Phân tích nỗi buồn ai biệt li trong đoạn trích Sau phút chia li

“Chinh phụ ngâm khúc” là khúc ngâm của người vợ có chồng đi chinh chiến ở nơi xa. Tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả tài hoa Đoàn Thị Điểm đã để lại cho ta một bài thơ nói về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến rất có giá trị

“Chinh phụ ngâm khúc” nguyên văn sáng tác bằng chữ Hán. Sau đó được nhiều dịch giả dịch sang chữ Nôm. Trong đó, bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm được cho là bản dịch xuất sắc nhất, chuyển tải trọn vẹn ý nghĩa và giá trị của văn bản. Thậm chí, bản dịch còn phổ biến và nổi tiếng hơn cả bản gốc.

Nhân đầu đời Cảnh Hưng, việc binh nổi dậy, người ta đi đánh giặc phải lìa nhà. Triều đinh thối nát cùng cực, nhân dân bị đẩy vào cuộc sống vô cùng khốn khó. Những cuộc khởi nghĩa của nông dân nổi lên. Các tướng lĩnh được huy động tung đi các nơi để đàn áp phong trào. Tác phẩm được viết lên từ chính biến động lịch sử, cuộc chiến tranh phi nghĩa này nhằm lên án, tố cáo chiến tranh.

Chinh phụ ngâm khúc là Khúc ngâm của người chinh phụ, là lời than thở của một phụ nữ có chồng ra chiến trường. Tác phẩm để cập đến vấn đề nhức nhối của thòi đại. Đó là mâu thuẫn giữa quyền sống, quyền hưởng hanh phúc với chiến tranh phi nghĩa.

Đoạn trích Sau phút chia li nằm ở phần đầu khúc ngâm từ câu 53 đến câu 64. Đoạn ngâm cho thấy tâm trạng cô đơn và nỗi sầu của người chinh phụ sau lúc tiễn đưa chồng ra trận. Nỗi sầu này vừa có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa, vừa thể hiện niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ. Bốn câu đầu diễn tả thực trạng cuộc chia li và nỗi sầu chia li ấy nặng nề như “phủ mây biếc, trải ngàn núi xanh”:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh

Phép đối được sử dụng triệt để: Chàng thì đi >< Thiếp thì về, Cõi xa mưa gió >< Buồng cũ chiếu chăn. Một câu thơ thì nói về chàng, một câu thơ riêng biệt nói về nàng như tạo nên vết cứa rõ ràng: chia ly. Chàng thì đi về nơi biên ải xa xôi, một mình đối mặt với bao khó khăn, gian nan chồng chất. Thiếp thì về với khuê phòng đầy ắp kỉ niệm, với nỗi nhớ mênh mang. Vừa mới đây thôi khuê phòng đầy ắp tiếng cười hạnh phúc. Bây giờ đã quanh vắng. hạn phúc lứa đôi chưa ấm gối mà cả hai cùng cô đơn, lẻ bóng.

Câu thơ thứ ba khuyết chủ ngữ, động từ “đoái trông” được đưa lên đầu câu gợi nên hình ảnh người chinh phụ với đôi mắt dăm đắm dõi theo bước đường của chinh phu. Nhưng bóng người chinh phu đâu thấy, trải theo cái nhìn lưu luyến của nàng là thiên nhiên mênh mông: “Tuôn màu mây biếc trái ngàn núi xanh”

Hình ảnh thiên nhiên mĩ lệ. Nhưng đó là tầng tầng lớp lớp cách chia. Không gian rợn ngợp sắc xanh chia phôi. Không gian ấy như đang tuôn trải ra mãi hút lấy bóng hình người chồng thân yêu của người chinh phụ. Nổi nhớ, nỗi cô đơn cũng cứ thế mà tuôn mãi, trải mãi theo không gian vời vợi, thăm thẳm đó.

