Tại sao phải nghiên cứu kinh tế học

Mục lục

  • 1 Định nghĩa kinh tế học
    • 1.1 Kinh tế học vi mô
    • 1.2 Kinh tế học vĩ mô
  • 2 Cách tiếp cận kinh tế học lý luận
  • 3 Các lĩnh vực nghiên cứu của khoa học kinh tế
  • 4 Lược sử khoa học kinh tế và các trường phái kinh tế
    • 4.1 Các trường phái kinh tế học sơ khai
    • 4.2 Kinh tế học cổ điển
    • 4.3 Kinh tế học Marxist
    • 4.4 Trường phái Keynesian
    • 4.5 Học thuyết kinh tế "mới" Degrowth - "Giảm phát triển"
  • 5 Các quy luật kinh tế
    • 5.1 Các quy luật kinh tế khách quan
    • 5.2 Các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường
  • 6 Các hệ thống kinh tế
  • 7 Các khái niệm cơ bản
    • 7.1 Giới hạn khả năng sản xuất, chi phí cơ hội và hiệu quả
    • 7.2 Sự chuyên môn hóa, các nhóm lao động và lợi ích từ thương mại
    • 7.3 Tiền
    • 7.4 Cung và cầu
  • 8 Xem thêm
  • 9 Chú thích
  • 10 Liên kết ngoài

Định nghĩa kinh tế họcSửa đổi

Theo một khái niệm chung nhất, kinh tế học là một bộ môn khoa học xã hội giúp cho con người hiểu về cách thức vận hành của nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng chủ thể tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các đơn vị kinh tế phải lựa chọn. Các Nhà Kinh tế cho rằng: Kinh tế học là "khoa học của sự lựa chọn". Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất của con người. Đặc biệt, kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong thế giới có nguồn lực hạn chế.

Như vậy, kinh tế học quan tâm đến hành vi của toàn bộ nền kinh tế tổng thể và hành vi của các chủ thể riêng lẻ trong nền kinh tế, bao gồm các doanh nghiệp,hộ tiêu dùng, người lao động và chính phủ. Mỗi chủ thể kinh tế đều có mục tiêu để hướng tới, đó là tối đa hóa lợi ích kinh tế của họ. Mục tiêu của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, mục tiêu của các hộ tiêu dùng là tối đa hóa mức độ tiêu dùng, mục tiêu của người lao động là tối đa hóa tiền công và mục tiêu của chính phủ là tối đa hóa lợi ích xã hội. Kinh tế học có nhiệm vụ giúp các chủ thể kinh tế giải quyết bài toán tối đa hóa lợi ích kinh tế này.

Kinh tế học có hai bộ phận cấu thành hữu cơ là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Các Nhà Kinh tế phân kinh tế học theo hai mức độ phân tích khác nhau: vi mô và vĩ mô.

Kinh tế học vi môSửa đổi

Kinh tế học vi mô nghiên cứu các quyết định của các cá nhân và doanh nghiệp và các tương tác giữa các quyết định này trên thị trường. Kinh tế học vi mô giải quyết các đơn vị cụ thể của nền kinh tế và xem xét một cách chi tiết cách thức vận hành của các đơn vị kinh tế hay các phân đoạn của nền kinh tế.

Mục tiêu của kinh tế học vi mô nhằm giải thích giá và lượng của một hàng hóa cụ thể. Kinh tế học vi mô còn nghiên cứu các quy định, thuế của chính phủ tác động đến giá và lượng hàng hóa và dịch vụ cụ thể. Chẳng hạn, kinh tế học vi mô nghiên cứu các yếu tố nhằm xác định giá và lượng xe hơi, đồng thời nghiên cứu các quy định và thuế của chính phủ tác động đến giá cả và sản lượng xe hơi trên thị trường.

Kinh tế học vĩ môSửa đổi

Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu nền kinh tế quốc gia và kinh tế toàn cầu, xem xét xu hướng phát triến và phân tích biến động một cách tổng thể, toàn diện về cấu trúc của nền kinh tế và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế.

Mục tiêu phân tích của kinh tế học vĩ mô nhằm giải thích giá cả bình quân, tổng việc làm, tổng thu nhập, tổng sản lượng sản xuất. Kinh tế học vĩ mô còn nghiên cứu các tác động của chính phủ như thu ngân sách, chi tiêu chính phủ, thâm hụt ngân sách lên tổng việc làm và tổng thu nhập. Chẳng hạn, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu chi phí sống bình quân của dân cư, tổng giá trị sản xuất, thu chi ngân sách của một quốc gia. Sự phân biệt kinh tế học vi mô và vĩ mô không có nghĩa là phải tách rời các vấn đề kinh tế một cách riêng biệt. Nhiều vấn đề liên quan đến cả hai. Chẳng hạn, sự ra đời của video game và sự phát triển của thị trường sản phẩm truyền thông. Kinh tế học vĩ mô giải thích ảnh hưởng của phát minh lên tổng chi tiêu và việc làm của toàn bộ nền kinh tế. Trong khi đó, kinh tế học vi mô giải thích các ảnh hưởng của phát minh lên giá và lượng của sản phẩm này và số người tham gia trò chơi.

Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô là hai bộ phận cấu thành quan trọng của môn kinh tế học, có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mối quan hệ này cho thấy rằng, trong thực tiễn quản lý kinh tế, cần thiết phải giải quyết tốt các vấn đề kinh tế trên cả hai phương diện vi mô và vĩ mô. Nếu chỉ tập trung vào những vấn đề vi mô như tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp mà không có sự điều tiết của chính phủ, thì không thể có một nền kinh tế thực sự phát triển ổn định, bình đẳng và công bằng.

Kinh tế học là một nhánh của khoa học xã hội nghiên cứu sản xuất, phân phối, tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ. Từ "economics" (nghĩa là: kinh tế học) trong tiếng Anh (và các chữ tương tự như: "économiques" trong tiếng Pháp, "Ökonomik" trong tiếng Đức) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với "oikos" là "nhà" và "nomos" là "quy tắc" hay "quy luật", nghĩa là "quy tắc quản lý gia đình". Trong tiếng Việt, từ "kinh tế" là một từ Hán Việt, rút gọn từ cụm từ "kinh bang tế thế"(nghĩa là: trị nước, giúp đời) và từ "học" là một từ Hán Việt có nghĩa là "tiếp thu tri thức" thường được đi kèm sau tên các ngành khoa học (như "ngôn ngữ học","toán học"). Nội dung của khái niệm kinh tế đã mở rộng cùng với sự phát triển xã hội và nhận thức của con người. Kinh tế được xem là một lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người trong việc tạo ra giá trị đồng thời với sự tác động của con người vào thiên nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người và xã hội. Xuất phát từ nhận thức sự phát triển những mối quan hệ trong quá trình đó đã hình thành một môn khoa học, gọi là khoa học kinh tế, gồm tập hợp các ngành khoa học được chia thành hai nhóm:

  • Kinh tế học lý luận (lý thuyết kinh tế) - chuyên nghiên cứu bản chất, nội dung và quy luật phát triển chung nhất của các quá trình kinh tế.
  • Kinh tế học ứng dụng – nghiên cứu những chức năng riêng biệt trong quản lý kinh tế, hay nói cách khác, xây dựng những lý thuyết và phương pháp quản lý để ứng dụng trong các ngành kinh tế riêng biệt.

Sản xuất, tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, mua quà tặng hay đi du lịch... mỗi hành động của con người hiện đại đều ngầm chứa một hành vi kinh tế, vậy nên thật khó có thể đưa ra một định nghĩa kinh tế học vừa đơn giản mà lại vừa bao quát vấn đề.

Mặc dù, những cuộc thảo luận về sản xuất và phân phối đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, kinh tế học được xem là một khoa học độc lập chỉ được xác định chính thức vào thời điểm xuất bản cuốn sách "Của cải của các dân tộc" viết bởi Adam Smith năm 1776. Smith dùng thuật ngữ "kinh tế chính trị" để gọi tên môn khoa học này, nhưng dần dần, thuật ngữ này đã được thay thế bằng thuật ngữ "kinh tế học" từ sau năm 1870. Ông cho rằng "sự giàu có" chỉ xuất hiện khi con người có thể sản xuất nhiều hơn với nguồn lực lao động và tài nguyên sẵn có. Như vậy, theo Smith, định nghĩa kinh tế cũng là định nghĩa về sự giàu có [2].

John Stuart Mill định nghĩa khoa học kinh tế là "khoa học ứng dụng của sản xuất và phân phối của cải" [3]. Định nghĩa này được đưa vào từ điển tiếng Anh rút gọn Oxford mặc dù nó không đề cập đến vai trò quan trọng của tiêu thụ. Đối với Mill của cải được xác định như toàn bộ những vật thể có ích.

Định nghĩa được xem là bao quát nhất cho kinh tế học hiện đại do Lionel Robbins đưa ra là: "Khoa học nghiên cứu hành vi con người cũng như mối quan hệ giữa nhu cầu và nguồn lực khan hiếm, trong đó có giải pháp chọn lựa cách sử dụng" [4]. Theo ông, sự khan hiếm nguồn lực có nghĩa là tài nguyên không đủ để thỏa mãn tất cả mọi ước muốn và nhu cầu của mọi người. Không có sự khan hiếm và các cách sử dụng nguồn lực thay thế nhau thì sẽ không có vấn đề kinh tế nào cả. Do đó, kinh tế học, giờ đây trở thành khoa học của sự lựa chọn bị ảnh hưởng như thế nào bởi các động lực khuyến khích và các nguồn lực.

