Lợi ích và tác hại của đô thị hóa năm 2024

Cùng với đô thị hóa, từ năm 2001 đến nay, quá trình dịch chuyển cơ cấu lao động diễn ra khá nhanh nhưng vẫn chưa tương thích và đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Năm 2007, giá trị nông nghiệp trong GDP đã giảm xuống còn 19,6% trong khi tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn còn ở mức cao 52,8%. Nghịch lý này phản ánh thực tế là công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn chưa đủ sức tạo việc làm mới để thu hút lao động nông nghiệp. Ngoài một bộ phận không nhiều được tuyển vào các doanh nghiệp trên địa bàn, phần đông lao động vẫn ùn đọng trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, đô thị hóa tất yếu dẫn đến sự dịch chuyển dân cư. Ở một số vùng nông thôn, điển hình như khu vực Đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long xuất hiện dòng chuyển cư về thành thị, chủ yếu là về các đô thị lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Tình trạng tăng vọt dân số cơ học ở các thành phố lớn làm đậm thêm sự mất cân đối trong phân bố dân cư lao động trên phạm vi toàn quốc, khiến các thành phố lớn phải gánh chịu áp lực quá tải rất nặng nề về dân số, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Bên cạnh đó, sự phân bố các khu đô thị còn phân tán, không đồng đều giữa các vùng miền. Cho đến nay, nhịp điệu đô thị hóa sôi động chủ yếu diễn ra ở ngoại vi các thành phố lớn và các vùng phụ cận, đặc biệt là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Chính "căn bệnh to đầu" này đã làm chậm tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trên phạm vi toàn quốc hạn chế việc phân bổ, phát huy các nguồn lực quốc gia. Ở từng địa phương, hạn chế phổ biến trong xây dựng, quy hoạch là thiếu tầm nhìn xa và tổng thể.

Hệ lụy về môi trường Quá trình đô thị hóa là tất yếu nhưng nếu không được kiểm soát tốt sẽ tạo ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển kinh tế - xã hội và môi trường của đất nước, thể hiện ở việc tài nguyên đất bị khai thác triệt để, diện tích cây xanh và mặt nước giảm, ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng... Ô nhiễm bụi là vấn đề nổi cộm của các đô thị. Chỉ số về bụi PM10 (hạt bụi có kích thước nhỏ hơn 10mm) ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng... đều vượt ngưỡng khuyến nghị của WHO. Bụi lơ lửng rất đáng lo ngại, kết quả quan trắc tại các tuyến giao thông ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh… cho thấy, khoảng 60% vượt chuẩn, trong đó 25% vượt gấp 2 lần. Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường nước đô thị cũng rất đáng báo động. Các kết quả nghiên cứu mới nhất cũng cho thấy, tại các đô thị lớn, nguồn nước ngầm đang có dấu hiệu cạn kiệt, ô nhiễm, nhiễm mặn. Mực nước của các tầng chứa nước giảm liên tục. Nước thải đô thị chưa qua xử lý đổ ra các sông là nguồn phát thải gây ô nhiễm nghiêm trọng. Ngày càng có nhiều mương ao, hồ nội đô trở thành nơi chứa nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt, đặc biệt là ở Hà Nội.

PGS, TS Hà Huy Thành, Viện Nghiên cứu môi trường và phát triển bền vững cho biết, các khu đô thị tuy chỉ chiếm 28,5% dân số của cả nước nhưng có đến hơn 6 triệu tấn chất thải mỗi năm (gần bằng 50% tổng lượng chất thải của cả nước). Nguyên nhân chính là do dân số tập trung cao, nhu cầu tiêu dùng lớn, hoạt động thương mại đa dạng trong điều kiện chưa có hoặc có nhưng chưa thực hiện chiến lược về vấn đề này.

Theo dự báo của Bộ Xây dựng, tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam vào năm 2020 sẽ đạt khoảng 40%, số dân cư sinh sống tại đô thị khoảng hơn 45 triệu. Với tốc độ phát triển và dân số đô thị như vậy, Việt Nam sẽ phải đối mặt với ngày càng nhiều vấn đề phức tạp phát sinh từ quá trình đô thị hóa, đặc biệt là vấn đề môi trường... Chính vì vậy, theo TS Đào Hoàng Tuấn, một số giải pháp bảo vệ môi trường của các đô thị nhằm phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020 là xây dựng một chính sách dân số đặc thù cho từng đô thị, hạn chế quá trình di dân tự do; xây dựng quy chế bảo vệ môi trường đô thị cụ thể theo đặc thù của địa phương. Ông cho rằng, công tác quy hoạch đô thị phải đổi mới và nâng cao chất lượng theo hướng gắn liền với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội có tầm nhìn dài hạn.

Các nước phát triển (như tại Châu Âu, Hoa Kỳ hay Úc) thường có mức độ đô thị hóa cao (trên 87%) hơn nhiều so với các nước đang phát triển (như Việt Nam) (khoảng ~35%). Đô thị các nước phát triển phần lớn đã ổn định nên tốc độ đô thị hóa thấp hơn nhiều so với trường hợp các nước đang phát triển.

Sự tăng trưởng của đô thị được tính trên cơ sở sự gia tăng của đô thị so với kích thước (về dân số và diện tích) ban đầu của đô thị. Do đó, sự tăng trưởng của đô thị khác tốc độ đô thị hóa (vốn là chỉ số chỉ sự gia tăng theo các giai đoạn thời gian xác định như 1 năm hay 5 năm).