Hình ảnh người chinh phu được tái hiện qua nỗi nhớ nhung, sầu muộn của người chinh phụ. Đó là hình ảnh một con người đang phải dấn thân vào chốn hiểm nguy nơi sa trường, phải xa người vợ trẻ yêu dấu. Tâm trạng của người chinh phu là tâm trạng lưu luyến, đầy nhớ thương. Với người ở lại, sự nhung nhớ bao giờ cũng đi kèm với nhẩm tính: người đi xa đã đến nơi nào. Người chinh phụ cũng tường ra nơi mà chồng đang đến:

Chốn Hàm kinh chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

Nhẩm tính nơi đến và cũng là thể hiện niềm lưu luyến, thiết tha gắn bó: “chàng còn ngành lại / thiếp hãy trông sang”, những hư từ “hãy “, “còn” đều nhằm tả sự tiếp diễn, cùng thể hiện niềm nhớ nhung của cả người chinh phu và chinh phụ. Nhưng ngay cả trong liền tưởng ấy, vết cứa chia ly vẫn ám ảnh, bủa vây ngập kín. Điệp từ “cách” (lặp 2 lần) và điệp ngữ “Hàm Dương”, “Tiêu Tương” quẩn quanh, quanh quẩn, càng gợi nên sự xa cách và nỗi buồn vời vợi. Ánh mắt đôi lứa thiếu niên vừa thoáng hi vọng đã vội tắt trong vô vọng:

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Nếu ở khổ thơ trên khoảng cách có vẻ được định hình thì câu thơ dưới khoảng cách lại được đẩy ra vô tận. Thời gian của cuộc tiễn đưa này dường như là vô hình. Nó đã vượt lên trên thời gian bởi đây không phải là cuộc tiễn đưa đầy vương vấn giữa hai người, cũng không phải là cuộc chia tay đột ngột giữa đoàn quân mà là cuộc chia tay từ đáy sâu tâm hồn, cho nên cùng trông lại mà cùng chẳng thấy. Quả là một cuộc tiễn đưa mà như ba lần đưa tiễn

Giữa họ bây giờ không chỉ là Hàm Dương và Tiêu Tương nữa mà là “mấy ngàn dâu” khiến cho không gian càng mênh mông, vời vợi. Hình ảnh chinh phu và chinh phụ thật đáng thương! Họ thiết tha được gắn bó, yêu thương nên ánh mắt cả hai đều hướng về nhau, tìm nhau: “cùng trông lại”. Nhưng cả hai đều gặp nghịch cảnh chia phôi, khao khát gắn bó mà chẳng được.

Họ cùng hướng về nhau mà chẳng thấy nhau, chỉ thấy sắc xanh nhàn nhạt, mờ mờ bảng lảng như khói phủ khắp không gian (xanh xanh), sắc xanh ấy thoắt chốc biến thành “xanh ngắt” đậm và gắt. Đó là sắc màu nhuốm tâm trạng. Đó là sắc xanh của trời cao đất rộng, nơi mà nỗi buồn, niềm cô đơn càng lúc càng se thắt lại, kết đọng đến nhức nhối trong một tiếng “sầu”.

Sự chia li ở đây là cuộc sống thể xác nhưng tình cảm vẫn gắn bó, thiết tha. Do đó, không chỉ nói đến việc chia li mà còn nói đến sự oái oăm, nghịch chướng: gắn bó mà phải chia li. Nếu đoạn trên, sự xa cách còn có địa danh để đo sự xa cách thì ở khổ thơ cuối, sự xa cách hoàn toàn mất hút vào màu xanh rồi màu xanh ngắt. Màu xanh ở đây không liên quan gì đến niềm hi vọng mà gợi tả cảnh trời cao, đất rộng, thăm thẳm, mênh mông, nơi gửi gắm nỗi sầu chia li. Chữ “sầu” câu cuối đúc kết thành một núi sầu, một khối sầu vạn cổ.

