bụi bặm của chúng ta qua conmắt trẻ thơ hồn nhiên, tinh nghịch, trong sáng. Đã là văn học thiếu nhi thì cách nghĩ,CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HỌC THIẾU NHI TRONG THƠ TRẦNĐĂNG KHOA2 Tính giáo dụcTính giáo dục là đặc trưng quan trọng nhất mang tính sống còn của văn học thiếunhi. Hầu hết, trẻ em lớn lên cùng những câu chuyện, bài văn hay bài thơ chứa đựngnhững điều tốt đẹp tác động vào tình cảm, tâm hồn của trẻ thơ. Trẻ đắm mình vào thếgiới văn học của tác giả Trần Đăng Khoa, ở đó, có vần thơ nuôi dưỡng tâm hồn vànhân cách của trẻ. Trong thơ Trần Đăng Khoa đã giáo dục thiếu nhi xuất phát từnhững sự việc, hình ảnh, con người,... gần gũi, quen thuộc với các em. Từ những điềutrong thực tại để giáo dục nhân cách, đạo đức trí tuệ và cả thẩm mỹ cho trẻ.Trong bài thơ “Hạt gạo làng ta”, Trần Đăng Khoa đã mang lại ngoài kiến thức địa lícòn là cả một bầu trời giáo dục, bồi dưỡng thẩm mỹ cho trẻ nhỏ. Đặc điểm thời tiết ởtháng ba, tháng sau và tháng bảy được đưa vào các câu thơ một cách tự nhiên, sinhđộng và thú vị. Các kiến thức được dựa trên kinh nghiệm sống của người nông dânthời xưa. Tháng ba là tháng bắt đầu có mưa và mưa khá nhiều. Tháng bảy mưa lớnnhất và thường có bão, giông to. Tháng sáu là lúc thời tiết oi bức nhất, trời nắng nóngđến mức Trần Đăng Khoa nhấn mạnh rằng dòng nước như nước được đun sôi lên,nóng đến mức hủy diệt sự sống của loài cá cờ. Qua các câu thơ đầy nhịp điệu, giảnđơn nhưng chứa cả một bầu trời kinh nghiệm được đúc kết từ người nông dân. Trẻ emsẽ biết được đặc điểm thời tiết nổi bật ở ba tháng này, hình thành kiến thức, vốn sốngcho trẻ nhỏ qua các bài thơ quen thuộc. Hay thông qua những hình ảnh đẹp của đấtnước như sông Kinh Thầy, hồ sen thơm ngát, vẻ đẹp lao động của những người nôngdân tạo ra hạt gạo, hạt lúa gửi cho bộ đội, ông đã khơi gợi cho trẻ niềm tự hào về quêhương đất nước, tự hào về tình cảm đoàn kết, giúp nhau trong kháng chiến của ngườidân Việt Nam. Những hình ảnh ác liệt trong thời kỳ kháng chiến đầy bom đạn hiện rakhiến trẻ vừa tự hào vừa đau xót, cảm phục sự hy sinh của những anh hùng chiến sĩthời xưa và nung nấu thêm cho trẻ một tình yêu quê hương đất nước, yêu đồng bào dântộc. Thông qua bài thơ, trẻ vừa có thêm kiến thức địa lý, hiểu biết về thời kỳ khángchiến, vừa hình thành tình yêu quê hương, đất nước, sự quý trọng với những bát cơmtrong thời bình ngày nay. Bài thơ cũng góp phần tạo nên rung cảm trong cảm xúcthông qua các hình ảnh, chi tiết nhăm hình thành và phát triển nhận thức, tình cảm vàthái độ đúng đắn trong cuộc sống.Không những là đứa con dân tộc yêu quê hương, đất nước tác giả Trần Đăng Khoacòn là một đứa con hiếu thảo yêu thương và kính trọng đấng sinh thành. “Khi mẹ vắngnhà” một trong những bài