Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12

Trong những năm cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX, Việt Nam chạm đáy khủng hoảng kinh tế-xã hội. Lương thực, thực phẩm trở thành vấn đề cấp bách. Sau 8 năm mang lại nét tươi mới cho sản xuất nông nghiệp, Khoán 100 đã không còn tác dụng thúc đẩy sản xuất. Việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp cần được đẩy mạnh hơn nữa. Trong bối cảnh đó, Khoán 10 ra đời, thực sự mang lại làn gió mới cho sản xuất nông nghiệp Việt Nam, góp phần đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội 8 năm sau đó

Nghị quyết 10 - những nội dung cơ bản

Thực hiện chủ trương đổi mới về kinh tế của Đại hội VI, trên cơ sở tổng kết thực tiến, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị khóa VI ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nghị quyết nêu rõ quan điểm cơ bản của Đảng về quản lý nông nghiệp: Coi hợp tác xã như đơn vị kinh tế tự quản, hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, nhận khoán với hợp tác xã. Bộ Chính trị nêu rõ: Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp nhằm khắc phục các nhược điểm, sai lầm trong các chính sách lớn đối với nông nghiệp và phải đạt các yêu cầu: Thực sự giải phóng sức sản xuất; gắn sắp xếp, tổ chức lại sản xuất với cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp; phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế; Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích, nhất là đảm bảo lợi ích chính đáng của người sản xuất, trước hết là đối với người trồng lúa; Mở rộng dân chủ, đề cao pháp chế, xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa; Đổi mới về tổ chức và cán bộ phù hợp với cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý mới.

Tính ưu việt của Nghị quyết 10 là khẳng định hộ gia đình nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, được sản xuất, kinh doanh trên ruộng đất khoán trong thời gian dài, lợi ích của người lao động được quan tâm đúng mức. Điều đó đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, khai thác tiềm năng lao động, đất đai, đưa nền nông nghiệp từ tự cung, tự cấp ở nhiều vùng sang sản xuất hàng hóa, góp phần giải quyết nhu cầu cơ bản về lương thực, thực phẩm cho đời sống nhân dân.

Đến Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI), tháng 3-1989, cơ chế Khoán 10 tiếp tục được hoàn thiện. Với chủ trương thanh toán và khoán gọn đến hộ gia đình nông dân, Hội nghị đã làm rõ thêm tư tưởng đổi mới, thể hiện ở ba quan điểm lớn: 1- Mọi tổ chức sản xuất, kinh doanh do người lao động tự góp vốn, góp sức và được quản lý theo nguyên tắc dân chủ, không phân biệt quy mô, trình độ kỹ thuật, mức độ tập thể hóa là hợp tác xã; 2- Hợp tác xã và tập đoàn sản xuất là đơn vị kinh tế hợp tác với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất; 3- Gia đình xã viên trở thành những đơn vị kinh tế tự chủ, ngoài việc nhận khoán sử dụng ruộng đất, thực hiện các hình thức hợp đồng với hợp tác xã, còn chủ động phát triển sản xuất, kinh doanh dưới nhiều hình thức, khuyến khích xã viên làm giàu; đồng thời có chính sách, niện pháp cụ thể để giúp các hộ nghèo có thêm điều kiện vươn lên làm giàu.

Ba quyết định làm nên thành công của Khoán 10, đó là: Giao quyền sử dụng đất cho nông dân; tự do hóa thương mại, tạo điều kiện cho người nông dân kinh doanh tự do trên thị trường; chuyển hợp tác xã, cơ quan chịu trách nhiệm toàn bộ về tổ chức quản lý sản xuất sang làm dịch vụ cho nông dân.

So với chỉ thị 100, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã có một bước đột phá trong tư duy quản lý kinh tế khi lần đầu tiên thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ khi người nông dân được trao quyền sử dụng đất và mức khoán lâu dài.

Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12

Người nông dân phấn khởi sản xuất khi có Khoán 10 (Ảnh tư liệu)

Đây là đổi mới có tính bước ngoặt trong nhận thức về cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp của Đảng, phù hợp với đòi hỏi thực tiễn và nguyện vọng của người nông dân, trong đó, kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất chuyển sang làm chủ các khâu dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất, nhờ đó, mở ra thời kỳ phát triển mới cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn nước ta.

Khoán 10 cũng là tiền đề để quy định về giao ruộng đất ổn định, lâu dài cho nông dân được cụ thể hóa tại Luật Đất đai năm 1993. Từ năm 1993, ruộng đất được giao ổn định, lâu dài cho nông dân trong 20 năm, càng làm cho người nông dân phấn khởi, yên tâm sản xuất và tạo cơ sở cho những thành tựu nông nghiệp Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI.

Làn gió mới cho sản xuất nông nghiệp

Thực hiện khoán 10 cùng với sự đổi mới toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, đổi mới hoạt động kinh tế - xã hội ở nông thôn, chức năng kinh tế của hộ nông dân được xác lập trở lại. Hộ nông dân thực sự được làm chủ tư liệu sản xuất và quá trình sản xuất. Với những ưu việt, Nghị quyết 10 đã khơi dậy tiềm năng to lớn trong từng hộ gia đình nông dân. Từ chỗ không thiết tha đến ruộng đất, nông dân đã có ý thức chăm sóc, sử dụng đất đai hiệu quả hơn. Nhiều địa phương, các hộ nông dân còn bỏ công sức để khai phá các vùng đất hoang hóa, đưa vào sản xuất. Chỉ trong vòng 3 năm (1988-1990), tổng diện tích canh tác đã tăng 3,9%, khai hoang được 25,7 vạn ha, trồng rừng mới 32,6 vạn ha, diện tích mặt nước được sử dụng nuôi trồng thủy sản tăng 27,5%. Các hộ nông dân còn chủ động mua sắm thêm công cụ, máy móc để phát triển sản xuất. Đến năm 1990, số máy kéo của các hộ gia đình chiếm 35,9% số máy kéo lớn và gần 100% số máy kéo nhỏ. Đàn trâu, bò cả nước đã tăng từ 3 triệu con năm 1987 lên 3,2 triệu con năm 1990[1].

Về cơ cấu ngành nghề có sự thay đổi theo hướng tích cực, gồm: hộ thuần nông, hộ kiêm ngành nghề, hộ chuyên ngành nghề, hộ chuyên buôn bán. Một số hộ nông dân bước đầu vượt ra khỏi quỹ đạo của nền kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc đi vào sản xuất hàng hóa nông sản với mức độ và phương thức khác nhau. Số lượng các hộ nông dân sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển. Một số đã trở thành hộ sản xuất tư nhân các chủ trang trại có vốn lớn, có đầu óc sản xuất kinh doanh, một số đã mở rộng qui mô sản xuất và thuê thêm người làm, huy động thêm cổ phần. Đến nay, khắp các vùng miền, kinh tế trang trại của các hộ sản xuất tư nhân phát triển mạnh mẽ, tạo những thay đổi lớn đối với nông nghiệp, nông thôn, góp phần không nhỏ vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.

Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển biến tích cực, hiệu quả, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước nhằm khai thác tiềm năng của cả nước, của mỗi vùng, mỗi thành phần kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Cơ cấu cây trồng vật nuôi chuyển dần theo hướng nâng cao về chất lượng của thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu. Hinh thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung với quy mô lớn, đạt năng suất và hiệu quả cao[2].

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong nông nghiệp nông thôn từng bước được mở rộng, nâng cấp và phát triển. Đời sống nông dân và các tầng lớp khác ở nông thôn được cải thiện và không ngừng được nâng cao. Hầu hết các vùng nông thôn, nhà cửa của nhân dân được xây dựng mới khang trang, đường làng, ngõ xóm được trải nhựa hoặc bê tông hóa. Phần lớn các gia đình ở nông thôn đều có đầy đủ các phương tiện nghe nhìn, đi lại. Do đó, nông dân ở các vùng nông thôn có điều kiện tiếp cận với nền văn minh công nghiệp, nâng cao dân trí.