Điệp ngữ vòng “cùng”, “thấy”, “ngàn dâu” tạo nên nhịp điệu chậm, thể hiện không gian xa cách mỗi lúc càng bát ngát, rộng lớn hơn, chỉ ra hiện thực phũ phàng, đồng thời cũng diễn tả nỗi niềm miên man mỗi lúc một vô vọng của người vợ trẻ. Câu hỏi tu từ cuối bài trực tiếp nói lên nỗi sầu. Hỏi không phải để so sánh xem ai buồn hơn ai ? Mà để khẳng định mối u sầu, quẩn quanh, bế tắc, cứ đẩy lên, cứ rối lên, thổn thức hoài trong lòng người chinh phu chinh phụ. Câu hỏi tu từ ấy cứ vương vít mãi trong lòng người đọc. Yêu thương tha thiết đến thế mà phải chia li! Cuộc chiến nào mà chi sau phút chia li kẻ đi và người ở lại đã sầu đau, vô vọng? Cuộc chiến nào mà nỡ chia rẽ hạnh phúc lứa đôi ? Hẳn đó chẳng phải là cuộc chiến tranh vệ quốc chính nghĩa. Thế nhưng, nào phải như thế. Lòng tham của kẻ tàn bạo đã đẩy biết cao con người phải bước vào cuộc binh đao tàn khốc. Ý nghĩa tố cáo chiến tranh toát lên từ ý thơ này.

Bút pháp tiêu biểu của đoạn trích tả cảnh ngụ tình. Bức tranh thiên nhiên rộng lớn, đẹp nhưng mang tính ước lệ (mây biếc núi xanh, Hàm Dương, Tiêu Tương, ngàn dâu) tạo ấn tượng về thiên nhiên dường bị xoá nhoà hết nét cụ thể. Nổi bật trên nền thiên nhiên đó là tâm trạng buồn bã sau phút chia ly của chinh phu chinh phụ.


Sau phút chia li là một đoạn thơ đầy ứ nước mắt và nỗi khổ đau. Càng cảm thông cho nỗi đau chia biệt của người chinh phụ, ta càng căm phẫn thế lực thống trị đã nhẫn tân gây nên cảnh chia lìa, phá tan cuộc sống yên bình và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đoạn thơ cũng là tiếng nói, là tấm lòng yeu thương con người thiết tha của tác giả Đặng Trần Côn.

Phân tích nỗi buồn ai biệt li trong đoạn trích Sau phút chia li
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Phân tích đoạn trích Sau phút chia li

[rule_3_plain]

Sau phút chia li là bài thơ trích trong khúc ngâm diễn tả nỗi nhớ da diết của người chinh phụ sau khi tiễn chồng ra lên đường ra nơi binh đao loạn lạc. Để hiểu hơn về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ này, Học247 mời các em cùng tham khảo bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Sau phút chia li dưới đây. Chúc các emm học tập thật tốt nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Sau phút chia li.

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

2. Dàn bài chi tiết

a. Mở bài:

– Giới thiệu khái quát về tác giả Đặng Trần Côn và các bản diễn Nôm

– Giới thiệu khái quát về tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc và đoạn trích Sau phút chia li (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)

b. Thân bài:

* Nỗi buồn của lòng người trước cuộc chia li

– Hai câu thơ đầu

“Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn”

+ Chàng, thiếp: cách xưng hô thân mật, gần gũi, thể hiện cuộc sống vợ chồng đang mặn nồng, yên ấm, hạnh phúc → Nhưng lại phải gặp cảnh chia xa không biết ngày gặp lại.

+ Các hình ảnh mang tính tượng trưng:

Cõi xa mưa gió – chỉ nơi chiến trường hiểm nguy, xa xôi mà người chồng đi đến – khiến người vợ lo lắng khôn kể
Buồng cũ chiếu chăn – chỉ ngôi nhà, mái ấm của đôi vợ chồng, đồng thời còn mang ý chỉ những kỉ niệm mặn nồng quấn quít của 2 người thuở chưa chia xa.

→ Các hình ảnh được xuất hiện trong thế đối lập;

Cõi xa mưa gió – buồng cũ chiếu chăn
Chàng đi – thiếp về

→ Hành động đối ngược đi – về khiến khoảng cách giữa 2 người ngày càng xa, cùng với đó khiến cho sự nuối tiếc, nhớ thương của người chinh phụ ngày càng da diết

→ Chàng thì ra nơi chiến trận hiểm nguy, thiếp trở về với tổ ấm hạnh phúc cô đơn, từ đó, nhấn mạnh sự xa cách khắc nghiệt và hiện thực chia li phũ phàng.

