Caác loại hoa văn trên áo quý tộc thời xưa

Phụ kiện rất đa dạng từ trang sức, bóp, ví đựng tiền, cho đến những loại vật dụng khác dùng để chứa những tài sản có giá trị, và găng tay.

Trong suốt thế kỷ thứ 13, chỉ có giới quý tộc và tăng lữ mang găng tay. Vua chúa đôi khi cũng mang những đôi găng tay có đính trang sức. Khoảng gần cuối thế kỷ 13, găng tay dường như được phổ biến hơn cho cả đàn ông lẫn đàn bà. Một số người đeo găng tay dài tới khuỷu tay, số khác mang găng dài tới cổ tay. Vài phụ nữ mang găng tay bằng linen để bảo vệ đôi tay khỏi rám nắng.

Bóp và túi hay ví được đeo tại thắt lưng (đôi khi được đeo cả trên vai), hoặc được đeo bên dưới chiếc áo ngoài cùng và thường được đeo ở khoảng để mở hay xẻ của áo.

ít xuất hiện trong tranh ảnh hay trong các bức tượng nhưng trang sức được mô tả nhiều trong văn chương. Hầu hết những món trang sức quan trọng là nhẫn, dây nịt, khóa cài để giữ dây ruy băng thắt ngang bụng trên áo măng tô, và ghim cài áo tròn – fermail hay affiche – được dùng để cài những chiếc áo tunic bên ngoài, những chiếc áo bliaut, hay surcote.

Sau cuộc Thập Tự Chinh, nước hoa và thuốc mỡ nhập khẩu từ Trung Đông được sử dụng phổ biến. Phụ nữ người Anh hoặc những phụ nữ quý tộc sử dụng sáp môi vào thế kỷ 12. Nếu chúng được nhập khẩu vào Anh để sử dụng, nơi mà giới quý tộc vẫn có mối liên hệ thân thiết với Pháp và những vùng thuộc địa của Anh tại châu lục này, người ta có thể chắc chắn rằng nó cũng được dùng tại những châu lục khác. Phụ nữ cũng dùng thuốc nhuộm tóc và kem thoa mặt.

Áo giáp có thể phân chia theo cấu tạo của chúng: (1) áo giáp mềm, được làm từ vải độn bông hoặc da, những chiếc áo giáp này có thể bị xuyên thủng bởi những vật nhọn; (2) loại thứ hai được làm từ những vòng kim loại được cài vào nhau, và (3) là những chiếc dĩa kim loại, những chiếc áo da thuộc cứng và những tấm xương cá voi, hoặc sừng trâu bò.

Vào giữa thế kỷ thứ 12, đàn ông bắt đầu mặc áo surcote bên ngoài áo giáp. Có thể thói quen này bắt nguồn từ suốt thời kỳ Thập Tự Chinh nhằm mục đích bảo vệ chiếc áo giáp khỏi nhiệt độ cao của mặt trời Địa Trung Hải, một thói quen bắt chước từ những chiến binh Hồi Giáo. Trong thời gian sau này, binh lính thường mặc áo surcote được gắn huy hiệu xác định họ thuộc lực lượng quan đội nào, đây là điều cần thiết khi mà toàn bộ khuôn mặt bị chiếc nón bảo hiểm che mất.

Vào thế kỷ thứ 12 và 13, áo giáp bao gồm luôn cả áo khoác giáp – lúc dài, lúc ngắn – vớ và giày giáp. Tay áo dài qua bàn tay tạo thành một loại găng tay giáp hở ngón. Toàn bộ bộ trang phục nặng khoảng 12-15kg và được mặc ngoài chiếc áo bông. Vào đầu thế kỷ thử 13, một loại nón bảo hiểm ôm sát bắt đầu xuất hiện. Chiếc nón này có thể so sánh với những chiếc nón của những người thợ hàn hiện tại, trừ việc nó kín ở phần sau, chỉ hở phần mắt và mũi để thở, giống như đội ngược một chiếc thùng to trùm kín đầu. Chiếc nón này được trùm lên một chiếc nón độn bông khác để bảo vệ đầu khỏi những góc cạnh của chiếc nón giáp, chiếc nón bảo hiểm này chỉ được đội trong khi đang chiến đấu bởi vì nó quá bất tiện trong việc đội hàng ngày. Trong suốt nửa sau của thế kỷ thứ 13, một chùm lông thú hay lông chim được thêm vào đỉnh của những chiếc nón bảo hiểm để mọi người có thể biết đây là một hiệp sĩ.

CUỐI THỜI KỲ TRUNG CỔ: THẾ KỶ XIV

Bối cảnh lịch sử

Khi các lãnh chúa Trung Cổ thành công trong việc tập trung quyền lực về tay chính phủ, thế lực của giới quý tộc và các hiệp sĩ bị suy yếu. Chế độ phong kiến bắt đầu suy tàn dần trước thế kỷ 14 bởi các lãnh chúa tìm ra nguồn thu nhập mới bằng cách đánh thuế các thành phố và thị trấn. Nguồn thu nhập tăng cho phép họ thuê lính đánh thuê, những người sẽ chiến đấu cho tới khi nào còn được trả tiền.

Những thay đổi trong tình hình chiến sự đã đẩy nhanh sự suy tàn của những hiệp sĩ mặc áo giáp sắt cỡi ngựa đen. Vào thế kỷ thứ 15, sự xuất hiện của thuốc súng và đại bác càng làm tăng thêm lợi thế của lính bộ binh so với các kỵ binh áo giáp. Thuốc súng và đại bác cũng khai tử sự an ninh của những lâu đài thời kỳ Trung Cổ.

Do các vị vua chúa ban hành luật và thiết lập kỷ cương cho vương quốc của mình, thương mại, kinh tế và công nghiệp từ thế kỷ 12 lại tiếp tục được hồi sinh. Khi chính phủ hoàng gia ngày càng lớn mạnh hơn, các thị trấn bắt đầu đánh mất sự độc lập của mình, các vua chúa phải bảo vệ các thành phố vì chúng là trung tâm kinh doanh, là nguồn thuế quan trọng nhất. Tầm quan trọng của các phường hội Trung Cổ bị suy yếu khi nền kinh tế trở nên tư bản hơn. Tuy nhiên tầng lớp thương nhân bắt đầu có sức ảnh hưởng to lớn vì họ trở thành các chủ ngân hàng.

Những người nông dân tự do dần dần thay thế cho các nông nô. Thay vì phải làm ruộng cho địa chủ họ sẽ trả tiền thuê đất. Phần lớn dân số lúc bấy giờ là nông dân tự do. Họ là những người làm ruộng, những người làm thuê, chủ cối xay bột, thợ làm bánh, người buôn bán gia súc và những người giúp việc trong gia đình. Trong thời chiến, họ là lính bộ binh của đức vua.

Nông dân tự do ngày càng cơ động. Những hoạt động kinh tế gia tăng ở thành thị đã lôi kéo những người từ thôn quê lên thành phố để tìm việc và tìm nguồn thu nhập cao hơn. Và kết quả tất yếu là dân số của các vùng nông thôn ngày càng suy giảm từ giữa thế kỷ 14, trong khi dân số tại các thành phố và thị trấn thì tiếp tục tăng cao.

Một lý do khác giải thích việc tăng dân số ở các vùng thành thị chính là sự di cư của những nông dân tự do từ nông thôn bởi nạn đói liên tục, hậu quả của việc mùa màng thất bát vào đầu thế kỷ 14. Những trận mưa bão lớn và thời tiết lạnh đã làm hư hại mùa màng, nguồn thức ăn chính của người và gia súc. Và kết quả là thảm họa đói kém.

Dân số cũng bị suy giảm bởi những đợt thiên tai khác, Cái Chết Đen (Black Death), một đại dịch tấn công Châu Âu vào năm 1347 và tiếp tục tái diễn vào thế kỷ 14 và 15. Cho tới cuối năm 1665, Luân Đôn bị tàn phá bởi trận dịch và 1/3 dân số bị giết chết. Những thành phố đông dân của Ý cũng chịu những tổn thất nặng nề. Hậu quả của việc suy giảm dân số là lực lượng lao động trở nên khan hiếm và công nhân từ những tầng lớp thấp có thể có cơ hội việc làm tốt hơn mà trước đó không hề có.

Cấu trúc xã hội Trung Cổ

Xã hội Trung Cổ thời kỳ cuối có thể chia ra làm 3 thành phần: Giai cấp quý tộc, giai cấp tư sản, và nông dân tự do. Tầng lớp tăng lữ được xếp vào một giai cấp riêng.

Giai cấp quý tộc

Cuộc sống của những người quý tộc là một vòng xoay không dứt của những thú vui chơi: Cưỡi ngựa và săn bắn, yến tiệc và buôn chuyện, âm nhạc và khiêu vũ – và tất nhiên không thể thiếu chiến tranh. Những cuộc chiến liên tục tại Pháp giữa người Pháp và người Anh đánh dấu thế kỷ 14 là Một Trăm Năm Chiến Tranh đến rồi đi liên tục từ 1337 đến 1453.

Các hình thức giải trí của những người quý tộc đã mang đến diện mạo của thời trang. Đàn ông và đàn bà thuộc tầng lớp quý tộc giàu có mặc những bộ trang phục bằng gấm hoa và bằng nhung viền lông thú. Cộng đồng người Burgundy nổi tiếng với những bộ váy xa hoa trong suốt thế kỷ 14 và 15. Một số bộ trang phục của công tước Phillip the Bold từ năm 1363 đến năm 1404 đã minh họa cho sự đắt đỏ của những loại trang phục theo kiểu người Burgundy này. Một trong những chiếc áo chẽn của ông được thêu hình 40 con cừu non và thiên nga bằng ngọc trai đỏ thắm. Những chú cừu có đeo một chiếc chuông vàng nhỏ trên cổ và những con thiên nga cũng đeo chuông ở mỏ. Những loại chất liệu mà người Burgundy dùng để may trang phục được nhập khẩu từ khắp các nước châu Âu như lụa từ Ý, len từ Flanders và nỉ từ Đức.