Khoán 10 đã giải phóng lực lượng sản xuất nông nghiệp, tạo cú hích mạnh cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam phát triển. Bên cạnh thành tựu về thủy lợi, cải tạo giống, thâm canh, tăng năng suất ở đồng bằng Bắc Bộ và mở rộng đất canh tác ở đồng bằng sông Cửu Long, nông nghiệp Việt Nam bước sang trang mới.

Sản lượng lúa tăng nhanh, từ 21,5 triệu tấn năm 1989 tăng lên 32,51 triệu tấn năm 2000. Trong những năm 200- 2002, sản lượng lúa  Việt Nam đạt trung bình 32,9 triệu tấn và tiếp tục tăng lên trong những năm sau đó. Năm 2012, Việt Nam sản xuất được 43,7 triệu tấn lúa.

Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12

Từ năm 1989 đến nay, Việt Nam luôn ở trong top những nước xuất khẩu gạo của thế giới

Từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 vẫn còn phải nhập khẩu trên 450.000 tấn gạo, nhưng từ năm 1989, Việt Nam không những bảo đảm nhu cầu lương thực trong nước mà còn dự trữ và xuất khẩu. Năm 1989, Việt Nam xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo, đứng hàng thứ hai trên thế giới. Năm 2006, sản lượng gạo xuất khẩu tăng lên 4,64 triệu tấn và đến năm 2012, xuất khẩu gạo đạt 7,7 triệu tấn, Việt Nam trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo.

Như vậy, với Nghị quyết 10, kinh tế hộ nông dân được xác lập, có điều kiện phát triển mạnh mẽ, tạo bước đột phá trong nông nghiệp, làm thay đổi bộ mặt nông thôn Việt Nam. Những thành tựu to lớn của nền nông nghiệp và những chuyển biến mạnh mẽ của nông thôn Việt Nam sau Nghị quyết 10 và hiện nay là minh chứng cho đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng, trong đó Nghị quyết 10 là một bước đột phá quan trọng trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp Việt Nam những năm cuối thế kỷ XX.

Hà Xuân

  • Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Sở hữu bí kíp ĐỖ ĐẠI HỌC ít nhất 24đ - Đặt chỗ ngay!
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Đọc sách & cùng chia sẻ cảm nhận về sách số 2

    Chào bạn mới. Bạn hãy đăng nhập và hỗ trợ thành viên môn học bạn học tốt. Cộng đồng sẽ hỗ trợ bạn CHÂN THÀNH khi bạn cần trợ giúp. Đừng chỉ nghĩ cho riêng mình. Hãy cho đi để cuộc sống này ý nghĩa hơn bạn nhé. Yêu thương!

    Công cuộc Đổi mới của nước ta đc manh nha từ 1979 và những đổi mới đầu tiên trong nông nghiệp là "khoán 100" và "khoán 10". Ai hiểu "khoán 100" và "khoán 10" là ji hok vậy?8->

    Câu hỏi này thuộc về các vấn đề lịch sử ( đc chuyển từ box địa THPT sang )

    __lupin__

    Last edited by a moderator: 26 Tháng tám 2008

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    HÃY ĐĂNG BÀI BẰNG SỰ CHÂN THÀNH

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn đăng câu hỏi kèm NHỮNG GÌ MÌNH ĐÃ LÀM ĐƯỢC, bạn sẽ nhận được những chia sẻ TẬN TÌNH
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn đăng câu hỏi chỉ kèm MỘT LỜI NHỜ VẢ, người khác sẽ trả lời một cách NGẮN GỌN
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn chỉ đăng câu hỏi và KHÔNG NÓI GÌ THÊM, người khác cũng sẽ CHẲNG CẦN PHẢI LÀM GÌ CẢ
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn thiếu ĐỘNG LỰC trong cuộc sống. Hãy xem bài viết NÀY