Một trong các ứng dụng của kinh tế học là giải thích làm thế nào mà nền kinh tế, hay hệ thống kinh tế hoạt động và có những mối quan hệ nào giữa những người chơi (tác nhân) kinh tế trong một xã hội rộng lớn hơn. Những phương pháp phân tích vốn ban đầu là của kinh tế học, giờ đây, cũng được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác liên quan đến sự lựa chọn của con người trong các tình huống xã hội như tội phạm, giáo dục, gia đình, khoa học sức khoẻ, luật, chính trị, tôn giáo, thể chế xã hội hay chiến tranh.

Kinh tế học lý luận là phần quan trọng nhất của khoa học kinh tế, tạo ra cơ sở lý luận để phát triển kinh tế học ứng dụng. Bằng các cách tiếp cận khác nhau các nhà nghiên cứu muốn đưa ra những học thuyết hợp lý nhằm làm sáng tỏ bức tranh hoạt động kinh tế của xã hội và theo đó, sử dụng học thuyết để làm công cụ phân tích và dự đoán những xu hướng kinh tế. Các lý thuyết kinh tế được xây dựng từ các phạm trù của kinh tế như: giá trị, lao động, trao đổi, tiền tệ, tư bản v.v. Trong đó các phạm trù của kinh tế đóng vai trò như những công cụ nhận thức riêng biệt. Các quá trình kinh tế được xem là cơ bản và là đối tượng nghiên cứu của khoa học kinh tế là sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ hàng hóa. Tuy nhiên nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình mới, đã vượt khỏi khuôn khổ của các phạm trù được xác lập từ trước, làm suy yếu tính lý giải và khả năng phân tích của nhiều học thuyết. Mặt khác, các học thuyết riêng biệt cũng chỉ làm sáng tỏ phần nào đó của đời sống kinh tế mà thôi. Kinh tế học lý luận vẫn còn đang tiếp tục sửa đổi, bổ sung và phát triển. Người nhận giải thưởng Nobel Kinh tế năm 1988 Maurice Allais nhận định vấn đề phát triển kinh tế học lý luận như sau: "Cũng như vật lý học hiện nay cần một lý thuyết thống nhất về vạn vật hấp dẫn, các ngành khoa học nhân văn cần một lý thuyết thống nhất về hành vi con người" [5]. Vấn đề đó đến nay vẫn còn là một khoảng trống trong khoa học kinh tế.

Kinh tế học là việc nghiên cứu xem xã hội quyết định các vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai.[6].

Kinh tế học

Khái niệm

Kinh tế học trong tiếng Anh được gọi là economics.

Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu cách thức mà cá nhân và xã hội lựa chọn việc sử dụng nguồn lực khan hiếm của mình như thế nào.

Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ.

Vấn đề cốt lõi

Các nhà kinh tế học thống nhất vấn đề cốt lõi trong kinh tế học là vấn đề khan hiếm.

Sở dĩ có thể nói như vậy là vì bất kì một chủ thể nào trong nền kinh tế, Chính phủ, doanh nghiệp, cá nhân hay nhìn chung toàn bộ nền kinh tế cũng phải đối mặt với sự khan hiếm. Cụ thể là:

- Đối với cá nhân, khan hiếm thể hiện ở tiền bạc, mong muốn nhiều nhưng tiền (thu nhập) có giới hạn. Hay khan hiếm thời gian (1 ngày chỉ có 24 giờ), muốn làm nhiều việc nhưng thời gian có hạn, và mỗi người đều phải dành thời gian để nghỉ ngơi, tái tạo lại sức lao động của mình.

- Đối với doanh nghiệp, chúng ta có thể thấy sự khan hiếm về vốn, thiếu tiền để lao động giỏi, máy móc, trang thiết bị. Hay khan hiếm lao động đặc biệt là lao động có chất lượng cao.

- Đối với một nền kinh tế dù là cường quốc hay các nước nghèo cũng phải đối mặt với khan hiếm.

Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu kinh tế học nhằm mục đích giải thích cách thức các nền kinh tế vận động và các tác nhân kinh tế tương tác với nhau.

Các nguyên tắc kinh tế được ứng dụng trong đời sống xã hội, trong thương mại, tài chính và hành chính công, thậm chí là trong ngành tội phạm học, giáo dục, xã hội học, luật học và nhiều ngành khoa học khác.

Phân loại

Kinh tế học cũng như các môn khoa học khác, nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau. Kinh tế học được phân chia thành hai bộ phận chủ yếu là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô.

- Kinh tế học vi mô là một bộ phận của kinh tế học chuyên nghiên cứu và phân tích các hành vi kinh tế của các tác nhân trong nền kinh tế: người tiêu dùng, các hãng sản xuất kinh doanh và Chính phủ.

