Phát triển năng lực cảm thụ văn học ở Tiểu học
Academic year: 2023/2024
Uploaded by:
Comments
Preview text
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
- - --
TIỂU LUẬN
ĐẶC TRƯNG VĂN HỌC THIẾU NHI TRONG THƠ
TRẦN ĐĂNG KHOA
Học phần: PRIM1717 – Lí luận văn học & Văn học thiếu nhi
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày ... tháng ... năm 202...
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
- - --
TIỂU LUẬN
ĐẶC TRƯNG VĂN HỌC THIẾU NHI TRONG THƠ
TRẦN ĐĂNG KHOA
Học phần: PRIM1717 – Lí luận văn học & Văn học thiếu nhi
Họ và tên:
Mã số sinh viên:
Lớp học phần:
Giảng viên hướng dẫn: TS. GVCC. Nguyễn Tiến Dũng
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày .... tháng ... năm 202...
3. Đối tượng nghiên cứu: Những đặc trưng được thể hiện trong những tác phẩm
văn học thiếu nhi của tác giả Trần Đăng Khoa.
4. Phạm vi nghiên cứu: Những tác phẩm văn học thiếu nhi của Trần Đăng Khoa
trong tập thơ “Góc sân và khoảng trời”:
- Bài thơ “Cây dừa sáng tác” năm 1967
- Bài thơ “Mưa” sáng tác năm 1967
- Bài thơ “Khi mẹ vắng nhà” sáng tác năm 1967
- Bài thơ ‘Gửi bạn Chile” sáng tác năm 1968
- Bài thơ “Trăng ơi...ừ đâu đến” sáng tác năm 1968
- Bài thơ “Hạt gạo làng ta” sáng tác năm 1969
- Bài thơ “Kể cho bé nghe” sáng tác năm 196.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để triển khai tiểu luận, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
5 Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết:
Phương pháp này giúp tôi phân lý thuyết đề tài trong tiểu luận ra nhiều phần
nhằm khai thác những khía cạnh khác nhau của vấn đề từ đó chọn lọc được những đặc
điểm, biểu hiện và nội dung nổi bật được thể hiện đặc trưng văn học thiếu nhi đặc biệt
là trong thơ Trần Đăng Khoa. Từ đó, tôi có thể chọn lọc được những thông tin quan
trọng phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài trong tiểu luận.
5 Phương pháp thu thập và tổng hợp tài liệu:
Phương pháp này giúp tôi có thể tìm hiểu và chọn lọc được những thông tin, tài
liệu đa dạng từ các nguồn khác nhau để làm sáng tỏ những đặc trưng của các tác phẩm
văn học thiếu nhi trong thơ Trần Đăng Khoa. Từ những mối quan hệ giữa các thông tin
tài liệu được tìm hiểu tạo thành một chỉnh thể xây dựng một hệ thống lí luận đầy đủ
hoàn chỉnh giúp tôi có thể hiểu rõ, hiểu sâu về đối tượng nghiên cứu trong đề tài tiểu
luận.
6. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục tiểu luận được
triển khai theo cấu trúc gồm 2 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Đặc trưng của văn học thiếu nhi trong thơ Trần Đăng Khoa.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. 1 Khái quát chung về văn học thiếu nhi và đặc trưng của văn học thiếu nhi
1.1 Khái niệm văn học thiếu nhi
Trong Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,
NXB GD 1992, tr) theo nghĩa hẹp văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học
hay phổ cập khoa học dành riêng cho thiếu nhi. Tuy vậy, khái niệm văn học thiếu nhi
cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường
(cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi.
Một quan niệm khác cho rằng, văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học nhằm
giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm là thiếu nhi
và nhiều khi cũng là người lớn. Tác giả của văn học thiếu nhi không chỉ là chính các
em, mà cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi. Những tác phẩm này được thiếu nhi
thích thú tìm đọc bởi các em đã tìm thấy ở đó cách nghĩ, cách cảm cùng những hành
động gần gũi với chính các em. Hơn thế, các em còn tìm được một lời nhắc nhở, một
sự răn dạy với những nguồn động viên, khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích...
trong quá trình hoàn thiện tính cách của mình. (Vân Thanh, Nguyên An, Bách khoa
thư văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2002, tr).
