Những biện pháp thuộc nhóm chính sách tiền tệ của nhtw:

Trong bối cảnh đó, điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gặp nhiều khó khăn, vừa hỗ trợ đà phục hồi kinh tế, vừa kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Tăng trưởng kinh tế trong nước trong 7 tháng qua được các chuyên gia kinh tế đánh giá là đang trên đà phục hồi, nhưng việc đạt được mục tiêu 6,5% mà Quốc hội đề ra là rất khó khăn. Để đạt mục tiêu này thì tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm phải đạt 7,1% - điều không dễ dàng khi làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4 vẫn đang diễn biến phức tạp.

Những biện pháp thuộc nhóm chính sách tiền tệ của nhtw:
Những biện pháp thuộc nhóm chính sách tiền tệ của nhtw:
Những biện pháp thuộc nhóm chính sách tiền tệ của nhtw:
Những biện pháp thuộc nhóm chính sách tiền tệ của nhtw:
Những biện pháp thuộc nhóm chính sách tiền tệ của nhtw:
Ảnh minh họa: TTXVN.

Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước vẫn điều hành chính sách tiền tệ ổn định theo định hướng chủ đạo hỗ trợ đà phục hồi kinh tế trong bối cảnh dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp, thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ “vừa chống dịch, vừa đảm bảo phát triển kinh tế”. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ chủ động duy trì ổn định mặt bằng lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát, tạo điều kiện giảm chi phí vay vốn cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, việc điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua đã góp phần hỗ trợ kinh tế trong nước phục hồi, tăng trưởng GDP 6 tháng năm 2021 đạt 5,64%, lạm phát được kiểm soát mức bình quân 7 tháng tăng 1,64% so với cùng kỳ năm trước - mức tăng thấp nhất trong 5 năm trở lại đây. Thị trường tiền tệ và ngoại hối duy trì ổn định, thanh khoản của các tổ chức tín dụng đảm bảo, tín dụng tăng ngay từ đầu năm và cao hơn cùng kỳ năm trước, mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm.

Theo các chuyên gia kinh tế, chính sách tiền tệ của Việt Nam vẫn được điều hành khá thận trọng, các yếu tố về lạm phát, thanh khoản, lợi tức trái phiếu vẫn đang khá thuận lợi để Ngân hàng Nhà nước thực hiện mục tiêu ổn định lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế.

Bà Victoria Kwakwam, Phó chủ tịch Ngân hàng thế giới (WB) phụ trách khu vực Đông Á - Thái Bình Dương đánh giá cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, triển khai quyết liệt các giải pháp, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp và người dân khắc phục khó khăn do dịch bệnh. Từ đó, góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội.

Ông Phạm Thanh Hà, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, duy trì thanh khoản hệ thống; đồng bộ các giải pháp tiền tệ, tín dụng, thanh khoản góp phần ổn định thị trường và phục hồi tăng trưởng trước các tác động khó lường của dịch Covid-19. Những tháng đầu năm tổng phương tiện thanh toán (M2) tăng 3,64% so với cuối năm 2020.

Đặc biệt, lãi suất cơ bản được điều hành linh hoạt trên nền tảng 3 lần giảm lãi suất trong năm 2020 và lãi suất trong 7 tháng qua tiếp tục duy trì ở mức thấp. Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các ngân hàng thương mại tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp. Giữa tháng 7 vừa qua, 16 ngân hàng đã đồng loạt giảm lãi suất cho vay theo lời kêu gọi của Ngân hàng Nhà nước để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân ứng phó với đại dịch Covid-19.

Theo ông Phạm Thanh Hà nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát, căn cứ mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát do Quốc hội và Chính phủ đặt ra, Ngân hàng Nhà nước xây dựng chỉ tiêu định hướng tăng trưởng tín dụng toàn ngành khoảng 12%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế.

Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã chấp thuận đề nghị nâng hạn mức tăng trưởng tín dụng của một số ngân hàng. Chẳng hạn Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) được nâng room tín dụng từ 10,5% lên 15%; Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) được nâng từ 8,5% lên 12,1%... Điều này được nhận định sẽ hỗ trợ tích cực cho nền kinh tế hồi phục để đạt được mục tiêu kép mà Chính phủ đề ra.

Tuy nhiên, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú phải thừa nhận việc điều hành chính sách tiền tệ vừa qua còn nhiều khó khăn vướng mắc do tác động của dịch Covid-19.

Một trong những khó khăn đó là, các tổ chức tín dụng đang phải đối mặt với áp lực nợ xấu tăng cao trong bối cảnh hoạt động sản xuất, kinh doanh bị ngưng trệ khi dịch bệnh tác động tiêu cực đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp, người dân là khách hàng của ngân hàng.