Kinh tế học vi mô chuyên nghiên cứu hành vi kinh tế của các cá nhân, những nhóm đơn lẻ cấu thành nên nền kinh tế.

- Kinh tế vĩ mô là một bộ phận của kinh tế học nghiên cứu các vấn đề kinh tế tổng hợp của một nền kinh tế như tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp, các chính sách kinh tế vĩ mô...

Kinh tế vĩ mô coi toàn bộ nền kinh tế như một tổng thể và nó nghiên cứu các vấn đề tổng hợp của một nền kinh tế.

Nếu coi nền kinh tế như một bức tranh, kinh tế vĩ mô sẽ nghiên cứu tổng thể toàn bức tranh. Kinh tế vi mô nghiên cứu từng họa tiết, từng chi tiết cấu thành nên bức tranh đó.

Mặc dù có sự khác biệt, nhưng kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Chúng ta sẽ không thể hiểu được các hiện tượng kinh tế vĩ mô nếu không xem xét các quyết định kinh tế vi mô, vì những thay đổi trong toàn bộ nền kinh tế phát sinh từ các quyết định của hàng triệu cá nhân.

(Tài liệu tham khảo: Tổng quan về kinh tế học và kinh tế học vi mô, Tổ hợp Công nghệ Giáo dục Topica)


Tại sao phải nghiên cứu kinh tế học
Công đoàn (Trade unions) là gì? Có lợi hay có hại
05-09-2019 Lí thuyết tiền lương hiệu quả (Efficiency Wage Theory) là gì? Các dạng lí thuyết
05-09-2019 Chi phí của thất nghiệp (Costs of unemployment) là gì?

tiểu luận ' tại sao phải nghiên cứu kinh tế vi mô'

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.93 KB, 8 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong đời sống hằng ngày, con người cần đáp ứng đầy đủ các nhu cầu
vật chất và tinh thần. Nhu cầu của con người ngày càng tăng trong khi nguồn
lực thì chỉ có hạn. Vì vậy, để tồn tại con người không còn cách nào khác là
tiến hành các phương thức phân chia nguồn lực khan hiếm đó nhằm đáp ứng
nhu cầu sử dụng ngày càng cao.
Từ đó, các nhà kinh tế học đã cho hình thành một khái niệm là kinh tế
học. Nó là một bộ môn khoa học giúp cho con người hiểu về cách thức vận
hành nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng chủ thể tham gia
kinh tế nói riêng. Vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay
các đơn vị kinh tế phải lựa chọn. các nhà kinh tế cho rằng kinh tế học chính
là “Khoa học của sự lựa chọn”.
Bộ phận của kinh tế học gồm: kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô.


Trong đó kinh tế học vĩ mô đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển nền
kinh tế tổng thể của một quốc gia. Vì vậy, nghiên cứu kinh tế học vĩ mô là
nhiệm vụ hàng đầu để thực hiện các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế
của chính phủ.
NỘI DUNG
I. Sơ lược về kinh tế học vĩ mô:
1. Khái niệm:
Kinh tế vĩ mô là bộ môn khoa học nghiên cứu hoạt động nền kinh tế với tư
cách là một tổng thể.
Đây là một môn khoa học quan tâm đến việc nghiên cứu, phân tích và
lựa chọn các vấn đề của nền kinh tế tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế của
“Một bức tranh lớn”.

2. Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu những cái gì?
1
Kinh tế học Vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia trước
những vấn đề kinh tế xã hội cơ bản như: Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất
nghiệp, mức giá chung, cán cân thương mại, sự phân phối nguồn lực và
phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội, các chính sách kinh tế
(chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập…).
Phân tích kinh tế vĩ mô hướng vào giải đáp các câu hỏi như: Điều gì
quyết định giá trị hiện tại của biến số này? Điều gì quy định những thay đổi
của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn? Trong kinh tế vĩ mô, chúng
ta sẽ khảo sát mỗi biến số ứng với mỗi khoảng thời gian khác nhau: Hiện tại,
ngắn hạn, và dài hạn. Mỗi khoảng thời gian lại đòi hỏi chúng ta phải sử dụng

các mô hình thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định các biến số kinh tế vĩ
mô này.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Các nhà kinh tế học nghiên cứu kinh tế học vĩ mô một cách khách
quan. Khi nghiên cứu các nhà kinh tế sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau: tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mô hình hóa kinh tế, mô
hình kinh tế lượng,…
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu phân thành:
- Phương pháp quan sát, lý thuyết và tiếp tục quan sát.
- Phương pháp sử dụng các mô hình.
II. Tại sao phải nghiên cứu kinh tế học vĩ mô?
1. Nghiên cứu kinh tế vĩ mô với tư cách là một tổng thể:

Nền kinh tế nhà nước là một nền kinh tế tổng thể, kinh tế học vĩ mô
nghiên cứu các vấn đề kinh tế cơ bản như: lạm phát, thất nghiệp, sản lượng
bình quân,… theo thời gian.
2
Các nhà kinh tế học vĩ mô thu nhập số liệu, giá cả và nhiều biến số kinh
tế khác nhau của một quốc gia theo từng thời kỳ. Sau đó họ tìm cách xây
dựng những lý thuyết tổng quát, góp phần giải thích các số liệu này.
Các biến số kinh tế vĩ mô là những chỉ tiêu phản ánh rõ nét nền kinh tế
của một quốc gia. Để đánh giá một nền kinh tế, các nhà khoa học thường sử
dụng các biến số kinh tế vĩ mô chủ yếu sau:
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là một chỉ tiêu đo lường tổng giá
trị bằng tiền của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà một quốc

gia sản xuất trong một thời kỳ (thường lấy là một năm) bằng các yếu
tố sản xuất của mình.
- Chu kỳ kinh tế (kinh doanh): là sự dao động của tổng sản phẩm quốc
dân thực tế xung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng lý thuyết
(tiềm năng).
- Thất nghiệp: khi những người trong độ tuổi lao động không có việc
làm sẽ trở thành thất nghiệp. nạn thất nghiệp thực tế đã trở thành vấn
đề nan giải của một quốc gia trong nền kinh tế thị trường.
- Lạm phát: là sự tăng giá trung bình của hàng hóa dịch vụ theo thời
gian. Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả, của toàn
bộ hàng hóa cấu thành tổng sản phẩm quốc dân. Đây chính là GNP
danh nghĩa trên GNP thực tế.

Nhìn chung, các biến số kinh tế có mối quan hệ mật thiết vói nhau
không tách rời. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là thước đo cơ bản nhất
đánh giá thành tựu của một nền kinh tế. Liên quan đến chu kỳ kinh tế là sự
đình trệ sản xuất, thất nghiệp và lạm phát, nghiên cứu sự thiếu hụt sản lượng
nhằm tìm ra các giải pháp ổn định kinh tế chống lại các chu kỳ kinh tế, thiếu
hụt kinh tế về bản chất đó chính là lỗ hổng GNP. Khi một nền kinh tế tăng
trưởng, có nghĩa là lực lượng lao động được sử dụng tốt hơn và có hiệu quả
3
hơn. Tuy nhiên, kinh tế tăng trưởng đồng nghĩa với việc lạm phát tăng lên và
ngược lại. Trong thời kỳ ngắn hạn, thất nghiêp tỷ lệ nghịch với lạm phát còn
trong dài hạn tỷ lệ thất nghiệp cơ bản phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát trong một
thời gian dài. Các biến số kinh tế giải thích các vấn đề kinh tế cơ bản có liên

quan đến nhau. Khi một vấn đề kinh tế xảy ra chúng sẽ kéo theo các vấn đề
kinh tế khác.
Đứng trên vị trí nghiên cứu với tư cách là một tổng thể kinh tế.
Ví dụ:

2. Các biến số kinh tế vĩ mô và ảnh hưởng của chúng:
2.1. Biến số kinh tế vĩ mô và đời sống xã hội:
Tất cả các biến số kinh tế vĩ mô đều đụng chạm đến cuộc sống của
chúng ta. Như: Khi dự báo nhu cầu sản phẩm của chính mình, hội đồng quản
trị ở các doanh nghiệp phải đoán xem thu nhập của người tiêu dùng tăng
nhanh đến mức nào; Người già sống bằng thu nhập cố định thường băn
khoăn về tốc độ tăng giá; Những công nhân thất nghiệp đang tìm kiếm việc

làm hi vọng nền kinh tế phục hồi và các doanh nghiệp tuyển thêm người…
Tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi thực trạng của nền kinh tế.
Để đánh giá được tầm quan trọng của kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế,
chúng ta chỉ cần thường xuyên theo dõi thông tin trên báo chí, các phương
tiện truyền thông,… với các mục đề như: Quỹ thu nhập cá nhân tăng 4%,
ngân hàng và biến động kinh tế vĩ mô, giá vàng bất ngờ tăng mạnh,… hầu
như không ngày nào là xuất hiện trên báo chí.
Biến số kinh tế vĩ mô đánh giá được cuộc sống của người dân qua từng
thời kỳ. Các số liệu thống kê các chỉ số kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến
người dân, các doanh nghiệp các nhà kinh doanh,…
Ví dụ:
4