thơ sự xúc động về tình cảm gia đình hay rõ hơn chính làtình yêu thương của một em bé đối với người mẹ vất vả, tần tảo sớm hôm.Khổ thơ đầu tiên đã khắc họa bức tranh làm việc nhà của tác giả khi mẹ vắng nhàmột cách chân thực. Điệp khúc “Khi mẹ vắng nhà” vang lên năm lần trong khổ thơđầu. Tác giả không chỉ sử dụng biện pháp lặp cấu trúc mà còn lặp lại cả kết cấu ngữpháp của câu để nhấn mạnh những công việc mà em bé hăng hái làm để giúp bố mẹ vìmẹ bận làm việc cả ngày lẫn đêm. Tác giả sử dụng biện pháp tu từ liệt kê hàng loạt cáchoạt động của em bé: luộc khoai, cùng chị giã gạo, thổi cơm, nhổ cỏ vườn, quét sân vàquét cổng nhằm thể hiện tác giả là một em bé ngoan: chỗ này tui nghĩ nên diễn đạt lạixíu), biết lo lắng, phụ giúp mẹ làm việc nhà một cách siêng năng. Hình ảnh cậu béhăng say làm việc giúp đỡ cha mẹ một phần nào khiến trẻ muốn mình cũng làm đượcnhững việc ý nghĩa đó. Các em cũng mong ba mẹ mình khi về nhà thấy mọi việc hoàntất và được kết thúc một ngày lao động mệt mỏi. Các hình ảnh đẹp về thành quả laođộng như “gạo trắng tinh”, “cơm dẻo và ngon”... cho trẻ cảm nhận thích thú, mongbản thân cũng làm được như thế để ba mẹ đỡ vất vả và được khen ngợi trong niềm vuicủa cả gia đình, muốn bản thân có sự góp sức, lao động trong gia đình.Mẹ bảo em: Dạo này ngoan thế!
đâu Áo mẹ mưa bạc màuĐầu mẹ nắng cháy tócMẹ ngày đêm khó nhọcCon chưa ngoan, chưa ngoan!Cuộc đối thoại ngắn của mẹ và cậu bé chỉ diễn ra trong vài câu thơ mà khiến chochúng ta thật cảm động. Khi được mẹ khen, Khoa vội vàng, rối rít không dám nhận lờikhen ấy: “Không, mẹ ơi! Con đã ngoan đâu !”. Cách lý lí giải của một em bé 9 tuổithật khôn ngoan. Nếu năm câu trên chỉ đơn thuần là kể, năm câu tiếp là kể xen với tả,thì bốn câu thơ cuối bài, Trần Đăng Khoa đã tả lại hình ảnh của mẹ trong nỗi vất vả,cực nhọc. Tác giả phải là đứa con rất ngoan mới thấy áo mẹ bạc màu vì mưa, đầu mẹcháy tóc vì nắng. Biện pháp đối : “Áo mẹ mưa bạc màu/ Đầu mẹ nắng cháy tóc” đãkhắc sâu hình ảnh người mẹ của Trần Đăng Khoa, người mẹ tần tảo, lam lũ, chịuthương chịu khó cũng như bao người mẹ khác ở làng quê Việt Nam. Tác giả đã thểhiện tiếng lòng chung của chúng ta là sự biết ơn vô hạn của những người con đối vớicác bà mẹ nghèo, suốt đời gắn bó với đồng ruộng, quanh năm “bán mặt cho đất, bánlưng cho trời”.Văn học thiếu nhi mang tính giáo dục cao thể hiện qua giáo dục trí tuệ, đạo đức vàthẩm mỹ cho thiếu nhi. Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã xây dựng hình tượng nhân vật,hình ảnh trong thơ một cách sáng tạo nhằm khai thác triệt để tư duy trong nhận thứccủa trẻ khi tiếp nhận văn học thiếu nhi. Ông đã thể hiện thành công những tác phẩmthông qua nội dung, qua cách chọn lọc ngôn từ và cách diễn đạt; tránh cách giáo huấnsống sượng và lột bỏ đi mọi say đắm, hồn nhiên của đời sống tuổi nhỏ:“Trăng ơi... từ đâu đến?Trăng đi khắp mọi miềnTrăng ơi có nơi nàoSáng hơn đất nước em..”