Nước có tốc dộ già hóa dân số cao nhất năm 2024

Thông tin đó được đại diện Cục Bảo trợ xã hội (Bộ LĐ-TB&XH) đưa ra tại Hội thảo bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành tư pháp về phát triển công tác xã hội, do Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp tổ chức ngày 21/11.

Thống kê cho thấy, hiện nay số lượng người yếu thế, dễ bị tổn thương, hoàn cảnh khó khăn có nhu cầu sử dụng dịch vụ công tác xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội chiếm khoảng 20% dân số.

Trong đó, có khoảng 17 triệu người cao tuổi, 7,06 triệu người khuyết tật, 10 triệu người có vấn đề sức khỏe tâm thần, 2 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; khoảng 2,23% hộ nghèo và 3,1% hộ cận nghèo; 3,3 triệu người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và 1,5 triệu lượt hộ gia đình cần được trợ giúp đột xuất hàng năm…

Đại diện Cục Bảo trợ xã hội, Bộ LĐ-TB&XH thông tin tại hội thảo (Ảnh: Phùng Minh).

Tình trạng bạo lực, bạo hành gia đình, phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, bị buôn bán, bị xâm hại; trẻ em lang thang kiếm sống trên đường phố; phòng chống HIV/AIDS, tệ nạn ma túy, mại dâm,... tiếp tục là những vấn đề xã hội nóng, bức xúc cần phải tập trung giải quyết.

Để phát triển đội ngũ người làm công tác xã hội chuyên nghiệp trợ giúp cho những người yếu thế, dễ bị tổn thương, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành: Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Trẻ em, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS, Luật Phòng chống bạo lực gia đình.

Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành các quyết định phát triển nghề công tác xã hội, làm cơ sở pháp lý cho bộ ngành, địa phương triển khai thực hiện.

Đến nay 100% các tỉnh, thành phố có cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội thuộc ngành LĐ-TB&XH; 100% bệnh viện tuyến trung ương, tuyến tỉnh đã thành lập các phòng, bộ phận công tác xã hội.

"Đội ngũ công chức, viên chức, nhân viên và cộng tác viên làm công tác xã hội chuyên nghiệp đã được hình thành với khoảng 235.000 người. Đến nay đã có 55 trường đại học, cao đẳng và 21 cơ sở giáo dục nghề nghiệp có đào tạo chuyên ngành công tác xã hội. Hàng năm có hơn 10.000 lượt cán bộ, nhân viên và cộng tác viên xã hội được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xã hội", đại diện Cục Bảo trợ xã hội thông tin.

Dù vậy, khuôn khổ pháp lý phát triển công tác xã hội vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Các quy định về phát triển công tác xã hội được quy định tản mác tại nhiều văn bản, hình thức chủ yếu là văn bản cá biệt, quyết định của Thủ tướng Chính phủ và thông tư của các bộ.

"Chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định tổng thể, đầy đủ, chuyên sâu về công tác xã hội, quyền và nghĩa vụ của đối tượng công tác xã hội, người hành nghề công tác xã hội, quy trình và các điều kiện đảm bảo cung cấp dịch vụ công tác xã hội; trách nhiệm quản lý nhà nước và điều khoản thi hành về công tác xã hội", đại diện Cục Bảo trợ xã hội cho hay.

Trong khi đó, bà Lê Thị Thúy, đại diện Cục Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư pháp), phản ánh, thực tiễn cho thấy hoạt động trợ giúp pháp lý đã tham gia rất hiệu quả vào công tác xã hội.

"Đây là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Nó phù hợp với đông đảo nguyện vọng của nhân dân, với thực tiễn phát triển của đất nước", bà Thúy nói.

Tuy nhiên, theo bà Thúy, so với nhu cầu của người dân và nội dung vụ việc ngày càng phức tạp cho thấy số lượng trợ giúp viên pháp lý còn mỏng. Đặc biệt, ở một số địa phương số lượng trợ giúp viên pháp lý rất ít, gây khó khăn không nhỏ cho hoạt động này trên địa bàn, nhất là ở miền núi.

Hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý cho người dân ở vùng sâu, vùng xa còn gặp khó khăn do người dân ít có điều kiện được tiếp cận với phương tiện thông tin đại chúng. Đối tượng được trợ giúp pháp lý chưa biết hoặc chưa sử dụng tối đa quyền được trợ giúp pháp lý của mình.

Đại diện Vụ Giáo dục chính trị và công tác học sinh, sinh viên (Bộ Giáo dục và Đào tạo) kiến nghị Bộ LĐ-TB&XH sớm hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh nghề công tác xã hội; ban hành tiêu chuẩn, quy trình cung cấp dịch vụ công tác xã hội và tiêu chuẩn đạo đức cán bộ làm trong lĩnh vực này.

Bên cạnh đó, cơ quan này đề xuất các địa phương tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền và sở ngành về vai trò, trách nhiệm của các bên liên quan trong triển khai công tác xã hội trường học. Xem xét bố trí ngân sách, cơ sở vật chất cho dịch vụ công tác xã hội tại địa phương.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Người cao tuổi là người từ 70 tuổi trở lên. Một số nước (Đức, Mỹ…) quy định người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên. Việt Nam quy định người cao tuổi từ đủ 60 tuổi trở lên.

Theo UNFPA (Quỹ dân số Liên hợp quốc), một nước sẽ bước vào giai đoạn “bắt đầu già” khi dân số cao tuổi chiếm 10% tổng số dân và giai đoạn “già” khi người cao tuổi chiếm 20% tổng số dân.

Nhật Bản là quốc gia “siêu già”, có hơn 30% số dân từ 60 tuổi trở lên.

Đến 2050, có 64 quốc gia siêu già. Trung bình mỗi năm có 58 triệu người tròn 60 tuổi, mỗi giây có hai người đến 60 tuổi.

Già hóa dân số đang là một trong những vấn đề trọng tâm của các quốc gia trên thế giới. Nâng cao chất lượng đời sống và gia tăng tuổi thọ trung bình là đánh dấu thành tựu của quá trình phát triển. Tuy nhiên, đồng thời với gia tăng tuổi thọ trong bối cảnh mức sinh thay thế không được duy trì bền vững thì xu thế già hóa dân số nhanh là một tất yếu.

Nguyên Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon từng nói: “Ảnh hưởng về kinh tế và xã hội của hiện tượng già hóa dân số có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ tác động tới cá nhân người cao tuổi và gia đình họ, mà còn có tác động rộng hơn tới toàn xã hội và cộng đồng toàn cầu theo những cách thức chưa từng có”.

Ảnh hưởng về kinh tế và xã hội của hiện tượng già hóa dân số có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ tác động tới cá nhân người cao tuổi và gia đình họ, mà còn có tác động rộng hơn tới toàn xã hội và cộng đồng toàn cầu theo những cách thức chưa từng có. Nguyên Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon

Đến ngày 1/4/2021, dân số Việt Nam đạt 98,2 triệu người, trong đó có 12,5 triệu người từ 60 tuổi trở lên (12,8%); 8,1 triệu người từ 65 tuổi trở lên (8,3%); gần 2 triệu người từ 80 tuổi trở lên (2%).

Giai đoạn 2009-2019, dân số tăng bình quân 1,14%/năm, trong khi dân số cao tuổi tăng bình quân 4,35%/năm, bình quân tăng 400 nghìn người cao tuổi/năm, nhưng từ 2019-2021, bình quân tăng 600 nghìn người cao tuổi/năm.

Chỉ số già hóa (số người cao tuổi trên 100 trẻ em dưới 15 tuổi) tăng nhanh từ 2009, xu hướng già hóa dân số ở Việt Nam đang diễn ra nhanh chóng.

Năm 2009, chỉ số già hóa 35,5; năm 2014 chỉ số già hóa 43,3; năm 2015 chỉ số già hóa 47,1; năm 2016 chỉ số già hóa 50,1; năm 2017 chỉ số già hóa 53,4; năm 2018 chỉ số già hóa 56,9; năm 2019 chỉ số già hóa 48,8; năm 2020 chỉ số già hóa 51,0; năm 2021 chỉ số già hóa 53,1.