  • ban ơi cái đó là gì vậy mình học lịch sử nhiều rùi nhưng chưa nghe bao giờ bao giờ bạn giải thích nhớ giải thích kĩ nhe

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    HÃY ĐĂNG BÀI BẰNG SỰ CHÂN THÀNH

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn đăng câu hỏi kèm NHỮNG GÌ MÌNH ĐÃ LÀM ĐƯỢC, bạn sẽ nhận được những chia sẻ TẬN TÌNH
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn đăng câu hỏi chỉ kèm MỘT LỜI NHỜ VẢ, người khác sẽ trả lời một cách NGẮN GỌN
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn chỉ đăng câu hỏi và KHÔNG NÓI GÌ THÊM, người khác cũng sẽ CHẲNG CẦN PHẢI LÀM GÌ CẢ
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn thiếu ĐỘNG LỰC trong cuộc sống. Hãy xem bài viết NÀY


  • " Khoán 100 " và " khoán 10 " ở đây là cách gọi tắt của các nghị quyết số 100 và 10 của nhà nc, ban hành lần lượt vào các năm 1981 và 1988, nói về việc khoán các sản phẩm nông nghiệp cho ng nông dân

    Lúc bấy giờ ( 1979 ), nông dân hầu như bị bắt buộc phải tham gia các hợp tác xã nông nghiệp hoặc các tập đoàn sản xuất của nhà nc. Nếu ko tham gia thì trong hồ sơ sẽ có một câu dạng như " gia đình ko chấp hành đúng đường lối của Đảng và nhà nc ", và với một nhận xét như thế, thì các quyền lợi của các thành viên trong gia đình ko còn là bao nhiêu nữa. Do đó, nông dân hầu hết đều tham gia vào HTX hay TĐNG, nhưng ko năng suất, hiệu quả, đến giờ làm thì đi, hết giờ làm thì về ( hỏi các nhân chứng sống qua thời kỳ này thì rõ

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    )

    Trong hoàn cảnh đó, sự ra đời của nghị quyết 100 đã phản ánh đc sự đổ vỡ ko thể tránh khỏi của mô hình tập thể hoá nông nghiệp, sức lao động, tư liệu lao động của ng dân.

    Trong thời gian đầu, khoán 100 đã làm đổi mới bộ mặt nông thôn và tạo ra đc lượng nông sản lớn hơn ở thời kỳ trc. Tuy nhiên cũng chỉ đc một thời gian, sau đó nó bộc lộ một số vấn đề chưa giải quyết đc ( hệ thống quan liêu trong các HTX, tính mệnh lệnh hành chính về khoán, đè lên vai ng nhận khoán v.v. ). Đây là hoàn cảnh ra đời của khoán 10, kèm theo đó là đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp, từ đây chức năng kinh tế hộ gia đình dc xác lập trở lại

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    HÃY ĐĂNG BÀI BẰNG SỰ CHÂN THÀNH

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn đăng câu hỏi kèm NHỮNG GÌ MÌNH ĐÃ LÀM ĐƯỢC, bạn sẽ nhận được những chia sẻ TẬN TÌNH
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn đăng câu hỏi chỉ kèm MỘT LỜI NHỜ VẢ, người khác sẽ trả lời một cách NGẮN GỌN
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn chỉ đăng câu hỏi và KHÔNG NÓI GÌ THÊM, người khác cũng sẽ CHẲNG CẦN PHẢI LÀM GÌ CẢ
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn thiếu ĐỘNG LỰC trong cuộc sống. Hãy xem bài viết NÀY


  • "Good giải thích rất cặn kẽ và chính xác anh nói như người trong cuộc ý."

    Cảnh cáo: đây cũng là một hình thức "spam"! Nếu bạn muốn cho một lời khen, ấn vào nút cảm ơn bên dưới bài viết để động viên tinh thần người viết là đủ rồi. Những bài viết tương tự như trên sẽ được xóa và người viết bị khóa tài khoản từ 3 đến 7 ngày. (Bài này là cảnh cáo, vì xét thấy SieuGaBS1 mới gia nhập diễn đàn, có thể chưa rõ quy định.)

