Phân tích đoạn trích Ai ở xa về cõng Mị đi

Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:

Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải là con gái nhà Pá Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.

Xem thêm các bài văn tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ, cũng không ai nhớ. Nhưng người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mị về làm người nhà quan thống lí. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.

Cho tới năm ấy Mị đã lớn, Mị là con gái đầu lòng. Thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị:

– Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho.

Xem thêm toàn bộ bài viết của

Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, thì tiếc ngô, nhưng cũng lại thương con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố rằng:

– Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.

Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, sờ một ngón tay thấy có đeo nhẫn. Người yêu của Mị thường đeo nhẫn ngón tay ấy. Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra. Mị vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi.

(Tô Hoài, Vợ chồng A Phủ)

Câu 1: Hãy nêu hoàn cảnh sáng tác tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.

Câu 2: Cách giới thiệu nhân vật Mị của tác giả có điểm gì đáng chú ý:

Câu 3: Câu nói  Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp gì ở Mị

Câu 4: Vì sao Mị phải làm dâu cho nhà thống lí Pá Tra? Câu chuyện đau buồn của Mị nói lên điều gì trong thân phận của những người dân nghèo miền núi?

Phân tích đoạn trích Ai ở xa về cõng Mị đi
Vợ chồng A PHủ

Bài làm:

Câu 1: Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Tô Hoài thu hoạc được sau chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc dài suốt 8 tháng, tập truyện tên “Truyện Tây Bắc”, là nỗi nhớ niềm thương, bồi hồi xúc động, là lời tri ân sâu sắc mà nhà văn dành tặng cho mảnh đất con người Tây Bắc đau thương mà anh dũng, đẫm nước mắt tủi hờn mà vời vợi chất thơ

Câu 2: Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mở đầu bằng những giọng văn đượm buồn phác họa chân dung Mị khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Lời văn vừa cụ thể, vừa gợi cảm rất ám ảnh. Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa. Lúc nào cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi, cô ấy là vợ A Sử.

=> Mị được giới thiệu từ đầu tác phẩm với một chân dung ấn tượng, kích thích, khơi dậy sự hứng thú, khám phá nơi người đọc.

Câu 3: Khi thống lí Pá Tra đến bảo bổ Mị: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho” thì Mị bảo bố răng: “ con nay đã biết quốc nương làm ngô. Con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.” Câu nói là sự lựa chọn dứt khoát đầy bướng bỉnh ngang ngạnh của Mị. Câu nói chất chứa tinh thần phản kháng, quyết liệt, niềm khát khao tự do của Mị. Mị thà chấp nhận làm nương, làm rẫy cực nhọc để được tự do còn hơn làm dâu con nhà giàu mà phải buộc mình vào kiếp nô lệ

Câu 4: Lí do: Mị phải làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra bởi món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ để lại. (Hồi trẻ, bởi không có tiền cưới nên bố mẹ Mị đã phải vay của bố thống lí Pá Tra với lãi suất cao, lãi mỗi năm là một nương ngô). Đến khi mẹ của Mị chết, món nợ cũng chưa chả hết. Thống lí Pá Tra muốn Mị về làm dâu nhà thống lí thì ông sẽ xóa hết nợ cho nhà Mị.

=> Câu chuyện của Mị nói lên cuộc sống tối tăm, cùng cực của những con người lao động vùng Tây Bắc. Nối tiếp thân phận Chí Phèo của Nam Cao, chị Dậu của Ngô Tất Tố, những người dân miền núi phía Bắc cũng bị roi vào bi kịch quyền làm người một cách đau thương. Từ góc quay rất hẹp, từ một chi tiết của cuộc sống thường nhật, Tô Hoài dã khát quát bức tranh rộng lớn của Tây Bắc với những gam màu đen tối, đau thương. Ở nơi đó, lũ chúa đất, thực dân luôn đè đầu cưỡi cổ, đọa đày cả thể xác và tinh thần của những người lao động nghèo. Dưới ách áp bức tầng tầng lớp lớp đó, những người nghèo chỉ biết cúi đầu cam chịu nhẫn nhục thân phận đau đớn