– Hai câu thơ sau

“Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh”

+ Hành động “đoái trông” chỉ trạng thái quay đầu nhìn lại phía sau của nhân vật

→ Cuộc chia li đã kết thúc, người chinh phu cũng đã đi về nơi chiến trường xa xôi

→ Nhưng người chinh phụ vẫn cố quay đầu lại để tìm kiếm, níu giữ thêm một chút hình ảnh người chồng của mình.

→ Nhưng tiếc thay, nàng không thể nhìn thấy hình ảnh mà mình vẫn mong chờ.

+ Những hình ảnh mà người chinh phụ nhìn thấy khi quay đầu nhìn lại:

Tuôn màu mây biếc
Ngàn núi xanh

→ Đây không phải là những hình ảnh tả thực – mà đều là các hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng:

Những đám mây trên trời không ngừng trôi – từ “tuôn” khiến những đám mây như dòng lệ chảy không ngừng
Núi xanh trở thành rào cản khổng lồ, dày đặc ngăn cách đôi vợ chồng không thể nhìn thấy nhau

→ Thiên nhiên trong mắt người chinh phụ đã trở thành một vách ngăn kiên cố khiến cho nàng không thể nhìn thấy chồng mình.

⇒ Khúc ngâm một đã vẽ nên không gian rộng lớn vô cùng, vô tận khắc họa sâu sắc tình cảnh chia xa bi thương đến nao lòng của nàng chinh phụ.

* Nỗi buồn xót xa, quyến luyến khi phải xa cách 

“Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng”

– 2 địa danh Hàm Dương và Tiêu Tương là 2 địa danh có thực những cách nhau rất xa

→ Ở đây, 2 địa danh này được sử dụng với ý nghĩa tượng trưng cho sự xa cách của 2 vợ chồng – mỗi người ở một nơi, quá xa xôi, không thể nhìn thấy nhau được.

– Hình ảnh bến Tiêu Tương và Hàm Dương được lặp lại nhiều lần trong khổ thơ:

Nhấn mạnh sự xa cách của đôi vợ chồng chinh phu
Tượng trưng cho chính hình ảnh 2 người, người vợ chính là bến Tiêu Tương, người chồng là cây Hàm Dương – họ mong ngóng nhau nhưng không thể gặp được, như 2 mảnh đất ở 2 miền xa xôi không ngày chạm được vào nhau.

→ 2 con người, 2 miền đất xa nhau đến “mấy trùng” – sự xa cách không thể đoán định, ước lượng được, giống như nối nhớ thương, đau buồn không gì ngăn trở nổi của 2 vợ chồng.

– Hình ảnh đôi vợ chồng chinh phu:

Xưng hô: thiếp – chàng → Thể hiện tình cảm mặn nồng
Hành động: ngảnh lại – trông sang → Hành động mang sự tương đồng về trạng thái và mục đích – cả 2 người đều muốn nhìn thấy đối phương, tìm kiếm hình ảnh đối phương trong đau buồn, nhớ thương → Thể hiện tình cảm đậm sâu, quyến luyến, đồng điệu của 2 vợ chồng

→ Chính 2 người càng yêu thương, mặn nồng thì nỗi đau buồn khi phải cách xa không biết ngày gặp lại được đẩy lên đến đỉnh điểm, khiến người đọc không khỏi xót xa.

→ Từng câu chữ, hành động trong câu thơ thể hiện một cách rung động những da diết, nhớ nhưng sầu thương đến đau lòng của người chinh phụ dành cho chồng mình khi đã chia xa.

* Nỗi sầu thương trước cảnh vật rộng lớn

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

– Một lần nữa, hành động, tình cảm của đôi vợ chồng chinh phu lại đồng điệu với nhau: Cùng trông lại – cùng chẳng thấy

→ Điệp ngữ “cùng” giúp người đọc cảm nhận được sự đồng cảm trong suy nghĩ của 2 người – rằng cả 2 vợ chồng đều đang nghĩ, đang nhớ đến nhau.

→ Tiếc thay họ lại đều không nhìn được nhau – đây là bi kịch vô cùng đau khổ của đôi vợ chồng yêu thương nhau thắm thiết.