Như vậy, Văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhận vật trung tâm
hoặc là thiếu nhi, hoặc là người lớn, hoặc là con người, hoặc là thế giới tự
nhiên..ưng được nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ, có nội dung gần gũi, quen thuộc với vốn
trải nghiệm của trẻ, được các em thích thú, say mê và có tác dụng hoàn thiện đạo đức,
tâm hồn cho trẻ (Bùi Thanh Truyền (chủ biên) (2019), Văn học thiếu nhi , Nhà xuất
bản Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
1.1 Đặc trưng của văn học thiếu nhi
Văn học thiếu nhi có một vai trò to lớn trong việc giáo dục toàn diện về đạo đức,
trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, cho các em. Có thể nói tính giáo dục là một đặc trưng nổi
bật mang tính sống còn của văn học thiếu nhi. Chính chức năng này đã đem đến cho
văn học thiếu nhi một sức mạnh có tác động cải tạo cách nhìn, cách nghĩ và giáo dục
đạo đức cho các em. Giúp trẻ phát triển toàn diện về chân – thiện – mỹ.
Đến với tác phẩm văn học thiếu nhi, người đọc được tiếp xúc với nhiều vẻ đẹp
phong phú, đa dạng của bản thân đời sống, từ cây cỏ hoa lá đến phong cảnh núi biển
và muôn loài động vật. Khung cảnh đẹp, thơ mộng đầy màu sắc, những âm thanh và
vật quen thuộc giàu chất nhạc với hệ thống thanh điệu, những biện pháp sông thanh,
điệp vần, từ đồng âm khác nghĩa, từ láy... Đó là lý do nói văn học thiếu nhi giàu hình
ảnh, thi tính và nhạc tính.
Tác giả trong văn học thiếu nhi luôn nhìn cuộc đời bụi bặm của chúng ta qua con
mắt trẻ thơ hồn nhiên, tinh nghịch, trong sáng. Đã là văn học thiếu nhi thì cách nghĩ,
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HỌC THIẾU NHI TRONG THƠ TRẦN
ĐĂNG KHOA
2 Tính giáo dục
Tính giáo dục là đặc trưng quan trọng nhất mang tính sống còn của văn học thiếu
nhi. Hầu hết, trẻ em lớn lên cùng những câu chuyện, bài văn hay bài thơ chứa đựng
những điều tốt đẹp tác động vào tình cảm, tâm hồn của trẻ thơ. Trẻ đắm mình vào thế
giới văn học của tác giả Trần Đăng Khoa, ở đó, có vần thơ nuôi dưỡng tâm hồn và
nhân cách của trẻ. Trong thơ Trần Đăng Khoa đã giáo dục thiếu nhi xuất phát từ
những sự việc, hình ảnh, con người,... gần gũi, quen thuộc với các em. Từ những điều
trong thực tại để giáo dục nhân cách, đạo đức trí tuệ và cả thẩm mỹ cho trẻ.
