Lng khí hóa lỏng vn đang nhập từ đâu

Khí thiên nhiên hóa lỏng (Liquefied Natural Gas - LNG), có thành phần chủ yếu là CH4 - methane (chiếm khoảng 85 - 95%), trong suốt, không mùi và không màu, được sản xuất bằng cách làm lạnh sâu khí thiên nhiên ở nhiệt độ khoảng -162°C để chuyển sang thể lỏng. Khi chuyển sang trạng thái lỏng, thể tích của LNG giảm khoảng 600 lần so với trạng thái khí và có khối lượng riêng chỉ bằng ½ tỷ trọng của nước.

Thực tế đã chỉ ra rằng: LNG khi đốt cháy tạo ra ít hơn 40% lượng khí thải CO2 so với than đá và ít hơn 30% so với dầu mỏ. Đặc biệt, nhiên liệu này khi đốt cháy không thải ra muội, bụi và chỉ sinh ra một lượng không đáng kể khí SO2. Điều này khiến nó trở thành nhiên liệu hóa thạch sạch nhất.

Với lợi thế nêu trên, LNG chính là một “giải pháp môi trường” có khả năng thay thế các năng lượng truyền thống đang sử dụng trong nước (than, dầu FO, DO, xăng...) và bổ sung cho nguồn khí nội địa đang khai thác hiện đã bước vào giai đoạn suy giảm.

Có thể nói, LNG sẽ là nguồn năng lượng không thể thiếu đối với đất nước và sẽ sớm trở thành một thành phần quan trọng trong tăng trưởng năng lượng của quốc gia, hướng tới sản xuất xanh tại Việt Nam.

Việc nhập khẩu LNG được xác định là giải pháp quan trọng để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị đã khẳng định: “Ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ LNG”, đồng thời “Chú trọng phát triển nhanh nhiệt điện khí sử dụng LNG, đưa điện khí dần trở thành nguồn cung cấp điện năng quan trọng, hỗ trợ cho điều tiết hệ thống”.

Ngày 15/5/2023, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch điện VIII đặt ra mục tiêu bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với xu thế chuyển đổi xanh, giảm phát thải, phát triển khoa học công nghệ của thế giới.

Theo nhận định, Quy hoạch điện VIII chính là “bàn đạp” để Việt Nam có thể bứt phá thông qua việc đưa vào các dự án điện LNG, làm tiền đề thúc đẩy hoạt động đầu tư và nhập khẩu loại nhiên liệu này vào Việt Nam, phục vụ cho sự phát triển của đất nước trong bối cảnh sản lượng khí nội địa suy giảm, sự không chắc chắn về tính thời vụ của thủy điện, sự thiếu ổn định của năng lượng tái tạo và lo ngại ngày càng tăng về tính bền vững của sản xuất nhiệt điện than, dầu.

Lng khí hóa lỏng vn đang nhập từ đâu
Hình ảnh Kho cảng LNG - Kho cảng PV GAS Vũng Tàu là biểu tượng cho nỗ lực của PV GAS giữ vững vị thế tiên phong trong ngành công nghiệp khí Việt Nam.

PV GAS đã sẵn sàng nhập khẩu LNG cho thị trường Việt Nam:

PV GAS - đơn vị thành viên của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), với các hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp khí, trải dài từ khâu tồn trữ, vận chuyển, nhập khẩu đến phân phối các sản phẩm khí, bao gồm khí khô (Natural Gas - NG), khí dầu mỏ hóa lỏng (Liquefield Petroleum Gas - LPG), khí nén (Compressed Natural Gas - CNG) và LNG.

Với sứ mệnh mang nguồn năng lượng sạch từ thiên nhiên phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội, PV GAS tiếp tục đi tiên phong trong lĩnh vực LNG với định hướng: Giữ vững vị trí là doanh nghiệp hàng đầu trong đầu tư và nhập khẩu khí, LNG cho sản xuất điện, cũng như các hộ tiêu thụ khác, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và hiện thực hóa những khát vọng về một lộ trình “chuyển đổi xanh”, phù hợp với những cam kết của Việt Nam tại COP26.