– Hình ảnh “ngàn dâu” mang tính ước lẹ, tượng trưng, được sử dụng để chỉ khoảng cách xa xôi, bất tận giữa 2 người → Đôi với người vợ đó là khoảng cách vô cùng vô tận, không có điểm cuối – thể hiện sự tuyệt vọng, đau khổ, dày vò trong lòng nàng.

– Phép điệp từ vòng (điệp từ chuyển tiếp):

Điệp từ “thấy” – thể hiện sự triền miên, kéo dài của hành động nhìn về phía nhau của 2 vợ chồng – dù không nhìn thấy nhau nhưng họ vẫn đứng vọng về đối phương mãi không ngừng
Điệp ngữ “ngàn dâu” – nhấn mạnh sự xa cách dằng dặc giữa 2 vợ chồng, khi nối tiếp nhau là vô tận những ngàn dâu

→ Những hình ảnh điệp ấy đã góp phần thể hiện sâu sắc tình cảm nhớ thương da diết và nỗi đau khổ đến bất lực giữa không gian ngăn cách rộng lớn. Đồng thời khiến cho nhịp điệu câu thơ trở nên nhịp nhàng, tha thiết hơn.

– Câu hỏi cuối bài là một câu hỏi tu từ: “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”

→ Câu hỏi này như một tiếng thở dài đầy u oán, não nề và bất lực của người chinh phụ – khi nỗi buồn đâu, nhớ thương dồn nén, chất chứa trong lòng không biết phải tỏ với ai

→ Thể hiện nỗi cô đơn, trống trải đến tột cùng của người chinh phụ – khắc họa rõ nét tình cảnh đáng thương của người chinh phụ.

→ Lên án, tố cáo những cuộc chiến tranh phi nghĩa khiến cho cuộc sống người dân lầm tha, chịu cảnh xa cách trong xã hội phong kiến ngày xưa.

c. Kết bài:

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

+ Nội dung: nỗi sầu muộn của người chinh phụ và sự lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa

+ Nghệ thuật: ngôn từ điêu luyện, nghệ thuật đối lập, sử dụng điệp ngữ…

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Em hãy viết một bài văn phân tích đoạn trích Sau phút chia li của Đặng Trần Côn.

Gợi ý làm bài:

3.1. Bài văn mẫu số 1

“Sau phút chia li” trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn là khúc ngâm cứa sâu vào lòng người đọc nhiều nỗi niềm xót xa. Có người cho rằng đoạn trích này là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, nhưng có người lại nói của Phan Huy Ích. Tuy nhiên của nhà thơ nào thì nó vẫn là những áng thơ phản ánh chân thực, sâu sắc nhất tình cảnh lẻ loi, đơn độc của người phụ nữ khi có chồng ra trận. Đoạn trích này thực sự đã lột tả được tình cảnh thê lương của những cặp vợ chồng trẻ trong năm tháng chiến tranh ác liệt.

Thời kì phong kiến, có nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa diễn ra đã lôi kéo rất nhiều người vào vòng xoáy này. Cuộc sống cơ cực, nỗi chia ly, tan tác cứ triền miên không có lối thoát. Khúc ngâm này chính là tiếng khóc ai oán của người chinh phụ khi có chồng ra trận mà không hẹn ngày về. Với những đặc trưng của thể ngâm cũng như của thơ Nôm, tác giả đã lột tả được diễn biến tâm lí một cách sâu sắc nhất.

Ngay từ những câu thơ đầu đã nói lên tình cảnh chia ly đầy đau đớn và xót xa của đôi vợ chồng trẻ. Tác giả đã diễn tả một cách chân thực, sâu sắc tâm trạng u sầu này:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh

Chỉ với 4 câu thơ nhưng đã khắc họa rõ nét tâm trạng của người vợ trẻ sau khi tiễn chân chồng ra trận. Một tình cảnh đối lập, khắc nghiệt đến tái tê được gợi lên trong không gian dài và rộng, sâu và xa. Chàng và thiếp, mỗi người một ngả, mỗi người một nơi. Biện pháp tương phản được tác giả sử dụng một cách khéo léo. Là vợ chồng trẻ, gắn bó mặn nồng với nhau nhưng lại chia ly đau lòng nhưng chỉ biết câm nín.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Những địa danh Hàm Dương, Tiêu Tương không phải dùng để tả thực mà chỉ mang ý nghĩa tượng trưng cho hai vị trí xa cách của đôi vợ chồng. Ở khổ thơ thứ hai này, cũng vẫn bằng cách nói tương phản “Chàng còn ngoảnh lại… Thiếp hãy trông sang” phối hợp cách điệp từ và đảo vị trí của hai địa danh “Chốn Hàm Dương – Bến Tiêu Tương, Bên Tiêu Tương – Cây Hàm Dương”, tác giả muốn chia đều cảm xúc của hai người, nhấn mạnh nỗi sầu xa cách. Tình cảm buồn thương, nhung nhớ cứ tăng dần, tăng dần.

Điều đó cho thấy sự chia li ở đây là chia li về cuộc sống và thể xác, còn trong tình cảm, tâm hồn hai vợ chồng ấy vẫn gắn bó thiết tha. Họ vẫn hướng về nhau, dõi theo, để tìm nhau, nhìn thấy nhau. Nhưng càng hướng về nhau thì không gian, thời gian càng đẩy họ xa nhau. Ở đoạn trên chỉ là “cách ngăn” đến đây sự cách ngăn thành “cách mấy trùng”. Do đó, lời thơ không chỉ biểu hiện nỗi sầu chia li mà còn nhấn mạnh sự oái oăm, nghịch chướng: gắn bó mà phải chia xa, càng dõi nhìn nhau, càng không thấy nhau… Đến khổ thơ thứ ba thì nỗi sầu chia li, cảnh nghịch chướng càng tăng thêm nữa:

Càng trông lại mà càng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Ở đoạn này, nghệ thuật đối nghịch được bổ sung bằng những điệp từ, điệp ngữ rất ấn tượng : cùng, thấy, xanh xanh, xanh ngắt, ngàn dâu,… Ở trên, ít ra còn có tên hai địa danh Hàm Dương và Tiêu Tương gợi một ý niệm về địa điểm cụ thể, về vị trí hai người để có thể hướng tới nhau. Đến đây, mọi địa điểm, vị trí bị xoá mờ, hai hình hài chàng và thiếp cũng bị xoá mờ. Chỉ còn lại ngàn dâu, rất nhiều ngàn dâu nối nhau “xanh xanh” rồi “xanh ngắt” mênh mông khắp trời. Choán tất cả vũ trụ là màu xanh, xanh đến rợn ngợp, xanh não né, nhức buốt tận đáy lòng. Từ ghép “xanh ngắt” với thanh “sắc” ở tiếng “ngắt” như mũi kim chích vào da thịt vậy.

Câu hỏi tu từ ở cuối đoạn trích như dao cứa “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” Hỏi người nhưng cũng là tự hỏi bản thân mình. Hỏi người có sầu hơn không nhưng câu thơ lại không có ý so sánh ai sầu hơn ai. Dường như nó chỉ muốn nhấn mạnh rằng nỗi sầu thương đã rơi vào bế tắc đến cùng cực mà thôi.

Đoạn trích “Sau phút chia ly” đã khắc họa được diễn biến tâm lí của người ở lại khi phải chứng kiến cảnh chồng ra trận không hẹn ngày về. Qua đó tác giả tố cáo chiến tranh phi nghĩa đẩy con người vào tình cảnh đó.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Trong văn chương từ khúc Việt Nam, Chinh phụ ngâm khúc nổi lên như một viên kim cương óng ánh sắc màu. Cả bản nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn và bản diễn nôm của Đoàn Thị Điểm đều là những kiệt tác nghệ thuật bất hủ.