Mũ dành cho đàn ông và đàn bà cũng trở nên rất cầu kỳ. Gần cuối thế kỷ 14, phụ nữ Burgundy đội những chiếc nón cao quá mức, hình tháp chuông được gọi là hennin. Từ hennin có nguồn gốc từ một từ tiếng Pháp cổ có nghĩa là “gây phiền phức”, và tất nhiên chiếc nón nhọn và cao cả thước này vô cùng bất tiện. Luật hạn chế chi tiêu đã giới hạn

kích thước của những chiếc nón này. Những nàng công chúa đội nón dài khoảng một mét, trong khi những phụ nữ quý tộc được cho phép đội mũ dài khoảng nửa mét.

Hầu hết màu sắc và kiểu dáng của trang phục trong giai đoạn này không chỉ bắt chước trang phục hoàng gia với những màu sắc sặc sỡ và những chiếc nón kỳ khôi, mà còn từ những bộ trang phục của những gia đình quý tộc phụ thuộc và người hầu của họ. Vua, công tước và lãnh chúa phong kiến cũng tự tạo ra những kiểu áo choàng để mặc khi xuất hiện trước công chúng và trang phục cho đàn ông và đàn bà trong gia đình mình. Từ livery, một từ cổ của Pháp có nghĩa là “phân phát” được dùng để đặt cho một loại đồng phục đặc biệt của người hầu. Tuy nhiên, trong suốt thế kỷ 14 và 15, livery cũng là loại trang phục chính thức trong cung điện và của đoàn cung nữ đứng bên cạnh nữ hoàng hoặc nữ công tước, những người này không phải là những người hầu mà là những người phụ nữ may mắn được sống và tham gia vào cuộc sống cung điện như là một phần trong đoàn tùy tùng của nữ hoàng.

Nhu cầu tạo ra những kiểu trang phục độc đáo đã dẫn đến việc may phối hợp các loại chất liệu có màu sắc khác nhau trong một chiếc áo. Những chiếc áo được trang trí theo cách này được gọi là mi-parti hay parti-colored. Những hiệu ứng của trang phục parti-colored được sử dụng trong cả trang phục đàn ông lẫn trang phục đàn bà.

Giai cấp tư sản

Những nhà kinh doanh là một phần của “giai cấp trung lưu”, họ không phải là các nhà quý tộc nhưng lại giàu có hơn giai cấp nông dân rất nhiều. Ngày càng có nhiều thương nhân là đàn ông có thu nhập cao, sống ở thành thị và có điều kiện để sống một cuộc sống tiện nghi trong những căn nhà có đồ nội thất thủ công tinh xảo, màn bằng linen và đồ sành sứ.

Vợ của các thương nhân này trông coi nhà cửa, nhưng không tự mình làm công việc nhà. Nếu những người vợ này sống đúng theo tiêu chuẩn hành xử của những người phụ nữ thuộc tầng lớp của mình, họ sẽ nhún nhường và chừng mực, và sẽ không ăn mặc quá lố. Một vài doanh nhân thể hiện sự giàu có của mình thông qua những chiếc áo xa hoa dành bản thân và cho vợ con mình.

Nông dân tự do

Đàn ông và đàn bà cùng nhau làm việc trên cánh đồng, trồng trọt, thu hoạch và xén lông cừu. Đàn bà chăm sóc con cái và chuẩn bị thức ăn thường ngày trong ngôi nhà 2 hoặc 3 phòng ngủ bên trong chứa những chiếc bàn rất tiện dụng, những chiếc ghế dài hay những chiếc ghế đẩu, rương, tủ chén, và giường.

Quần áo mặc hàng ngày cho những người nông dân thường bằng vải trơn và thoải mái, rất giống cách ăn mặc của đàn ông trong những thời kỳ trước: Những chiếc áo tunic may bằng vải tự dệt, thắt tại eo, mang vớ cho mùa đông, và mặc áo choàng. Những đôi guốc gỗ hoặc những đôi bốt to nặng và những chiếc nón giúp chống lại ánh nắng mặt trời hoặc những chiếc mũ trùm bảo vệ trước cái lạnh mùa đông chính là trang phục làm việc hàng ngày của họ. Vợ của những người nông dân này sẽ mặc những chiếc áo đầm dài với những chiếc áo lót ôm sát và những chiếc chân váy khá phồng.

Mặc dù đa số nông dân thường nghèo và sống theo kiểu “tay làm hàm nhai”, nhưng cũng có những người khấm khá và tương đối giàu có. Những người nghèo nhất chỉ có thể mặc những loại trang phục tồi tàn không được nhuộm hoặc nhuộm với những loại vật liệu sẵn có như thuốc nhuộm xanh, hoặc thuốc nhuộm từ cây tùng lam. Còn với những người giàu có hơn, trong những dịp lễ hội, trang phục của họ phản ánh đôi chút dòng thời trang của tầng lớp cao hơn.

TRANG PHỤC ĐÀN ÔNG THẾ KỶ XIV

Trong 40 năm đầu của thế kỷ 14, thời trang cho đàn ông tiếp tục giống như những thế kỷ trước. Cũng vẫn là những chiếc áo sơ-mi và những chiếc quần ngắn làm trang phục lót và áo cote mặc trong áo surcote. Vào khoảng năm 1340, thời trang

cho đàn ông thay đổi một cách đáng kể. Váy ngắn, thường là một phần trong trang phục của những người nông dân, lại trở thành thời trang cho đàn ông thuộc mọi tầng lớp. Có rất nhiều loại trang phục mới trở nên thông dụng, song song với việc cải biên những loại trang phục trước đó.

Quần áo

Caác loại hoa văn trên áo quý tộc thời xưa

Trang phục pourpoint còn được gọi là doublet hay gipon được ưa chuộng. Những bộ trang phục bó sát không tay này với miếng độn thân trước xuất phát là trang phục quân đội. Vào khoảng năm 1340, đàn ông bắt đầu mặc những chiếc áo pourpoint có tay làm trang phục thường ngày, cùng với những đôi vớ dài. Được mặc bên ngoài chiếc áo sơ mi bên trong và được cắt may vừa vặn, chiếc áo pourpoint được cài dọc theo thân trước bằng ren hay những hàng nút khít. Những chiếc lò xo được khâu vào bên trong phần chân váy của chiếc áo pourpoint bên dưới eo, cho phép móc những chiếc vớ vào áo pourpoint thay vì móc vào những chiếc quần ngắn, loại quần lót được mặc dưới những chiếc vớ dài.

Những chiếc áo pourpoint thường có cổ tròn. Tay áo ôm vừa vặn và được cài nút dưới cổ tay. Vào khoảng năm 1350, áo pourpoint thường là áo mặc ngoài cùng và thường được thắt dây nịt. Những chiếc áo xuất hiện vào nửa sau của thế kỷ này ngày càng ngắn hơn, chỉ dài tới hông. Một vài áo có tay dài qua cổ tay, đến tận đốt ngón tay.

Vớ luôn bao phủ đôi chân. Vớ ngắn với đế da được mang thay cho giày. Vớ cắt ngắn với quai da dưới mu bàn chân được mang với giày hoặc bốt.

Khi được mặc bên ngoài áo pourpoint, áo surcote ôm sát cơ thể, vạt ngắn và có thể có tay hoặc không.

Những ảnh hưởng khác của trang phục quân đội trên trang phục dân dụng có thể kể đến việc mọi người chấp nhận những chiếc tay áo rời được ráp vào thân áo thay cho những chiếc tay liền của áo tunic.

Áo cote-hardie là một biến thể của chiếc áo surcote hay áo tunic bên ngoài. Tại Pháp, áo cote-hardie thường là những chiếc áo có tay được mặc khi ra phố, được các tầng lớp thấp sử dụng đầu tiên và sau đó trở nên thanh lịch hơn và thường được viền hoặc trang trí bằng lông thú. Những chiếc áo cote-hardie của người Anh thường được ôm sát tại eo, nơi có đính nút cài, sau đó chúng xòe ra như một chiếc váy để hở phía trước và thường là dài tới đầu gối. Tay áo phía trước dài tới khuỷu tay, trong khi lại kéo dài ở phía sau thành một chiếc lưỡi ngắn. Người Anh mặc áo cote-hardie với thắt lưng thấp, ngay hông. Còn những tầng lớp thấp hơn thì mặc rộng rãi hơn, không gài nút mà lại mặc áo tròng đầu.

Trong nửa cuối thế kỷ 14, những chiếc nút áo đã được kéo dài từ cổ cho đến lai áo, thay vì từ cổ tới eo. Những dải phía sau tay áo trở nên dài hơn và hẹp hơn. Chiều dài áo thì trở nên ngắn hơn. Các đường lai áo và các dải sau tay áo thường được trang trí bằng những đường dagging, là một dạng trang trí mà trong đó lai áo được cắt thành những mảng nhọn hoặc vuông.

Trang phục houppelande tiền thân là trang phục mặc nhà của đàn ông, được mặc ngoài chiếc áo pourpoint, loại trang phục này thường ôm sát qua vai, rồi rộng dần xuống dưới, được gấp hình ống hoặc xếp ly, và được giữ cố định bằng một sợi dây nịt. Loại trang phục này được cấu tạo bởi 4 miếng vải dài may lại với nhau ở hai bên mép, giữa thân trước và thân sau. Áo được mặc tròng đầu và đôi khi các đường may được để mở một khoảng ngắn tại phần dưới của áo để tạo thành đường xẻ. Những chiếc áo này thường ngắn tới bắp đùi hoặc dài hơn để mặc trong các dịp trọng đại. Những chiếc áo dài tới khoảng giữa đầu gối và mắt cá xuất hiện vào thế kỷ 15 và được gọi là houppelande a mi-jamb.

Tóc và trang sức cho tóc

Tóc được cắt ngắn vừa phải, khoảng dưới vành tai. Mặt luôn được cạo nhẵn nhụi.

Nửa đầu thế kỷ 14, có một số thay đổi trong thời trang mũ nỉ, nón bê rê hay những chiếc mũ trùm đầu có vành cùng với những chiếc đuôi mũ. Vào nửa sau của thế kỷ, thời trang mũ trở nên đa dạng và vui nhộn hơn.

