Phân tích nội dung của luận de chính nghĩa trong Bình Ngô đại cáo

Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba có công lớn trong công cuộc dẹp giặc Minh đem lại nền thái bình thịnh trị cho nước nhà. Ông còn là một nhà văn nhà thơ lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó phải kể đến một số tác phẩm như: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập… Đại cáo bình Ngô được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Trong đó, cốt lõi là phần đầu tác phẩm với lý tưởng nhân nghĩa được thể hiện rõ ràng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia.

Nguyễn Trãi thật tài tình khi nhận ra và khai sáng thành công vấn đề cốt lõi ấy. Việc nhân nghĩa tiếp theo chính là “trừ bạo” ý nói đến quân Minh, bọn gian tà chuyên đi bóc lột nhân dân. Bọn chúng thẳng tay hành hạ, cướp bóc, vùi dập dân ta trong vực thẳm của sự đau khổ. “Yên dân”, “trừ bạo”, hai việc này tưởng như không liên quan đến nhau nhưng lại là hai yếu tố có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, vì nếu không yên dân tất trừ bạo khó yên, chúng được nhấn mạnh và tiến hành cùng lúc, thống nhất với nhau. Quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược, cụ thể là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân, gây ra bao tai hoạ.

Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trướcVốn xưng nền văn hiến đã lâuNúi sông bờ cõi đã chiaPhong tục Bắc Nam cũng khác”Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lậpĐến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập.Nếu như 400 năm trước, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, NguyễnTrãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Đây chính là điểm sáng tạo cho thấy trí tuệ của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một quốc gia, nền văn hiến ngàn năm không ai có thể nhầm lẫn được, cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng. Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “ Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy. Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại Việt.

Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như toàn diện về nền độc lập của một quốc gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ngoài ra , để nhấn mạnh tư cách độc lập của nước ta, tác giả còn sử dụng cách viết sánh đôi nước ta và Trung Quốc: về bờ cõi, phong tục - hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta so với bốn triều đại của Trung Quốc cùng nhân tài thời nào cũng có đã chứng tỏ ta không hề thua kém chúng.

Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác” đã làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là chứng cớ để khẳng định nền độc lập, về các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử chúng đều thất bại là chứng cớ khẳng định rõ nhất:

Vậy nên:Lưu Cung tham công nên thất bạiTriệu Tiết thích lớn phải tiêu vongCửa Hàm Tử bắt sống Toa ĐôSông Bạch Đằng giết tươi Ô MãViệc xưa xem xét

Chứng cứ còn ghi.

Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.

Đại cáo bình Ngô tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Trong đó, phần đầu tác phẩm, với nghệ thuật biền ngẫu, đã nêu được hai nội dung chính gần như hết bài cáo là nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc Đại Việt. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình. Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.

Để hiểu rõ hơn tư tưởng chính nghĩa của Nguyễn Trãi, chúng ta hãy cùng xem phân tích luận điểm vừa nêu trong đoạn đầu của bài Bình Ngô Đại Cáo hôm nay. Bài viết này sẽ cho chúng ta hiểu rõ về quan niệm nhân nghĩa, tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đã khẳng định và tội ác của quân nhà Minh khi chúng xâm lược nước Đại Việt của chúng ta.

Bạn đang xem: Luận đề chính nghĩa trong bình ngô đại cáo

đề tài: Phân tích luận điểm vừa nêu trong đoạn đầu của Bình Ngô Đại Cáo.

Nội dung bài viết:I. Tổng quan chi tiếtII. bài văn mẫu

Phân tích luận điểm vừa nêu trong đoạn đầu của Bình Ngô Đại Cáo.

I. Khái quát Phân tích những luận điểm được nêu trong đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo (Chuẩn).

1. Khai giảng lớp:

Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa, một chiến sĩ và một nhà thơ tài năng.– Tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của ông được coi là bản tuyên ngôn độc lập.– Đoạn đầu của tác phẩm là một lí lẽ chính đáng mà Nguyễn Trãi muốn gửi gắm.