Trong bài thơ “Hạt gạo làng ta”, Trần Đăng Khoa đã mang lại ngoài kiến thức địa lí
còn là cả một bầu trời giáo dục, bồi dưỡng thẩm mỹ cho trẻ nhỏ. Đặc điểm thời tiết ở
tháng ba, tháng sau và tháng bảy được đưa vào các câu thơ một cách tự nhiên, sinh
động và thú vị. Các kiến thức được dựa trên kinh nghiệm sống của người nông dân
thời xưa. Tháng ba là tháng bắt đầu có mưa và mưa khá nhiều. Tháng bảy mưa lớn
nhất và thường có bão, giông to. Tháng sáu là lúc thời tiết oi bức nhất, trời nắng nóng
đến mức Trần Đăng Khoa nhấn mạnh rằng dòng nước như nước được đun sôi lên,
nóng đến mức hủy diệt sự sống của loài cá cờ. Qua các câu thơ đầy nhịp điệu, giản
đơn nhưng chứa cả một bầu trời kinh nghiệm được đúc kết từ người nông dân. Trẻ em
sẽ biết được đặc điểm thời tiết nổi bật ở ba tháng này, hình thành kiến thức, vốn sống
cho trẻ nhỏ qua các bài thơ quen thuộc. Hay thông qua những hình ảnh đẹp của đất
nước như sông Kinh Thầy, hồ sen thơm ngát, vẻ đẹp lao động của những người nông
dân tạo ra hạt gạo, hạt lúa gửi cho bộ đội, ông đã khơi gợi cho trẻ niềm tự hào về quê
hương đất nước, tự hào về tình cảm đoàn kết, giúp nhau trong kháng chiến của người
dân Việt Nam. Những hình ảnh ác liệt trong thời kỳ kháng chiến đầy bom đạn hiện ra
khiến trẻ vừa tự hào vừa đau xót, cảm phục sự hy sinh của những anh hùng chiến sĩ
thời xưa và nung nấu thêm cho trẻ một tình yêu quê hương đất nước, yêu đồng bào dân
tộc. Thông qua bài thơ, trẻ vừa có thêm kiến thức địa lý, hiểu biết về thời kỳ kháng
chiến, vừa hình thành tình yêu quê hương, đất nước, sự quý trọng với những bát cơm
trong thời bình ngày nay. Bài thơ cũng góp phần tạo nên rung cảm trong cảm xúc
thông qua các hình ảnh, chi tiết nhăm hình thành và phát triển nhận thức, tình cảm và
thái độ đúng đắn trong cuộc sống.
Không những là đứa con dân tộc yêu quê hương, đất nước tác giả Trần Đăng Khoa
còn là một đứa con hiếu thảo yêu thương và kính trọng đấng sinh thành. “Khi mẹ vắng
nhà” một trong những bài thơ sự xúc động về tình cảm gia đình hay rõ hơn chính là
tình yêu thương của một em bé đối với người mẹ vất vả, tần tảo sớm hôm.
Khổ thơ đầu tiên đã khắc họa bức tranh làm việc nhà của tác giả khi mẹ vắng nhà
một cách chân thực. Điệp khúc “Khi mẹ vắng nhà” vang lên năm lần trong khổ thơ
đầu. Tác giả không chỉ sử dụng biện pháp lặp cấu trúc mà còn lặp lại cả kết cấu ngữ
pháp của câu để nhấn mạnh những công việc mà em bé hăng hái làm để giúp bố mẹ vì
mẹ bận làm việc cả ngày lẫn đêm. Tác giả sử dụng biện pháp tu từ liệt kê hàng loạt các
hoạt động của em bé: luộc khoai, cùng chị giã gạo, thổi cơm, nhổ cỏ vườn, quét sân và
quét cổng nhằm thể hiện tác giả là một em bé ngoan: chỗ này tui nghĩ nên diễn đạt lại
xíu), biết lo lắng, phụ giúp mẹ làm việc nhà một cách siêng năng. Hình ảnh cậu bé
hăng say làm việc giúp đỡ cha mẹ một phần nào khiến trẻ muốn mình cũng làm được
những việc ý nghĩa đó. Các em cũng mong ba mẹ mình khi về nhà thấy mọi việc hoàn
tất và được kết thúc một ngày lao động mệt mỏi. Các hình ảnh đẹp về thành quả lao
động như “gạo trắng tinh”, “cơm dẻo và ngon”... cho trẻ cảm nhận thích thú, mong
bản thân cũng làm được như thế để ba mẹ đỡ vất vả và được khen ngợi trong niềm vui
của cả gia đình, muốn bản thân có sự góp sức, lao động trong gia đình.
Mẹ bảo em: Dạo này ngoan thế!
- Không mẹ ơi! Con đã ngoan
đâu Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc
Con chưa ngoan, chưa ngoan!