Giày

Những người đàn ông ở tầng lớp thấp thường mang vớ dài đến gối hoặc dưới bắp chân. Những đôi vớ dài thường có màu sắc tương phản với bộ trang phục hoặc được phối nhiều màu sắc với mỗi bên chân một màu khác nhau.

Giày có thể bao phủ toàn bộ đôi chân hoặc ngắn hơn, thường có dây quấn quanh mắt cá. Mũi giày ngày càng dài hơn.

Giày poulaine hay crackowe, một loại giày mũi đặc biệt dài và nhọn, được sử dụng cho tới cuối thế kỷ. Mặc dù mũi của tất cả các loại giày trong giai đoạn này thường nhọn, nhưng chỉ những người quý tộc và những người giàu có mới mang được những loại thật dài và thật nhọn mà thôi. Giày crackowe là một trong số đó; nó thể hiện cá tính của một người đàn ông không phải làm việc tay chân nhiều trong cuộc sống.

Giày bốt cao từ mắt cá cho tới nửa bắp chân, hoặc dài tới bắp đùi để tiện cho việc cỡi ngựa, cả giày bốt rộng và ôm sát đều được sử dụng. Những người đàn ông thuộc tầng lớp lao động thường mang guốc khi đường phố bùn lầy do thời tiết.

Phụ kiện

Ngoài những loại dây nịt thường được mang kèm với cote-hardie, một vài loại dây nịt khác có treo dao găm hoặc túi tiền để tăng thêm giá trị. Mọi tầng lớp đều mang găng tay, và thường được bẻ gấu xuống.

TRANG PHỤC PHỤ NỮ THẾ KỶ XIV

Quần áo

Những thay đổi trong trang phục nửa đầu thế kỷ 14 hầu như chỉ giới hạn trong việc thay đổi bề rộng của những chiếc váy sao cho chúng ôm sát cơ thể hơn nữa ở phần thân trên và xòe rộng ra ở phần thân dưới.

Áo surcote được may không tay và được mặc ngoài chiếc váy. Những chiếc áo này được cắt theo đường cong của cơ thể. Từ nửa sau của thế kỷ những chiếc áo truyền thống của những người phụ nữ hoàng gia Pháp bắt đầu thịnh hành.

Áo đầm – ôm vừa vặn theo cơ thể và với tay áo dài, bó sát.

Áo surcote – không có đường sườn với cổ sâu, thấy rõ dây quai chạy ngang qua hai vai. Một mảnh yếm panen cứng có cạnh dưới tròn (thường được gọi là placard trong tiếng Anh) được kéo dài tới hông rồi nối với dải băng ôm vòng quanh hông nơi nối với phần chân váy.

Chân váy – rất dài và khi đi phải được nhấc lên.

Một dãy kim cài áo trang trí được cài dọc phía trước chiếc yếm.

Được ứng dụng sau năm 1387, những chiếc áo houppelande dành cho phụ nữ phát triển toàn diện vào thế kỷ thứ 15. Những chiếc áo cote-hardie của người Anh cho phụ nữ có đường cổ sâu và tay áo dài tới khủy.

Phụ nữ trong hoàng tộc mặc những chiếc áo măng tô trang trọng trong những nghi lễ trọng thể. Áo có thể để mở hoặc được gài bằng móc, và được mặc với chiếc áo đầm phù hợp. Áo choàng, áo khoác thường được mặc để giữ ấm. Những chiếc áo có viền lông thú được mặc trong mùa đông, mặc dù luật hạn chế chi tiêu thường quy định loại lông sử dụng để viền hoặc trang trí áo tùy theo địa vị xã hội của người mặc.

Tóc và trang sức cho tóc

Kiểu tóc và mũ thường rộng hơn là cao. Tóc của phụ nữ trưởng thành được giấu dưới mạng che hoặc được búi gọn bên trong lưới trùm tóc. Nếu để đầu trần, thì tóc phải được tết thành bím, hoặc cuộn xung quanh vành tai hoặc búi sao cho hài hòa với chiều dài của mặt.

Barbette và fillet được sử dụng trong suốt giai đoạn đầu của thế kỷ dần dần biến mất. Wimple tiếp tục được sử dụng nhưng dài hơn, nhưng cho tới cuối thế kỷ, chúng chỉ được dùng cho các góa phụ và những thành viên của giáo hội. Những chiếc fillet hẹp thường được đội bên ngoài lưới trùm tóc.

Mạng che mặt, thường được cố định bởi fillet hay chaplet, cũng không che kín như những thế kỷ trước. Fillet bằng kim loạI dùng cho những phụ nữ hoàng tộc biến thành những chiếc vương miện nhỏ và trở thành món trang sức không thể thiếu cho tất cả các loại mạng che mặt.

Với những chiếc áo surcote có yếm dành cho những dịp trang trọng, phụ nữ hoàng tộc cuộn tóc trong những chiếc lưới gắn trang sức phủ qua tai, vương miện hay fillet được đặt lên trên chiếc lưới này.

Mũ trùm đầu hay mũ rộng vành thường được dùng trong những lúc thời tiết xấu.

Giày

Vớ thường dài tới gối và được buộc cố định. Mặc dù giày ở phụ nữ cũng tương tự như các kiểu giày của đàn ông, nhưng mũi giày phụ nữ không bao giờ dài quá mức như vậy.

Găng tay

Phụ nữ thường đeo găng tay.

Trang sức

Những loại trang sức thường thấy bao gồm vòng cổ, vòng tay, bông tai, nhẫn, trâm cài áo, dây nịt có gắn nữ trang và những chiếc nút áo, móc gài cho áo măng tô.

Mỹ phẩm và làm đẹp

Cuối thế kỷ 13, sẽ là thời thượng khi có vầng trán cao, rộng và điều này có được bằng cách nhổ hết tóc mai trên trán. Chân mày cũng được nhổ gọn. Mặc dù không phổ biến lắm, nhưng việc nhuộm tóc, đặc biệt là nhuộm tóc vàng cũng nhu việc “vẽ mặt” cũng thỉnh thoảng được ghi chép lại.

GIAI ĐOẠN CUỐI THỜI KỲ TRUNG CỔ THẾ KỶ THỨ 15

CHẤT LIỆU VÀ THỢ MAY

Kỹ thuật sản xuất trang phục không trải qua nhiều thay đổi, mặc dù guồng se sợi dần dần thay thế búp sợi và con suốt trong việc quay tơ. Những nhà buôn trở thành những người môi giới cho công nhân dệt, họ bán cho thợ dệt sợi vải và mua lại những mảnh vải đã hoàn thiện, sau đó bán chúng cho thợ chuội và hồ, rồi lại mua lại. Những nhà buôn này tiếp tục gởi vải đi nhuộm rồi bán vải thành phẩm cho các đại lý, các đại lý lại đem vải đi bán tại một trong những hội chợ thời Trung Cổ.

Những người thợ may phải trải qua một thời kỳ học việc dài và nghiêm ngặt để trở thành những người thợ có tay nghề cao. Thợ may thiết kế trang phục, thợ may đồ lót chuyên nghiệp sẽ tạo ra khăn trùm đầu và mạng che mặt, thợ giày thì sản xuất những đôi bốt và giày. Chất liệu được buôn bán khắp châu Âu và được nhập từ Thổ Nhĩ Kỳ và Palestine. Lông thú được dùng để trang trí và để làm lớp lót.

NGUỒN TƯ LIỆU TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU TRANG PHỤC

Nghệ thuật

Những tác phẩm nghệ thuật La Mã và mang tính tôn giáo như kinh thánh và sách cầu nguyện được viết tay và được minh họa với màu sắc sặc sỡ. Những bức tiểu họa thì mô tả cảnh vật từ những câu chuyện hư cấu, từ kinh thánh hoặc từ lịch sử nhà thờ liên quan đến cuộc sống hàng ngày trong thời kỳ Trung Cổ.

Điêu khắc đá trên mặt tiền của nhà thờ Thiên Chúa Giáo theo kiến trúc Gô-Tích, lăng mộ của những người giàu có cũng như những người có dòng dõi cao quý và các tượng gỗ sơn màu đặt trong các nhà thờ cũng cho thấy hình dáng ba chiều của trang phục.

Tư liệu

Tại Pháp và Anh, người ta kiểm tra hàng năm danh mục các trang phục thời Trung Cổ được các gia đình hoàng tộc bán hoặc tặng và những bộ trang phục này không chỉ mô tả chất liệu làm nên quần áo mà còn cung cấp giá của chúng nữa.

Một số lượng lớn các tác phẩm văn học còn sót lại từ thế kỷ 14 và 15 thỉnh thoảng cũng là nguồn tư liệu trong việc nghiên cứu trang phục và có thể cung cấp những thông tin giá trị, đặc biệt là những phong tục tập quán có liên quan tới trang phục.

THAY ĐỔI TRONG THỜI TRANG TRỞ NÊN RÕ RÀNG

Có rất nhiều nhà lịch sử trang phục cho rằng thế kỷ 14 và 15 là điểm mốc khi mà những thay đổi trong thời trang bắt đầu xuất hiện. Vào cuối thế kỷ 15, người ta nhận thấy rất rõ rằng những thay đổi thường xuyên trong phong cách “thời thượng” đã bắt đầu xuất hiện và những người lắm tiền sẽ ăn mặc theo mốt hiện hành. Những chi tiết nhỏ thì thay đổi liên tục còn những thay đổi lớn trong hình khối thì chỉ xảy ra khoảng 50 năm một lần.

TRANG PHỤC CHO ĐÀN ÔNG VÀ ĐÀN BÀ: THẾ KỶ 15

Phong cách thời trang của thế kỷ 15 được mô phỏng theo trang phục của người Bắc Âu đặc biệt là Pháp và Anh. Có nhiều khác biệt tồn tại giữa những phong cách thời trang của Anh và Pháp. Những khác biệt này có nguyên nhân không chỉ là việc tại Anh, người ta sử dụng ít vật liệu đắt tiền hơn tại Pháp, mà còn là sự khác biệt trong tổ chức xã hội giữa hai đất nước này. Các cung điện Pháp và những cung điện của người Burgundy gần đó là sân khấu để phô diễn trang phục chứ không như nước Anh.

