Đường huyết thai kỳ bao nhiêu là bình thường năm 2024

- Mẹ bầu có nhiều nguy cơ sẽ được Bác sĩ chỉ định thử đường huyết lúc đói, chỉ số HbA1C hoặc đường huyết bất kỳ.

- Nếu các giá trị đường huyết lúc đói >7,0mmol/L, HbA1c >6,5%, đường huyết ngẫu nhiên >11,1mmol/L, thai phụ được chẩn đoán là tiểu đường lâm sàng.

Đường huyết thai kỳ bao nhiêu là bình thường năm 2024

- Đường huyết lúc đói từ 5,1 - 7,0mmol/L, mẹ bầu được chẩn đoán tiểu đường thai kỳ.

- Khi đường huyết lúc đói <5,1mmol/L, đợi đến tuần thứ 24 - 28 của thai kỳ sẽ làm nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống để chẩn đoán tiểu đường thai kỳ.

GIAI ĐOẠN TUẦN 24 - 28 CỦA THAI KỲ

Nếu mẹ bầu có đường huyết lúc đói <5,1mmol/L sẽ phải thực hiện tiếp phương pháp dung nạp glucose.

Cách thực hiện: Đầu tiên, các mẹ bầu được đo nồng độ glucose máu khi đói. Sau đó uống một lượng khoảng 75g glucose trong khoảng 5 phút. Bác sĩ sẽ lấy mẫu máu để đo nồng độ glucose huyết sau 1-2 tiếng kể từ khi uống.

Đường huyết thai kỳ bao nhiêu là bình thường năm 2024

Nếu glucose máu lúc đói > 7,0mmol/L: thai phụ bị tiểu đường lâm sàng.

Thai phụ được chẩn đoán tiểu đường thai kỳ nếu đáp ứng một hoặc nhiều hơn 3 chỉ số dưới đây:

- Lúc đói ≥ 5,1 mmol/L

- Ở thời điểm 1 giờ ≥ 10,0 mmol/L

- Ở thời điểm 2 giờ ≥ 8,5 mmol/L

Nếu cả 3 thông số đều nhỏ hơn các giá trị nêu trên, thai phụ hoàn toàn bình thường.

CÁCH PHÒNG NGỪA TIỂU ĐƯỜNG THAI KỲ

Phòng ngừa tiểu đường thai kỳ rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe của cả mẹ và em bé. Dưới đây là một số phương pháp phòng ngừa tiểu đường thai kỳ:

- Duy trì trọng lượng cơ thể: Nếu bạn có kế hoạch mang thai hoặc đang mang thai, hãy tham khảo ý kiến với bác sĩ về trọng lượng cơ thể và lập kế hoạch để duy trì hoặc giảm cân nếu cần thiết.

Đường huyết thai kỳ bao nhiêu là bình thường năm 2024

- Chế độ ăn cân đối: Hãy duy trì một chế độ ăn lành mạnh, giàu chất xơ, hạn chế đường và các loại thực phẩm chế biến. Bổ sung thêm nhiều rau, quả và ngũ cốc nguyên hạt.

- Theo dõi đường huyết: Nếu bạn có nguy cơ cao hoặc một lịch sử gia đình về tiểu đường, nên được kiểm tra đường huyết thường xuyên trong quá trình mang thai. Điều này giúp đưa ra biện pháp sớm nếu có bất kỳ thay đổi đáng chú ý nào.

- Giữ trọng lượng tăng trong mức độ phù hợp: Trong quá trình mang thai, tăng cân là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, việc kiểm soát tăng cân trong mức độ đề xuất bởi bác sĩ có thể giúp giảm nguy cơ tiểu đường thai kỳ.

- Vận động thể chất đều đặn: Tập thể dục thường xuyên có thể giúp cải thiện sức khỏe tim mạch và giảm nguy cơ tiểu đường thai kỳ. Tập thể dục nhẹ nhàng như đi bộ nhanh, bơi lội, yoga thích hợp cho phụ nữ mang thai.

Đường huyết thai kỳ bao nhiêu là bình thường năm 2024

- Kiểm soát căng thẳng: Giảm bớt căng thẳng như: thiền định, yoga hoặc các hoạt động khác có thể giúp giảm nguy cơ tiểu đường thai kỳ.