Việt Nam là một trong các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Những người từ 60 tuổi trở lên chiếm gần 12% tổng dân số vào năm 2019 và đến năm 2050, con số này sẽ tăng lên hơn 25%. Đến năm 2036, Việt Nam bước vào thời kỳ dân số già, chuyển từ xã hội “già hóa” sang xã hội “già”.

Theo cơ sở dữ liệu dân cư do Bộ Công an cung cấp, đến ngày 9/2/2023 cả nước có 16.179.824 công dân từ 60 tuổi trở lên, chiếm gần 17% số dân.

Theo cơ sở dữ liệu dân cư do Bộ Công an cung cấp, đến ngày 9/2/2023 cả nước có 16.179.824 công dân từ 60 tuổi trở lên, chiếm gần 17% số dân, trong đó từ 60 đến dưới 70 tuổi là 9.417.924 người, từ 70 đến dưới 80 tuổi là 4.189.640 người, từ 80 đến dưới 90 tuổi là 1.907.991 người, từ 90 đến dưới 100 tuổi là 623.221 người, từ 100 tuổi trở lên là 41.048 người. Điều đáng lưu ý là, quá trình quá độ từ già hóa dân số đến dân số già của Việt Nam chỉ trong vòng 20 năm, trong khi các quốc gia phát triển nêu trên kéo dài hàng trăm năm.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo tại buổi gặp mặt các đại biểu về dự Đại hội VI Hội Người cao tuổi Việt Nam: “Trong tình hình mới hiện nay, quá trình già hóa dân số nước ta đang diễn ra nhanh chóng, cùng với tuổi thọ bình quân ngày càng cao; lực lượng người cao tuổi ngày càng nhiều hơn, đông hơn; đó là phúc lớn cho dân tộc”.

Trước thực tế nêu trên, Chính phủ cần chỉ đạo xây dựng các chính sách và chương trình ứng phó với vấn đề già hóa dân số, với trọng tâm là áp dụng cách tiếp cận theo vòng đời vào vấn đề già hóa dân số và coi người cao tuổi là nguồn lực, trên cơ sở tôn trọng quyền chứ không phải là gánh nặng trong quá trình phát triển bền vững.

Chính phủ cần chỉ đạo xây dựng các chính sách và chương trình ứng phó với vấn đề già hóa dân số, với trọng tâm là áp dụng cách tiếp cận theo vòng đời vào vấn đề già hóa dân số và coi người cao tuổi là nguồn lực, trên cơ sở tôn trọng quyền chứ không phải là gánh nặng trong quá trình phát triển bền vững.

Công tác người cao tuổi bảo đảm dựa trên ba trụ cột gồm: bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; trong đó cần tăng cường phát huy vai trò, vị trí và sự đóng góp của người cao tuổi vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát triển hệ thống chăm sóc toàn diện, bao gồm cả chăm sóc tập trung và chăm sóc cộng đồng; chú trọng đến các nhóm dễ bị tổn thương như dân tộc thiểu số, người khuyết tật và nạn nhân của bạo lực gia đình.

Có các chính sách phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân đầu tư cung cấp dịch vụ chăm sóc, nhất là các cơ sở dưỡng lão ngoài công lập, cũng như ứng dụng công nghệ số trong chăm sóc người cao tuổi.

Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương trong bài nói chuyện chuyên đề tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc người cao tuổi tiêu biểu và cán bộ cốt cán các cấp Hội năm 2023 đã quán triệt: “Người cao tuổi là lực lượng chính trị quan trọng, là nguồn lực phát triển, bảo đảm quyền và phát huy vai trò để người cao tuổi được hưởng tuổi già trong tôn trọng và an sinh xã hội”.

Trước bối cảnh già hóa dân số và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi Việt Nam kịp thời hoàn thiện chính sách, pháp luật để cụ thể hóa chủ trương Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng: “Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình. Tiếp tục xây dựng gia đình kiểu mẫu “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau”. Kính trọng, bảo vệ và chăm sóc người cao tuổi. Bảo trợ, giúp đỡ người cao tuổi gặp khó khăn, cô đơn không nơi nương tựa”.

Trước mắt cần ban hành Chiến lược Quốc gia người cao tuổi, góp phần xây dựng hệ sinh thái người cao tuổi trong xu thế phát triển mới.

Chủ đề