"Vợ chồng A Phủ" là một truyện ngắn trong tập "Truyện Tây Bắc" của Tô Hoài, được giải nhất tiểuthuyết, giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tác phẩm ra đời từ kết quả cuộc thâm nhập đờisống đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, kể về cuộc đời khốn khó trăm chiều của người dân vùngcao khi chưa có ánh sáng của Đảng. Đọc "Vợ chồng Ả Phủ", ta không thể quên được chi tiết Mị cắt dâytrói cứu A Phủ – một chi tiết làm nên mọi giá trị tác phẩm. Và, đúng như ai đó đã từng nói, khi cắt dâytrói cứu A Phủ, Mị đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thông lí Pá Tra.Có thể nói, toàn bộ đoạn trích trong sách "Văn 12" là tất cả những chuỗi ngày cực nhọc mà Mị phải trảiqua (kể từ khi cô bước chân vào nhà thông lí Pá Tra, đến khi cô cùng A Phủ trốn thoát. Với một dunglượng truyện ngắn vừa phải, Tô Hoài đã thể hiện rất nghệ thuật, chân thật quá trình chuyển biến của Mị,từ lúc cam chịu thân phận nô lệ của mình, tới khi thức tỉnh, tự giải thoát cởi trói cho A Phủ.Câu chuyện về Mị, được bắt đầu từ một hình ảnh rất giàu sức gợi: "Ai ở xa về có việc vào nhà thông lí PaTra, thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dùquay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rườirượi", chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự vật đã hiện lên khá rõ nét. Câu văn cũng như dàithêm ra để độc giả lĩnh hội một cách thấu đáo. Vị trí, xuất hiện của Mị đã nói lên tất cả, ngồi quay sợi gaibên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Gòn hình ảnh nào đắt hơn chi tiết đó? Con người ngang hàng với những vậtvô tri, thân phận trâu ngựa, thậm chí còn như gắn liền với chúng.Mị vốn là một cô gái con nhà nghèo – "nghèo từ trong trứng"; cô trẻ đẹp, giàu lòng yêu đời, ham sống vàcó tài thổi sáo; Mị còn là một cô gái chăm làm, một đứa con hiếu thảo… Nhưng, một thứ nợ "gia truyền"của người nghèo, cô đã phải "đi tù khổ sai" trong nhà thống lí Pá Tra, dưới hình thức làm dâu gạt nợ. Biếtbao thân phận người dân miền núi, đã bị trả giá bằng cả đời người như thế, bởi hình thức cho vay nặnglãi.Thời gian đầu, khi mới ở "nhà tù Pá Tra", Mị đau đớn, uất ức, phản kháng quyết liệt. "Có đến mấy tháng,đêm nào Mị cũng khóc". Cô không thể chấp nhận làm thân phận nô lệ cho nhà giàu. Nhưng, tất cả đãthành định mệnh. Nàng Kiều của Nguyễn Du trước khi dấn thân vào cuộc đời ô nhục, cũng hơn một lầnnghĩ đến quyên sinh mà cũng không thoát khỏi kiếp đọa đày 15 năm. Ở đây, Mị còn khổ hơn, bởi món nợvẫn còn đấy, đổ lên đầu bố già.Ở địa ngục trần gian của nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhục nhất đổ lên đầu Mị. Mấy năm sau khi bố giàqua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì "Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng nhưmình cũng là con trâu, con ngựa (…) chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Đời Mị chỉ là công việc nốitiếp nhau, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, giữa năm thìgiặt đay, xe đay, cuối mùa đi bẻ bắp… thêm vào sự đọa đày thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần mêtín, thần quyền đã hỗ trợ rất đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ "thuốc phiện tinh thần" nhưlời Mác nói.Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn, ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng: con ngườibị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng."Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa" thật không ở đâu, mạng sống, nhâncách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tự coi rẻ mình một cách tuyệt vọngnhư vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông racửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, "đến bao giờ chết thì thôi".Khi một "nạn nhân" đau khổ, còn hướng tới cái chết để tìm sự giải thoát, thì phải chăng, trong họ vẫn cònchút gì đó gọi là phản kháng? Mị cũng có lần như thế, nhưng nó bị triệt tiêu và cô đã dường như phó mặcthân phận mình cho định mệnh, không còn ý thức về thời gian. Với Mị, sự chuyển biến của thời khắc sớmtối, năm tháng qua đi cũng không còn ý nghĩa, không gợi cho cô cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ là một mànsương mờ đục, không hiện tại, quá khứ và tương lai.Nhưng, đó chỉ là một phần trong con người của Mị. Sức mạnh của ngòi bút nhân đạo Tô Hoài không chỉdừng lại ở tình cảm xót thương Mị, ở sự tố cáo tính tàn bạo của giai cấp thống trị, mà cò lì ở chỗ nhìn racon người bên trong của nhân vật. Ông đã tìm sâu vào tận cùng ý thức và trong đáy sâu của tiềm thứcnhân vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng, hơi ấm của niềm ham sống, khát khao hạnh phúc, như lớptro dày nguội lạnh vẫn còn ủ chút than hồng, lớp than ấy chỉ cần một ngọn gió thoảng qua là bùng lên. TôHoài dã góp thêm vào truyền thông nhân đạo trong nền văn học dân tộc một tiếng nói có quyền năng vàsức tái tạo riêng.Như đã nói ở phần đầu, Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, một khát khao làm chủ cuộc sông tính cáhu ấy,phẩm chất ấy không bao giờ chết, nó chỉ tạm thời bị đè nén xuống. Và ngọn gió để thổi bùng lên đốm lửatrong lòng Mị, là hoàn cảnh điển hình: mùa xuân về trên vùng cao: "Hồng Ngài năm ấy, ăn tết vào lúc gióthổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội". Dẫu trong thời tiết khắc nghiệt, xuân về cũng đem đến chongười dân vùng cao một niềm vui sống được mùa. Sức sống của tạo vật và con người như bừng tỉnh:"trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra treo trên các mỏm dài xòe ra như con bướm sặcsỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng, lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thậm rồi sang màu tím man mát. Đám trẻ đợiTết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà…".Hoàn cảnh ấy, không thể không tác động vào tâm hồn Mị. Trong các yếu tố "ngoại lực" của mùa xuân,phải kể đến tiếng sáo: "Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáovọng lại, thiết tha bồi hồi…". Như vậy, với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của tình yêu, củakhát vọng ham sống. Trong không khí ấy, Mị lại được kích động bởi men rượu: "Mị lén lấy hũ rượu, cứuống ực từng bát". Cách uống rượu ấy như báo trước một sự nổi loạn mà chính Mị cũng chưa ý thức rõ:"Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng (…), còn Mị thì đang sống về ngày trước".Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống "phi thời gian" lâu nay của mình. Tiếp đó,lòng ham sống trong cô trỗi dậy mãnh liệt: "MỊ thấy phơi phới trở lại". Phản ứng đầu tiên đên trong tâmtrí Mị là một ý nghĩ: "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không thèm nhớlại nữa…". Ý nghĩ về cái chết lúc này, là sự phản kháng quyết liệt với hoàn cảnh.Trong khi ấy tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ Mị. Nó là biểu tượng của sự sống mà bấy lâunay Mị đã quên, giờ đang trở lại. Tiêng sáo theo sát diễn biến tâm trang nhân vật. Tiếng sáo từ chỗ là mộtsự việc của thực tại bên ngoài (lơ lửng bay ngoài đường), đã trở thành sự hiện hữu của đời sống bên trong(rập rờn trong đầu).Từ những chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa. "Mị đến góc nhà, lấy ốngmở, xắn một miếng bỏ vào đèn cho thêm sáng". Hành động này có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn,soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ.Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt, cũng là lúc nó bị vùi dập một cách tàn bạo. A Sử bước vào,thản nhiên xách ra một thúng sợi đay, trói đứng Mị vào cột nhà.Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột nhà ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao kháthạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo, lạnh lùng. Lúc mới bị trói, Mị vẫn còn nhừ sống trong tâm trạngmê say với tiêng sáo ngó kia. Mị như quên mình đang bị trói, Quên những đau đớn thể xác, đến nỗi tronggiây phút khao cuộc sông mãnh liệt, Mị đã "vùng bước đi". Nhưng, thực tế phũ phàng là những vòng dâytrói đang thít chặt, dẫu mong ước mãnh liệt đến mấy, Mị cũng không vượt qua được. Hai biểu tượng củaước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chânngựa đạp vào vách khô khan."Mị không nghe tiếng sáo nữa chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách (…). Mị thổn thức nghĩ mìnhkhông bằng con ngựa – thực tại phũ phàng đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lênrằng, chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không thể tự giải thoát cho mình; đồng thời nó cũng hứahẹn những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.Sau đêm xuân bị trói đứng, tình cảnh u mê của Mị có phần trầm trọng hơn. Trước cảnh A Phủ bị tróiđứng, lúc đầu Mị là người hoàn toàn vô cảm, vô hồn; cô vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. A Phủ có là cáixác chết đứng đấy, Mị cũng thế thôi. Đôi mắt mở trừng trừng của A Phủ chẳng gợi cho Mị một điều gì.Nhưng như đã nói ở đoạn trên, khát vọng đi theo tiếng gọi tự do hãy còn đó trong hồn Mị. Không phảingẫu nhiên, hình ảnh ngọn lửa được tác giả lặp đi lặp lại nhiều lần trong một đoạn văn ngắn. Đấy là đoạnvằn miếu tả tâm lí nhân vật khá sâu sắc, tinh tế.Nhưng, cái gì đã khiến Mị trở lại với con người thật của mình? Một lần trở dậy, khi “ngọn lửa bập bùngsáng lên, Mị hé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuốnghai hõm má đã xám đen lại". Chao ôi nước mắt! Cái giọt đau, giọt khổ ấy đã làm Mị “chợt nhớ lại" việcMị bị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy như thế mà không lau được; Mị lại nhớ tới người đàn bàđã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ chỉ đêm nay là chết thôi. Tết năm trước đã thế, lần này trí nhớ củaMị lại lóe lên một cách vô thức. Và như một phản ứng dây chuyền nó nối lại ba số phận. Mị không cònsống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình có thể chếtthay cho A Phủ. Cô đã đứng lên trong một ý thức chấp nhận sự hi sinh về mình: lấy con dao nhỏ cắt dâycho A Phủ. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị trang văn. Hành động cửa Mị, tuykhông thể đoán trước, nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật. Bởi, Mị từng nguyện làm rẫy, chịukhổ để trả nợ cho bố, đã toan chết để tìm sự giải thoát thì lẽ nào lại không dám chết để cứu một con ngườivô tội?Nhưng, tính cách. Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên thú vị. Vừa mớinghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũngchạy theo. Một kết cấu thật chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình? Và "hai ngườilẳng lặng đỡ nhau lao xuống núi”.Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức: nhận thức thực tạixã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ, bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vôtội, và nhận thức "người" cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng "mình" cho nên, có thể nói, Mị cắt dâytrói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thông lí Pá Tra. Điều đó, hoàn toàn đúngvới lí luận cũng như thực tiễn thời đại. Dòng đầu tiên của Tuyên ngôn Đảng cộng sản, F. Angghen từngkhẳng định: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp. Áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị càngnặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng: mạnh mẽ.”Tuy nhiên, cách kết thúc của tác phẩm, chúng ta có thể thấy được, bởi Tô Hoài sáng tác thiên truyện nàysau Cách mạng tháng Tám. Trước đó không lâu, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng… đã không thểtìm được một con đường tốt đẹp cho nhân vật của mình. Còn Mị, và nhiều nhân vật khác trong các tácphẩm văn học Cách mạng, đã tìm ra con đường giải phóng thật sự, biết cách "cởi trói" cho mình trong quátrình đến với Cách mạng. Tô Hoài đã có được một tác phẩm thật ý nghĩa, góp phần vào viện bảo tàng conngười Việt Nam tiến lên dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Mị là nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôiCách mạng đương đại Việt Nam. Điều này chỉ có thể đạt được khi tác phẩm "chín” về nghệ thuật và đứngtrên tầm cao tư tưởng.Gần nửa thế kỷ đã qua, Vợ chồng A Phủ vẫn đứng vững trước thử thách của thời gian và công luận; nónhư chứng minh sức sống bất diệt của nghệ thuật. Và tôi muôn lấy câu nói của Sê-đư-rin để kết thúc bàivăn này: “Văn học nghệ thuật luôn đứng ngoài những quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừanhận cái chết".Phạm Thanh PTTH Hàm Rồng