ĐIỀU TRỊ TIỂU ĐƯỜNG THAI KỲ

Các mẹ bầu cần khám thai định kỳ để được phát hiện, điều trị và tư vấn kịp thời nếu có vấn đề xảy ra với mẹ và bé. Tại Hệ Thống Y Khoa Diamond, các bác sĩ sẽ theo dõi chặt chẽ chu kỳ mang thai, giúp mẹ bầu kiểm soát được hàm lượng đường trong cơ thể thông qua những xét nghiệm cần thiết và đưa ra phác đồ điều trị hiệu quả nhất.

Kiểm soát kém bệnh đái tháo đường có từ trước hoặc đái tháo đường thai kỳ trong quá trình phát triển các cơ quan ở thai nhi (tới khoảng 10 tuần tuổi thai) làm tăng nguy cơ sau:

  • Các dị tật bẩm sinh chính

Kiểm soát bệnh tiểu đường kém trong thời gian mang thai cuối làm tăng nguy cơ sau:

Tuy nhiên, bệnh tiểu đường thai kỳ có thể dẫn đến cân nặng lớn bất thường của thai ngay cả khi mức đường huyết được giữ gần như bình thường.

  • 1. Committee on Practice Bulletins—Obstetrics: ACOG Practice Bulletin No. 201: Clinical management guidelines for obstetrician-gynecologists: Pregestational diabetes mellitus. Obstet Gynecol 132 (6):e228–e248, 2018. doi: 10.1097/AOG.0000000000002960
  • 2. Shah NS, Wang MC, Freaney PM, et al: Trends in Gestational Diabetes at First Live Birth by Race and Ethnicity in the US, 2011-2019. JAMA 326(7):660-669, 2021 doi:10.1001/jama.2021.7217
  • 3. Committee on Practice Bulletins—Obstetrics: ACOG Practice Bulletin No. 190: Gestational diabetes mellitus. Obstet Gynecol 131 (2):e49–e64, 2018. doi: 10.1097/AOG.0000000000002501
  • Phép thử dung nạp glucose đường uống (OGTT) hoặc đo nồng độ glucose đơn thuần trong huyết tương (lúc đói hoặc ngẫu nhiên)

Phương pháp sàng lọc được đề xuất này có 2 bước. Đầu tiên là một bài thử nghiệm sàng lọc với lượng glucose đường uống là 50 g và đo đường máu sau 1 giờ. Nếu mức đường glucose 1 giờ ở mức > 130 đến 140 mg/dL (> 7,2 đến 7,8 mmol/L), thì thử nghiệm lần 2 bằng cách sử dụng 100g glucose và xét nghiệm sau 3 giờ (xem bảng ).

Hầu hết các tổ chức bên ngoài Hoa Kỳ đều khuyến nghị việc xét nghiệm một bước trong 2 giờ.

Đường huyết thai kỳ bao nhiêu là bình thường năm 2024

  • 1. ACOG Practice Bulletin No. 190: Gestational Diabetes Mellitus. Obstet Gynecol 131(2):e49-e64, 2018 doi:10.1097/AOG.0000000000002501
  • Giám sát chặt chẽ
  • Kiểm soát chặt chẽ lượng đường trong máu
  • Quản lý các biến chứng

Để giảm thiểu nguy cơ, bác sĩ lâm sàng nên làm tất cả những điều sau đây:

  • Thực hiển kiểm soát cho bệnh nhân bởi một nhóm bao gồm (ví dụ như bác sĩ, y tá, chuyên gia dinh dưỡng, nhân viên xã hội) và bác sĩ nhi khoa
  • Ngay lập tức chẩn đoán và điều trị các biến chứng của thai kỳ, cho dù là không đáng kể
  • Lập kế hoạch khi sinh và có một bác sĩ nhi khoa giàu kinh nghiệm bên cạnh
  • Đảm bảo rằng chăm sóc tích cực cho trẻ sơ sinh có sẵn

Ở các trung tâm sinh sản vùng thì cần có sẵn các chuyên gia về quản lý các biến chứng tiểu đường.

Phương pháp điều trị có thể khác nhau, nhưng một số hướng dẫn xử trí chung rất hữu ích (xem bảng , và ).

Phụ nữ bị tiểu đường typ 1 hoặc 2 nên theo dõi mức đường máu ở nhà. Trong thời kỳ mang thai, nồng độ đường huyết lúc đói bình thường khoảng 76 mg/dL (4,2 mmol/L).

