Cách tính giá vốn trung bình

Cách tính giá vốn trung bình

Phương pháp nhập trước xuất trước (FIFO)

Leave your thoughts

FIFO là gì?

FIFO là viết tắt cho first-in, first-out (vào trước-ra trước) là một phương pháp kiểm kê chi phí trong đó giả định rằng các mục hàng hoá nhập trước được xuất trước. Điều này nghĩa là mục hàng hóa vào kho lâu nhất sẽ được ghi nhận là đã bán trước nhưng không cần thiết chính xác đối tượng vật lý đó đã được xác định và bán.

Theo đó, hàng tồn kho vào cuối năm sẽ là hàng hoá được nhập gần nhất. FIFO được sử dụng để xác định chi phí hàng bán cho một doanh nghiệp. Nó được sử dụng rộng rãi trên thế giới và đối nghịch với LIFO (vào sau-ra trước) vốn chỉ còn sử dụng tại Mỹ.

Khi sử dụng FIFO, số lượng hồ sơ phải duy trì là ít do các mặt hàng lâu nhất được bán ra đầu tiên và không có sự gia tăng bất thường hoặc giảm giá vốn hàng bán do chỉ có các mục mới nhất là vẫn còn tồn kho cũng như chi phí là trong giai đoạn gần đây. Khi lạm phát, nếu giá thành tăng lên thì các mặt hàng mua trước rẻ hơn. Điều này làm giảm giá vốn hàng bán theo FIFO và giúp tăng lợi nhuận dẫn tới việc nộp thuế thu nhập lớn và giá trị hàng tồn kho cao hơn. Nếu sử dụng FIFO trong thời kỳ giảm phát, giá trị hàng tồn kho sẽ thấp hơn.

Nội dung của phương pháp

Hàng tồn kho được chỉ định chi phí khi các mặt hàng được chuẩn bị để bán. Điều này có thể xảy ra thông qua việc mua hàng tồn kho hoặc chi phí sản xuất thông qua việc mua nguyên liệu và sử dụng lao động. Các chi phí được chỉ định này dựa trên thứ tự sử dụng sản phẩm và đối với FIFO, nó dựa trên những gì đã đến trước. Ví dụ: nếu 100 mặt hàng được mua với giá 10 đô la và 100 mặt hàng khác được mua tiếp theo với giá 15 đô la, thì FIFO sẽ chỉ định chi phí cho mặt hàng đầu tiên được bán lại là 10 đô la. Sau khi 100 mặt hàng được bán, chi phí mới của mặt hàng sẽ trở thành 15 đô la, bất kể mua hàng tồn kho bổ sung nào được thực hiện.

Phương pháp FIFO tuân theo logic rằng để tránh lỗi thời, một công ty sẽ bán các mặt hàng tồn kho lâu đời nhất trước tiên và duy trì các mặt hàng mới nhất trong kho. Mặc dù phương pháp định giá hàng tồn kho thực tế được sử dụng không cần phải theo luồng hàng tồn kho thực tế thông qua một công ty, một thực thể phải có khả năng hỗ trợ lý do tại sao công ty chọn sử dụng phương pháp định giá hàng tồn kho cụ thể.

Tác động của FIFO so với các phương pháp định giá khác

Tình hình kinh tế điển hình liên quan đến thị trường lạm phát và giá cả tăng. Trong tình huống này, nếu FIFO ấn định chi phí cũ nhất cho giá vốn hàng bán , thì những chi phí cũ nhất này về mặt lý thuyết sẽ được định giá thấp hơn so với hàng tồn kho gần đây nhất được mua với giá tăng cao hiện tại. Chi phí thấp hơn này dẫn đến thu nhập ròng cao hơn. Ngoài ra, do hàng tồn kho mới nhất được mua với giá thường cao hơn, số dư tồn kho cuối kỳ bị thổi phồng.

Các lựa chọn thay thế cho FIFO

Phương pháp định giá hàng tồn kho đối diện với FIFO là LIFO , trong đó mục cuối cùng là mục đầu tiên được đưa ra. Trong các nền kinh tế lạm phát, điều này dẫn đến chi phí thu nhập ròng giảm phát và số dư cuối kỳ thấp hơn trong hàng tồn kho khi so sánh với FIFO. Các hàng tồn kho chi phí trung bình Phương pháp gán cùng chi phí cho từng hạng mục. Phương pháp chi phí trung bình được tính bằng cách chia giá vốn hàng tồn kho cho tổng số mặt hàng có sẵn để bán. Điều này dẫn đến thu nhập ròng và kết thúc số dư hàng tồn kho giữa FIFO và LIFO. Cuối cùng, theo dõi hàng tồn kho cụ thể được sử dụng khi tất cả các thành phần quy cho một sản phẩm hoàn chỉnh được biết đến. Nếu tất cả các phần không được biết đến, việc sử dụng bất kỳ phương pháp nào trong số FIFO, LIFO hoặc chi phí trung bình là phù hợp.