Trong lạm phát, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là người dân và
doanh nghiệp nhỏ và vừa, do công nghệ lạc hậu, năng lực tài chính hạn chế.
Do vậy, doanh nghiệp cần cơ cấu lại sản xuất, tập trung vào những lĩnh vực
sản xuất kinh doanh mình có lợi thế cạnh tranh, thâm dụng lao động (lạm
phát tăng, tỷ lệ thất nghiệp sẽ diễn ra, cần sử dụng lực lượng lao động giá rẻ,
có tay nghề để giải quyết bài toán an sinh). Để cân bằng cán cân tiền - hàng,
giải quyết lạm phát phải có lộ trình cụ thể. Song, cũng phải chấp nhận lạm
phát, nhưng ở mức chịu đựng được của nền kinh tế để kích thích sản xuất
phát triển.
2.2. Biến số kinh tế vĩ mô và chính sách phát triển kinh tế của chính phủ:
Các chính sách kinh tế vĩ mô là biến số kinh tế vĩ mô chịu sự chi phối
trực tiếp hay gián tiếp của chính phủ. Thay đổi các chính sách này sẽ có tác

động đến một hay nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô của nhà nước. Đó là các mục
tiêu sau:
• Mục tiêu sản lượng.
• Mục tiêu công ăn việc làm.
• Mục tiêu ổn định giá cả.
• Mục tiêu kinh tế đối ngoại.
• Mục tiêu phân phối công bằng
Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, nhà nước có thể sử dụng
nhiều chính sách khác nhau. Dưới đây là một số chính sách kinh tế vĩ mô
chủ yếu:
• Chính sách tài khóa.
• Chính sách tiền tệ.

• Chính sách thu nhập.
• Chính sách kinh tế đối ngoại.
5
Các chính sách của chính phủ thông qua các kế hoạch đầu tư phát triển,
các nghị quyết của chính phủ,… những chính sách đó là công cụ để Nhà
nước quản lý và phát triển nền kinh tế.
Ví dụ:
Ngày 24/2/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP để kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó, sẽ
mạnh tay thắt chặt đầu tư công, không rót vốn đầu tư đối với dự án mới
chưa bức thiết.
Biến số kinh tế vĩ mô cũng phản ánh rõ nét và trung thực nhất về hiệu

quả các chính sách phát triển kinh tế của nhà nước được triển khai qua từng
thời kỳ (năm). Những chính sách kinh tế của nhà nước có hiệu quả hay
không đều ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân với những bất ổn
trong nền kinh tế hiện nay như: lạm phát tăng nhanh, chỉ số giá tiêu dùng
( CPI) tăng cao, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, đồng tiền mất giá,… đã khiến
cuộc sống của người dân trở nên khó khăn, đặc biệt là đối với những người
thu nhập thấp, những người sống dựa chủ yếu vào trợ cấp của chính phủ
( người già neo đơn, người tàn tật,…). Sự yếu kém của nhà nước trong các
chính sách kinh tế không chỉ làm hao tổn nguồn lực quốc gia rất lớn mà còn
làm suy giảm niềm tin của người dân đối với các môi trường chính sách vào
năng lực quản trị vĩ mô.
Ví dụ:

Chỉ số CPI và GDP của Việt Nam qua 3 giai đoạn phát triển kinh tế
( Đơn vị: %)
CPI GDP
1996 – 2000 3,4 6,96
2001 – 2005 5,1 7,51
2006 – 2010 11,4 7,2
6
Như vậy, trong vòng 5 năm, tính cộng dồn đơn giản, lạm phát đã tăng
gần 60% trong khi tổng tăng trưởng GDP chỉ đạt 35,1%. Chưa tính đến việc
phân bổ lợi ích tăng trưởng có xu hướng tập trung cho nhóm người giàu và
đầu cơ, chỉ hai con số nêu trên đã đủ chứng tỏ thu nhập thực tế và mức sống
thực của người dân, nhất là tầng lớp nghèo, bị giảm sút rất mạnh.

Năm 2010, kinh tế việt nam có sự phục hồi nhanh chóng sau khủng
hoảng kinh tế toàn cầu. Tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II 6,4%, quý
III tăng lên 7,14%, quý IV là 7,41%. Đến năm 2010, tổng mức đầu tư toàn
xã hội lên tới 41% GDP thì tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 6,7%, chỉ số ICOR đã
tăng tới mức quá cao trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Khi kinh tế thế giới bị
suy trầm thì đà sa sút của Việt Nam lại không quá nặng vì kinh tế vẫn tăng
trưởng hơn 5% vào năm 2009, là năm mà lợi tức bình quân một đầu người
đã vượt cái ngưỡng tâm lý là 1.000 Mỹ kim một năm. Tuy nhiên, nguồn đầu
tư quá lớn trong khi hiệu quả đầu tư không cao; sự yếu kém trong môi tường
đầu tư; nhập siêu quá lớn trong khi xuất khẩu không tăng, nhập khẩu thì vẫn
quá nhiều để duy trì nhịp độ sản xuất khiến giữ trữ ngoại tệ trong nước bị
bào mỏng – chỉ còn 14 tỷ đô la giữ trữ. Đó là bất trắc về cơ cấu kinh tế vĩ

mô, thứ nhất là sự thiếu quân bình, thứ hai là khả năng đối phó quá yếu của
chính quyền.