Mục tiêu điều trị là

  • Nồng độ đường huyết lúc đói < 95 mg/dL (<5,3>
  • Nồng độ đường máu sau 2 giờ ở ≤ 120 mg/dL (≤ 6,6 mmol/L)
  • Không có dao động đường huyết rộng
  • Nồng độ hemoglobin glycosyl hóa (HbA1c) ở mức < 6,5%

Đường huyết thai kỳ bao nhiêu là bình thường năm 2024

Đường huyết thai kỳ bao nhiêu là bình thường năm 2024

Đường huyết thai kỳ bao nhiêu là bình thường năm 2024

Insulin là phương pháp điều trị truyền thống được lựa chọn vì chất này không thể đi qua nhau thai và giúp kiểm soát lượng đường dễ dự đoán hơn; nó được sử dụng cho bệnh tiểu đường loại 1 và loại 2 và cho một số phụ nữ mắc bệnh tiểu đường thai kỳ. Insulin người nên được sử dụng nếu có thể vì nó giảm thiểu sự hình thành kháng thể. Các kháng thể Insulin đi qua nhau thai, nhưng tác dụng của chúng lên bào thai vẫn chưa được biết. Ở một số phụ nữ mắc bệnh đái tháo đường týp 1 đã lâu, hạ đường huyết không gây ra việc tiết bình thường các hormone điều chỉnh ngược (catecholamine, glucagon, cortisol và hormone tăng trưởng); do đó, quá nhiều insulin có thể gây ra tình trạng hôn mê hạ đường huyết mà không có các triệu chứng tiền triệu. Tất cả phụ nữ mang thai thuộc typ 1 đều nên dùng kít glucagon và được hướng dẫn (cũng như các thành viên trong gia đình) dùng glucagon nếu xảy ra hạ đường huyết trầm trọng (biểu hiện bởi vô thức, nhầm lẫn, hoặc mức đường trong máu < 40 mg/dL [< 2,2 mmol/L]).

Thuốc hạ đường huyết đường uống (ví dụ: metformin) đang ngày càng được sử dụng nhiều hơn để kiểm soát bệnh tiểu đường ở phụ nữ mang thai vì dễ sử dụng (thuốc viên so với tiêm), chi phí thấp và dùng một lần mỗi ngày. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng metformin an toàn trong thai kỳ và thuốc này mang lại khả năng kiểm soát tương đương với insulin cho phụ nữ mắc bệnh tiểu đường thai kỳ. Đối với phụ nữ bị tiểu đường loại 2 trước khi mang thai, không có nhiều dữ liệu về việc sử dụng thuốc trong thai kỳ; insulin thường được lựa chọn. Thuốc hạ đường huyết dạng uống trong thời kỳ mang thai có thể tiếp tục dùng sau khi sinh, khi cho con bú, nhưng trẻ sơ sinh cần được theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu hạ đường huyết.

Mặc dù bệnh võng mạc tiểu đường, bệnh thận, và bệnh lý thần kinh nhẹ không chống chỉ định để mang thai nhưng họ cần được tư vấn trước khi mang thai và quản lý chặt chẽ trước và trong khi mang thai.

Bệnh lý võng mạc cần được khám nhãn khoa mỗi tam cá nguyệt. Nếu bệnh võng mạc tăng sinh được ghi nhận trong lần khám thai đầu tiên, nên sử dụng phương pháp quang đông càng sớm càng tốt để ngăn ngừa sự suy giảm tiến triển.

Bệnh thận, đặc biệt là ở phụ nữ ghép thận, có nguy cơ dẫn đến tăng huyết áp thai kỳ. Nguy cơ sinh non cao hơn nếu chức năng thận của người mẹ bị suy giảm hoặc nếu mới được ghép thận. Tiên lượng là tốt nhất nếu sinh con ≥ 2 năm sau khi cấy ghép.

Một số biện pháp cẩn thận là cần thiết để đảm bảo kết quả tối ưu.

  • Có các biến chứng sản khoa ở những lần mang thai trước đây
  • Chăm sóc trước khi sinh không đầy đủ
  • Ngày chuyển dạ không chắc chắn
  • Kiểm soát đường huyết kém
  • Tuân thủ điều trị kém

Hình thức sinh thường là sinh tự phát đường âm đạo đúng tháng. Nguy cơ thai chết và mắc vai tăng khi gần đến ngày sinh. Vì vậy, nếu quá trình chuyển dạ không bắt đầu tự nhiên ở tuần thứ 39 thì việc gây chuyển dạ thường là cần thiết. Rối loạn chức năng chuyển dạ, bất tương xứng thai và khung chậu, hoặc nguy cơ sinh khó do mắc vai có thể làm cho việc mổ lấy thai là cần thiết.