2. Phần thân bài:

một. Các tình huống tạo nên:

Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thành công, Lê Lợi cử Nguyễn Trãi viết thư cho nhân dân.– Được viết và xuất bản vào tháng 12 năm 1428.

cơn mưa. Các bài báo chính trị:

Suy nghĩ của Nguyễn Trãi về con người (hai câu đầu):+ “Nhân nghĩa”: quan hệ tốt đẹp giữa người với người dựa trên nền tảng đạo đức và tình thương yêu là truyền thống Nho giáo và là lời dạy của bậc thánh hiền.+ Trong suy nghĩ của Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” là “yên dân”, dẹp loạn, dẹp giặc – “trừ bạo”, để dân được ấm no.+ Tư tưởng này đã theo Nguyễn Trãi suốt cuộc đời.

– Sự thật về sự tồn tại độc lập của Đại Việt (8 câu tiếp theo):+ Đảm bảo độc lập về mọi mặt: lãnh thổ, văn hóa, phong tục tập quán, nhân tài v.v.+ Đại Việt có nền văn hiến lâu đời, có chủ quyền lãnh thổ riêng, phong tục tập quán khác với Bắc Triều Tiên.+ Tác giả liệt kê các triều đại Việt Nam so với các triều đại Trung Quốc. Cho thấy vị trí của Đại Việt trong lịch sử.+ Từ “Hoàng đế”: Đại Việt có “Vùng” nhưng không có “Vua”. Vị trí của Đại Việt cũng tương tự như của Trung Quốc.+ “Khủng bố”: người anh hùng của đất nước ta luôn có lời răn đe của Nguyễn Trãi đối với kẻ thù.+ Tác giả khẳng định chân lý tồn tại của Đại Việt bằng cách sử dụng hàng loạt từ ngữ hiển nhiên: “trước đây”, “lâu đời”, “bao đời nay”.

– Sự thất bại của kẻ thù trong trường hợp xâm phạm chủ quyền của Đại Việt (6 câu cuối):+ Lưu Cung của Ngô Quyền, Triệu Tiết của Lý Thường Kiệt, …+ Từng câu thơ tăng dần cấp độ. Chúng ta khẳng định vẻ vang của quân và dân ta, khẳng định sự thất bại nặng nề của kẻ thù, bày tỏ lòng căm thù giặc.+ Giọng hùng tráng, hùng tráng thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc.

tất cả. Giá trị nội dung và nghệ thuật:

– nội dung:+ Thể hiện những suy nghĩ đúng đắn của Nguyễn Trãi.+ Sự khẳng định sự thật về độc lập, chủ quyền của Đại Việt.+ Đánh tan kẻ thù trong cuộc xâm lược Đại Việt.+ Toàn bộ tác phẩm là lời tri ân tội ác của giặc và tri ân khởi nghĩa Lam Sơn.

– Nghệ thuật:+ Giọng chính luận xen lẫn cảm hứng trữ tình.+ Ca từ hào hùng, mạnh mẽ.+ Lập luận chặt chẽ, sắc bén.

Xem thêm: Tổng Hợp 13 Món Ăn Từ Cá Hồi Nấu Món Gì? 12 Cách Chế Biến Cá Hồi Dễ Mà Cực Ngon

3. Kết luận:

Chính kiến ​​của Nguyễn Trãi là những suy nghĩ đúng đắn, sâu sắc.

II. Phân tích các luận điểm vừa nêu trong đoạn đầu bài văn mẫu Bình Ngô Đại Cáo (Chuẩn)

Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa lỗi lạc, một bậc minh quân, một nhà thơ tài hoa với cả một đời làm việc. Tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” của ông được coi là Tuyên ngôn độc lập của nước ta. Đoạn đầu của bài “Bình Ngô Đại Cáo” được Nguyễn Trãi viết với lòng tự tôn, tự tôn dân tộc, thể hiện ý nghĩa, logic và lời cảnh báo mà ông muốn gửi gắm đến mọi người. quân xâm lược phương bắc.