Hiện nay, PV GAS đã hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng, sẵn sàng cho công tác xuất, nhập khẩu và kinh doanh LNG với dự án Kho cảng LNG Thị Vải (tại Bà Rịa - Vũng Tàu) sẵn sàng đưa vào sử dụng từ tháng 7/2023. Kho cảng LNG Thị Vải sẽ là mắt xích quan trọng trong việc cung cấp khí tái hóa, cùng với việc đầu tư Kho cảng nhập khẩu LNG Sơn Mỹ với tổng công suất dự kiến khi hoàn thành lên đến 10 triệu tấn LNG/năm mà PV GAS là đồng chủ sở hữu với tỷ lệ góp vốn chiếm đa số. Cơ sở hạ tầng về LNG của PV GAS sẽ cơ bản đáp ứng nhu cầu năng lượng cho khu vực Nam bộ trong tương lai.

Kho LNG Thị Vải sẽ là kho LNG đầu tiên và có quy mô lớn nhất Việt Nam hiện nay, có công suất của giai đoạn đầu là 1 triệu tấn/năm, sau đó mở rộng lên 3 - 6 triệu tấn/năm. Kho cảng này có khả năng tiếp nhận được tàu LNG trọng tải lên đến 100.000 tấn, với các hạng mục chính của giai đoạn 1 gồm bồn chứa LNG có sức chứa 180.000 m3 và các thiết bị công nghệ được thiết kế theo các phiên bản mới nhất đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam và quốc tế.

Việc nhập khẩu, kinh doanh LNG trong năm 2023 sẽ là khởi đầu mới nhiều triển vọng và xác lập vị trí quan trọng trong quá trình chuyển dịch dài hạn sang điện khí LNG, đánh dấu một bước phát triển mới của đơn vị chủ đạo của ngành công nghiệp khí Việt Nam, khẳng định vai trò tiên phong của PV GAS, cũng như PVN trong việc thực hiện các chủ trương, chiến lược quốc gia về an ninh năng lượng./.

Gần đây, ở nước ta, chứng kiến một làn sóng các nhà đầu tư quan tâm đặc biệt đến các dự án điện khí tự nhiên hoá lỏng (LNG). Hàng loạt địa phương từng thận trọng từ chối điện than, đã rất hào hứng với điện khí LNG như: Long An, Hà Tĩnh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Nam,... Nhiều dự án điện khí khác cũng được xúc tiến.

Đáng chú ý, tổng mức đầu tư của các dự án điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) lên tới nhiều nghìn tỷ đồng. Chẳng hạn, dự án tại tỉnh Bình Thuận có mức đầu tư lên tới 93 nghìn tỷ đồng; dự án LNG tương tự ở Quảng Ninh cũng có số tiền đầu tư hơn 41 nghìn tỷ đồng,…

Ưu tiên số 1 vẫn là năng lượng tái tạo

Theo Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, Việt Nam cần có đủ năng lực nhập khẩu khoảng 8 tỷ mét khối khí LNG, đồng thời giảm 18 GW điện than vào năm 2030. Quy hoạch điện 8 cũng đã thay thế công suất điện than bằng khoảng 14GW điện LNG. Theo tính toán mới đây của Bộ Công Thương, đến năm 2030, điện khí LNG sẽ đạt tỷ trọng 16,4% trong tổng công suất của tất cả các nhà máy điện ở Việt Nam.

Mới đây, tại Hội nghị COP26, Việt Nam cam kết trước thế giới về việc sẽ tiến tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Do đó, việc nâng cao "tỷ trọng" sản xuất điện với lượng phát thải càng ít càng tốt, tăng cường sản xuất điện bằng năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời,... sẽ là một xu hướng tất yếu.

.png)

Điện mặt trời được nhân loại tiến bộ nhiệt liệt ủng hộ. (Ảnh: Shutterstock / Soonthorn Wongsaita / WWF)

Từ thực tế, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam sẽ nhanh chóng nổi lên là một trong những thị trường nhập khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) có tiềm năng bậc nhất châu Á.

Tuy nhiên, không ít ý kiến cũng tỏ ra băn khoăn về những thách thức của cá dự án điện khí LNG kể trên, nhất là khi Khối cường quốc công nghiệp G7 (gồm Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Canada, Ý) mới đây đã cam kết tăng tốc loại bỏ nhiên liệu hóa thạch trong sản xuất điện.

