So sánh cấu trúc câu tiếng anh và tiếng việt

Bạn không thể nói ngoại ngữ trôi chảy nếu phát âm, nhấn ngữ điệu, dùng ngữ pháp, dịch "word by word" như tiếng Việt.

Ngữ âm

Người Việt sử dụng tiếng mẹ đẻ bằng cách ghép các từ, tạo thành câu và đoạn. Chúng không có âm gió, âm cuối, nối âm như tiếng Anh.

Ví dụ, các phụ âm “p”, “t”, “ch”, “th”, “k” trong tiếng Anh sẽ cần bật hơi. Âm “d” không hề giống “d” hay “đ” của tiếng Việt. Ngoài ra, “h” là âm câm, không được phát ra trong một số từ đặc biệt như hour, heir…

Trong tiếng Anh, nối các âm cuối của từ với nhau là điều bắt buộc. Chẳng hạn như "years old" đọc nối thành "yiər zould". Quy tắc về phát âm này cần được ghi nhớ để giao tiếp tiếng Anh chuẩn như người bản xứ.

So sánh cấu trúc câu tiếng anh và tiếng việt

Hiểu tiếng Anh sẽ giúp bạn học tốt hơn và giao tiếp chuẩn như người bản xứ.

Ngữ điệu

Ngữ điệu trong tiếng Anh phụ thuộc vào cảm xúc, thái độ của người nói. Vì vậy, cùng một câu nói nhưng tông giọng có thể cao thấp khác nhau. Mặc dù ngữ điệu được xem là yếu tố chủ quan, tiếng Anh vẫn có một số quy tắc cơ bản về phát âm để biểu hiện điều người nói muốn nhấn mạnh.

Ví dụ bạn có thể lên giọng ở đầu câu cảm thán "What a beautiful rainbow!" và ở cuối câu hỏi "What is that?"; hạ giọng ở cuối câu trả lời và trần thuật… Thói quen nói đều đều như tiếng Việt sẽ khiến bạn gặp trở ngại khi thể hiện cảm xúc với người nước ngoài.

So sánh cấu trúc câu tiếng anh và tiếng việt

Học tiếng Anh mỗi ngày để tạo thành thói quen tốt và đạt hiệu quả mong muốn

Ngữ pháp

Tiếng Việt có vài thì phổ biến như: hiện tại, tiếp diễn (đang), quá khứ (đã) và tương lai (sẽ). Trong khi đó, tiếng Anh có đến 12 thì gồm: 3 đơn, 3 kép, 3 tiếp diễn đơn và 3 tiếp diễn kép tương ứng với 12 quy tắc cần nhớ. Vì ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ, nên người Việt có xu hướng chỉ dùng thì hiện tại hoặc quá khứ đơn khi sử dụng tiếng Anh.

Bên cạnh đó, tiếng Anh chia động từ theo ngôi xưng và danh từ biến đổi theo chủ ngữ. Chẳng hạn: “I go” và“he goes”; hay “one flower” và “two flowers”… Điều này hoàn toàn không có trong tiếng Việt.

So sánh cấu trúc câu tiếng anh và tiếng việt

Giáo viên dạy học viên chia thì tại lớp Anh ngữ Interactive English của Anh văn Hội Việt Mỹ (VUS).

Cụm từ, thành ngữ

Một khó khăn khác khi người Việt học tiếng Anh là sử dụng thành ngữ hoặc cụm từ để mô tả suy nghĩ, ý tưởng. Ví dụ, ông bà ta thường ví “Ăn như mèo”, thì câu tương ứng trong tiếng Anh là “To eat like a bird”; “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” trong tiếng Anh là “Birds of a feather flock together”; “Kiến bò trong bụng” là “Have butterflies in your stomach”; “Im như thóc” là “As quite as a mouse”…

Tiếng Anh sử dụng hình ảnh so sánh khác nhưng vẫn có nghĩa tương đồng với tiếng Việt. Thói quen dịch nghĩa từng từ "word by word" khiến người Việt học tiếng Anh gian nan hơn.

Mỗi ngôn ngữ có đặc thù về cấu trúc, cách sắp xếp từ vựng cũng như nguyên tắc về phát âm, ngữ điệu. Để chinh phục, người học cần dành thời gian tìm hiểu sự khác biệt của tiếng Anh so với tiếng mẹ đẻ, từ đó thay đổi thói quen tư duy ngôn ngữ và dần nắm bắt kiến thức mới.