Cuộc đối thoại ngắn của mẹ và cậu bé chỉ diễn ra trong vài câu thơ mà khiến cho
chúng ta thật cảm động. Khi được mẹ khen, Khoa vội vàng, rối rít không dám nhận lời
khen ấy: “Không, mẹ ơi! Con đã ngoan đâu !”. Cách lý lí giải của một em bé 9 tuổi
thật khôn ngoan. Nếu năm câu trên chỉ đơn thuần là kể, năm câu tiếp là kể xen với tả,
thì bốn câu thơ cuối bài, Trần Đăng Khoa đã tả lại hình ảnh của mẹ trong nỗi vất vả,
cực nhọc. Tác giả phải là đứa con rất ngoan mới thấy áo mẹ bạc màu vì mưa, đầu mẹ
cháy tóc vì nắng. Biện pháp đối : “Áo mẹ mưa bạc màu/ Đầu mẹ nắng cháy tóc” đã
khắc sâu hình ảnh người mẹ của Trần Đăng Khoa, người mẹ tần tảo, lam lũ, chịu
thương chịu khó cũng như bao người mẹ khác ở làng quê Việt Nam. Tác giả đã thể
hiện tiếng lòng chung của chúng ta là sự biết ơn vô hạn của những người con đối với
các bà mẹ nghèo, suốt đời gắn bó với đồng ruộng, quanh năm “bán mặt cho đất, bán
lưng cho trời”.
Văn học thiếu nhi mang tính giáo dục cao thể hiện qua giáo dục trí tuệ, đạo đức và
thẩm mỹ cho thiếu nhi. Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã xây dựng hình tượng nhân vật,
hình ảnh trong thơ một cách sáng tạo nhằm khai thác triệt để tư duy trong nhận thức
của trẻ khi tiếp nhận văn học thiếu nhi. Ông đã thể hiện thành công những tác phẩm
thông qua nội dung, qua cách chọn lọc ngôn từ và cách diễn đạt; tránh cách giáo huấn
sống sượng và lột bỏ đi mọi say đắm, hồn nhiên của đời sống tuổi nhỏ:
“Trăng ơi... từ đâu đến?
Trăng đi khắp mọi miền
Trăng ơi có nơi nào
Sáng hơn đất nước em..”
Đến với khổ thơ cuối của bài thơ “Trăng ơi... từ đâu đến?”, nhà thơ Trần Đăng
Khoa không chỉ nói lên vẻ đẹp của, trăng mà thông qua đó còn chính là tình yêu mến,
niềm tự hào về quê hương đất nước của tác giả và đó cũng chính là thông điệp mà tác
giả muốn gửi đến cho các em. Đối với mọi người dân trên toàn lãnh thổ Việt Nam, đất
nước của chúng ta luôn tươi đẹp, nhưng dưới sự chiếu sáng của vầng trăng, đất nước
của chúng ta càng được tô điểm và trở nên đẹp hơn bao giờ hết.
Ngoài ra, ở các tác phẩm thơ viết cho thiếu nhi của nhà thơ Trần Đăng Khoa mang
chất văn có đặc điểm riêng phù hợp với mọi lứa tuổi thiếu nhi:
Em thường trải cái non
Ra góc sân ngồi học
Những đêm có trăng mọc
Em chơi cho đến khuya
Thường là xỉa cá mè
Hay làm mèo đuổi chuột...
(Cái sân)
Với lối thơ năm chữ kết hợp với những ngôn từ thân quen nhưng mỗi ngôn từ của
tác giả mang lại những ý vị riêng của mỹ quan trẻ thơ. Tác giả như đang làm văn bằng
thơ, khi đọc bài thơ ta lại văng vẳng nghe một âm hưởng một bài đồng dao nào đó
vọng lại. Cái sân chính là tác phẩm mà tác giả gợi nhớ về hình ảnh : “trẻ con hát, trẻ
con chơi” miêu tả một cách sinh động về cuộc sống thường ngày của mình, nhưng lại
khiến người đọc không khỏi mỉm cười với những hình ảnh trong sáng mà tác giả mang
lại.
Mọi tác phẩm văn học khi viết về con người, con vật, thiên nhiên,... đều được coi
là văn học thiếu nhi khi các tác giả biết “trẻ con hóa” các nhân vật có trong tác phẩm.
Và trong những tác phẩm đó, các em thấy được hình ảnh hoặc nói lên tiếng lòng của
chính mình. Phong cách nghệ thuật mà các em ưa thích nhất là: ước mơ, lộng lẫy, kì
diệu, dí dỏm, ngộ nghĩnh, những cảnh hồi hộp, những chuyện nơi xa mà các em mơ
ước, những hành động phi thường,..ẻ thường không thích những cách viết đơn điệu,
một màu, khô cứng và quá sát vào thực tế. Vì vậy, trong tác phẩm của mình, các tác
giả thường xen lẫn các yếu tố kì ảo, tưởng tượng dí dỏm để các bài học trong tác phẩm
có thể đi vào tâm hồn của trẻ thơ một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng vẫn không kém
phần sâu sắc. Cách viết và cái hồn trong từng lời văn, hay chính cách truyền đạt của
tác giả mới qua mỗi tác phẩm chính là cầu nối giữa người đọc với các bài thơ của ông.