Đến với khổ thơ cuối của bài thơ “Trăng ơi... từ đâu đến?”, nhà thơ Trần ĐăngKhoa không chỉ nói lên vẻ đẹp của, trăng mà thông qua đó còn chính là tình yêu mến,niềm tự hào về quê hương đất nước của tác giả và đó cũng chính là thông điệp mà tácgiả muốn gửi đến cho các em. Đối với mọi người dân trên toàn lãnh thổ Việt Nam, đấtnước của chúng ta luôn tươi đẹp, nhưng dưới sự chiếu sáng của vầng trăng, đất nướccủa chúng ta càng được tô điểm và trở nên đẹp hơn bao giờ hết.Ngoài ra, ở các tác phẩm thơ viết cho thiếu nhi của nhà thơ Trần Đăng Khoa mangchất văn có đặc điểm riêng phù hợp với mọi lứa tuổi thiếu nhi:Em thường trải cái nonRa góc sân ngồi họcNhững đêm có trăng mọcEm chơi cho đến khuyaThường là xỉa cá mèHay làm mèo đuổi chuột...(Cái sân)Với lối thơ năm chữ kết hợp với những ngôn từ thân quen nhưng mỗi ngôn từ củatác giả mang lại những ý vị riêng của mỹ quan trẻ thơ. Tác giả như đang làm văn bằngthơ, khi đọc bài thơ ta lại văng vẳng nghe một âm hưởng một bài đồng dao nào đóvọng lại. Cái sân chính là tác phẩm mà tác giả gợi nhớ về hình ảnh : “trẻ con hát, trẻcon chơi” miêu tả một cách sinh động về cuộc sống thường ngày của mình, nhưng lạikhiến người đọc không khỏi mỉm cười với những hình ảnh trong sáng mà tác giả manglại.Mọi tác phẩm văn học khi viết về con người, con vật, thiên nhiên,... đều được coilà văn học thiếu nhi khi các tác giả biết “trẻ con hóa” các nhân vật có trong tác phẩm.Và trong những tác phẩm đó, các em thấy được hình ảnh hoặc nói lên tiếng lòng củachính mình. Phong cách nghệ thuật mà các em ưa thích nhất là: ước mơ, lộng lẫy, kìdiệu, dí dỏm, ngộ nghĩnh, những cảnh hồi hộp, những chuyện nơi xa mà các em mơước, những hành động phi thường,..ẻ thường không thích những cách viết đơn điệu,một màu, khô cứng và quá sát vào thực tế. Vì vậy, trong tác phẩm của mình, các tácgiả thường xen lẫn các yếu tố kì ảo, tưởng tượng dí dỏm để các bài học trong tác phẩmcó thể đi vào tâm hồn của trẻ thơ một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng vẫn không kémphần sâu sắc. Cách viết và cái hồn trong từng lời văn, hay chính cách truyền đạt củatác giả mới qua mỗi tác phẩm chính là cầu nối giữa người đọc với các bài thơ của ông.Phải viết bằng ngôn ngữ của trẻ em thì các em mới có thể hiểu và tiếp thu. Để có thểhiểu hết được suy nghĩ, những điều mà các em quan tâm và trăn trở, mỗi tác giả phảinhận thức được mối quan hệ giữa văn học thiếu nhi vừa là thầy vừa là bạn. Là bạn khiđể chia sẻ, để hiểu những sở thích của nhau, để nói lên cùng nhau; là thầy khi để giúpđỡ, để đem đến cho các em những bài học quý giá trong cuộc sống.Trần Viết Bính đã phổ nhạc và cho ra đời bài hát “Hạt gạo làng ta” dựa trên ý thơ củanhà thơ Trần Đăng Khoa.