"Không dễ để điện khí LNG tạo ra bước nhảy vọt mạnh mẽ như đã từng diễn ra trong lĩnh vực điện mặt trời thời gian vừa qua", đó là thông điệp trong báo cáo mới đây của Viện Kinh tế Năng lượng và Phân tích Tài chính (IEEFA) đã đưa ra. Báo cáo cũng chỉ rõ: "Trên thế giới, các chuyên gia đều đồng thuận rằng, chi phí biên của điện mặt trời, điện gió và các giải pháp pin tích trữ sẽ ngày càng giảm trong dài hạn; trong khi, điều này không thể xảy ra với LNG và nhiệt điện khí LNG".

Điều trên gần như đồng nghĩa với việc giá bán điện từ "lò" sản xuất điện khí LNG sẽ cao. Liệu các đơn vị "mua" có chấp nhận "bao tiêu" hoặc "trợ giá" hay không? Vừa qua khi thẩm định một số dự án điện khí, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng chỉ rõ, giá bán điện khí khá cao so với mức bình quân giá điện ở Việt Nam, không khéo các chủ đầu tư sẽ lỗ lớn. Trong khi đó, cơ chế "bao tiêu" một phần hay tất cả sản lượng điện từ nhà máy điện khí LNG lại chưa thật sự rõ ràng, thậm chí không có nhiều hứa hẹn.

Chưa kể, việc xây dựng hạ tầng cảng biển để nhập khẩu khí LNG hết sức tốn kém, lại thêm biến động của tình hình thế giới sẽ khiến cho các đơn vị nhập khí LNG bị lệ thuộc vào nguồn cung bấp bênh. Thậm chí, họ có thể ép giá trong những tình huống nào đó.

Trao đổi với chúng tôi, Tiến sỹ Nguyễn Linh Đan, Trường ĐH Bách Khoa, Hà Nội cho biết: "LNG hiển nhiên là đắt đỏ, nhất là khi mà chúng ta chưa có hạ tầng sẵn khi so sánh với việc sản xuất điện bằng các phương pháp khác như điện gió, điện mặt trời, thủy điện… Đấy là chưa kể, giá điện lại không tăng kịp với mức đầu tư (của điện khí LNG). Nhiều đơn vị còn đang loay hoay với năng lượng tái tạo, thì các dự án LNG khả năng còn "tồn đọng" lâu. Bên cạnh đó, khí LNG về bản chất vẫn là nguyên liệu hóa thạch (vẫn phát thải) và tài nguyên hóa thạch này vẫn cạn kiệt như thường. Giá bán khí LNG cao, và quan trọng hơn là tính khan hiếm của nhiên liệu này, đấy là chưa kể đôi khi họ còn bị "lũng đoạn" thị trường".

Điện khí LNG vẫn là một nguồn phát thải khí nhà kính

Chuyên gia năng lượng Ngô Thị Tố Nhiên, Giám đốc Điều hành Sáng kiến Chuyển đổi Năng lượng Việt Nam nêu quan điểm, phải xem xét việc sử dụng điện khí LNG ảnh hưởng tới khả năng thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam ta về ứng phó với biến đổi khí hậu, về đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 ra sao. Bởi điện khí LNG vẫn là một nguồn phát thải khí nhà kính.

"Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa nhập khẩu LNG nên không bị ảnh hưởng trực tiếp từ việc giá LNG tăng cao đột biến trong năm 2022. Tuy vậy, biến động giá nhiên liệu trên thị trường quốc tế có tác động gián tiếp đến việc phát triển các dự án LNG tại Việt Nam. Để đối mặt với khủng hoảng thiếu khí đốt, các nước châu Âu đã tăng cường nhập khẩu khí LNG từ nhiều nguồn, đẩy giá khí tăng đến mức kỷ lục. Điều này đã khiến một số nhà cung cấp LNG phá vỡ hợp đồng dài hạn đã ký để bán khí sang châu Âu (như trong trường hợp của Srilanka hay Pakistan)… Nhìn chung các quốc gia có thu nhập trung bình sẽ khó cạnh tranh nổi", bà Ngô Thị Tố Nhiên nhấn mạnh.