Đới nóng là nơi có tốc độ đô thị hóa cao trên thế giới.

Tỉ lệ dân đô thị ngày càng tăng và các siêu đô thị ngày càng nhiều.

Các quá trình[sửa | sửa mã nguồn]

Theo khái niệm của ngành địa lý, đô thị hóa đồng nghĩa với sự gia tăng không gian hoặc mật độ dân cư hoặc thương mại hoặc các hoạt động khác trong khu vực theo thời gian. Các quá trình đô thị hóa có thể bao gồm:

  • Sự mở rộng tự nhiên của dân cư hiện có. Thông thường quá trình này không phải là tác nhân mạnh vì mức độ tăng trưởng dân cư tự nhiên của thành phố thường thấp hơn nông thôn.
  • Sự chuyển dịch dân cư từ nông thôn ra thành thị hoặc như là sự nhập cư đến đô thị.
  • Sự kết hợp của các yếu tố trên.
  • Ngoài ra còn có sự ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. (Do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao dẫn tới sự mở rộng các khu công nghiệp mới, khu đô thị mới).

Tác động[sửa | sửa mã nguồn]

Đô thị hóa có các tác động không nhỏ đến sinh thái và kinh tế khu vực. Đô thị học sinh thái cũng quan sát thấy dưới tác động đô thị hóa, tâm lý và lối sống của người dân thay đổi. Sự gia tăng quá mức của không gian đô thị so với thông thường được gọi là "sự bành trướng đô thị" (urban sprawl), thông thường để chỉ những khu đô thị rộng lớn mật độ thấp phát triển xung quanh thậm chí vượt ngoài ranh giới đô thị. Những người chống đối xu thế đô thị hóa cho rằng nó làm gia tăng khoảng cách giao thông, tăng chi phí đầu tư các cơ sở hạ tầng kỹ thuật và có tác động xấu đến sự phân hóa xã hội do cư dân ngoại ô sẽ không quan tâm đến các khó khăn của khu vực trong đô thị.

Ảnh hưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Đô thị hóa làm ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đến số lượng, chất lượng dân số đô thị. Quá trình này còn làm thay đổi nhu cầu sử dụng đất đô thị và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của vùng và quốc gia.

Tích cực[sửa | sửa mã nguồn]

Đô thị hóa góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, thay đổi sự phân bố dân cư. Các đô thị không chỉ là nơi tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động mà còn là nơi tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa dạng, là nơi sử dụng lực lượng lao động có chất lượng cao, cơ sở kĩ thuật hạ tầng cơ sở hiện đại có sức hút đầu tư mạnh trong nước và nước ngoài.

Tiêu cực[sửa | sửa mã nguồn]

Đô thị hóa làm sản xuất ở nông thôn bị đình trệ do lao động chuyển đến thành phố. Thành thị phải chịu áp lực thất nghiệp, quá tải cho cơ sở hạ tầng, ô nhiễm môi trường sống, an ninh xã hội không đảm bảo, các tệ nạn xã hội ví dụ như thiếu việc làm sẽ nảy sinh ra nhiều vấn đề như nghèo đói lạc hậu, mù chữ; tệ nạn như trộm cắp, ô nhiễm môi trường, phân chia giàu nghèo...

Đô Thị Hoá tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Tỉ lệ đô thị hoá cả nước năm 2023 là 40%. Danh sách 10 tỉnh thành đô thị hoá cao nhất cả nước: 1. Đà Nẵng: 87,45%. 2. Bình Dương: 84,32%. 3. Thành phố Hồ Chí Minh: 77,77%. 4. Cần Thơ: 70,50%. 5. Quảng Ninh: 67,50%. 6. Bà Rịa - Vũng Tàu: 66,96%. 7. Thừa Thiên Huế: 52,81%. 8. Bắc Ninh: 51,32%. 9. Hà Nội: 49,05%. 10. Hải Phòng: 45,58%.

Đô thị hóa có những lợi ích gì?

Vậy ảnh hưởng tích cực của đô thị hóa là gì?.

Thúc đẩy phát triển nền kinh tế.

Thay đổi về phân bổ cư dân, mật độ cư dân được dàn đều tại các vùng..

Tạo thêm nhiều cơ hội việc làm và nguồn thu mới..

Tạo ra thị trường tiêu thụ và sản xuất đa dạng..

Thu hút nguồn lao động có tay nghề.

Hoàn thiện cơ sở hạ tầng hiện đại..

Quá trình đô thị hóa gây ra hệ quả tiêu cực gì?

Bên cạnh các mặt tích cực, quá trình đô thị hóa cũng có một số ảnh hưởng tiêu cực như: Đô thị hóa diễn ra tự phát, không có quy hoạch dẫn đến một số đô thị thiếu hạ tầng kỹ thuật và xã hội, cảnh quan đô thị suy thoái, ô nhiễm môi trường trầm trọng.

Khái niệm đô thị hóa là gì?

Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực. Ta cũng có thể tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian.

Lối sống thành thị là như thế nào?

Lối sống đô thị là khái niệm dùng để chỉ các khuôn mẫu hành vi, ứng xử của các cá nhân, các nhóm xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện sống, tình huống cụ thể diễn ra ở đô thị. Các khuôn mẫu ứng xử đặc trưng cho mỗi nhóm xã hội như vậy, không phải là cái gì khác mà chính là một yếu tố của văn hóa.