Mức đường huyết được kiểm soát tốt nhất trong khi chuyển dạ và sinh nở bằng cách truyền insulin liên tục liều thấp. Nếu có kế hoạch gây chuyển dạ, thai phụ dùng chế độ ăn bình thường của mình một ngày trước sinh và sử dụng liều insulin thường ngày. Vào buổi sáng ngày dự định khởi phát chuyển dạ, ăn sáng và insulin đều chưa dùng vội,đo đường máu nhanh, truyền tĩnh mạch 5% dextrose trong dung dịch muối 0,45% bắt đầu ở 125 mL/giờ, sử dụng bơm tiêm truyền. Ban đầu insulin với tốc độ truyền được xác định bởi mức độ glucose mao mạch. Liều Insulin được xác định như sau:

  • Khởi đầu: 0 đơn vị cho mức mao mạch < 80 mg/dL (< 4,4 mmol/L) hoặc 0,5 đơn vị/giờ ở mức từ 80 đến 100 mg/dL (4,4 đến 5,5 mmol/L)
  • Sau đó: Tăng 0,5 đơn vị/giờ cho mỗi 40 mg/dL (2,2 mmol/L) tăng mức đường huyết trên 100 mg/dL cho tới 2,5 đơn vị/giờ đối với các mức \> 220 mg/dL (\> 12,2 mmol/L)
  • Mỗi giờ trong khi chuyển dạ: Đo mức đường máu tại giường và điều chỉnh liều để duy trì mức 70 đến 120 mg/dL (3,8 đến 6,6 mmol/L)
  • Nếu nồng độ glucose tăng đáng kể: Có thể dùng thêm liều bolus

Đối với chuyển dạ tự nhiên, quy trình là tương tự, ngoại trừ nếu insulin tác dụng trung bình đã được sử dụng trong 12 giờ trước đó thì cần giảm liều insulin. Đối với những phụ nữ bị sốt, nhiễm trùng hoặc các biến chứng khác và đối với những phụ nữ béo phì thuộc loại 2 và cần \> 100 đơn vị insulin/ngày trước khi mang thai, liều insulin sẽ tăng lên.

Sau khi sinh, mất đi rau thai, nơi tổng hợp một lượng lớn insulin hormone đối kháng trong suốt thai kỳ, ngay lập tức làm giảm nhu cầu insulin. Vì vậy, phụ nữ mắc bệnh tiểu đường thai kỳ và nhiều người tiểu đường type 2 không cần insulin sau sinh. Đối với phụ nữ có tiểu đường type 1, nhu cầu insulin giảm mạnh nhưng sau đó tăng dần sau khoảng 72 giờ.

Trong 6 tuần đầu sau khi sinh, mục tiêu là kiểm soát glucose chặt chẽ. Mức glucose được kiểm tra trước bữa ăn và vào giờ ngủ. Không có chống chỉ định để nuôi con bằng sữa mẹ nhưng có thể dẫn đến tình trạng hạ đường huyết sơ sinh nếu uống thuốc hạ đường huyết. Phụ nữ bị tiểu đường thai kỳ nên được thử nghiệm dung nạp glucose đường uống 2 giờ với 75 g glucose từ 6 đến 12 tuần sau sinh để xác định xem bệnh tiểu đường có được giải quyết hay không.

  • 2. Miller E, Hare JW, Cloherty JP, et al: Elevated maternal hemaglogin A1c in early pregnancy and major congenital anomalies in infants of diabetic mothers. N Engl J Med 304 (22):1331–1334, 1981. doi: 10.1056/NEJM198105283042204
  • Bệnh tiểu đường trong thai kỳ làm tăng nguy cơ thai nhi quá cân bất thường, khó sinh do mắc vai, tiền sản giật, phải mổ lấy thai, thai chết lưu, và, nếu có tiểu đường từ trước hoặc tiểu đường thai kỳ kém kiểm soát trong quá trình hình thành cơ thể dễ dẫn đến các dị tật bẩm sinh và sảy thai tự nhiên.
  • Sàng lọc tất cả trường hợp phụ nữ mang thai đối với bệnh tiểu đường thai kỳ bằng thử nghiệm dung nạp glucose đường uống.

Cần có sự tham gia của nhóm điều trị tiểu đường nếu có thể, và giữ nồng độ glucose trong máu ở mức < 95 mg/dL (< 5,3 mmol/L) và 2h sau ăn ở mức ≤ 120 mg/dL (≤ 6,6 mmol/L).