An San

Với 4 bước học Engage - Explore - Action - Reflect (EEAR), chương trình Interactive English của Anh văn Hội Việt Mỹ (VUS) giúp người học thẩm thấu tiếng Anh tự nhiên và hiệu quả. Học viên có thể vượt qua rào cản ngôn ngữ để cải thiện kỹ năng ngoại ngữ, tự tin giao tiếp với người nước ngoài. Liên hệ 08 7308 3333 (TP HCM) - 0650 ‎222 2033 (Bình Dương) để tư vấn.

VUS hiện có mặt tại Hà Nội (Lầu 3, Golden Palace, lô C3 Lê Văn Lương, Trung Hoà - Nhân Chính, Thanh Xuân -

Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài So sánh trật tự từ của định ngữ giữa tiếng anh và tiếng việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

n gái rất thông minh đang học lớp 9, 16 tuổi, mắt bồ câu. Còn nếu đọc liền một hơi thì số lượng định tố phải giới hạn và trật tự phải bị gò bó trong khuôn mẫu đã trình bày ở trên (bảng 3, 4 và 5). 2.4.2 Yếu tố về ngữ nghĩa: Quy tắc kết hợp các định tố trong danh ngữ còn phụ thuộc vào ngữ nghĩa (logic) của từng định ngữ và của danh từ chính, xem chúng có khả năng bổ nghĩa cho nhau hay không. Ví dụ:

  • Một bó hoa tươi thì định tố “tươi” chắc chắn bổ nghĩa cho “hoa”, nhưng nếu ta nói: Một bó hoa to thì định tố “to” có thể bổ nghĩa cho “bó” mà cũng có thể bổ nghĩa cho “hoa” tuỳ theo ngữ cảnh. Tương tự: “áo lụa đỏ” và “áo lụa rộng”, “đỏ” bổ nghĩa cho “lụa” và “áo” còn “rộng” chỉ bổ nghĩa cho “áo”. 2.4.3 Yếu tố về khốI lượng (chiều dài) của định tố: Quy tắc kết hợp các định tố trong danh ngữ còn phụ thuộc vào số lượng (chiều dài) của định tố, thường là đối với những định tố có cùng vị trí, thì định tố nào có chiều dài ngắn nhất thì đặt trước nhất (ngoại trừ các chỉ định từ: này, ấy, nọ, tuy có chiều dài ngắn nhưng lại đặt sau). Ví dụ: “Cái nhà ăn hai tầng cao ngất bằng gạch, làm năm 1990, của công nhân viên mà mọi người đều biết đến ấy.” 2.4.4 Các yếu tố khác: Ngoài ra, quy tắc kết hợp các định tố trong danh ngữ còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như:
  • Yếu tố phân đoạn thực tại: phụ thuộc vào tâm lý người nói/ viết, phụ thuộc vào tư duy bên trong, cách tạo ra “lời nói bên trong” ở trong óc của con người trước khi phát ngôn. Thường thì cái giá nghĩ đến trước thì sắp trước, mà việc nghĩ đến cái gì trước thì lại phụ thuộc vào tư duy, văn hoá của mỗi người, mỗi dân tộc, tình huống thực tế,
  • Yếu tố âm điệu: sắp xếp như thế nào cho nghe thuận tai, quen tai, nghe âm điệu nhịp nhàng, có hiệp vần,
  • NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN Qua sự phân tích các trật tự của các định tố trong định ngữ ở tiếng Anh và tiếng Việt, ta rút ra một số nhận xét và kết luận như sau: 3.1 Nhận xét:
  • Cả hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt đều cùng loại hình S – V – O, cùng giống nhau về trật tự từ ở phần chỉ định từ (determiner), mạo từ (article) và giới ngữ (prepositional phrase) sau danh từ. Như: tất cả N, N của N về , N mà,
  • Điểm khác biệt lớn nhất là trong tiếng Anh thì các tính từ đứng trước danh từ, còn trong tiếng Việt thì ngược lại. Điều này sẽ được lý giải trong phần kết luận dưới đây.
  • Quan điểm trong ngôn ngữ tiếng Anh cũng như trong tiếng Việt là tính từ nào có tác dụng bổ nghĩa mạnh nhất, trực tiếp nhất, dễ thấy nhất thì có vị trí gần với danh từ nhất (cùng về khoảng cách với danh từ chính nhưng ngược chiều nhau, tiếng Anh thì gần từ phía bên trái, còn tiếng Việt thì gần từ phía bên phải). Ví dụ: A kind, tall and healthy student  Một sinh viên khoẻ mạnh, cao và tử tế.
  • Tuy nhiên, ngoài các vị trí có trật tự cố định trong mọi trường hợp, thì cả hai ngôn ngữ vẫn có các vị trí mà có thể bị thay đổi trong một số trường hợp nhất định do các nhân tố về trật tự từ, như: yếu tố về tâm lý, về ngữ nghĩa muốn nhấn mạnh (quan trọng nói trước, phụ nói sau), yếu tố hài hoà về mặt ngữ âm, yếu tố về khối lượng định ngữ, yếu tố về phân đoạn thực tại 3.2 Kết luận:
  • Điểm khác biệt lớn nhất về trật tự các định tố trong một danh ngữ tiếng Anh và tiếng Việt là: trong tiếng Anh thì các tính từ đứng trước danh từ, còn trong tiếng Việt thì ngược lại. Điều này được lý giải bởi tính linh động (dương) của ngữ pháp tiếng Việt (do ảnh hưởng văn hoá phương Đông – mang tính âm); nghĩa là trong ngữ lưu (cụ thể trong trường hợp này là danh ngữ), tiếng Việt cho phép người sử dụng (người nói/ viết) một nguyên tắc chung là suy nghĩ đến cái gì trước thì nói/ viết ra trước; cái gì quan trọng, cần thiết thì nói/ viết trước. Đây cũng là một trật tự tự nhiên theo tư duy của con người. Ví dụ: khi ta nhìn thấy một “ngôi nhà, bằng gạch, cao, có hai tầng ấy” thì trong đầu óc ta nghĩ ngay đến vật thể đầu tiên là ngôi nhà (đây cũng là danh từ chính của danh ngữ), và 2 tiếng “ngôi nhà” được xếp đầu tiên, sau đó ta mới thấy các tính chất và đặc điểm của ngôi nhà đó, tuỳ theo góc nhìn của mỗi người, tuỳ theo yếu tố tâm lý của ta lúc đó (đang quan tâm tới tính chất gì), tuỳ theo cường độ tác động của các tính chất hay đặc điểm của ngôi nhà tác động vào các giác quan của ta mạnh hay yếu, mà ta có thể sắp xếp các từ mô tả tính chất hay đặc điểm đó trước hay sau. Vì vậy, ta có thể có các biến thể (đều đúng ngữ pháp tiếng Việt) của danh ngữ đó là: “một ngôi nhà gạch cao hai tầng” hay “một ngôi nhà cao hai tầng bằng gạch, cao” nhưng tất nhiên xác xuất xuất hiện của mỗi biến thể trên tất nhiên là không bằng nhau do bị các nhân tố khác chi phối (như nhịp điệu, vần điệu, khối lượng vật chất của các thành tố, ý muốn tránh nhập nhằng ngữ nghĩa, tâm lý, ngữ cảnh,). Vậy ta thấy trật tự các định tố trong danh ngữ tiếng Việt là một trật tự tự nhiên, trật tự thuận. Trong tiếng Anh thì trật tự định tố trong danh ngữ không được tự do, không được linh động (nghĩa là ngữ pháp mang tính âm, do bị ảnh hưởng của nền văn hoá phương Tây mang tính dương). Trật tự các định tố trong tiếng Anh bị chi phối bởi khuôn mẫu tương đối chặt chẽ (như ta đã thấy trong bảng 1), chính vì vậy mà nhiều cái ta suy nghĩ ra sau thì lại nói ra trước và ngược lại. Ví dụ: trong danh ngữ: “một ngôi nhà gạch cao hai tầng” thì ta luôn chỉ có 1 dạng “a high two – floor brick house” (một cao hai tầng gạch ngôi nhà).