    Amaranth.[SG],

    Last edited by a moderator: 7 Tháng mười 2008

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    HÃY ĐĂNG BÀI BẰNG SỰ CHÂN THÀNH

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn đăng câu hỏi kèm NHỮNG GÌ MÌNH ĐÃ LÀM ĐƯỢC, bạn sẽ nhận được những chia sẻ TẬN TÌNH
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn đăng câu hỏi chỉ kèm MỘT LỜI NHỜ VẢ, người khác sẽ trả lời một cách NGẮN GỌN
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn chỉ đăng câu hỏi và KHÔNG NÓI GÌ THÊM, người khác cũng sẽ CHẲNG CẦN PHẢI LÀM GÌ CẢ
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn thiếu ĐỘNG LỰC trong cuộc sống. Hãy xem bài viết NÀY


  • sao ít vậy ,khoán 100 và 10 còn nhiều vấn đề nữ cơ

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    HÃY ĐĂNG BÀI BẰNG SỰ CHÂN THÀNH

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn đăng câu hỏi kèm NHỮNG GÌ MÌNH ĐÃ LÀM ĐƯỢC, bạn sẽ nhận được những chia sẻ TẬN TÌNH
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn đăng câu hỏi chỉ kèm MỘT LỜI NHỜ VẢ, người khác sẽ trả lời một cách NGẮN GỌN
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn chỉ đăng câu hỏi và KHÔNG NÓI GÌ THÊM, người khác cũng sẽ CHẲNG CẦN PHẢI LÀM GÌ CẢ
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn thiếu ĐỘNG LỰC trong cuộc sống. Hãy xem bài viết NÀY


  • Nói như vầy cho dễ hiểu: khoán 10 và khoán 100 là các văn bản của Đảng đề ra với mục đích đổi mới cách làm nông nghiệp hiệu quả hơn mà không vướng phải ràng buộc gì. Nói rõ hơn, hai văn bản này đã chuyển dần dần từ kinh tế tập thể sang kinh tế tư nhân (nông dân làm ăn chung => nông dân làm ăn riêng) - Chủ trương "khoán" trong nông nghiệp là kêu gọi nông dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp, làm việc để tính điểm; công sức lao động của xã viên được qui thành công, điểm (công là ngày công, còn điểm là 1/10 ngày công). Từ cấy hái, chăm bón đến họp hành đều tính thành công điểm mà người ghi điểm là cán bộ thôn, xã. Ngày công được tính cho mỗi lao động khi thực hiện một công việc theo tiêu chuẩn hợp tác xã đề ra. Cuối mỗi vụ đều dựa vào công điểm để chia hoa lợi. Đây chính là điểm sơ hở đẻ ra rất nhiều sâu mọt, quan tham ngay từ cơ sở - cái này gọi là "khoán việc" tồn tại ở các tỉnh miền Bắc hồi thập niên 60 của thế kỷ XX. Với cơ chế khoán việc, chỉ đạo của hợp tác xã, người nông dân không thiết tha với công việc của hợp tác xã, cha chung không ai khóc, làm việc chỉ vì công điểm, không vì chất lượng nên chỉ sau một thời gian ngắn, nông nghiệp bị giảm sút nghiêm trọng. Trong thời kì 1961-1965, diện tích trồng trọt của miền Bắc tuy đã tăng thêm khoảng 20 vạn hecta do khai hoang, nhưng năng suất lúa giảm chỉ còn 17-18 tạ/hecta. Năm 1961, mức bình quân lương thực đầu người là 24kg/tháng, đến năm 1965 giảm chỉ còn 14kg/tháng. Ở Vĩnh Phúc, tổng sản lượng qui ra thóc bị tụt 37.000 tấn, riêng lúa tụt 32.000 tấn so với năm 1965. Phần nghĩa vụ với nhà nước cũng giảm 22.000 tấn so với năm 1965.