Ở một số bài thơ khác, ngôn ngữ trong thơ ông rất giàu âm thanh, nhịp điệu. Mộtsố bài ngắn gọn mang phong cách đồng dao với âm thanh rộn rã, náo nức, mang giaiđiệu của cuộc sống như Tiếng võng trưa, Kể cho bé nghe, Tiếng gà,...Ò ó o...Ò ó oTiếng gàTiếng gàGiục quả naMở mắtTròn xoeGiục hàngtre Đâmmăng Nhọnhoắt...(Tiếng gà)Khổ thơ có sự hòa kết của những câu thơ ngắn, nhịp thơ nhanh tạo nên sự thúc giục,khẩn trương, gấp gáp. Hình ảnh đa dạng, độc đáo trong từng câu thơ gợi lên sự liêntưởng phong phú. Cảnh vật dường như là một thực thể sống, có giác quan "quả na mởmắt"; có hành động "đâm măng",..ất cả tạo nên một bức tranh lung linh, có hồn bởiđiểm nhấn là âm vang “Ò ó o”. Tiếng gáy đã trở thành “tiếng chuông báo thức” củamọi nhà ở vùng quê yên ả; đánh thức vạn vật, đưa tất cả với tư thế sẵn sàng chàođón một ngày mới tươi sáng, náo nhiệt.Ngoài những bài mang phong cách đồng dao, thơ của Trần Đăng Khoa còn mangsắc thái êm dịu, ngọt ngào, tha thiết qua các bài thơ mang âm hưởng dân ca như Mẹốm, Đánh thức trầu,..ì thế, người đọc không còn xa lạ với sự xuất hiện dày đặc củanhững câu đố, những câu ca dao dân ca trong thơ của “Thần đồng thơ trẻ”.Có thể nói, thơ của Trần Đăng Khoa chính là những người bạn thân quen của thiếunhi Việt Nam. Việc sử dụng các ngôn từ giàu hình ảnh, thi tính, nhạc tính đã góp phầnlàm cho thơ của ông mang nét đặc trưng riêng của Văn học thiếu nhi, đưa những “đứacon tinh thần” hòa vào kho tàng phong phú của Văn học và có sức hút mạnh mẽ đốivới bạn đọc nhỏ tuổi trong mọi thời đại.2 Hòa kết tính chất tự sự và trữ tìnhCó thể nói, một trong những yếu tố xuyên suốt những tác phẩm của nhà thơTrần Đăng Khoa đó chính là yếu tố trữ tình. Khi sáng tác những tác phẩm dành riêngcho lứa tuổi thiếu nhi, ngoài việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật chuẩn mực và nội dungdạt dào cảm xúc thì đâu đó ở thơ ông còn có tính tự sự, dù không chứa quá nhiều tìnhtiết li kì, lôi cuốn nhưng chính điều này đã khiến cho bài thơ có thêm sức hấp dẫn vàphù hợp với lứa tuổi nhi đồng. Khi tiếp nối dòng thơ về lòng yêu nước, “thần đồng thơnhỏ tuổi” chẳng miêu tả cặn kẽ lịch sử, cũng chẳng nhìn lịch sử khắt khe như nhữngnhà văn khác, thế nhưng Trần Đăng Khoa vẫn gợi được một góc nhìn rất thực về chiếntranh. Đó chính là những tội ác mà quân Mỹ đã gieo xuống nước Việt được ông kể lạitrong “Gửi bạn Chi Lê”, chúng ra tay không chừa bất kì một đối tượng nào, dù đó cólà trẻ em hay người lớn tuổi. Những động từ mạnh được sử dụng như “giết”, “tra”,“bắn”, “thiêu” đã lên án một giai đoạn của thời đại, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòngđộc giả:..