.png)

Dù thế nào thì điện khí vẫn sử dụng nguyên liệu hóa thạch và gây hại cho môi trường. (Ảnh: WWF / James Morgan)

Cũng theo vị này, khủng hoảng cũng khiến câu chuyện đảm bảo an ninh năng lượng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Phát triển các dự án nhà máy điện chạy bằng LNG đồng nghĩa với việc tăng mức độ phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu nhập khẩu; và theo đó, thị trường nội địa phải đủ linh hoạt để đáp ứng theo sự biến động về giá trên thị trường năng lượng quốc tế. Các nước châu Âu đã phải đối mặt với điều này với các hậu quả của nó đến kinh tế xã hội như giá điện tăng cao kỷ lục kéo theo lạm phát trầm trọng trong năm vừa qua. Do vậy, khi xem xét đến vấn đề phát triển LNG ở Việt Nam cần đặc biệt cân nhắc đến các yếu tố để có thể tránh rủi ro...".

Xu hướng của thế giới là tiến tới loại bỏ hoàn toàn các hình thức sản xuất điện bằng nhiên liệu hóa thạch. Xu hướng đã có, lộ trình đã có (Nghị quyết của Bộ Chính trị, cam kết của Việt Nam trước quốc tế về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050), nhiệm vụ của chúng ta là thực thi nhiệm vụ, bằng tất cả mọi nỗ lực, để vừa có được an ninh năng lượng, vừa có được phương pháp phát điện "sạch" nhất cho môi trường. Với sự phát triển của công nghệ, sản xuất điện từ năng lượng tái tạo như gió, mặt trời… đang là con đường được nhân loại tiến bộ đón chào nhất.

Bằng chứng thuyết phục nhất cho điều này là: Ngày 15 tháng 5 năm 2023, Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 500/QĐ-TTg, về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII). Theo đó, mục tiêu phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện. Định hướng đến năm 2050, tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5 - 71,5%. Kiểm soát mức phát thải khí nhà kính từ sản xuất điện đạt khoảng 204 - 254 triệu tấn năm 2030 và còn khoảng 27 - 31 triệu tấn vào năm 2050. Xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, đủ khả năng tích hợp, vận hành an toàn, hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo quy mô lớn.

Phát triểnnăng lượng tái tạo có thể là một trong những giải pháp thay thế quan trọng giúp Việt Nam đạt Net Zero vào năm 2050. Một số tổ chức đã và đang nghiên cứu lộ trình hướng tới sử dụng năng lượng tái tạo 100%, ví dụ WWF (Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên) gần đây đã công bố kịch bản hướng tới 100% năng lượng tái tạo cho Việt Nam vào năm 2050.

Việt Nam nhập khẩu khí LNG từ đầu?

Với khối lượng gần 70.000 tấn LNG được nhập từ cảng Bontang (Indonesia), tàu Maran Gas Achilles cập cầu cảng PV GAS để cung cấp toàn bộ lượng LNG cho quá trình chạy thử và vận hành chính thức kho LNG Thị Vải.

Khí LNG lấy từ đâu?

Khí LNG tồn tại ở trạng thái lỏng Người ta sẽ khai thác khí thiên nhiên từ các mỏ khí ở biển khơi. Sau đó, lượng khí này sẽ được đưa vào đất liền bằng phương pháp chuyên dụng và được làm lạnh bằng hệ thống xử lý khí chuyên biệt.

Nhập khẩu LNG là gì?

LNG (Liquefied Natural Gas) là khí thiên nhiên được hóa lỏng khi làm lạnh sâu đến âm 162oC sau khi đã loại bỏ các tạp chất.

Khó càng LNG là gì?

Kho chứa LNG (LNG Receiving Terminal) là nơi tiếp nhận LNG bằng đường thủy hoặc đường bộ hoặc đường sắt. Tại đây, LNG được tiếp nhận, tồn chứa trong các bể chứa, có thể được hóa khí, vận chuyển bởi hệ thống phân phối khí tới các hộ tiêu thụ khí. Kho chứa LNG có thể có hoặc không có hệ thống hóa khí.