“Bình Ngô đại cáo” là một tác phẩm chính luận xuất sắc, nguyên tác của Nguyễn Trãi. Bài thơ này được viết vào năm 1428 sau khi quân ta đại thắng phương bắc đánh tan 150 vạn quân xâm lược. Nguyễn Trãi được lệnh của vua Lê Thái Tổ lập tờ sớ báo cáo toàn quốc đánh thắng quân Minh xâm lược. Bài cáo này của Nguyễn Trãi vừa mang những nét cơ bản của hình thức văn xuôi, vừa mang những nét sáng tạo của chính nhà thơ. Đây là một ‘câu chuyện cổ tích anh hùng’ lên án mạnh mẽ hành động tàn ác của quân xâm lược và ca ngợi cuộc khởi nghĩa Ramson giành độc lập, tự do của dân tộc ta. Đoạn đầu của tác phẩm ta có thể thấy được cách lập luận của Nguyễn Trãi. Nó bao gồm tư tưởng nhân văn, sự thật về sự tồn tại độc lập của đất nước Đại Việt chúng ta, và một kết cục bi thảm. Đánh tan giặc ngoại xâm Đại Việt.

Ngay khi bắt đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã khẳng định ngay rằng những tư tưởng nhân văn cháy bỏng trong tâm trí ông là chân lý, cơ sở, tiền đề lý luận muôn thuở của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

“Bản chất của loài người là sự nghỉ ngơi trong hòa bình.Quân đội bị trừng phạt trước hết để diệt trừ bạo lực. “

“Nhân hòa” được hiểu là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với nhau được xây dựng trên nền tảng đạo đức và tình yêu thương. Đây là tư tưởng truyền thống của Nho giáo và đã được các bậc thánh hiền truyền dạy từ xa xưa. Nguyễn Trãi đã dùng lời lẽ của bậc hiền triết để nâng đỡ tư tưởng của mình. Khi nghĩ đến cảnh đất nước ta bị giặc Minh giày xéo, thì nghĩ đến “nhân nghĩa” là “dĩ hòa vi quý”, nghĩa là thương dân, cầu mong thái bình thịnh trị. Tuy nhiên, việc nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta là trái lẽ thường và trái pháp luật. Vì vậy, nếu muốn đem lại ‘lòng nhân ái và công lý’ cho nhân dân, thì phải trừng trị họ và chiến đấu tàn bạo với quân xâm lược nhà Minh để trừ bớt thiệt hại cho nhân dân. Anh ấy là một vị thánh làm điều tốt ”. Tư tưởng nhân nghĩa của ông đã theo ông và trở thành mục tiêu cả đời của Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi không chỉ nói lên tư tưởng của nhân loại mà còn khẳng định chân lý về sự tồn tại độc lập của nước Đại Việt ta:

“Giống như Diviet của đất nước chúng tôi,Là một nền văn minh cổ đại,Núi và sông tách biệt,Phong tục miền Nam và miền Bắc cũng khác nhau.Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần đã xây dựng nền độc lập, tự chủ từ bao đời nay.Cùng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi trại đều xưng đế một phương.Dù mạnh hay yếu theo thời gian,Nhưng anh hùng nào cũng có. “

Nếu trước đây Lý Thường Kiệt khẳng định chân lý độc lập dân tộc bằng bài thơ “Nam quốc sơn hà” thì nay Nguyễn Trãi một lần nữa khẳng định chân lý độc lập muôn đời của nước ta. Ông chỉ ra những khía cạnh khẳng định chủ quyền của nhà nước: văn hóa, lãnh thổ, phong tục tập quán, trạng thái, nhân tài. Và tất cả những khía cạnh đó đã có từ thời xa xưa. Lịch sử của đất nước Đại Việt chứa đầy những nét văn hóa riêng và những dấu tích của đất nước mình. Không chỉ được phân định rõ ràng về ‘đất đai’ mà còn có sự khác biệt về ‘phong tục’ và ‘văn hóa’ không thể trộn lẫn. Có lẽ lịch sử Đại Việt không dài bằng thời bắc thuộc, nhưng so với “Hán, Đường, Tống, Nguyên” thì Đại Việt không thua kém gì các triều đại “Trừng, Đinh, Lý”. Trần “. Dù ở thời đại nào, ở triều đại nào, Đại Việt và Trung Quốc luôn tồn tại song hành và mãi mãi là anh hùng bất tử. Nguyễn Trãi liệt kê hàng loạt các triều đại nước ta đã sát cánh với Trung Quốc, thế nên vị thế của Đại Việt. đã rộng lớn từ khi thành lập, không yếu hơn vị thế của một nước phương bắc và nhấn mạnh rằng nước ta có thể tự cường, nước có “hoàng đế” riêng, tuy là hoàng đế riêng nhưng Đại Việt không phải là một “vua” chứ không phải là chư hầu của “vùng” phương Bắc. Cũng vậy, người anh hùng, bậc hiền triết của nước ta không thiếu, bởi “thiên tài là cội nguồn sinh khí của dân tộc.” Cảnh báo, khẳng định rằng sự thật về sự tồn tại độc lập của Đại Việt và càng tăng thêm sức thuyết phục, ông cũng luôn sử dụng những từ hiển nhiên như “trước đây”: “từ rất lâu rồi”, “chia cắt”, “vẫn còn”, “từ rất lâu rồi”, … Xuyên suốt. bài thơ.

