Phép biện chứng duy vật là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin; là "khoa học về mối liên hệ phổ biến" và cũng là "khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy".Phép biện chứng duy vật là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin; là "khoa học về mối liên hệ phổ biến" và cũng là "khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy". "Theo quan niệm của Mác, cũng như của Hêghen thì phép biện chứng bao gồm cái mà ngày nay người ta gọi là lý luận nhận thức hay nhận thức luận":. LẤY VÍ DỤ VỀ CÁC HÌNH THỨC CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC Hình thức của các phép biện chứng:
Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là tính tự phát, ngây thơ; mới chỉ là những quan điểm biện chứng mang tính suy luận, phỏng đoán trên cơ sở những kinh nghiệm trực giác nên chưa trở thành hệ thống lí luận nhận thức, mà mới chỉ dừng lại ở sự mô tả tính biện chứng của thế giới. Ví dụ: Khi làm bài kết thúc học phần, bạn A rất tự tin vào khả năng của bản thân sẽ làm được tốt bài thi, nhưng khi có kết quả thì bài thi của bạn A lại tương đối thấp.
Biện chứng được bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là biểu hiện của các ý niệm nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm. Ví dụ: Người Tây Tạng khi có người mất thì họ thường không quan trọng thân xác của người đã mất. Họ sẽ đập nát xương và để cho kền kền ăn thịt, họ coi hành động để chim kền kền ăn xác là một hành động hợp lẽ luân hồi bởi họ tin vào ý niệm của họ con người khi chết sẽ không còn gì cả và phải trả ơn lại tự nhiên. Hiến dâng bản thân cho sự sống của những giống loài khác được coi là một hành động đạo đức của người đã khuất.
1 |