    - "Khoán việc" thất bại, nhiều nơi tìm ra hình thức làm nông mới và họ tìm ra hình thức "khoán hộ" - đầu tiên là ở Vĩnh Phúc. Bí thư tỉnh là Kim Ngọc cho phép các hộ nông dân đầu tư vào mảnh đất 5% (thường được gọi là ruộng phần trăm), vì công lao chăm bón, cày cấy và thu hoạch trên mảnh ruộng này hoàn toàn thuộc về hộ gia đình, làm được bao nhiêu họ hưởng cả, vì thế mà họ ra sức chăm bón, cày cấy, quay vòng để nuôi gia đình. Tức là khi hộ nông dân được tự chủ, họ có thể toàn tâm, toàn ý, bỏ hết công sức để đạt được năng suất cao nhất có thể. Năm 1965: Vĩnh Phúc có 131 hợp tác xã (chiếm 9,4% tổng số hợp tác xã), đạt 5 tấn lúa/ha với ruộng hai vụ lúa. Năm 1967 có 348 hợp tác xã (chiếm 21,4%) đạt sản lượng này, gấp đôi so với năm 1965. Năm 1967, Vĩnh Phúc huy động thóc làm nghĩa vụ chỉ đạt 99,5% kế hoạch nhưng các loại nông sản khác lại vượt mức: hoa màu, rau xanh đứng thứ 3 toàn miền Bắc, thuốc lá thu mua vượt 14%, thịt bán cho nhà nước vượt 31,5%... Chủ trương của tỉnh Vĩnh Phúc về sau bị cho là "vượt rào" và bị “trái với đường lối hợp tác hoá nông nghiệp của Đảng”, phá vỡ nguyên tắc quản lý XHCN, phục hồi kinh tế cá thể…, vì vậy việc khoán hộ ở Vĩnh Phúc không được ủng hộ (trích Thông tri số 224-TT/TW ngày 12/12/1968 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về chấn chỉnh công tác ba khoán và quản lý ruộng đất của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở một số địa phương”)

    Mặc dù khoán hộ bị cấm, nhng để tránh nông dân sau này có thể bị đói kém thì một số nơi tiến hành "khoán chui", đầu tiên là ở Vĩnh Phúc, rồi Hải Phòng (1972), Hà Sơn Bình (1978), Thanh Hóa và Thái Bình. Ở Nam Bộ, khoán chui xuất hiện sớm nhất ở xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai (từ năm 1979), sau đó là thành phố Hồ Chí Minh, Hậu Giang, Tiền Giang và Hậu Giang. Trước hiệu quả của khoán chui, Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương Đảng (tháng 09/1979) ra Nghị quyết số 20 –NQ/TW ngày 20/09/1979 “Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách”, thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế, cho phép các hộ xã viên mượn đất sản xuất, ổn định nghĩa vụ lương thực, bãi bỏ việc phân phối định suất, thực hiện phân phối theo lao động, khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Tuy nhiên, quá trình đổi mới còn trải qua nhiều bước thăng trầm, quanh co và phức tạp. Tuy đã có sự đổi mới về nhận thức như trên, thấy được lợi ích rõ rệt của khoán chui nhưng một số cán bộ lãnh đạo lại cho rằng khoán chui chỉ là một bước lùi tạm thời, về lâu dài và căn bản vẫn phải là khoán việc mới là làm ăn tập thể, mới là xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, nhiều người mới gọi khoán chui là khoán lùi. Về sau, tháng 06/1980, huyện uỷ Đồ Sơn ra nghị quyết số 05 giao ruộng đến xã viên, ngày 27/06/1980, Thành uỷ Hải Phòng ra nghị quyết số 24, công khai chuyển 06 huyện ngoại thành sang khoán sản phẩm, bỏ khoán việc

