Người việt nam tiêu thụ bao nhiêu kg cà phê

Nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới ngày càng nhiều và tăng lên nhanh chóng. Cà phê là loại đồ uống phổ biến cho mọi tầng lớp, và nhu cầu sử dung nó càng ngày càng lấn át hai loại đồ uống truyền thống là chè và ca cao. Theo khảo sát gần đây nhất, bình quân lượng cà phê tiêu thụ của Việt Nam là 2 kg/người/năm, còn thấp hơn nhiều so với các nước như: Mỹ 4,2 kg/người/năm, Brazil 5,8 kg/người/năm, Phần Lan 12 kg/người/năm.

  • Theo Hiệp hội Cà phê thế giới, tiêu dùng nội địa của cà phê Việt Nam hiện chỉ đạt gần 3,6% – thấp nhất trong số các nước sản xuất cà phê. Mức chênh lệch này càng “khập khiễng” nếu so với sản lượng tiêu dùng cà phê nội địa của các nước thành viên khác là 25,16%.
  • Thị trường cà phê Việt Nam được chia thành 2 phân khúc rõ ràng. Cà phê rang xay (cà phê phin) chiếm khoảng 2/3 lượng cà phê được tiêu thụ; còn lại là cà phê hòa tan. Người Việt Nam chủ yếu sử dụng loại cà phê Robusta. Theo nghiên cứu của Học viện Marketing Ứng dụng I.A về thói quen sử dụng cà phê, 65% người tiêu dùng có sử dụng cà phê Việt Nam uống cà phê 7 lần/tuần, nghiêng về nam giới (59%). Riêng cà phê hòa tan có 21% người tiêu dùng sử dụng cà phê hòa tan từ 3 đến 4 lần trong tuần, nghiêng về nhóm người tiêu dùng là nữ (52%).
  • Theo số liệu thu thập được từ 1 cuộc khảo sát, tỷ lệ người Việt Nam dùng cà phê nóng và lạnh theo giới tính thì có đến 75% đàn ông thích uống nóng, 65% chọn cafe đá. Ở phụ nữ, thì tỷ lệ lần lượt là 25% và 35%. Từ đó, có thể thấy rằng đàn ông tiêu thụ nhiều hơn phụ nữ.
  • Còn theo nhóm tuổi thì nhóm tuổi 19-29 chỉ có 10% uống nóng và 40% uống cà phê đá quá 3 lần/tuần. Nhóm tuổi 30-49 có 50% uống nóng và 15% uống đá nhiều hơn 3 lần/tuần. Độ tuổi sử dụng khá rộng điều này cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ người Việt Nam dùng cà phê.
  • Có 90% uống cafe cùng bữa ăn sáng, 50% uống trước khi ăn sáng, 10% uống sau khi ăn sáng, 10% uống sau khi chơi thể thao, 10% uống trước khi ngủ, 90% uống ngay khi thức dậy. Với nhiều thời điểm để dùng cafe như thể nên đã góp phần làm cho tỷ lệ người Việt Nam dùng cà phê ngày càng cao.
  • Tiêu thụ cà phê đầu người tăng dần từ nhóm có thu nhập thấp nhất đến nhóm có thu nhập cao nhất, phần nào thể hiện, cà phê là loại hàng hoá thông thường so với thu nhập của phần đông dân số. Cà phê được tiêu thụ phổ biến ở thành thị. Mức tiêu thụ bình quân của người thành thị cao gần gấp 2 lần so với nông thôn. Điều này được coi là hiện tượng dễ hiểu, khi thu nhập tại thành thị luôn có xu hướng cao hơn nhiều lần so với thu nhập tại các vùng nông thôn Việt Nam.
  • Cuộc sống ngày càng bận rộn và thời gian làm việc dài hơn có thể củng cố sự đánh giá cao về sự tiện lợi của loại sản phẩm này, điều này sẽ khiến nhiều người tiêu dùng chuyển từ cà phê mới xay hoặc cà phê hòa tan tiêu chuẩn sang cà phê hòa tan. Hơn nữa, danh mục này cũng sẽ được hưởng lợi khi các nhà sản xuất tiếp tục giới thiệu các sản phẩm có hương vị mạnh mẽ hơn, phù hợp với sở thích truyền thống của người tiêu dùng Việt Nam. Số lượng quán cà phê và văn hóa cà phê ngày càng tăng tại Việt Nam. Vào năm 2020, có 1 chuỗi cửa hàng cà phê tại Việt Nam. Người dân địa phương ngày càng quan tâm đến việc tiêu thụ cà phê do thay đổi lối sống đang rất có lợi cho thị trường.
  • Trái với lo ngại về mức tiêu thụ cà phê toàn cầu sẽ giảm do giãn cách xã hội, các hãng chế biến cà phê hòa tan như Nestlé (Thụy Sỹ), Folgers và Dunkin (Mỹ), đều cho biết, doanh số bán cà phê hòa tan trong năm 2020 tăng rất tốt. Nhu cầu tiêu thụ cà phê hòa tan tại nhà tăng đột biết do giãn cách xã hội
  • Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 chính phủ phải thực hiện biện pháp giãn cách xã hội, làm giảm khả năng thưởng thức cà phê tại các cửa hàng cà phê.Nên phần lớn người tiêu dùng cà phê đang mua cà phê qua các kênh giao hàng trực tuyến. Thị trường cà phê pha sẵn toàn cầu được phân khúc theo kiểu đóng gói chai, lon và các loại bao bì khác. Theo loại sản phẩm thành cà phê pha lạnh và cà phê pha sẵn khác. Một số lượng lớn người tiêu dùng đang đặt hàng trực tuyến cà phê, làm tăng nhu cầu tiêu thụ cà phê tại nhà hoặc ngày càng tăng mua cà phê pha sẵn.
  • Sản lượng
  • Năm 2018, Cà phê nằm trong danh sách 5 mặt hàng có giá trị xuất khẩu đạt trên 3 tỉ USD trong năm 2018 xuất khẩu cà phê của nước ta đạt 1,882 triệu tấn tương đương 31,37 triệu bao loại 60kg, trị giá 3,5 tỉ USD, tăng trên 20% về lượng nhưng chỉ tăng nhẹ 1,2% về trị giá so với năm 2017 do chịu tác động bởi cuộc khủng hoảng giá, theo Tổng cục Thống kê cho biết. Giá trị xuất khẩu cà phê, nước sản xuất cà phê Robusta lớn nhất thế giới, sẽ tăng 1,2% lên 3,54 tỷ USD trong năm 2018.
  • Trong 11 tháng năm 2018, xuất khẩu cà phê Robusta đạt 1,47 triệu tấn, trị giá 2,541 tỷ USD, tăng 31,6% về lượng và tăng 8,1% về trị giá so với 11 tháng năm
  • Giá xuất khẩu bình quân cà phê Robusta 11 tháng năm 2018 đạt mức 1 USD/kg, giảm 17,8%. Trong khi đó, giá xuất khẩu bình quân cà phê hòa tan đạt 5 USD/tấn, tăng 3,2% so với 11 tháng năm 2017.
  • Về thị trường xuất khẩu trong tháng 11/2018, xuất khẩu cà phê sang nhiều thị trường tăng cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2017 như: Đức, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ, Anh, Philippin, Nga, Angiêri. Điều đáng chú ý, xuất khẩu cà phê sang Nga trong 11 tháng tăng trưởng 3 con số với mức tăng 108% về lượng, đạt 82,5 nghìn tấn trong 10 tháng năm 2018. Đối với thị trường Đức trong 11 tháng
  • Cục Xuất nhập khẩu cho biết hiện các sản phẩm cà phê của Việt Nam xuất khẩu đến hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm 14,2% thị phần xuất khẩu cà phê toàn cầu, đứng ở vị trí thứ hai sau Brazil.
  • Hiện nay, sản phẩm cà phê qua chế biến của Việt Nam đang từng bước thâm nhập vào thị trường Mỹ. Theo ghi nhận của VTV tại một số siêu thị lớn tại bang California, Cà phê Việt Nam trên kệ có nhiều loại Espresso hòa tan đến cà phê "3 trong 1" mà người châu Á ưa chuộng, hay cà phê pha phin dành cho những người gốc Việt.
  • Tại Hàn Quốc, Việt Nam là nguồn cung cà phê lớn thứ hai của nước này sau Brazil. Cục Xuất nhập khẩu cho hay, dù chênh lệch về lượng so với đối thủ cạnh tranh lớn nhất Brazil là không đáng kể, nhưng trong 10 tháng năm 2018, nhập khẩu cà phê từ Việt Nam giảm 14,3% về lượng và giảm 23% về trị giá.
  • Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê robusta tháng 11/2019 đạt 94,5 nghìn tấn, trị giá 142,49 triệu USD, giảm 20,9% về lượng và giảm 29,6% về trị giá so với tháng 11/2018.
  • Không chỉ robusta mà các loại cà phê khác như arabica, cà phê chế biến, cà phê excelsa cũng có xu hướng giảm so với cùng kì năm 2018. Cụ thể tháng 11 năm 2019 cà phê arabica giảm 2,2% về lượng, 3,1% về trị giá so với cùng kì năm ngoái. Hay cà phê chế biến cũng giảm 8,8% về lượng và 0,1% về giá.
  • Trong năm 2020, Theo số liệu tính toán từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê Robusta trong 11 tháng đạt 1,22 triệu tấn, trị giá 1,82 tỷ USD, giảm 2,9% về lượng và giảm 3,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, xuất khẩu cà phê robusta sang nhiều thị trường chính giảm, như: Đức, Mỹ, Tây Ban Nha,

Nga, Bỉ, Thái Lan. Ngược lại, xuất khẩu cà phê Robusta sang các thị trường chính khác tăng, như: Italy, Nhật Bản, Algeria, Philippines.