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cho biết hiện tổng dư nợ tín dụng được cơ cấu lại theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và Thông tư 03-2021 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày 13-3/2020 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 là 347.000 tỷ đồng. Nhưng con số này có khả năng sẽ còn gia tăng trong thời gian tới.

TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV cũng cho rằng nợ xấu đang gia tăng trong thời gian tới, có thể lên đến 2,5% cuối năm 2021 và đây sẽ là nguy cơ, rủi ro đối với hoạt động ngân hàng.

Trong những tháng cuối năm, Công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC) đưa ra dự đoán Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ hỗ trợ để tiếp sức cho nền kinh tế trong bối cảnh phức tạp của đợt bùng phát Covid-19 mới nhất. Tuy nhiên, tốc độ tăng cung tiền chậm lại cho thấy Ngân hàng Nhà nước chưa sử dụng đến biện pháp bơm thanh khoản trên diện rộng và vẫn tập trung vào mục tiêu mở rộng tín dụng có chọn lọc.

Ngân hàng Nhà nước cũng khẳng định sẽ tiếp tục điều hành các công cụ chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Theo đó, Ngân hàng Nhà nước chú trọng các giải pháp tiếp tục theo dõi sát mặt bằng lãi suất thị trường để điều hành phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát, diễn biến thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ. Cùng đó tiếp tục triển khai các giải pháp tạo điều kiện cho hệ thống tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, góp phần phục hồi tăng trưởng bền vững…

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh, những yếu tố điều hành các công cụ chính sách tiền tệ là mấu chốt để Việt Nam tiếp tục thu hút được dòng vốn trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động khó lường./.

TTXVN

Tìm hiểu về chính sách tiền tệ

  • 1. Khái niệm chính sách tiền tệ ( MONETARY POLICY)
  • 2. Đặc điểm của chính sách tiền tệ
  • 3. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
  • 3.1 Mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền
  • 3.2 Mục tiêu tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
  • 3.3 Mục tiêu tăng trưởng kinh tế
  • 4. Công cụ của chính sách tiền tệ
  • 4.1 Công cụ tái cấp vốn
  • 4.2 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
  • 4.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
  • 4.4 Công cụ lãi suất tín dụng
  • 4.5 Công cụ hạn mức tín dụng
  • 4.6 Tỷ giá hối đoái
  • 5. Tác động của chính sách tiền tệ ở Việt Nam

1. Khái niệm chính sách tiền tệ ( MONETARY POLICY)

Chính sách tiền tệtrong tiếng Anh còn được gọi làmonetary policy.

Chính sách tiền tệ là chính sách sử dụng các công cụ của hoạt động tín dụng và ngoại hối để ổn định tiền tệ, từ đó ổn định nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng và phát triển. Ngân hàng trung ương là cơ quan tổ chức thực hiện các chính sách tiền tệ. Mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả, tăng trưởng GDP, giảm thất nghiệp.Vì chính sách tiền tệ có khả năng tác động vàothị trường tiền tệ, qua đó tác động đến tổng cầu và sản lượng nên nó trở thành một công cụ ổn định kinh tế hữu hiệu của chính phủ.

Những hành động của Hệ thống Dự trữ Liên bang, ảnh hưởng đến chi phí và khả năng tín dụng, với mục đích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, toàn dụng lao động, ổn định giá cả và cân bằng thương mại với các quốc gia khác. Thông qua các quyết định về chính sách tiền tệ, Fed cố gắng điều tiết cả lãi suất và cung tiền quốc gia. Chính sách tiền tệ được thực hiện bởi ủy ban Dự trữ Liên bang và Ủy ban thị trường mở Liên Bang, ủy ban gổm 12 thành viên (bao gồm cả bảy thống đốc của ủy ban Dự trữ Liên bang), điều hành việc mua bán chứng khoán chính phủ tại thị trường mở cho 12 Ngân hàng Dự trữ Liên bang. Chủ tịch ủy ban Dự trữ Liên bang xuất hiện trước các ủy ban Quốc hội hai lần mỗi năm, vào tháng Hai và tháng Bảy, để báo cáo những mục tiêu trong chính sách tiền tệ của

Dự trữ Liên bang, theo yêu cầu của Đạo luật Humphrey- Hawkins 1978. Những mục tiêu này được giám sát chặt chẽ đối với các chỉ báo về sự thay đổi trong chính sách tiền tệ.