Phải viết bằng ngôn ngữ của trẻ em thì các em mới có thể hiểu và tiếp thu. Để có thể
hiểu hết được suy nghĩ, những điều mà các em quan tâm và trăn trở, mỗi tác giả phải
nhận thức được mối quan hệ giữa văn học thiếu nhi vừa là thầy vừa là bạn. Là bạn khi
để chia sẻ, để hiểu những sở thích của nhau, để nói lên cùng nhau; là thầy khi để giúp
đỡ, để đem đến cho các em những bài học quý giá trong cuộc sống.
Trần Viết Bính đã phổ nhạc và cho ra đời bài hát “Hạt gạo làng ta” dựa trên ý thơ của
nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Ở một số bài thơ khác, ngôn ngữ trong thơ ông rất giàu âm thanh, nhịp điệu. Một
số bài ngắn gọn mang phong cách đồng dao với âm thanh rộn rã, náo nức, mang giai
điệu của cuộc sống như Tiếng võng trưa, Kể cho bé nghe, Tiếng gà,...
Ò ó o...
Ò ó o
Tiếng gà
Tiếng gà
Giục quả na
Mở mắt
Tròn xoe
Giục hàng
tre Đâm
măng Nhọn
hoắt...
(Tiếng gà)
Khổ thơ có sự hòa kết của những câu thơ ngắn, nhịp thơ nhanh tạo nên sự thúc giục,
khẩn trương, gấp gáp. Hình ảnh đa dạng, độc đáo trong từng câu thơ gợi lên sự liên
tưởng phong phú. Cảnh vật dường như là một thực thể sống, có giác quan "quả na mở
mắt"; có hành động "đâm măng",..ất cả tạo nên một bức tranh lung linh, có hồn bởi
điểm nhấn là âm vang “Ò ó o”. Tiếng gáy đã trở thành “tiếng chuông báo thức” của
mọi nhà ở vùng quê yên ả; đánh thức vạn vật, đưa tất cả với tư thế sẵn sàng chào
đón một ngày mới tươi sáng, náo nhiệt.
Ngoài những bài mang phong cách đồng dao, thơ của Trần Đăng Khoa còn mang
sắc thái êm dịu, ngọt ngào, tha thiết qua các bài thơ mang âm hưởng dân ca như Mẹ
ốm, Đánh thức trầu,..ì thế, người đọc không còn xa lạ với sự xuất hiện dày đặc của
những câu đố, những câu ca dao dân ca trong thơ của “Thần đồng thơ trẻ”.
Có thể nói, thơ của Trần Đăng Khoa chính là những người bạn thân quen của thiếu
nhi Việt Nam. Việc sử dụng các ngôn từ giàu hình ảnh, thi tính, nhạc tính đã góp phần
làm cho thơ của ông mang nét đặc trưng riêng của Văn học thiếu nhi, đưa những “đứa
con tinh thần” hòa vào kho tàng phong phú của Văn học và có sức hút mạnh mẽ đối
với bạn đọc nhỏ tuổi trong mọi thời đại.