  • Kim ngạch xuất khẩu cà phê chế biến tháng 11/2020 tăng 0,3% so với tháng 11/2019, đạt 46,14 triệu USD. Tuy nhiên, trong 11 tháng năm 2020 kim ngạch xuất khẩu cà phê chế biến giảm 0,5% so với cùng kỳ năm 2019, đạt 524,84 tr USD. Trong đó, xuất khẩu cà phê chế biến sang thị trường Philippines, Trung Quốc giảm, nhưng xuất khẩu sang Nga, Mỹ, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Đức tăng.

(Số liệu từ tổng cục hải quan)

  • Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong năm 2020, cả nước xuất khẩu 1,57 triệu tấn cà phê, kim ngạch 2,74 tỷ USD, giá trung bình 1, USD/tấn, giảm 5,6% về lượng, giảm 4,2% về kim ngạch nhưng tăng nhẹ 1,4%

Lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam từ năm 2018-2022 và dự báo 2023

-Theo Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam (VICOFA), niên vụ cà phê 2021 nước ta xuất khẩu 29 triệu bao loại 60 kg tổng khối lượng hơn 1,68 triệu tấn cà phê các loại, trị giá trên 3,9 tỷ USD. Đây là niên vụ cà phê đạt giá trị kim ngạch cao nhất từ trước đến nay.

  • Về chủng loại sản phẩm, xuất khẩu cà phê của Việt Nam chủ yếu vẫn là cà phê nhân. Mặc dù tỷ trọng cà phê chế biến sâu vẫn rất thấp, nhưng đã tăng so với các năm trước, khẳng định vị thế cà phê Việt Nam. Xuất khẩu cà phê rang xay, hòa tan trên 92 tấn (chưa quy đổi ra cà phê nhân), với kim ngạch 598,2 triệu USD, chiếm 5,5% về lượng và chiếm 15,3% kim ngạch/ tổng các loại cà phê xuất khẩu trong niên vụ 2021.
  • Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu cà phê

2.3. Giá của hàng hóa cà phê

  • Xuất khẩu cà phê của Brazil, Việt Nam, Colombia tăng hay giảm sẽ tác động đáng kể đến xu hướng giá cà phê. Xuất khẩu tăng làm tăng nguồn cung khiến giá cà phê giảm, ngược lại xuất khẩu giảm có thể hỗ trợ giá cà phê tăng. Nhu cầu nhập khẩu từ các nước tiêu dùng lớn, nhu cầu tiêu thụ của các nhà rang xay cũng ảnh hưởng đến giá cà phê. Điển hình do tình hình của dịch Covid-19, theo ước tính của Cục Chế biến và Phát triểnị trường Nông sản, khối lượng xuất khẩu cà phê và giá trị xuất khẩu cà phê cả năm 2020 đạt 1,51 triệu tấn và 2,66 tỷ USD, giảm 8,8% về khối lượng và giảm 7,2% về giá trị so với năm 2019.

2.3. Thu nhập người tiêu dùng

  • Khi thu nhập tăng thì cầu đối với hầu hết hàng hóa đều tăng. Xét mối tương quan giữa thu nhập và sản lượng tiêu thụ, có thể nói rằng cà phê là hàng hóa thông thường. Do khi thu nhập tăng kéo theo cầu về cà phê tăng.
  • Mức sống người dân cao khi đó quyết định mua cà phê không chịu ảnh hưởng của sự thay đổi về giá cả theo xu hướng giảm. Thu nhập thấp thì ngược lại. Thị trường EU là thị trường lớn có mức thu nhập cao, giá cả rẻ không phải là điều kiện để quyết định mua hàng hay không mà giá cao đôi khi lại là yếu tố để đánh giá chất lượng sản phẩm và quyết định mua hàng. Ngưới dân Việt Nam thì lại khác giá rẻ là yếu tố quyết định cho việc mua hàng. Thu nhập có ổn định thì nhu cầu tiêu dùng mới thường xuyên khi đó mới tạo điều kiện cho sản xuất phát triển được

2.3. Quy mô thị trường

  • Việt Nam tuy là nước sản xuất cà phê lớn thứ 2 thế giới, nhưng lượng tiêu thụ cà phê của Việt Nam lại thấp hơn nhiều so với các quốc gia sản xuất cà phê khác (Việt Nam: 5% vs Brazil: 50%). Thực tế cho thấy, tiêu dùng cà phê của cả nước

chỉ khoảng 56 tấn, chiếm chưa đến 6% trong tổng sản lượng cà phê làm ra, cho thấy quy mô thị trường cà phê nội địa của Việt Nam là không lớn.