2. Đặc điểm của chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ có thể có đặc điểm như tín dụng thắt chặt hoặc tín dụng nới lỏng. Khi Fed lo ngại nền kinh tế đang phát triển quá nhanh hoặc giá tăng quá nhanh, Fed sẽ thắt chặt các vị thế dự trữ bằng cách bán các chứng khoán chính phủ để thoát khỏi tinh trạng này. Quá trình này được biết đến như rút nguồn dự trữ. Trái lại, nếu Fed thấy rằng nền kinh tế tăng trưởng không đủ nhanh hoặc có nguy cơ suy thoái, thì Fed có thể bơm các khoản dự trữ mới vào hệ thống ngân hàng, bằng cách mua chứng khoán từ những trung tâm giao dịch chứng khoán. Bằng cách mua thay vì bán chứng khoán, Fed sẽ mở rộng, thay vì thu hẹp nguồn cung dự trữ ngân hàng, vì vậy sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các ngân hàng để đáp ứng các yêu cầu dự trữ, và thực hiện các khoản vay mới.

Ngoài chính sách tiền tệ, Fed cũng có một số kiểm soát tín dụng cólựa chọn để điều chỉnh chi phí tín dụng. Những kiểm soát này bao gồm những yêu cầu bảo chứng đối với những chứng khoán được mua thông qua nhà môi giới - thương nhân và sự thuyết phục tin thần cao, nhờ đó, Fed cố gắng thuyết phục các ngân hàng tiếp tục theo các khuyến nghị của Fed qua sức ép không chính thức. Mặc dù chính sách tiền tệ khác với Chính sách tài khóa của chính phủ liên bang, được tiến hành bởi những chính sách chi tiêu và thuế, cả hai đều chia sẻ một mục tiêu chung: cân bằng tổng cầu trong nền kinh tế so với tổng cung, được đo bởi tổng sản phẩm quốc nội, việc làm và lãi suất, qua đó giữ lạm phát và thất nghiệp ở mức kiểm soát.

3. Mục tiêu của chính sách tiền tệ

3.1 Mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền

NHTW thông qua Chính sách tiền tệ có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước) và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ).

Tuy vậy, Chính sách tiền tệ hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát bằng không, vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được. Trong điều kiện nền kinh tế trì trệ thì kiểm soát lạm phát ở một tỷ lệ hợp lý (thường ở mức một con số) sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế trở lại.

3.2 Mục tiêu tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp

Chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát gia tăng.

3.3 Mục tiêu tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng, nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ. Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.

Giữa các mục tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện Chính sách tiền tệ cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Phần lớn NHTW các nước coi sự ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của chính sách tiền tệ.

4. Công cụ của chính sách tiền tệ

Fed có ba công cụ riêng biệt về chính sách tiền tệ: mua và bán chứng khoán thông qua hoạt động Thị trường mở, quyền thiết lập các yêu cầu dự trữ cho các định chế tài chính, và lãi suất chiết khấu được thanh toán bởi các ngân hàng và những định chế tài chính, khi họ vay từ một trong các Ngân hàng Dự trữ Liên bang của khu vực.

Chính sách tiền tệ gồm 6 công cụ chính sau:

4.1 Công cụ tái cấp vốn

Là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại, Khi cấp khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo ra cơ sở của Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.

4.2 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc

Là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các Ngân hàng thương mại.

4.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở

Là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.

4.4 Công cụ lãi suất tín dụng

Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.

4.5 Công cụ hạn mức tín dụng

Là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.

4.6 Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.

Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.

5. Tác động của chính sách tiền tệ ở Việt Nam

Theo số liệu của Oxfam công bố năm 2017, trong giai đoạn từ năm 1992 đến 2012 tại Việt Nam, tỷ lệ Palma (tỷ lệ giữa phần thu nhập của nhóm 10% thu nhập cao nhất và nhóm 40% thu nhập thấp nhất) đã tăng 17%, từ 1,48 (năm 1992) lên 1,74 (năm 2012), cho thấy chênh lệch giữa hai nhóm này ngày càng được nới rộng.

Theo tiêu chuẩn quốc tế, các hộ gia đình được chia thành năm tầng lớp kinh tế dựa trên mức tiêu dùng hàng ngày, bao gồm: (1) người nghèo cùng cực, sống dưới 1,9 USD/ngày; (2) người nghèo vừa phải, tiêu dùng từ 1,9 - 3,2 USD/ngày; (3) người dễ bị tổn thương kinh tế, tiêu dùng 3,2 - 5,5 USD/ngày; (4) an toàn về kinh tế, tiêu dùng 5,5 - 15 USD/ngày; (5) tầng lớp trung lưu toàn cầu, tiêu dùng trên 15 USD/ngày.

Mức độ bất bình đẳng thu nhập còn được thể hiện qua chênh lệch giữa thu nhập của nhóm nghèo cùng cực và nhóm trung lưu toàn cầu. Năm 2016 thu nhập bình quân đầu người của nhóm 1 là 791.000 đồng, tăng bình quân 5,7% trong giai đoạn 2016 - 2019; nhóm 5 là 7,8 triệu đồng, tăng cao hơn ở mức 6,8% khiến cho năm 2016, thu nhập của nhóm 5 gấp 9,8 lần nhóm 1, và tới năm 2019 gấp 10,2 lần.

Tuy nhiên đến năm 2020, do tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid -19 và hiệu quả của các chính sách an sinh xã hội tới các đối tượng là người nghèo, lao động thất nghiệp, gia đình chính sách nên nhóm thu nhập thấp tăng 7,6% trong giai đoạn 2016 - 2020 nhanh hơn nhiều mức tăng 3,3% của nhóm thu nhập cao nhất, điều đó đã kéo theo sự chênh lệch thu nhập giữa 2 nhóm này chỉ còn 8 lần.

Theo World Bank (2018), tình hình bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây, xuất hiện hoàn toàn ở khu vực nông thôn, với hệ số Gini tăng 0,8 điểm, trong khi không quan sát thấy sự thay đổi nào về bất bình đẳng ở khu vực thành thị. Trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2010, hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm 5 và nhóm 1 ở khu vực nông thôn là 5,97 lần, thấp hơn so với khu vực thành thị.

Tuy nhiên, từ năm 2012 đến 2016, hệ số chênh lệch tăng lên mức 8,39 lần, cao hơn cả khu vực thành thị. Mức chênh lệch tuyệt đối giữa thu nhập của hai nhóm cũng kéo giãn từ mức 703,8 nghìn đồng lên mức 4,993 triệu đồng.

Bên cạnh đó, tốc độ tăng thu nhập bình quân hàng năm của nhóm 5 cũng đạt mức cao nhất (40,7 %), trong khi nhóm 1 chỉ đạt mức tăng trưởng thấp nhất (33,4 %). Điều này cho thấy tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở nông thôn đang ngày càng trở nên trầm trọng hơn và là nhân tố chủ đạo làm tăng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam nói chung.

Qua nghiên cứu, chính sách tiền tệ ngoài ý nghĩa quan trọng ổn định giá trị tiền đồng còn có thể tác động tới bất bình đẳng thu nhập trong xã hội. Vừa qua, khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện một cú sốc về chính sách tiền tệ bằng việc tăng tốc độ cung ứng tiền, tình trạng bất bình đẳng thu nhập có thể giảm trong ngắn hạn, cụ thể là từ tháng 2 đến tháng 5.2020. Tuy nhiên, từ tháng 6.2020 trở đi, tác động này gần như bị triệt tiêu. Ngược lại, cú sốc chính sách tiền tệ thắt chặt lại mang đến tác động tiêu cực khi làm tăng bất bình đẳng thu nhập trong ngắn hạn.

Các biện pháp hỗ trợ người nghèo, người có thu nhập thấp mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể thực hiện bao gồm: cần sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010, xác định giảm bất bình đẳng thu nhập là một trong số các mục tiêu của chính sách tiền tệ; điều hành linh hoạt lãi suất theo xu hướng thu hẹp chênh lệch đầu vào đầu ra để giảm lãi suất cho vay khuyến khích sản xuất, phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động.

Cùng với đó, chỉ đạo các tổ chức tín dụng tập trung nguồn vốn đẩy mạnh cho vay nông nghiệp, nông thôn nói chung và tích cực triển khai các chương trình tín dụng đặc thù như: cho vay nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, cho vay hỗ trợ giảm tổn thất trong nông nghiệp, cho vay lúa gạo, thủy sản, hướng tới cả các khu vực chưa có mạng lưới ngân hàng; tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ về nguồn vốn nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay nông nghiệp, nông thôn trên tinh thần tiếp cận bình đẳng; tiếp tục đẩy mạnh phát triển tài chính vi mô và tăng cường thực hiện các chương trình tín dụng chính sách tại Ngân hàng Chính sách xã hội.

Bên cạnh đó, điều hành chính sách tiền tệ nhằm hướng tới giảm bất bình đẳng thu nhập thông qua kết hợp hài hòa giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền lương với chính sách tiền tệ, giúp giữ ổn định quan hệ cung cầu trong nền kinh tế đối với các hàng hóa quan trọng, thiết yếu để tránh tăng giá sốc, nâng cao hiệu quả phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện ở các lĩnh vực và cải thiện chất lượng tăng trưởng.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi, Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do khách hàngcung cấp. Mục đích đưa ra bản tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong bản tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong bản tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề, rất mong nhận được phản ánh của quý khách tới địa chỉ emailTư vấn pháp luậtqua Emailhoặc tổng đài tư vấn trực tuyến1900.6162. Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng./.

Luật Minh KHuê (tổng hợp & phân tích)