2 Hòa kết tính chất tự sự và trữ tình
Có thể nói, một trong những yếu tố xuyên suốt những tác phẩm của nhà thơ
Trần Đăng Khoa đó chính là yếu tố trữ tình. Khi sáng tác những tác phẩm dành riêng
cho lứa tuổi thiếu nhi, ngoài việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật chuẩn mực và nội dung
dạt dào cảm xúc thì đâu đó ở thơ ông còn có tính tự sự, dù không chứa quá nhiều tình
tiết li kì, lôi cuốn nhưng chính điều này đã khiến cho bài thơ có thêm sức hấp dẫn và
phù hợp với lứa tuổi nhi đồng. Khi tiếp nối dòng thơ về lòng yêu nước, “thần đồng thơ
nhỏ tuổi” chẳng miêu tả cặn kẽ lịch sử, cũng chẳng nhìn lịch sử khắt khe như những
nhà văn khác, thế nhưng Trần Đăng Khoa vẫn gợi được một góc nhìn rất thực về chiến
tranh. Đó chính là những tội ác mà quân Mỹ đã gieo xuống nước Việt được ông kể lại
trong “Gửi bạn Chi Lê”, chúng ra tay không chừa bất kì một đối tượng nào, dù đó có
là trẻ em hay người lớn tuổi. Những động từ mạnh được sử dụng như “giết”, “tra”,
“bắn”, “thiêu” đã lên án một giai đoạn của thời đại, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng
độc giả:
..ằng Mỹ nó đến nước tôi
Búp bê nó giết, bao người nó tra
Nó bắn cả mụ mù lòa
Nó thiêu cả bé chưa và được cơm...
Ngoài ra, việc hoà kết hai yếu tố này còn được thể hiện qua cách ông bày tỏ tình
cảm với những người thân yêu của mình. Bài thơ “Khi mẹ vắng nhà” đã kể về kỉ niệm
của một thời tuổi thơ, hẳn ai cũng sẽ cảm nhận được tình yêu nồng nàn mà cậu bé
Khoa dành cho người mẹ lam lũ, vất vả thông qua những việc làm cụ thể, “tùy theo
sức của mình”:
Khi mẹ vắng nhà, em luộc khoai
Khi mẹ vắng nhà, em cùng chị giã gạo
Khi mẹ vắng nhà, em thổi cơm
Khi mẹ vắng nhà, em nhổ cỏ sân vườn
Khi mẹ vắng nhà, em quét sân và quét cổng...
Có một điều rất đặc biệt ở bài thơ này, đó chính là ở đầu bài thơ, Trần Đăng Khoa
đã bắt đầu bằng “Kính tặng mẹ em”. Ông đã viết tặng mẹ mình bằng tất cả lòng biết
ơn và sự kính trọng của một cậu bé vừa lên 9, cái tuổi còn ngây thơ và ham chơi, thế
nhưng cậu bé ấy vẫn chọn gác lại thú vui riêng để phụ giúp mẹ và chị. Đọc khổ thơ
trên, chỉ đơn thuần là tác giả đang liệt kê các công việc như “luộc khoai”, “giã gạo”,
“thổi cơm”, “nhổ cỏ sân vườn”, “quét sân và quét cổng” cùng phép điệp cấu trúc “Khi
mẹ vắng nhà” vang lên ở đầu mỗi dòng thơ, thế mà lại gợi được sự hăng hái và chủ
động đến bất ngờ của cậu bé khi phụ giúp công việc nhà. Với Khoa, mẹ là “đất nước,
tháng ngày của con”, không ai có thể sánh bằng mẹ và cũng chẳng ai có thể thay thế
được người mẹ kính yêu ấy. Có lẽ chính vì vậy mà tác giả Vân Thanh cũng đã từng
nhận xét: “Thơ Khoa chủ yếu là nói đến thơ của yêu thương, của sự sống trẻ thơ, của
sinh hoạt bình dị thường ngày”.
Nhờ vào sự hoà kết giữa tính tự sự và trữ tình, một trong những đặc trưng của văn
học thiếu nhi mà thơ của Trần Đăng Khoa thường sâu lắng, tình cảm và tạo cho người
vẫn rất giàu hình ảnh, vần điệu – đây chính là cái hay, cái tạo ra sức cuốn hút hấp dẫn
với người đọc nhỏ tuổi. Những động từ như “ẩn nấp”, “múa gươm”, “hành quân” xuất
hiện dày đặc, liên tục càng làm cho đoạn thơ thêm sinh động cuốn hút. Kết hợp với
việc sử dụng động từ chính là việc dùng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa “ông mặt trời
mặc áo giáp đen ra trận” hay “kiến hành quân” một cách độc đáo, dí dỏm đã góp phần
tạo nên sự sinh động, gần gũi hơn với trẻ. Tất cả đều là những nhân tố quan trọng
mang lại sức hấp dẫn riêng cho bài thơ, phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi. Ngôn từ trong
thơ Trần Đăng Khoa tuy giản dị thế nhưng lại không đơn giản, tùy tiện. Ẩn sâu bên
trong đó là những hàm ý vừa mang tính nghệ thuật vừa giàu sức gợi tả, gợi cảm.