Vì vậy, sự quản lý của nhà nước thông qua các chính sách vĩ mô đã tác
động trực tiếp lên các hoạt động kinh tế và đời sống của người dân. Nền
kinh tế phát triển đi lên hay đi xuống đều do sự quản lý của nhà nước và
hiệu quả của các chính sách kinh tế vĩ mô mang lại.
3. kinh tế học vĩ mô là một bộ môn khoa học chưa hoàn thiện:
7
Kinh tế học vĩ mô là một ngành khoa học non trẻ và chưa hoàn chỉnh.
Khả năng dự báo của các kinh tế vĩ mô về đường hướng phát triển tương lai
của các sự kiện kinh tế chưa thể nắm vững hoàn toàn. Song, như các bạn sẽ

thấy, chúng ta biết khá nhiều về phương thức hoạt động của nền kinh tế.
Mục tiêu của chúng ta trong việc nghiên cứu kinh tế vĩ mô không phải
chỉ dừng lại ở phạm vi lí giải các biến cố kinh tế, mà còn nhằm cải thiện chất
lượng của chính sách kinh tế. Các công cụ tài chính và tiền tệ của chính phủ
có thể tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế - bao gồm cả mặt tích cực và tiêu
cực – và khoa kinh tế vĩ mô giúp cho các nhà hoạch định chính sách đánh
giá những chính sách khác nhau. Nhà kinh tế vĩ mô phải nghiên cứu nền
kinh tế như nó đang tồn tại và suy ngẫm xem chúng ta nên làm gì để cải
thiện nó.
KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận trên, có thể nói rằng kinh tế học vĩ mô tác động rất lớn
đến cuộc sống của chúng ta.

Nghiên cứu kinh tế học vĩ mô, xây dựng các chính sách phát triển kinh
tế hoàn thiện đưa nền kinh tế phát triển bền vững là mục tiêu của các quốc
gia hiện nay.
Mặc dù bộ môn khoa học kinh tế học vĩ mô còn non trẻ và chưa hoàn
thiện. Nghiên cứu kinh tế học vĩ mô là công việc vô cùng quan trọng, cần
thiết để hoàn chỉnh bộ môn và nắm vững hơn các phương thức hoạt động
kinh tế.
8

Tiểu luận:" Tại sao phải nghiên cứu kinh tế vi mô"

Trong đời sống hằng ngày, con người cần đáp ứng đầy đủ các nhu cầu vật chất và tinh thần. Nhu cầu của con người ngày càng tăng trong khi nguồn lực thì chỉ có hạn. » Xem thêm