  • Mặc dù nhu cầu tiêu thụ trong nước không cao nhưng cà phê vẫn là mặt hàng xuất khẩu lớn trên thế giới, cũng như là loại hàng hóa có giá trị xuất khẩu lớn nhất của các nước đang phát triển. Việt Nam hiện đang là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới sau Brazil. Trong khi đó châu Âu và Hoa Kì là những nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới. Như vậy ta có thể thấy cà phê là mặt hàng giao dịch nhiều nhất trên thế giới điều đó cũng có nghĩa là thị trường cà phê sẽ được mở rộng hơn nữa.

2.3. Thị hiếu người tiêu dùng

  • Cà phê tại thị trường Việt Nam không phải là một mặt hàng được tiêu dùng quá nhiều, tuy nhiên 90% trong toàn bộ khối lượng thị trường tiêu thụ cà phê là những người dùng trung thành, chính vì thế khi đặt cà phê trong thị trường của chính nó, cà phê được coi là một loại hàng hoá thiết yếu, vì dù giá có tăng nhưng người yêu cà phê vẫn sẽ mua, chỉ có khoảng 10% những người dùng cà phê quyết định sự thay đổi của cầu khi giá thay đổi, chính vì vậy có thể kết luận rằng: hàng hoá cà phê có cầu ít co giãn theo giá. Thêm vào đó, cà phê không phải là một sản phẩm có giá quá cao so với phần đông dân số, giá biến động trong biên độ không lớn, vì vậy sự thay đổi của giá so với thu nhập là không đáng kể.
  • Văn hoá khác nhau cũng quy định việc xuất nhập hàng hoá khác nhau. Nền văn hoá của một quốc gia được hình thành từ lâu và trở thành thói quen với người dân của nước đó.Việc xuất khẩu cà phê sẽ mang văn hoá của ta vào nước nhập khẩuếu như ta cố tình giữ cho văn hoá Việt Nam thì đôi khi nó lại là cản trở cho việc xuất khẩu vào thị trườngEU. EU đánh giá rất cao về nguồn gốc xuất xứ cà phê, tuy nhiên ở Việt Nam thì việc sản xuất cà phê phân tán, việc thu mua là tập trung từ nhiều đơn vị nhỏ lẻ, hộ gia đình.Điều này rất khó cho Việt Nam trong việc lấy tên xuất xứ sản phẩm cà phê. Mục đích xuất khẩu là phục vụ nhu cầu của nước nhập khẩu. Chính vì vậy mặt hàng cà phê củata có phù hợp với nhu cầu của người tiêu dung nước đó hay không. Đòi hỏi ta phải biết dung hoà giữa nền văn hoá Việt Nam với văn hoá quốc gia nhập khẩu. Yếu tố văn hoá con chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán của từng nước, nước đó thích uống cà phêhoà tan, hay là cà phê đen, thích cà phê phin hay cà phê uống ngayư vậy buộc ta phải tìm hiểu để có chính sách xuất khẩu phù hợp.

2.3. Nhân tố khác

  1. Dịch bệnh
  • Dịch bệnh là một trong những yếu tố khiến cầu cà phê thay đổi. Covid- khiến các cửa hàng cà phê phải đóng cửa do thực hiện dãn cách, làm cho nhu

phê. Người tiêu dùng luôn muốn mua những sản phẩm chất lượng tốt, đảm bảo sức khỏe cho con người.

  • Những loại cà phê chất lượng tốt, hương vị ngon sẽ được ưa chuộng hơn cả điển hình là cà phê robusta. Ví dụ trong tháng 11/2018 lượng cà phê robusta Việt Nam xuất khẩu ra thị trường nước ngoài là 94519 tấn trong khi đó các loại cà phê kém chất lượng hơn như cà phê excelsa chỉ xuất khẩu được 49 tấn. Qua sự chênh lệch quá lớn đó có thể thấy được tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm đối với tiêu thụ.
  1. Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo sản phẩm
  • Hoạt động quảng cáo nhằm giới thiệu sản phẩm, cung cấp cho khách hàng những thông tin cần thiết và cô đọng để khách hàng có thể so sánh với các sản phẩm khác để đưa ra lựa chọn.

Để thị trường tiêu thụ cà phê lớn mạnh hơn cần phải chú trọng đến hoạt động tuyên truyển cả trong và ngoài nướcính phủ và hiệp hội cà phê Việt Nam cần có những biện pháp để quảng cáo, đưa hình ảnh cà phê Việt Nam đến với bạn bè quốc tế để tăng lượng hàng xuất khẩu ra thế giới.