...
Bố em đi cày
về Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa...
Những hình ảnh trong thơ của Trần Đăng Khoa là những hình ảnh đẹp, kết hợp
cùng ngôn từ tinh túy đã góp phần khơi gợi sự rung cảm và những nghĩ suy từ tâm hồn
trong sáng, thánh thiện nhưng cũng rất nhạy cảm của trẻ con. Hình ảnh bố đi cày về là
một hình ảnh đầy thân quen đã được nhà thơ khắc họa sâu sắc trong tâm trí của trẻ..
Hình ảnh ấy được kết hợp với động từ “đội” xuất hiện liên tục ba lần giúp trẻ liên
tưởng đến hình ảnh con người to lớn giữa thiên nhiên dữ dội. Ở đây có sự đối lập giữa
thiên nhiên và con người. Một bên là mưa, sấm, chớp tượng trưng cho sự khốc liệt;
một bên là sự bình tĩnh, chủ động của con người, con người trở thành điểm sáng duy
nhất trong bức tranh đặc biệt này. Phải chăng, ẩn bên trong những hình ảnh đối lập ấy,
nhà thơ Trần Đăng Khoa muốn khắc họa hình ảnh con người nổi bật với dáng vẻ lớn
lao, với tư thế vững vàng giữa khung cảnh thiên nhiên dữ dội với khát khao được
chinh phục và làm chủ thiên nhiên. Thông qua ngôn từ nghệ thuật, câu thơ có sức lay
động hơn mọi bài học về đạo đức, giáo huấn, hướng trẻ đến cái đẹp, biết yêu thương
con người. Câu thơ đọc lên ngỡ như đơn giản, không có gì mới lạ, vậy mà lại là cả một
hình ảnh sáng tạo độc đáo, sự phát hiện thú vị và tinh tế của nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Hay trong bài thơ Ảnh Bác:
...
Em nghe như Bác dặn lời
Cháu ơi đừng có chơi bời đâu
xa Trồng rau quét bếp đuổi gà
Thấy tàu bay Mỹ nhớ ra hầm ngồi.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã chọn lọc những từ ngữ giản dị, không dài dòng, hoa
mỹ, gắn liền với tuổi thơ đầy bom đạn của trẻ em trong những năm kháng chiến chống
Mỹ để đưa ra những thông điệp: Tuy còn bé, nhưng trẻ em vẫn ý thức sâu sắc lời dạy
của Bác “tuổi nhỏ làm việc nhỏ” như trồng rau, quét bếp đuổi gà hay đơn giản là tìm
nơi trú ẩn khi thấy máy bay Mỹ để bố mẹ yên tâm mà vững vàng tay súng. Những câu
thơ ấy góp phần giáo dục, hình thành nên nhân cách cho trẻ nhỏ.
Qua những phân tích trên, ta có thể thấy được rằng nhà thơ đã cố gắng chọn lọc
những ngôn từ hết sức thích hợp với tâm hồn trẻ thơ, nhưng vẫn có thể chinh phục
người đọc lớn tuổi. Mọi bài thơ đều được của tác giả Trần Đăng Khoa đều đáp ứng
được hầu hết các chuẩn mực về ngôn từ nghệ thuật. Tóm lại, ngôn ngữ trong thơ của
tác giả Trần Đăng Khoa đã thể hiện được cái thần, cái hồn của tác phẩm, tạo được sức
hấp dẫn, thích thú cho người đọc nhỏ tuổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. Lê Bá Hán, GS. TS. Trần Đình Sử, GS. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2011),
Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Lã Thị Bắc Lý (2003), Giáo trình văn học trẻ em, NXB Đại học Sư Phạm, Hà Nội.
3. Bùi Thanh Truyền (Chủ biên) (2019), Giáo trình Văn học thiếu nhi, NXB Đại học
Sư phạm.
4. Vân Thanh, Nguyên An (chủ biên)(2001), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt
Nam, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, Hà Nội.
5. Trần Đăng Khoa (1968), Góc Sân và Khoảng Trời, NXB Kim Đồng.