    Trước sự tiến bộ và thành công của hình thức "khoán", ngày 13 tháng 1 năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp chính thức công nhận khoán sản phẩm. Chỉ thị này cho phép áp dụng chế độ khoán trong toàn bộ nền nông nghiệp cả nước. Chế độ khoán này thường được gọi tắt là Khoán sản phẩm, hay khoán 100. Khoán 100 có tác dụng phân chia lại chức nǎng kinh tế giữa tập thể và hộ gia đình cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và phân phối, mở đầu cho quá trình dân chủ hoá về mặt kinh tế, bằng việc gắn bó trở lại lao động với ruộng đất, mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân, tạo ra động lực kích thích phát triển sản xuất. Tuy vậy, khoán 100 cũng chỉ có tác dụng trong một thời gian, sau đó giảm dần vì cơ chế tập trung quan liêu vẫn còn được duy trì trong hợp tác xã, cũng như toàn bộ hệ thống tái sản xuất xã hội trong nông nghiệp.

    Trước đòi hỏi của cuộc sống, nhiều cấp uỷ đảng ở địa phương đã chủ động chuyển sang khoán gọn. Ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 10 NQ-TW về Đổi mới quản lý nông nghiệp, Khoán 10 ra đời. Khoán 10 thừa nhận “hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ”, thực hiện giao ruộng khoán cho hộ dài ngày (15-20 năm) đối với đất trồng cây ngắn ngày, 1 đến 2 chu kì đối với cây dài ngày, ổn định sản lượng khoán, bảo đảm cho người trồng lúa có lãi không dưới 40%. Hộ nông dân được tự quyết định việc canh tác trên diện tích được giao, chỉ có nghĩa vụ đóng thuế, được tự do lưu thông sản phẩm làm ra ở nơi có lợi nhất sau khi hoàn thành nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Từ đây, chức nǎng kinh tế của hộ nông dân được xác lập trở lại. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá VI) tháng 3-1989 và Đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục khẳng định hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất hàng hoá

    Tác dụng của cơ chế Khoán 10 cùng với những thành tựu về thủy lợi, cải tạo giống, thâm canh tăng năng suất ở đồng bằng Bắc Bộ và mở rộng diện tích đất canh tác ở đồng bằng sông Cửu Long đã đưa nền nông nghiệp Việt Nam sang trang sử mới. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, đến năm 1988 vẫn còn phải nhập khẩu hơn 450.000 tấn gạo, nhưng từ năm 1989, Việt Nam vừa bảo đảm nhu cầu lương thực trong nước, có dự trữ, vừa xuất khẩu gạo mỗi năm từ 1 đến 1,5 triệu tấn và tiến dần lên tới 4 đến 4,5 triệu tấn những năm sau đó, làm cho cả thế giới phải kinh ngạc.

    1. Thái Duy, Từ “khoán” đến hộ nông dân tự chủ, Đổi mới ở Việt Nam-nhớ lại và suy ngẫm, Nxb Tri thức, H.2008.


    2. Nguyễn Thị Hồng Mai –Tìm hiểu khoán hộ trong nông nghiệp ở Vĩnh Phúc trước đổi mới, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5, 2008

    Last edited by a moderator: 4 Tháng mười một 2018

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    HÃY ĐĂNG BÀI BẰNG SỰ CHÂN THÀNH

    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn đăng câu hỏi kèm NHỮNG GÌ MÌNH ĐÃ LÀM ĐƯỢC, bạn sẽ nhận được những chia sẻ TẬN TÌNH
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn đăng câu hỏi chỉ kèm MỘT LỜI NHỜ VẢ, người khác sẽ trả lời một cách NGẮN GỌN
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn chỉ đăng câu hỏi và KHÔNG NÓI GÌ THÊM, người khác cũng sẽ CHẲNG CẦN PHẢI LÀM GÌ CẢ
    Khoán 100 và khoán 10 là gì địa 12
    Nếu bạn thiếu ĐỘNG LỰC trong cuộc sống. Hãy xem bài viết NÀY