Sự thật về độc lập, chủ quyền của dân tộc ta đã được lịch sử chứng minh, phản ánh sự thất bại của kẻ thù xâm lược Đại Việt. Những lời cảnh báo của Nguyễn Trãi càng được củng cố khi ông giải thích một loạt những thất bại lịch sử mà quân phương bắc phải đối mặt khi họ âm mưu xâm phạm chủ quyền của Đại Việt.

“Để cho nó được:Lưu Công là một người tham công tiếc việc và thất bại.Triệu Tiết thích chết lớn,Hamtumun, Toa cũng bị bắt sốngSông Bạch Đằng giết Ô Mã.đánh giá cuối cùng,Bằng chứng vẫn còn đó. “

Bài thơ này đã thể hiện chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta trong lịch sử lâu dài chống giặc ngoại xâm phương Bắc. Khi “Lưu Cung” cùng con là Hoàng Cảo đem quân sang xâm lược nước ta, thua trận dưới tay Ngô Quyền, “Triệu Tiết” bị Lý Thường Kiệt đánh bại … Sau đó, Toa Đô bị bắt. . Ô Mã quê ở cửa Hàm Tử, vừa chết ở sông Bạch Đằng. Các từ có sức mạnh, uy nghi, phù hợp, rõ ràng và anh hùng, thể hiện niềm tự hào và tự hào. Càng gần đến câu cuối, chúng ta càng thấy rõ quân dân ta, chiến thắng lẫy lừng của Đại Việt, đại bại của quân đội phương bắc, lòng khinh bỉ và căm thù quân xâm lược. Rốt cuộc vạn vật chỉ có một, thành bại dưới tay dân tộc ta.

Đoạn đầu của bài “Đại Cáo Bình Ngô” khẳng định tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và nói lên sự thật về sự tồn tại độc lập của Đại Việt, cũng như hậu quả thảm khốc của những cuộc xâm lăng của kẻ thù khắp nơi. lịch sử của dân tộc ta. Toàn bộ nhiệm vụ là ca ngợi cuộc nổi dậy Ramson và lên án mạnh mẽ những hành động tàn ác của quân xâm lược. Điều xứng đáng trở thành bản tuyên ngôn độc lập từ năm 1428 của dân tộc ta là một ‘câu chuyện cổ tích thiêng liêng’ có giá trị sâu sắc cho các thế hệ mai sau. Về nghệ thuật, Nguyễn Trãi kết hợp yếu tố chính luận với cảm hứng trữ tình sâu sắc. Lập luận chắc chắn, lập luận sắc bén, lời nói chắc chắn, lưu loát, góp phần làm cho ý chính trở nên rõ ràng.

Đoạn đầu của “Bình Ngô Đại Cáo” bộc lộ quan điểm nhân nghĩa, một tư tưởng mà Nguyễn Trãi đã theo đuổi suốt cuộc đời. Nó cũng chứng tỏ tài năng thơ ca và chính trị của ông. Danh nhân văn hóa thế giới. Bài thơ còn mang đến nguồn cảm hứng bất tận về độc lập, chủ quyền của dân tộc cho các thế hệ mai sau.

——hoàn thành——-

//thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-luan-de-chinh-nghia-tong-doan-dau-binh-ngo-dai-cao-69158n.aspx “Bình Ngô đại cáo” được coi là “Thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta. Vì vậy, hãy cùng tìm hiểu tác phẩm qua các bài viết sau. Bình Ngô Đại KháchPhân tích hình tượng tể tướng Lê Lợi trong Bình Ngô đại cáo, Phân tích lòng yêu nước của Bình Ngô Đại CáoĐại Cáo Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi phân tích nghệ thuật nghị luận.

Video liên quan

Chủ đề