Nước Anh hầu như có rất ít trang phục cao cấp, và cuộc sống của những người thuộc giai cấp thượng lưu thường tập trung ở trong các tòa lâu đài nơi thôn quê hơn là tại các tòa nhà ở Windsor hay Westminster. Thời trang thường không lộng lẫy và chậm thay đổi hơn.

Trang phục cho đàn ông thế kỷ 15 – Quần áo

Áo doublet (áo chẽn có tay hoặc không tay) được dùng làm lớp áo bên trong sau thập kỷ đầu tiên của thế kỷ và được mặc ngoài chiếc áo sơ mi bên trong và mặc dưới chiếc áo jacket. Áo chẽn thường ngắn, hiếm khi dài tới đùi và trong vài trường hợp chỉ dài qua eo một chút. Tay áo rời bắt đầu xuất hiện vào gần cuối thế kỷ 15.

Hose, những đôi tất dài để che phần dưới cơ thể được khoe ra phần lớn chiều dài của chúng. Chúng được cấu tạo theo một dáng vẻ mới, tương tự như những đôi vớ bó hiện đại. Ngay giữa đũng quần là một túi vải nhỏ được gọi là codpiece, được may để tạo không gian cho bộ phận sinh dục nam. Chiếc túi này được chặt vào tất bằng dây. Còn tất thì được cột chặt vào chiếc áo chẽn bằng một dãy các lỗ khuyên nhỏ xung quanh vạt dưới của áo chẽn và mép trên của đôi vớ.

Khoảng đầu thế kỷ 15, những chiếc áo choàng houppelande tiếp tục là loại trang phục quan trọng đối với đàn ông. Sau nửa thế kỷ, chúng được gọi là áo choàng dài tại Anh. Houppelande được may vừa vặn ở phần vai, và phồng to ra từ đó trở xuống. Từ năm 1410 cho đến năm 1440, độ phồng được sắp xếp xung quanh cơ thể qua số lượng những nếp xếp pli bằng nhau tại thân trước, thân sau và hai bên hông. Sau năm 1440, các dãy xếp pli được tập trung tại thân trước và thân sau; hai bên hông giữ phẳng.

Tay áo hoặc để mở hoặc đóng lại tại cổ tay. Kiểu tay áo mở bao gồm những loại tay áo hình phễu và hình trụ thẳng, thường được lót bằng màu nổi bật và dài tới cổ tay. Những loại tay áo kín bao gồm tay áo kiểu “kèn túi” rộng từ trên vai tạo thành một chiếc túi đầy, phồng to rồi hẹp dần và đóng lại tại cổ tay. Sau năm 1445, đỉnh tay áo được làm cho cao thêm bằng cách may thêm những chiếc pli nhỏ. Tay áo trở nên hẹp đi, ôm dần tới cổ tay và những chiếc áo có tay áo treo có thể có eo rộng hoặc ôm sát. Người mặc có thể để tay thò ra ngoài qua phần xẻ ngay dưới khuỷu tay. Phần còn lại của chiếc tay áo được treo lòng thòng dưới cánh tay.

Trong suốt thời kỳ đầu của thế kỷ 15, chiếc áo cote-hardie được dần dần thay thế bằng những chiếc áo houppelande ngắn hơn hoặc bằng một biến thể khác được gọi là áo jacket. Thời gian đầu của thế kỷ, tại Anh, từ jacket và cote-hardie cũng được sử dụng thay thế cho nhau, sau năm 1950, từ “cote-hardie” không được sử dụng nữa.

Chiếc áo jacket thế kỷ thứ 15 cũng có chức năng tương tự như áo jacket ngày nay, mặc dù chúng được mặc với tất chứ không phải với quần tây. Áo jacket là chiếc áo được mặc ngoài cùng, nếu không tính đến áo choàng. Độ dài thường thấy nhất của áo jacket là tới hông. Cũng có những chiếc áo jacket khác dài ngang đùi.

Áo jacket có những đường pli dọc ở thân trước và thân sau, và vai có miếng độn để tạo độ rông và đầy cho đỉnh tay áo. Áo jacket thường không có cổ áo mà có cổ tròn hoặc cổ chữ V ở thân trước hoặc thân sau, hoặc được cắt hình chữ V sâu tới hông và buộc dây tại đó.

Tay áo jacket rất đa dạng. Trong số đó có loại tay áo hẹp dần từ vai xuống tới cổ tay, hay tay áo rộng với băng cổ tay nhỏ, tay áo hình ống xắn cao, và tay áo treo. Cho tới cuối thế kỷ, những đường xẻ là một phần của tay áo jacket, để có thể trông thấy tay áo của những chiếc áo bên trong như áo chẽn và áo sơ mi.

Mặc dù trông giống như những chiếc áo houppelande, áo jacket được cấu trúc rất khác. Áo jacket có đường may tại eo để nối phần trên và phần dưới của áo lại với nhau. Phần dưới của chiếc áo jacket xòe rộng ra từ phần hông.

Áo choàng hay áo khoác rộng với mũ trùm đầu được xem là trang phục chính cho người lao động. Áo huke là chiếc áo dành cho những người đàn ông thuộc tầng lớp thượng lưu. Cũng giống như áo cote và áo surcote, áo huke bắt nguồn từ áo giáp. Nó có hình dạng như chiếc áo giáp của các hiệp sĩ, đóng ở cổ và mở ở bên hông. Áo huke ngắn thì có đường xẻ ở giữa để dễ dàng cho việc cỡi ngựa. Mặc không hoặc mặc với dây nịt, hoặc với dây nịt ngang phần thân trước trong khi phần thân sau để tự nhiên, áo huke ở nửa đầu thế kỷ hợp thời trang hơn nửa sau thế kỷ.

Tóc và trang sức cho tóc

Tóc được để theo phong cách mà theo như mô tả của các nhà lịch sử trang phục là tóc bowl crop (ụp cái tô), bởi vì mái tóc có hình dạng giống như chụp chiếc tô lên xung quanh đỉnh đầu. Phần tóc phía dưới cổ được cạo sạch. Sau nửa thế kỷ, khoảng năm 1465, kiểu tóc này được thay bằng kiểu tóc dài hơn tương tự như mái tóc page boy ngày nay. Khuôn mặt vẫn được cạo nhẵn nhụi.

Mũ ni dần dần biến mất ngoại trừ trang phục của các thầy tu và thầy thuốc. Mũ trùm đầu có vành trở nên lỗi thời, ngoại trừ ở nông thôn, mặc dù có một số lượng lớn mũ ngày nay có nguồn gốc từ những chiếc mũ trùm đầu kín tới tai này.

Giày

Những người đàn ông thuộc tầng lớp thấp thường mang những đôi vớ dài tới nửa bắp chân hoặc tới đầu gối. Những đôi tất chân được ưa chuộng hơn là những đôi tất dài. Những đôi tất nối có mặt đế bên trong làm bằng da được mang cả bên ngoài lẫn bên trong nhà, thường được nhuộm với màu sáng, có một số đôi còn được may bằng nhiều màu khác nhau.

Giày ở thời kỳ này có mũi nhọn, một số đôi thậm chí nhọn hoắc, chiều dài thì thay đổi liên tục trong suốt thế kỷ. Giày thường có thắt dây hoặc cài khóa ở hai bên để ôm sát đôi chân hơn nữa. Đế giày được làm bằng gỗ buộc vào xung quanh giày bằng một sợi dây để bảo vệ đôi giày trong thời tiết xấu.

Giày bốt thường ôm sát chân, và dài tới bắp chân, và được buộc bằng dây hoặc khóa gài. Những đôi bốt dài tới đùi có phần trên bẻ gập xuống thường được mang khi cỡi ngựa trong nửa đầu thế kỷ trở nên thời trang dành cho người đi bộ nói chung trong nửa thế kỷ sau.

Phụ kiện

Phụ kiện bao gồm cổ áo có gắn trang sức, dao găm, ví tiền, găng tay và dây nịt trang trí. Trong nửa đầu thế kỷ thứ 15, thắt lưng cho đàn ông là một trong những tài sản quan trọng nhất, và giựt chiếc thắt lưng của một người đàn ông chính là một hành động sỉ nhục. Vào nửa sau của thế kỷ, thắt lưng dần trở nên ít quan trọng hơn.

Trang phục cho phụ nữ thế kỷ 15 – Quần áo

Trang phục lót trong cùng của phụ nữ được gọi là smock hoặc shift trong tiếng Anh, và chemise trong tiếng Pháp.

Áo houppelandes cho phụ nữ thường dài, thắt nịt chặt ở trên đường eo tự nhiên, và có đường vai mềm mại tự nhiên, còn lại thì tương tự như cách cắt may của những chiếc áo cho đàn ông. Cổ của những chiếc áo này gồm cổ đứng cao, thường để mở ở phần trước để tạo thành hai chiếc cánh, hoặc cổ bằng, cổ bẻ gập xung quanh đường cổ hay hình chữ V. Tay áo thì gồm có tay áo hình phễu rộng, được lót với màu nổi hoặc bằng lông thú; tay áo dài chạm đất, tay áo túi kèn; tay áo hình ống lật lên để lộ những mảng tay áo với màu đối nghịch, hoặc tay áo treo, tay áo hình ống thường phổ biến nhất.

Áo đầm dài thường được mặt với những chiếc áo sur-cote hở hai bên sườn. Tại Anh, nơi mà thời trang ít hở hang hơn tại Pháp, phụ nữ thường mặc những chiếc áo cote-hardies với những chiếc khăn choàng khoác hờ, trong khi phụ nữ thượng lưu tại Pháp lại thích những chiếc đầm dài cổ trễ, ôm sát, làm nổi bật bộ ngực và phần chân váy dài phủ kín chân. Tay áo đầm có thể ôm vừa vặn từ vai cho tới cổ tay hoặc là tay áo treo rộng, dài và hình phễu.