ằng Mỹ nó đến nước tôiBúp bê nó giết, bao người nó traNó bắn cả mụ mù lòaNó thiêu cả bé chưa và được cơm...Ngoài ra, việc hoà kết hai yếu tố này còn được thể hiện qua cách ông bày tỏ tìnhcảm với những người thân yêu của mình. Bài thơ “Khi mẹ vắng nhà” đã kể về kỉ niệmcủa một thời tuổi thơ, hẳn ai cũng sẽ cảm nhận được tình yêu nồng nàn mà cậu béKhoa dành cho người mẹ lam lũ, vất vả thông qua những việc làm cụ thể, “tùy theosức của mình”:Khi mẹ vắng nhà, em luộc khoaiKhi mẹ vắng nhà, em cùng chị giã gạoKhi mẹ vắng nhà, em thổi cơmKhi mẹ vắng nhà, em nhổ cỏ sân vườnKhi mẹ vắng nhà, em quét sân và quét cổng...Có một điều rất đặc biệt ở bài thơ này, đó chính là ở đầu bài thơ, Trần Đăng Khoađã bắt đầu bằng “Kính tặng mẹ em”. Ông đã viết tặng mẹ mình bằng tất cả lòng biếtơn và sự kính trọng của một cậu bé vừa lên 9, cái tuổi còn ngây thơ và ham chơi, thếnhưng cậu bé ấy vẫn chọn gác lại thú vui riêng để phụ giúp mẹ và chị. Đọc khổ thơtrên, chỉ đơn thuần là tác giả đang liệt kê các công việc như “luộc khoai”, “giã gạo”,“thổi cơm”, “nhổ cỏ sân vườn”, “quét sân và quét cổng” cùng phép điệp cấu trúc “Khimẹ vắng nhà” vang lên ở đầu mỗi dòng thơ, thế mà lại gợi được sự hăng hái và chủđộng đến bất ngờ của cậu bé khi phụ giúp công việc nhà. Với Khoa, mẹ là “đất nước,tháng ngày của con”, không ai có thể sánh bằng mẹ và cũng chẳng ai có thể thay thếđược người mẹ kính yêu ấy. Có lẽ chính vì vậy mà tác giả Vân Thanh cũng đã từngnhận xét: “Thơ Khoa chủ yếu là nói đến thơ của yêu thương, của sự sống trẻ thơ, củasinh hoạt bình dị thường ngày”.Nhờ vào sự hoà kết giữa tính tự sự và trữ tình, một trong những đặc trưng của vănhọc thiếu nhi mà thơ của Trần Đăng Khoa thường sâu lắng, tình cảm và tạo cho ngườivẫn rất giàu hình ảnh, vần điệu – đây chính là cái hay, cái tạo ra sức cuốn hút hấp dẫnvới người đọc nhỏ tuổi. Những động từ như “ẩn nấp”, “múa gươm”, “hành quân” xuấthiện dày đặc, liên tục càng làm cho đoạn thơ thêm sinh động cuốn hút. Kết hợp vớiviệc sử dụng động từ chính là việc dùng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa “ông mặt trờimặc áo giáp đen ra trận” hay “kiến hành quân” một cách độc đáo, dí dỏm đã góp phầntạo nên sự sinh động, gần gũi hơn với trẻ. Tất cả đều là những nhân tố quan trọngmang lại sức hấp dẫn riêng cho bài thơ, phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi. Ngôn từ trongthơ Trần Đăng Khoa tuy giản dị thế nhưng lại không đơn giản, tùy tiện. Ẩn sâu bêntrong đó là những hàm ý vừa mang tính nghệ thuật vừa giàu sức gợi tả, gợi cảm....Bố em đi càyvề Đội sấmĐội chớpĐội cả trời mưa...Những hình ảnh trong thơ của Trần Đăng Khoa là những hình ảnh đẹp, kết hợpcùng ngôn từ tinh túy đã góp phần khơi gợi sự rung cảm và những nghĩ suy từ tâm