Chinh phụ ngâm khúc ra đời vào đầu thế kỉ XVIII, cái thời mà chiến tranh loạn lạc kéo dài dẫn đến bao cảnh chia li bi thương sâu thiết:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiên Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

(Sau phút chia li – Trích Chinh phụ ngâm khúc)

Mười hai câu song thất lục bát với giọng điệu lâm li, vừa bùi ngùi xót xa cho chính mình, vừa vời vợi nỗi sầu nhớ thương, đọc xong rồi cứ ám ảnh mãi. Người chinh phu và người chinh phụ còn trẻ tuổi, đang trong tình vợ chồng gắn bó yêu thương bỗng vì đâu mà ra nông nỗi:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Chàng thì đi – Thiếp thì về, hai hình ảnh tương phản nhau như hình sự ngăn cách nghiệt ngã. Dường như người vợ cũng cảm nhận thấm thía điều đó. Và nỗi sầu đã nhuốm cả không gian: Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh. Ngàn núi xanh đã chia cách họ mà tâm lòng nhớ thương vẫn cứ đau đáu dõi về nhau:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Từ Chốn Hàm Dương- Bến Tiêu Tương đến khói Tiêu Tương- Cây Hàm Dương thì sự xa cách đã lên đến mấy trùng, cũng như nỗi sầu đã dâng lên trùng trùng lớp lớp trong lòng người chinh phụ:

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”

Lòng có hướng về nhau, có “cùng” nhưng khoảng cách nơi xa xôi vẫn “cùng chẳng thấy”, trước mắt chỉ là ngàn dâu với một màu xanh. Chữ “xanh” như bao phủ lấy những câu thơ, cả không gian bao phủ bởi chỉ một màu xanh. Xanh ấy ban đầu chỉ là “xanh xanh” rồi thành “xanh ngắt” cũng như nỗi sầu buồn của “thiếp” ngày càng dâng cao, đến mức cực điểm rồi. Các câu thơ cứ trùng trùng điệp điệp như những con sóng với phép điệp ngữ vòng như những đợt sóng lòng nơi người chinh phụ cứ miên man không dứt, cứ để nỗi buồn tràn ra ngoại cảnh, trong ngàn dâu chẳng biết đâu là bến bờ. Câu thơ cuối cất lên đầy ám ảnh: “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” Khi con người không còn đủ tỉnh táo, họ chỉ có thể đặt ra những câu hỏi mình không trả lời, cũng chẳng để ai trả lời. Ai đâu có biết nỗi buồn của “thiếp” sâu đến nhường nào cũng như “thiếp” đâu có biết lòng chàng đến đâu, chàng sống chết ra sao rồi?

Chỉ 12 câu thơ mà cả biển trời nhung nhớ với những đợt sóng lòng trào lên không dứt, ngày một dữ dội hơn. Nỗi cô đơn và đợi chờ trong khắc khoải, vô vọng có gì giống chăng với người cung nữ cất tiếng ai oán cho cuộc đời mình khi dành cả thanh xuân tươi đẹp trong cung để chờ đợi và hi vọng vua sẽ tới. Vì sao họ lại khổ đau như thế? Câu thơ là tiếng nói tố cáo mạnh mẽ chiến tranh phi nghĩa đã tước đi quyền được sống, được hạnh phúc của con người. Từ đó, có thể thấy từng giọt lệ của tác giả đang nhỏ trên trang viết, lòng cảm thương sâu sắc, đồng cảm với khát vọng hạnh phúc sau mỗi con chữ. Đó mới chính là điều tạo nên giá trị và sức sống cho những câu thơ qua hàng thế kỉ.

Có những con người đã nằm xuống, những trang sử đã sang trang theo thời gian nhưng những dòng thơ, những con chữ thì còn mãi. “Chinh phụ ngâm” là một tác phẩm như thế.

——Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp——

Nỗi niềm những con người bị áp bức qua bài ca dao Nước non lận đận một mình

1971

Phân tích cái hay cái đẹp của bài ca dao Đường vô xứ Huế quanh quanh

6256

Phân tích bài ca dao Công cha như núi ngất trời

13886

Hãy nêu cảm nghĩ của em về tình anh em trong văn bản Cuộc chia tay của những con búp bê

14537

Phát biểu cảm nghĩ về văn bản Cuộc chia tay của những con búp bê

5475

Phân tích văn bản Mẹ tôi của Ét-môn-đô-đơ A-mi-xi

6483

[rule_2_plain]

#Phân #tích #đoạn #trích #Sau #phút #chia