Nhiều kiểu áo đầm xuất hiện từ nửa sau của thế kỷ. Những chiếc pli xếp cứng, hình ống biến mất khỏi áo đầm phụ nữ, và được thay thế bằng những nếp dún xòe phồng. Thân áo trên có cổ sâu hơn, có khi xuống tới eo. Viền cổ chữ V được lật lên tạo thành ve áo, và thường được lót với màu nổi bật hoặc lông thú. Phần chân váy thường rất dài, có khi dài tới nỗi phải nhấc lên khi bước đi.

Ban đầu, những phong cách này có phần thân áo mềm mại với những nếp dún của váy được tạo thành bằng cách thắt dây nịt. Rồi dần dần, các đường cắt cúp trở nên chuyên nghiệp hơn và phần thân áo trở nên ôm sát hơn.

Áo Roc là một loại áo đầm dài và rộng rãi. Loại áo này xuất hiện rất hiếm, dường như chúng thường chỉ có mặt trên những bức họa của người Flemish và người Đức. Áo có cổ tròn với nhiều nếp dún hoặc xếp ly đổ xuống tại ngay giữa thân trước và thân sau. Áo không có dây thắt lưng và được may bằng vải mềm. Chiếc áo được buông thả tự nhiên và rộng xuống chạm đất. Tay áo được may dài và ôm vừa vặn hoặc tay ngắn.

Áo choàng có mũ trùm đầu được mặc khi thời tiết xấu. Những chiếc áo măng tô để mở thường được mặc ngoài những chiếc áo đầm dài đồng bộ và được cài bằng móc xích ở thân trước, nhìn chung không có gì thay đổi.

Tóc và trang sức cho tóc

Các cô gái chưa chồng, các cô dâu và các nữ hoàng tại lễ đăng quang của mình thường để đầu trần và để lộ mái tóc. Tất cả những phụ nữ trưởng thành khác đều đội một thứ trang sức nào đó để che đậy mái tóc của mình. Vầng trán cao, rộng có được bằng cách nhổ tóc giờ đây trở nên rất thịnh hành, vì vậy, không có hoặc rất ít tóc mai được nhìn thấy bên ngoài những món trang sức che tóc, điều này được cho là hợp thời trang.

Ở nửa đầu thế kỷ, trang sức cho tóc thường trải rộng từ bên này qua bên kia đầu. Nếu chiếc nón không che hết mái tóc, tóc sẽ được cuộn lại trong một tấm lưới. Có rất nhiều dạng nón được sử dụng. Mạng che tóc thường bao phủ cả chiếc nón. Vào nửa sau của thế kỷ, những chiếc nón trở nên cao hơn. Kích thước của chúng rất đa dạng, từ nón ôm sát đầu, nón có chóp, nón không vành cao từ 10 – 13 cm sau này được gọi là hennin, một loại nón hình côn, chóp nhọn, cao đến gần một mét. Mạng che mặt, thường mỏng và nhẹ, được đính và phủ qua những chiếc nón.

Giày vớ

Vớ, dài tới đầu gối, được buộc chặt xung quanh ống chân, Giày thì ôm vừa bàn chân. Mặc dù mũo giày vẫn nhọn và dài, giày cho phụ nữ không dài và nhọn bằng những đôi giày của đàn ông. Những miếng đế gỗ cũng được mang khi thời tiết xấu.

Phụ kiện

Phụ kiện bao gồm nữ trang, găng tay, hầu bao đựng tiền, và đai thắt lưng. Với những chiếc áo có cổ thấp, vòng cổ là món trang sức rất quan trọng.

TRANG PHỤC CHO TRẺ EM: THẾ KỶ 14 VÀ 15

Trong suốt thời kỳ Trung Cổ, trẻ em, trừ thời gian còn ẵm ngửa, thường ăn mặc giống như người lớn. Những đứa trẻ sơ sinh thường được quấn tã, bọc trong những miếng vải lanh từ đầu đến chân. Người ta tin rằng quấn tã giúp trẻ em không bị dị dạng khi lớn lên.

Trong suốt 4 hay 5 năm đầu đời, cả trẻ gái và trẻ trai đều mặc những chiếc áo đầm rộng. Những đứa trẻ hoàng tộc sẽ mặc những bộ trang phục bằng vải đắt tiền, được trang trí công phu. Khi đứa bé đủ lớn để tham gia vào công việc hay những hoạt động khác của gia đình, chúng sẽ được ăn mặc giống như những người lớn thu nhỏ.

Những điểm khác biệt chính trong vẻ ngoài của con trai và con gái là ở mái tóc. Bé gái sẽ giấu mái tóc của mình cho đến khi lấy chồng.

TRANG PHỤC CHO CÁC NGÀNH NGHỂ ĐẶC BIỆT

Trang phục cho sinh viên

Trong suốt thế kỷ 15, sinh viên vẫn mặc những chiếc áo cote và surcote sau khi chúng bị mọi người từ bỏ không mặc trong những dịp bình thường. Một chiếc áo choàng dài biến thể đã vượt qua những năm tháng thăng trầm và vẫn là một trong những chiếc áo chính thức của các học viện, được các sinh viên mặc khi làm lễ tốt nghiệp.

Trang phục quân đội

Trong suốt thế kỷ 14 và 15, những chiếc áo giáp bằng dây xích, từng là những chiếc áo giáp đầu tiên trong thời kỳ chiến tranh đã dần dần được thay thế bằng những chiếc áo giáp làm bằng những chiếc đĩa lớn và cứng. Bước đầu tiên của xu hướng này đến từ sự phát triển của những miếng kim loại cứng bảo vệ đôi chân, khuỷu tay và đầu gối. Sau đó là những chiếc áo giáp cứng cho thân mình. Đây là lần đầu tiên, vải hoặc da được kết hợp cùng với đĩa kim loại, chúng được gọi là những chiếc áo choàng đĩa.

Khoảng năm 1350, khi các hiệp sĩ mặc áo giáp vào, trước tiên họ phải mặc áo sơ mi ôm sát, rồi đến quần ngắn, rồi đến tất dài. Cánh tay và đôi chân họ sẽ được bảo vệ bởi các tấm kim loại. Sau đó họ mặc thêm những chiếc áo khoác ngoài có độn, được gọi là gambeson, và ngoài chiếc áo gambeson là một chiếc áo khoác giáp khác hoặc một chiếc áo giáp khoác ngắn hơn gọi là haubergeon. Tiếp đến là chiếc áo choàng đĩa, và sau cùng là áo surcote. Các hiệp sĩ thường đeo dây nịt và dây đựng kiếm. Khi chiến đấu, họ sẽ đội thêm nón giáp và một đôi găng tay kim loại hay bao tay sắt.

Từ thế kỷ 15, hình dạng của nón giáp trở nên tròn hơn. Chúng vẫn bao phủ toàn bộ khuôn mặt, nhưng thường có lưỡi trai, một dụng cụ bảo vệ khuôn mặt có thể mở ra được. Những miếng kim loại tại ngực và lưng được thiết kế đặc biệt để bảo vệ các vùng này, và đó cũng là một bước hợp lý để chiếc áo giáp trở thành một bộ trang phục hoàn hảo để bảo vệ tất cả các bộ phận của cơ thể. Chiếc áo giáp được mặc ngoài chiếc áo haubergeon cho đến nửa sau của thế kỷ 15, khi những chiếc áo khoác giáp được thay thế bằng những chiếc áo khoác của quân đội. Đó là một chiếc áo khoác có độn giáp tại những nơi không được bảo vệ bởi chiếc áo giáp.

THỜI KỲ PHỤC HƯNG BẮC ÂU THẾ KỶ XVI

BỐI CẢNH LỊCH SỬ

Những phát triển tại Đức

Những nghệ sĩ người Đức, từ chối phong cách Gothic của thời kỳ Trung Cổ, đ ch́p nhận hình thức Phục Hưng mới. Giới trí thức bắt đầu hứng thú với khoa học, tâm lý học và đạo đức học. Sự nhiệt tình trong văn học và nghệ thuật của thời kỳ Phục Hưng tại Đức phát triển đồng thời cùng với sự bất mãn ngày càng tăng trong một bộ phận lớn dân chúng đối với những tác phẩm nghệ thuật của Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo La Mã. Sự bất mãn này lên đến đỉnh điểm với Phong Trào Cải Đạo Tin Lành.

Trong số các nguyên nhân chính của Phong Trào Cải Đạo tại Đức chính là sự lạm dụng tài chính của Giáo Hoàng (lợi dụng tiền quyên góp của các giáo dân), sự mục nát và suy đồi đạo đức của một số các thầy tu và các dòng tu viện, và một phần cũng do tinh thần trần tục của quá trình Phục Hưng. Những nghiên cứu về kinh thánh theo nguồn gốc nguyên thủy đã dẫn tới sự bất mãn với thuyết thần học của Thiên Chúa Giáo thời Trung Cổ và một chủ nghĩa dân tộc ngày càng lớn mạnh đ phản khng những ảnh hưởng chính trị của chế độ Giáo Hoàng. Những ấn phẩm in đóng vai trò chính trong việc Cải Đạo bởi vì việc xuất bản và phổ biến những tranh luận của cuộc cải đạo trở nên dễ dàng hơn, bao gồm cả bản dịch đầu tiên của Kinh Tân Ước sang tiếng Đức.

Những phát triển tại Tây Ban Nha

Các khu vực của Tây Ban Nha, nơi từng là thuộc địa của người Ma Rốc từ Bắc Phi cho tới cuối thế kỷ 15, cuối cùng cũng đã thống nhất vào cuối thế kỷ 15 dưới triều đại của Ferdinand và Isabella (bà nổi tiếng là người đỡ đầu cho cuộc hành trình của Colombus khám phá Tân Thế Giới). Vua Charles V đã thừa kế ngai vàng của Tây Ban Nha vào năm 1506.