  • Danh ngữ là một hệ thống với các yếu tố là: danh từ (chính, phụ, chỉ loại,), các tính từ, các từ chỉ định, và các quan hệ là: quan hệ về mặt ngữ nghĩa, quan hệ về mặt ngữ pháp, quan hệ về mặt ngữ âm (bao gồm cả thanh điệu, trường độ, nhịp điệu). Mỗi yếu tố mang trong mình các thuộc tính liên quan đến ngữ nghĩa, ngữ pháp và ngữ âm. Các yếu tố này đều có quan hệ đa phương với các yếu tố khác trong hệ thống, đặc biệt là mối quan hệ với danh từ trung tâm. Chính các quan hệ nhiều mặt của các yếu tố này khiến cho vị trí của các định tố trong danh ngữ bị chi phối, chính vì vậy mà các vị trí đã nêu ra ở trên đều có sự phụ thuộc lẫn nhau, nghĩa là có những vị trí bắt buộc và có những vị trí tự do tuỳ thuộc vào thuộc tính và quan hệ của các yếu tố. Ví dụ: nếu là danh từ không đếm được (như: nước, gạo,..) thì không thể có vị trí số từ phía trước (không thể nói: 3 nước đó hay 2 gạo này). Hay nếu danh từ chính chỉ về động vật, thì danh từ chỉ loại của nó phải là “con”, như “con chó, con mèo,..”. Ngoài ra, quan hệ bổ nghĩa của yếu tố, ví dụ ta nói: “áo lụa rộng”, thì tính từ “rộng” ở đây cũng có thể bổ nghĩa cho danh từ “áo” chứ không thể bổ nghĩa cho “lụa” được vì “lụa” ở đây chỉ về chất liệu nên không có tính chất về kích thước không gian, còn” áo” là vật thể cụ thể thì có tính chất đó, nhưng nếu ta nói “áo lụa đỏ”, thì ta không biết “đỏ” bổ nghĩa cho “áo” hay cho “lụa”? Vì vậy, chính vì các mối quan hệ giữa các yếu tố trong hệ thống khiến tính linh động bị hạn chế lại.
  • Cách chia về vị trí các loại định ngữ trong tiếng Việt mang tính khái quát (tư duy người phương Đông mang tính tổng hợp cao) cao hơn cách chia trong tiếng Anh. Vị trí các cột trong tiếng Việt linh động hơn so với tiếng Anh. COMPARISON OF THE WORD ORDER OF ATTRIBUTIONS IN ENGLISH AND VIETNAMESE DINH LIEN In this era of globalization and information, English is getting more and more popular. This is why the comparison and contrast between English and Vietnamese in every aspect is practicable and meaningful. Deprived from that spirit, this article with the comparative and contrast approach in comparative linguistics aims at the comparison between word orders of attribution in English and Vietnamese. Examples of word orders in this article are the normal and moderate ones instead of the special or marked ones (for rhetorical or emphasizing ones, ect). CHÚ THÍCH 1.Theo [Hà Văn Bửu, 1998] trang 129 cũng như một số tác giả khác và ý kiến cá nhân của người viết bài này. TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • Bùi Khánh Thế (1999). Bài giảng về phương pháp so sánh trong Ngôn ngữ học. Lớp Cao học Ngôn ngữ học so sánh khoá 1998, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tp. Hồ Chí Minh.
  • Diệp Quang Ban (1989). Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông (tập 2). NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
  • Đái Xuân Ninh - Nguyễn Đức Dân - Nguyễn Quang – Vương Toàn (1984). Ngôn ngữ học lịch sử và phương pháp so sánh trong cuốn: Khuynh hướng – Lĩnh vực – Khái niệm. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội (trang 31 – 48).
  • Hà Văn Bửu (1998). Văn phạm tiếng Anh miêu tả. NXB Tp. Hồ Chí Minh.
  • Hồ Lê (1971). Tác dụng phương thức “vị trí” trong phạm vi cụm danh từ. Tạp chí Ngôn ngữ số 3, trang 1 – 12.
  • Hồ Lê (1983). Một số vấn đề xung quanh vị trí bắt buộc và vị trí tuỳ ý trong danh ngữ tiếng Việt hiện đại. Tạp chí Ngôn ngữ số 1, trang 35 – 46.
  • Lý Toàn Thắng (1981). Về một hướng nghiên cứu trật tự từ trong câu. Tạp chí Ngôn ngữ số 3 + 4, trang 25 – 32.
  • Lý Toàn Thắng (1999). Bài giảng về Lý thuyết trật tự từ. Lớp Cao học ngôn ngữ so sánh – khoá 1998, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tp. Hồ Chí Minh.
  • Mai Ngọc Chừ - Vũ Đức Nghiệu – Hoàng Trọng Phiến (1991). Cơ sở Ngôn ngữ học và tiếng Việt. NXB ĐạI học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
  • Nguyễn Kim Thản (1997). Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
  • Nguyễn Tài Cẩn (1998). Ngữ pháp tiếng Việt. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
  • Norman C. Staberg (1973). An Introduction English Grammar. Winston, Inc.
  • Stankevich N.V (1982). Loại hình các ngôn ngữ. NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
  • Phạm Thị Ngọc Hoa (1981). Vài nhận xét về định ngữ trong tiếng Việt. Một số vấn đề về ngôn ngữ học Việt Nam. NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, trang 211 – 225.
  • Vũ Ngọc Tú (1996). Nghiên cứu đối chiếu trật tự từ Anh - Việt trên một số cấu trúc cú pháp cơ bản. Luận án PTS Ngữ Văn, Đại học Quốc gia, Hà Nội.