Ví dụ: Tại một doanh nghiệp trong tháng 3 năm N có tình hình vật tư như sau:

Vật tư tồn đầu tháng: 4.000 kg, đơn giá 30.000 đồng/kg

Tình hình nhập xuất trong tháng:

Ngày 03: nhập kho 4.000 kg, đơn giá nhập 30.500 đồng/kg

Ngày 08: xuất sử dụng 5.000 kg

Ngày 15: nhập kho 4.000 kg, đơn giá nhập 30.800 đồng/kg

Ngày 20: nhập 2.000 kg, đơn giá nhập 31.000 đồng/kg

Ngày 21: xuất sử dụng 5.500 kg.

Phương pháp nhập trước xuất trước sử dụng thường được doanh nghiệp áp dụng cho nguyên vật liệu, cung cụ dụng cụ, hàng hóa, thành phẩm ở trong bất kể một loại hình doanh nghiệp nào

Yêu cầuLời giải
Tồn kho 3000 kg giá 20.000
Trong tháng phát sinh
Ngày 3/3 xuất kho 200 kg
Nhập trong ngày 5/3 nhập kho 400 kg đơn giá 19.000
Ngày 7/3 xuất kho 300 kg
Ngày 9/3 xuất kho 100 kg
Ngày 19/3 nhập kho 500 kg đơn giá 20.000
Ngày 20/3 xuất kho 400 kg
Ngày 25/3 nhập kho 300 kg đơn giá 21.000
Ngày 27/3 xuất kho 300 kg
Ngày 28/3 nhập kho 400 kg đơn giá 19.000
Ngày 29/3 500 kg
Công thức tính giá xuất kho theo phương pháp FIFO
Nguyên vật liệu chính xuất kho:
Ngày 3/3: 200*20.000 = 4.000.000
(Lấy đơn giá tồn kho nhân với số lượng xuất kho)
Ngày 5/3: Đến thời điểm này trong kho còn 500 kg gồm 100kg tồn kho với đơn giá 20.000 và 400 kg với đơn giá 19.000 mới nhập vào ngày 5/3
Ngày 7/3: 100*20.000 + 200*19.000 = 5.800.000
(Hiện tại đầu kỳ đã được xuất hết hiện giờ còn 200 kg ở lần nhập kho ngày 5/3)
Ngày 9/3: 100*19.000 = 1.900.000
Ngày 19/3: Đến thời điểm này trong kho có 600 kg gồm 100kg với đơn giá 19.000 và 500 kg với đơn giá 20.000 vừa mới nhập)
Ngày 20/3: 100*19.000 + 300*20.000 = 7.900.000
(Sau khi xuất trong kho còn lại 200 kg với đơn giá 20.000)
Ngày 27/3: 200*20.000 + 100*21.000 = 6.100.000
Ngày 29/3: 200*21.000 + 300*19.000 = 9.900.000
Tồn cuối kỳ: 100*19.000 = 1.900.000

Ưu điểm của phương pháp

Doanh nghiệp ước tính được ngay trị giá vốn hàng hóa xuất kho trong từng lần

Đảm bảo kịp thời cung cấp số liệu cho kế toán chuyển số liệu thực tế cho các khâu tiếp theo cũng như cho quản lý.

Giá trị hàng tồn kho tương đối sát với giá thị trường khi giá cả hàng hóa không đổi hoặc có xu hướng giảm dần giúp cho chỉ tiêu hàng tồn kho trên các báo cáo tài chính mang ý nghĩa thực tế hơn.

Nhược điểm của phương pháp

Theo phương pháp này doanh thu hiện tại có được tạo ra bởi những giá trị đã có được từ cách đó rất lâu làm cho doanh thu hiện tại không phù hợp với những khoản chi phí hiện tại.

Trong trường hợp doanh nghiệp lớn với số lượng, chủng loại mặt hàng nhiều, nhập xuất phát sinh liên tục dẫn đến những chi phí cho việc hạch toán cũng như khối lượng hạch toán, ghi chép sẽ tăng lên rất nhiều.

Đối tượng áp dụng

Các doanh nghiệp sẽ áp dụng phương pháp này trong trường hợp giá cả hàng hóa có tính ổn định hoặc giá cả hàng hóa đang trong thời kỳ có xu hướng giảm.

Thường là các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng có hạn sử dụng nhỏ mà thiết yếu như: thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm,

Categorised in: Chuyên Mục

This post was written by admin

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Comment

Name *

Email *

Website

Save my name, email, and website in this browser for the next time I comment.