Nhờ vđo việc khai thc cc lnh thổ của Chu Mỹ mđ cc nhđ thm hiểm Ty Ban Nha đ giđnh được, Tây Ban Nha trở nên cực kỳ giàu có với dìng chảy ồ ạt của vàng và bạc từ Mexico và Peru. Tây Ban Nha thống trị châu Âu do những mối quan tâm chính trị của vua Charles đối với Châu Âu và sự giàu có mà đất nước này đạt được thông qua việc mua bán hàng hóa từ Châu Mỹ. Thế kỷ 16 được gọi là “Thời Hoàng Kim của Tây Ban Nha”. Nhưng sự giàu có này lại vấp phải một lời nguyền. Vì có quá nhiều vàng mà Tây Ban Nha lâm vào lạm phát, và vàng được dùng vào những cuộc chiến tranh khá tốn kém của nhà vua. Khi sự giàu có mất đi, người dân Tây Ban Nha chẳng còn lại được gì.

Những phát triển tại Anh

Thế kỷ 16 tại nước Anh được chia đôi thành đại vương triều Tudor do vua Henry VIII cai trị (từ năm 1509 đến 1547) và triều đại của người con gáI thứ hai của ông là Elizabeth (từ 1558 – 1603). Henry tách khỏi nhà thờ La Mã vì Đức Giáo Hoàng không cho phép ông ly dị với Hoàng Hậu người Tây Ban Nha, Katharine của xứ Aragon, người mà ông đã kết hôn 18 năm. Vì Henry và Katharine chỉ có một cô con gái nay đau mai yếu, Mary Tudor, Henry muốn ly hôn để tái hôn và có một đứa con trai thừa kế nhằm bảo toàn dòng họ Tudor. Tuyệt giao với La Mã, ông thiết lập nhà thờ của nước Anh nhưng vẫn duy trì niềm tin căn bản và những nghi thức của nhà thờ Thiên Chúa Giáo La Mã.

Elizabeth I trở thành nữ hoàng của nước Anh sau cái chết của Mary Tudors vào năm 1558. Trong suốt triều đại của Elizabeth, nước Anh trải qua một thời kỳ Phục Hưng văn học, chủ yếu là trong thể loại thơ kịch. Các nhà hát của nước Anh được sinh ra trong thời kỳ Phục Hưng này nhờ vào những nhà viết kịch như William Shakespeare, Christopher Marlowe, và Ben Johnson. Shakespeare vượt trội hơn những người cùng thời với mình với sự đa dạng trong thể loại kịch của ông – hài kịch, kịch thời sự, kịch lịch sử, bi kịch – và đưa vào chúng những nhân vật bất tử. Âm nhạc của triều đại Elizabeth nổi bật với hai thiên tài Thomas Tallis và William Byrd.

Cả Henry và Elizabeth đều hay mang những bức trang và những bức điêu khắc vào nước Anh từ những nước châu Âu khác để trang trí cho cung điện của mình. Elizabeth, người được giáo dục tốt và thích đọc sách tiếng La Tinh, thường được ca tụng là “Nữ Hoàng Tiên”. Bà quan tâm đặc biệt tới nghệ thuật, và vì vậy các tác phẩm âm nhạc và văn học cũng rất được khuyến khích.

Những phát triển tại Pháp

Trong suốt nửa đầu thế kỷ thứ 16, phong trào Phục Hưng nước Pháp trong nghệ thuật bắt đầu dưới vương triều của Francis I (từ năm 1515 – 1547). Ông mời những nghệ sĩ người Ý bao gồm Leonardo Da Vinci và Benvenuto Cellini – về làm việc tại các cung điện của người Pháp. Con trai ông là Henry II, kết hôn với một phụ nữ người Ý, Catherine de Medici, bà này đã mang theo những thợ may trang phục, thợ làm nước hoa, đầu bếp và những người thợ thủ công người Ý khác đến Pháp, nơi họ tìm thấy những cơ hội thuận lợi để phát huy tài năng của mình. Nhà chế tạo nước hoa người Ý của Catherine được cho là người đã khởi đầu ngành công nghiệp nước hoa của Pháp.

Sự lên ngôi của vị vua theo đạo Tin Lành Henry IV (1589 – 1610) đã mang lại dấu chấm hết cho việc bức hại tôn giáo đối với những người Pháp theo đạo Tinh Lành. Để an ủi những giáo dân Thiên Chúa Giáo La Mã, những người đang chiếm số đông, Henry IV đã chuyển sang đạo Thiên Chúa Giáo và dẹp yên các vấn đề tôn giáo bằng cách ban hành Sắc Lệnh Nantes, bảo đảm mọi quyền tự do tín ngưỡng và bảo đảm hoàn toàn quyền lợi về chính trị cho những người theo đạo Tin Lành. Về khía cạnh kinh tế, Henry đã khuyến khích nền công nghiệp của Pháp, và ngành công nghiệp thời trang cũng đặc biệt được hưởng lợi từ điều đó. Vải lanh của Pháp đã có thể cạnh tranh với vải lanh Hà Lan và ngành công nghiệp dệt lụa của Pháp đã thách thức thế độc tôn của nước Ý trước đây.

CÁC YẾU TỐ GIÚP PHỔ BIẾN CÁC THÔNG TIN VỀ THỜI TRANG

Một trong những yếu tố đã giúp lan truyền các thông tin thời trang từ một khu vực này của Châu Âu sang những khu vực khác chính là sự liên thông hôn phối giữa các gia đình hoàng tộc tại các quốc gia khác nhau. Những cuộc hôn nhân này thường được sắp đặt để liên kết chặt chẽ hai thế lực với nhau, và các cô dâu khi được đưa từ đất nước của mình sang gia đình mới thường mang theo không chỉ của hồi môn đáng giá, mà còn là những rương quần áo thời trang nhất và cả một đoàn thị nữ theo hầu trong xiêm y hợp mốt.

Những nguồn khác của thông tin thời trang bao gồm những bộ trang phục và chất liệu ngoại nhập, sách vở viết về thời trang, và những khách lữ hành, những người đem về thông tin thời trang và các thí dụ về phong cách ngoại quốc. Nông dân thường có khuynh hướng ăn mặc đơn giản và tiện lợi hơn là mặc những bộ váy hợp thời trang, nhưng trong số những người thuộc tầng lớp cao hơn, sự quốc tế hóa của các phong cách thời trang thường xuất hiện tại những nơi mà hình dáng và chi tiết chủ đạo của trang phục có những điểm tương đồng đáng kể.

NHỮNG ẢNH HƯỞNG VĂN HÓA TỪ TRUNG ĐÔNG

Vua Francis I của nước Pháp đã nhận ra rằng việc liên kết với Sultan Suleyman, thủ lĩnh của người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman rất có lợi về mặt chính trị vào cuối thế kỷ 15. Mặc dù người Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn đe dọa Đông Âu, nhưng những thế lực Đông Âu khác cũng rất hứng thú trong việc thúc đẩy thương mại với phương Đông và cùng ký kết cc thỏa thuận giao thương. Những ý tưởng về thời trang được mang trở lại bởi những nhà ngoại giao, thương nhân và khách du lịch từ Trung Đông sang thăm các tòa lâu đài của Châu Âu.

Người Thổ Nhĩ Kỳ được cho là hung tợn và ngoại lai. Múa ba lê, vũ kịch và kịch sân khấu cũng có những nhân vật người Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng thường là xúc phạm họ. Tuy nhiên, trang phục của họ cũng làm mê hoặc rất nhiều người Châu Âu, mặc dù những ảnh hưởng trực tiếp lên thời trang xuất hiện rất hạn chế. Có một bức chân dung của vua Henry VIII của nước Anh mặc một chiếc áo giống chiếc áo thụng của Thổ Nhĩ Kỳ được gọi là ropa, một chiếc áo dài và rộng, có nguồn gốc từ phong cách thời trang Trung Đông.

VẢI VÓC

Những thay đổi trong kỹ thuật

Guồng se sợi có bàn đạp kết hợp với một thiết bị gọi là máy “ống chỉ và bánh đà” giúp cho việc se sợi trở nên dễ dàng hơn. Một số nguồn tư liệu cho rằng chính Lenardo Da Vinci là người đã sáng chế ra chiếc máy này; những nguồn khác nói rằng ông chỉ đơn giản vẽ phác thảo lại những gì ông thấy mọi người đang sử dụng. Thiết bị này đã gia tăng tốc độ quay của máy bằng cách dừng lại đúng lúc để quấn chỉ sau khi se xong mỗi đoạn.

Đan len bằng tay chỉ xuất hiện tại châu Âu sau thế kỷ 15. Từ cuối thế kỷ 16, đan len bằng tay bắt đầu được sử dụng trong việc làm vớ. Khi nhà sáng chế William Lee xin cấp bằng sáng chế cho máy đan vớ vào năm 1589, nữ hoàng Elizabeth I đã từ chối bởi vì bà sợ chiếc máy sẽ làm cho những người thợ đan bằng tay không còn việc làm, do đó, Lee đã mang sáng chế của mình sang Pháp.

Kỹ thuật trang trí của thế kỷ XVI

Thế kỷ 16 đã mang đến những kỹ thuật mới cho việc trang trí trên vải và biến nó trở thành một phong cách. Họa tiết thêu được áp dụng không những cho áo ngoài mà còn cho cổ và ống tay áo được để lộ ra ngoài của những chiếc áo trong như áo sơ mi. Thêu theo kiểu Tây Ban Nha, là một loại thêu đặc biệt hợp thời trang, bắt nguồn từ Tây Ban Nha và lan ra khắp các nước còn lại của Châu Âu. Loại thêu này bao gồm những họa tiết được thêu bằng chỉ tơ tằm đen tinh xảo trên nền vải lanh trắng mịn, thường được thêu trên cổ áo và cổ tay áo sơ mi đàn ông và áo sơ mi của đàn bà.