hồntrong sáng, thánh thiện nhưng cũng rất nhạy cảm của trẻ con. Hình ảnh bố đi cày về làmột hình ảnh đầy thân quen đã được nhà thơ khắc họa sâu sắc trong tâm trí của trẻ..Hình ảnh ấy được kết hợp với động từ “đội” xuất hiện liên tục ba lần giúp trẻ liêntưởng đến hình ảnh con người to lớn giữa thiên nhiên dữ dội. Ở đây có sự đối lập giữathiên nhiên và con người. Một bên là mưa, sấm, chớp tượng trưng cho sự khốc liệt;một bên là sự bình tĩnh, chủ động của con người, con người trở thành điểm sáng duynhất trong bức tranh đặc biệt này. Phải chăng, ẩn bên trong những hình ảnh đối lập ấy,nhà thơ Trần Đăng Khoa muốn khắc họa hình ảnh con người nổi bật với dáng vẻ lớnlao, với tư thế vững vàng giữa khung cảnh thiên nhiên dữ dội với khát khao đượcchinh phục và làm chủ thiên nhiên. Thông qua ngôn từ nghệ thuật, câu thơ có sức layđộng hơn mọi bài học về đạo đức, giáo huấn, hướng trẻ đến cái đẹp, biết yêu thươngcon người. Câu thơ đọc lên ngỡ như đơn giản, không có gì mới lạ, vậy mà lại là cả mộthình ảnh sáng tạo độc đáo, sự phát hiện thú vị và tinh tế của nhà thơ Trần Đăng Khoa.Hay trong bài thơ Ảnh Bác:...Em nghe như Bác dặn lờiCháu ơi đừng có chơi bời đâuxa Trồng rau quét bếp đuổi gàThấy tàu bay Mỹ nhớ ra hầm ngồi.Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã chọn lọc những từ ngữ giản dị, không dài dòng, hoamỹ, gắn liền với tuổi thơ đầy bom đạn của trẻ em trong những năm kháng chiến chốngMỹ để đưa ra những thông điệp: Tuy còn bé, nhưng trẻ em vẫn ý thức sâu sắc lời dạycủa Bác “tuổi nhỏ làm việc nhỏ” như trồng rau, quét bếp đuổi gà hay đơn giản là tìmnơi trú ẩn khi thấy máy bay Mỹ để bố mẹ yên tâm mà vững vàng tay súng. Những câuthơ ấy góp phần giáo dục, hình thành nên nhân cách cho trẻ nhỏ.Qua những phân tích trên, ta có thể thấy được rằng nhà thơ đã cố gắng chọn lọcnhững ngôn từ hết sức thích hợp với tâm hồn trẻ thơ, nhưng vẫn có thể chinh phụcngười đọc lớn tuổi. Mọi bài thơ đều được của tác giả Trần Đăng Khoa đều đáp ứngđược hầu hết các chuẩn mực về ngôn từ nghệ thuật. Tóm lại, ngôn ngữ trong thơ củatác giả Trần Đăng Khoa đã thể hiện được cái thần, cái hồn của tác phẩm, tạo được sứchấp dẫn, thích thú cho người đọc nhỏ tuổi.TÀI LIỆU THAM KHẢO1. PGS. Lê Bá Hán, GS. TS. Trần Đình Sử, GS. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2011),Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.2. Lã Thị Bắc Lý (2003), Giáo trình văn học trẻ em, NXB Đại học Sư Phạm, Hà Nội.3. Bùi Thanh Truyền (Chủ biên) (2019), Giáo trình Văn học thiếu nhi, NXB Đại họcSư phạm.4. Vân Thanh, Nguyên An (chủ biên)(2001), Bách khoa thư văn học thiếu nhi ViệtNam, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, Hà Nội.5. Trần Đăng Khoa (1968), Góc Sân và Khoảng Trời, NXB Kim Đồng. |