Các loại kỹ thuật thêu đa dạng như rút sợi và thêu đục lỗ của người Ý cũng được sử dụng. Chỉ được rút sợi ra khỏi vải và người ta thêu lên vùng mới được rút sợi đó. Thêu đục lỗ được tạo thành bằng cách thêu hoa văn lên nền vải, rồi cắt bỏ đi những phần vải ở giữa những hoa văn đó. Trong những kỹ thuật trang trí khác gọi là filet hoặc lacis, người nghệ nhân sẽ thêu họa tiết lên một tấm vải lưới. Cả hai kỹ thuật thêu đục lỗ và thêu trên lưới đền được xem là tiền thân của ren.

Công nghệ chế tạo ren có thể được bắt đầu tại châu Âu trước khi bước vào thế kỷ 16. Ren khác với thêu đục lỗ hay thêu lưới ở chỗ chúng được cấu trúc hoàn toàn từ chỉ sợi, mà không cần phải có một lớp vải nền nào. Có hai loại ren: Ren đan bằng kim, có vẻ như có nguồn gốc từ Ý, và ren dệt bằng suốt chỉ, có nguồn gốc từ Hà Lan. Ren đan bằng kim thường được tạo ra bằng cách thêu trên những sợi chỉ nền đ được sắp xếp thành họa tiết, và những sợi chỉ nền này được liên kết với nhau bằng một loạt những mũi khâu nhỏ phức tạp. Ren dệt bằng suốt chỉ, hay còn được gọi là ren gối, tạo thành mẫu họa tiết phức tạp bằng cách xoắn hoặc thắt gút một loạt những sợi chỉ được cố định bởi những con suốt. Những loại ren này có thể làm từ những sợi chỉ mảnh – chỉ cotton hoặc chỉ tơ. Trong suốt nửa sau của thế kỷ 16, việc sử dụng ren để trang trí quần áo cho cả đàn ông và đàn bà hầu như được phổ biến trên toàn thế giới.

NGUỒN CHỨNG CỨ CHO VIỆC NGHIÊN CỨU TRANG PHỤC

Nghệ thuật

Nghệ thuật là nguồn thông tin chính trong việc nghiên cứu con người đã mặc gì trong thế kỷ 15. Những bức chân dung, những bức họa và những tấm thảm, và từ những tác phẩm nghệ thuật này người ta có thể thu thập được nguồn thông tin dồi dào về trang phục của tầng lớp thượng lưu. Một số lượng sách lớn nói về trang phục đã được xuất bản; tuy nhiên, những tài liệu này thường có xu hướng pha trộn những bức vẽ chính xác và không chính xác lại với nhau và những tài liệu này phải được tham khảo một cách cẩn thận.

Tư liệu sách vở

Các nhà nghiên cứu đã tìm ra thêm rất nhiều bảng kiểm kê tài sản và các tài liệu được ghi lại vào thế kỷ 15 hơn là những giai đoạn khác trước đó. Những ghi chép này có thể bảo đảm tính chân thực và là yếu tố bổ sung cho những thông tin từ các bức chân dung. Những ghi chép này cũng có thể cung cấp những thông tin về các loại trang phục lót và các loại chất liệu mà không thể nhn thấy rị qua các bức chân dung.

Những bộ trang phục thật

Các nhà lịch sử trang phục cũng thu được nhiều mẫu trang phục thật từ thế kỷ 16. Những mẫu trang phục này rất có ích trong việc nghiên cứu cách cấu trúc và các đường cắt cúp của quần áo.

LỊCH SỬ THỜI TRANG THẾ KỶ 17: BAROQUE (1600- 1700)

BỐI CẢNH

Các thế lực chính vào thế kỷ 17 tại Châu Âu là Pháp, Anh và Tây Ban Nha. Nước Ý vẫn bị chia thành những đơn vị chính trị nhỏ bị thống trị bởi những nước khác. Hà Lan không những thoát khỏi sự lệ thuộc vào Tây Ban Nha mà còn trở nên giàu có và thịnh vượng. Các hoàng tử người Đức, thật ra là chỉ trong phạm vi của Đế Chế La Mã, là các thế lực tối cao, độc lập và được tự do tạo ra chiến tranh hay hòa bình.

Phong trào Phục Hưng trong nghệ thuật vào cuối thế kỷ 16 đã nhường chỗ cho chủ nghĩa cách điệu Mannerism. Phong cách cách điệu có nguồn gốc từ ở Florence và Rome nhưng cuối cùng lan rộng sang tận miền Trung và Bắc Âu. Phản kháng lại chủ nghĩa cổ điển hài hòa và chủ nghĩa tự nhiên lý tưởng trong nghệ thuật Phục Hưng, phong cách cách điệu quan tâm đến việc giải quyết những vấn đề nghệ thuật rắc rối, thí dụ như khắc họa cảnh khỏa thân trong những tư thế phức tạp. Hình ảnh người trong các tác phẩm của chủ nghĩa cách điệu thường có tay chân yểu điệu nhưng dài một cách kỳ quặc, đầu nhỏ, và nét mặt được cách điệu, trong khi tư thế của họ trông có vẻ khó khăn hoặc giả tạo không giống trong đời thực. Cách bài trí không gian theo chiều dài và chiều sâu trong phong cách Phục Hưng bị kéo dẹt ra và thật mơ hồ đến nỗi các hình ảnh xuất hiện như sự sắp đặt các hình dạng trước bối cảnh phẳng của những chiều không gian vô định. Những họa sĩ theo phong cách cách điệu tìm kiếm sự cải tiến liên tục của hình thể và khái niệm, đẩy lên đến đỉnh điểm sự cường điệu và đối nghịch. Phong cách cách điệu là chiếc cầu nối giữa phong cách Phục Hưng và phong cách Baroque và trong thế kỷ 17, người Ý một lần nữa lại dẫn đầu trong việc chuyển từ phong cách cách điệu sang phong cách Baroque đầy sức sống.

Baroque là một phong cách trong nghệ thuật đã sử dụng những chuyển động cường điệu và chi tiết rõ ràng, dễ hiểu để tạo ra kịch tính, sự căng thẳng, nét phong phú và hoành tráng từ điêu khắc, hội họa, văn chương và âm nhạc. Sự phổ biến và thành công của Baroque được Nhà Thờ Thiên Chúa Gíao khuyến khích khi họ xác định tính kịch tính của các họa sĩ theo phong cách Baroque có thể truyền đạt các chủ đề tôn giáo trong sự lôi kéo cảm xúc trực tiếp. Tầng lớp quý tộc thế tục cũng nhận ra phong cách kịch tính của kiến trúc và hội họa Baroque như là một phương tiện để gây ấn tượng cho khách mời và những đối thủ cạnh tranh tương lai. Các cung điện kiểu Baroque được xây dựng xung quanh hàng loạt lối vào của cung đình, phòng chờ, cầu thang hoành tráng, và những phòng khánh tiết ngày càng lộng lẫy. Nhiều hình thức nghệ thuật, âm nhạc, kiến trúc và văn chương gây cảm hứng cho nhau trong phong trào văn hóa Baroque.

ĐỜI SỐNG XÃ HỘI TRONG SUỐT THẾ KỶ 17

Người Pháp tại Versailles là trung tâm các hoạt động của tầng lớp thượng lưu. Các quan lại sống tại các Cung Điện, nơi ăn ở chỉ dành cho những người đứng đầu hoàng tộc, ngoại trừ chỗ trú ngụ của quân lính thì không được rộng rãi hoặc xa hoa; giới quan lại cũng sống tại nhà riêng của mình ở gần đó hoặc tại Paris. Những người có chức quyền đủ lớn sẽ có nhiệm vụ hầu Đức Vua thức dậy. Đức Vua sống hầu hết cuộc đời mình một cách công khai, bao gồm cả việc mặc quần áo mỗi sáng. Đức Vua tự mặc quần, rồi người có chức vụ cao nhất tại đó sẽ trao cho ông áo sơ mi. Quá trình rửa mặt bao gồm lau mặt đức Vua bằng khăn cotton ngâm trong rượu thơm pha loãng – lau mặt bằng nước được xem là nguy hiểm. Nhà Vua rất ít khi tắm. Phần còn lại trong ngày cũng được nghi thức hóa như thế, các hoạt động của từng người sẽ được quy định bởi nghi thức hoàng cung. Các quy tắc thậm chí còn quản lý cả độ dài đuôi áo đầm phụ nữ.

Nước Anh

Nước Anh trong suốt triều đại của Charles I, cung điện ít quan trọng hơn trong triều đại của con trai ông là Charles II. Trong nửa đầu thế kỷ 17, nước Anh vẫn còn rất nhiều vùng nông thôn rộng lớn, và có rất nhiều quý tộc sống tại các vùng đất tổ tiên của mình tại thôn quê. Những thành viên Nghị Viện sống tại vùng quê đến Luân Đôn để dự các buổi họp Nghị Viện, nhưng họ trở về nhà ngay khi cuộc họp kết thúc. Những người khác sống tại nhà mình ở Luân Đôn hay tại các thị trấn. Sau khi Chiến Tranh Dân Sự kết thúc và trong suốt thời kỳ Liên Bang, cuộc sống vẫn tiếp tục tập trung chủ yếu tại các khu vực nông thôn, nhưng khi Charles II được phục vị trở lại ngai vàng, đời sống xã hội của tầng lớp thượng lưu bắt đầu tập trung tại kinh thành, và xã hội Luân Đôn trở nên quan trọng hơn với vai trò là nơi đứng đầu về thời trang.

Hà Lan

Tại Hà Lan, nơi những cư dân thuộc tầng lớp trung lưu thịnh vượng ngày càng phát triển do sở thích kinh doanh của người Hà Lan, số lượng quần áo thuộc quyền sở hữu của một vài cá nhân là rất đáng kể. Ví dụ, của hồi môn cho con gái của một gia đình Amsterdam giàu có được kể lại là đến 150 cái áo sơ mi và 50 chiếc khăn quàng cổ. Một quả phụ thuộc tầng lớp thượng lưu vào đầu thế kỷ có tới 32 chiếc cổ áo xếp nếp khác nhau và theo kiểm kê tủ quần áo của trưởng một thị trấn, người ta thấy có tới 40 chiếc quần, 150 áo sơ mi, 150 cổ áo, 150 đôi cổ tay áo xếp nếp, 60 chiếc nón, 92 chiếc mũ đội ban đêm, 20 chiếc áo choàng dài mặc bình thường trong ngày, hàng tá áo ngủ và 35 đôi găng tay.

Caác loại hoa văn trên áo quý tộc thời xưa

Nước Mỹ

Trong số những người Puritan (Thanh Giáo) đầu tiên định cư tại Nước Anh Mới, người ta có thể nhận ra một thiểu số không hứng thú lắm với thời trang, sống trong điều kiện sống khá là nguyên thủy. Thật vậy, những cư dân đầu tiên định cư tại nước Mỹ đã thật sự sống trong những ngôi nhà tạm bợ với điều kiện sống rất khó khăn, nhưng điều này đã biến mất từ trước năm 1660 và được thay thế bằng những ngôi nhà kiên cố hơn. Những di vật của thời kỳ này cho thấy rằng một vài ngôi nhà được trang bị rất đầy đủ trong khi một số ngôi nhà khác lại có đồ nội thất giản dị hơn.

Trong một tờ hóa đơn hàng hóa của người Anh được vận chuyển đến Mỹ vào khoảng năm 1690 bao gồm rất nhiều phụ kiện và chất liệu hợp thời trang để may trang phục nam và áo đầm. Hàng hóa được liệt kê trong hóa đơn này bao gồm mũ nỉ và nón lưỡi trai cho đàn ông và các bé trai, thuốc nhuộm tóc, kính mắt, tóc giả, vớ len, ren, dây nịt, mũ trùm đầu, diềm tua rua, mũ cornette (mũ giống các nữ tu hay đội) và mũ fontange (một loại mũ cao, hợp thời trang, có thắt dây ren và được trang trí bằng dây ruy băng), và đủ mọi loại chất liệu bao gồm “len xa xỉ”, “lụa sọc mỏng”, “lụa thượng hạng”, và “camblette” (còn gọi là camlet – một loại chất liệu len). Cũng như có thêm nhiều loại chất liệu bình dân khác như vải kersey (một loại chất liệu len thô, mũi dệt to) màu nâu, xám và xám nâu; lensey-woolsey (một loại chất liệu bằng lanh và len), và vải cotton với các màu trắng, đỏ, xanh và vàng. Một phụ nữ giàu có được gởi cho một chiếc quạt lông với tay cầm bằng bạc và hai chiếc quạt đồi mồi, 200 mũi kim may và 5 thước vải trắng, dây câu cá bằng bạc, vải sarindin trơn (một loại chất liệu trắng), một chiếc áo choàng, một tấm da màu mận và hai chiếc dao ngà.

Những vị thủ lĩnh trong tôn giáo và trong đời thường không phải lúc nào cũng chấp nhận sự “xa xỉ phù du” này. Trong một vài cộng đồng, luật hạn chế tiêu dùng đã được thông qua bao gồm các điều khoản dành cho đàn ông lẫn đàn bà “không được mặc quần áo với hơn một đường xẻ trên mỗi tay áo và một đường xẻ nữa ở sau lưng”. Thêu đục lỗ, thêu, mũ ren, cổ áo được trang trí bằng ren, và khăn choàng là những món bị cấm tiệt, và cổ áo xếp nếp, mũ lông hải ly, và những mái tóc giả uốn quăn, dài tới vai cũng cùng chung số phận.

MỘT VÀI TRUYỀN THỐNG TRANG PHỤC ĐẶC THÙ

Nước Mỹ

Trong số những người Puritan (Thanh Giáo) đầu tiên định cư tại Nước Anh Mới, người ta có thể nhận ra một thiểu số không hứng thú lắm với thời trang, sống trong điều kiện sống khá là nguyên thủy. Thật vậy, những cư dân đầu tiên định cư tại nước Mỹ đã thật sự sống trong những ngôi nhà tạm bợ với điều kiện sống rất khó khăn, nhưng điều này đã biến mất từ trước năm 1660 và được thay thế bằng những ngôi nhà kiên cố hơn. Những di vật của thời kỳ này cho thấy rằng một vài ngôi nhà được trang bị rất đầy đủ trong khi một số ngôi nhà khác lại có đồ nội thất giản dị hơn.

Trong một tờ hóa đơn hàng hóa của người Anh được vận chuyển đến Mỹ vào khoảng năm 1690 bao gồm rất nhiều phụ kiện và chất liệu hợp thời trang để may trang phục nam và áo đầm. Hàng hóa được liệt kê trong hóa đơn này bao gồm mũ nỉ và nón lưỡi trai cho đàn ông và các bé trai, thuốc nhuộm tóc, kính mắt, tóc giả, vớ len, ren, dây nịt, mũ trùm đầu, diềm tua rua, mũ cornette (mũ giống các nữ tu hay đội) và mũ fontange (một loại mũ cao, hợp thời trang, có thắt dây ren và được trang trí bằng dây ruy băng), và đủ mọi loại chất liệu bao gồm “len xa xỉ”, “lụa sọc mỏng”, “lụa thượng hạng”, và “camblette” (còn gọi là camlet – một loại chất liệu len). Cũng như có thêm nhiều loại chất liệu bình dân khác như vải kersey (một loại chất liệu len thô, mũi dệt to) màu nâu, xám và xám nâu; lensey-woolsey (một loại chất liệu bằng lanh và len), và vải cotton với các màu trắng, đỏ, xanh và vàng. Một phụ nữ giàu có được gởi cho một chiếc quạt lông với tay cầm bằng bạc và hai chiếc quạt đồi mồi, 200 mũi kim may và 5 thước vải trắng, dây câu cá bằng bạc, vải sarindin trơn (một loại chất liệu trắng), một chiếc áo choàng, một tấm da màu mận và hai chiếc dao ngà.

Những vị thủ lĩnh trong tôn giáo và trong đời thường không phải lúc nào cũng chấp nhận sự “xa xỉ phù du” này. Trong một vài cộng đồng, luật hạn chế tiêu dùng đã được thông qua bao gồm các điều khoản dành cho đàn ông lẫn đàn bà “không được mặc quần áo với hơn một đường xẻ trên mỗi tay áo và một đường xẻ nữa ở sau lưng”. Thêu đục lỗ, thêu, mũ ren, cổ áo được trang trí bằng ren, và khăn choàng là những món bị cấm tiệt, và cổ áo xếp nếp, mũ lông hải ly, và những mái tóc giả uốn quăn, dài tới vai cũng cùng chung số phận.

MỘT VÀI TRUYỀN THỐNG TRANG PHỤC ĐẶC THÙ

Mặc dù Tây Ban Nha từng là nước dẫn đầu về thời trang của Tây Âu trong suốt nửa cuối thế kỷ 16, nhưng từ đầu thế kỷ 17, phong cách thời trang Tây Ban Nha đã bắt đầu tụt hậu sau những nước khác. Người Tây Ban Nha có khuynh hướng bảo thủ hơn những nước láng giềng, và sự bảo thủ này đã có ảnh hưởng lớn đến việc kéo dài các phong cách thời trang cũ, ví dụ như họ vẫn mặc những chiếc cổ áo xếp nếp và chiếc váy phồng kiểu Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha là verdugado) thậm chí sau khi cả châu Âu đã từ bỏ chúng từ lâu.

Ngay cả vật dụng có tên mantilla của Tây Ban Nha, một chiếc mạng được dùng để che tóc gắn liền với trang phục Tây Ban Nha truyền thống và trở thành một phiên bản thu nhỏ của chiếc áo măng tô dành cho phụ nữ trong suốt thời kỳ Trung Cổ vẫn tiếp tục được sử dụng cho tới tận những thởi gian sau đó. Truyền thống tại Tây Ban Nha rất mạnh và truyền thống chi phối độ dài của chiếc mạng tùy thuộc vào vị trí xã hội của người phụ nữ bao gồm cả góa phụ, phụ nữ đã có gia đình, hoặc một thiếu nữ chưa chồng. Trong một vài địa phương, một cô gái chưa chồng phải che mặt khi ra khỏi nhà. Phong tục này được lấy từ người Moors, những người đã thống trị Tây Ban Nha trong suốt một thời gian dài của thời kỳ Trung Cổ.

Nhưng loại trang phục đáng chú ý nhất trong cách ăn mặc của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 17 lại chính là bộ trang phục mà mãi về sau mới được chấp nhận, đó là loại trang phục gần giống như chiếc áo đầm phồng rộng kiểu Pháp. Bị lạc hậu với phần còn lại của châu Âu sau thập niên thứ hai của thế kỷ 17, những phụ nữ Tây Ban Nha giàu có đã bắt kịp phong cách guardinfante (váy độn phồng hình oval). Váy có hình oval hơn là những chiếc váy phồng hình tròn kiểu Pháp, với kích thước rộng hơn từ cạnh này sang cạnh kia. Thân áo có thêm phần basque (phần kéo dài của thân áo xuống dưới đường eo), trùm lên phần trên của chiếc váy phồng. Đường vai của thân áo thường được may ngang và có đường cổ tương tự như trang phục của những nước châu Âu khác. Tay áo phồng và có xẻ để lộ vải lót có màu tương phản bên trong và thường kết thúc với cổ tay ôm sát. Với những chiếc áo này, phụ nữ thường mang những đôi giày chopine (giày đế bằng) cao với đế giày bằng gỗ hoặc bằng thân cây bần giúp họ trông cao hơn bù vào độ rộng của chiếc váy phồng oval guardinfante. Nhưng không phải phụ nữ Tây Ban Nha nào cũng mặc những chiếc váy quá rộng quá khổ này, chiếc váy được coi là biểu tượng của dòng dõi hoàng gia.

Phong cách thời trang dành cho đàn ông tại Tây Ban Nha thay đổi khá chậm. Người ta giữ lại cổ áo xếp nếp và quần có vẻ dài hơn so với các nước châu Âu khác. Tuy nhiên, phong cách thời trang dành cho đàn ông không bao giờ quá khác biệt giữa các vùng như của phụ nữ. Từ năm 1700, người Tây Ban Nha đã hòa nhập trở lại với giòng chảy chính của thời trang châu Âu.