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong đời sống hằng ngày, con người cần đáp ứng đầy đủ các nhu cầu vật chất và tinh thần. Nhu cầu của con người ngày càng tăng trong khi nguồn lực thì chỉ có hạn. Vì vậy, để tồn tại con người không còn cách nào khác là tiến hành các phương thức phân chia nguồn l ực khan hi ếm đó nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng cao. Từ đó, các nhà kinh tế học đã cho hình thành một khái niệm là kinh tế học. Nó là một bộ môn khoa học giúp cho con người hiểu về cách th ức vận hành nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng ch ủ th ể tham gia kinh tế nói riêng. Vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu c ầu các n ền kinh tế hay các đơn vị kinh tế phải lựa chọn. các nhà kinh t ế cho r ằng kinh tế học chính là “Khoa học của sự lựa chọn”. Bộ phận của kinh tế học gồm: kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Trong đó kinh tế học vĩ mô đóng vai trò quan trọng trong sự phát tri ển nền kinh tế tổng thể của một quốc gia. Vì vậy, nghiên cứu kinh t ế h ọc vĩ mô là nhiệm vụ hàng đầu để thực hiện các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế của chính phủ. NỘI DUNG I. Sơ lược về kinh tế học vĩ mô: 1. Khái niệm: Kinh tế vĩ mô là bộ môn khoa học nghiên cứu hoạt động nền kinh tế với tư cách là một tổng thể. Đây là một môn khoa học quan tâm đến việc nghiên cứu, phân tích và lựa chọn các vấn đề của nền kinh tế tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế của “Một bức tranh lớn”. 2. Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu những cái gì? 1
  2. Kinh tế học Vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế xã hội cơ bản như: Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, mức giá chung, cán cân thương mại, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội, các chính sách kinh tế (chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập…). Phân tích kinh tế vĩ mô hướng vào giải đáp các câu h ỏi như: Đi ều gì quyết định giá trị hiện tại của biến số này? Điều gì quy định những thay đổi của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn? Trong kinh t ế vĩ mô, chúng ta sẽ khảo sát mỗi biến số ứng với mỗi khoảng thời gian khác nhau: Hiện tại, ngắn hạn, và dài hạn. Mỗi khoảng thời gian lại đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các mô hình thích hợp để tìm ra các nhân tố quy ết định các biến số kinh tế vĩ mô này. 3. Phương pháp nghiên cứu: Các nhà kinh tế học nghiên cứu kinh tế học vĩ mô một cách khách quan. Khi nghiên cứu các nhà kinh tế sử dụng nhiều ph ương pháp khác nhau: tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mô hình hóa kinh tế, mô hình kinh tế lượng,… Phương pháp nghiên cứu chủ yếu phân thành: Phương pháp quan sát, lý thuyết và tiếp tục quan sát. - - Phương pháp sử dụng các mô hình. II. Tại sao phải nghiên cứu kinh tế học vĩ mô? 1. Nghiên cứu kinh tế vĩ mô với tư cách là một tổng thể: Nền kinh tế nhà nước là một nền kinh tế tổng th ể, kinh t ế h ọc vĩ mô nghiên cứu các vấn đề kinh tế cơ bản như: lạm phát, th ất nghi ệp, s ản lượng bình quân,… theo thời gian. 2
  3. Các nhà kinh tế học vĩ mô thu nhập số liệu, giá cả và nhi ều bi ến s ố kinh tế khác nhau của một quốc gia theo từng th ời kỳ. Sau đó h ọ tìm cách xây dựng những lý thuyết tổng quát, góp phần giải thích các số liệu này. Các biến số kinh tế vĩ mô là những chỉ tiêu phản ánh rõ nét n ền kinh tế của một quốc gia. Để đánh giá một nền kinh tế, các nhà khoa học thường sử dụng các biến số kinh tế vĩ mô chủ yếu sau: - Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là một chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất trong một thời kỳ (thường lấy là một năm) bằng các yếu tố sản xuất của mình. - Chu kỳ kinh tế (kinh doanh): là sự dao động của tổng sản phẩm quốc dân thực tế xung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng lý thuyết (tiềm năng). Thất nghiệp: khi những người trong độ tuổi lao động không có - việc làm sẽ trở thành thất nghiệp. nạn thất nghiệp thực tế đã trở thành vấn đề nan giải của một quốc gia trong nền kinh tế thị trường. Lạm phát: là sự tăng giá trung bình của hàng hóa d ịch v ụ theo th ời - gian. Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả, của toàn bộ hàng hóa cấu thành tổng sản phẩm quốc dân. Đây chính là GNP danh nghĩa trên GNP thực tế. Nhìn chung, các biến số kinh tế có mối quan hệ mật thiết vói nhau không tách rời. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là thước đo cơ b ản nh ất đánh giá thành tựu của một nền kinh tế. Liên quan đến chu kỳ kinh tế là sự đình trệ sản xuất, thất nghiệp và lạm phát, nghiên cứu s ự thi ếu h ụt sản lượng nhằm tìm ra các giải pháp ổn định kinh tế ch ống l ại các chu kỳ kinh tế, thiếu hụt kinh tế về bản chất đó chính là lỗ hổng GNP. Khi m ột 3
  4. nền kinh tế tăng trưởng, có nghĩa là lực lượng lao động đ ược s ử dụng t ốt hơn và có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, kinh tế tăng trưởng đồng nghĩa với việc lạm phát tăng lên và ngược lại. Trong thời kỳ ngắn h ạn, th ất nghiêp tỷ lệ nghịch với lạm phát còn trong dài hạn tỷ lệ th ất nghiệp c ơ b ản ph ụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát trong một thời gian dài. Các bi ến s ố kinh t ế gi ải thích các vấn đề kinh tế cơ bản có liên quan đến nhau. Khi một vấn đ ề kinh tế xảy ra chúng sẽ kéo theo các vấn đề kinh tế khác. Đứng trên vị trí nghiên cứu với tư cách là một tổng thể kinh tế. Ví dụ: … 2. Các biến số kinh tế vĩ mô và ảnh hưởng của chúng: 2.1. Biến số kinh tế vĩ mô và đời sống xã hội: Tất cả các biến số kinh tế vĩ mô đều đụng ch ạm đến cu ộc sống c ủa chúng ta. Như: Khi dự báo nhu cầu sản phẩm của chính mình, h ội đồng quản trị ở các doanh nghiệp phải đoán xem thu nh ập của người tiêu dùng tăng nhanh đến mức nào; Người già sống bằng thu nhập cố định th ường băn khoăn về tốc độ tăng giá; Những công nhân thất nghiệp đang tìm kiếm việc làm hi vọng nền kinh tế phục hồi và các doanh nghiệp tuyển thêm người… Tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi thực trạng của nền kinh tế. Để đánh giá được tầm quan trọng của kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế, chúng ta chỉ cần thường xuyên theo dõi thông tin trên báo chí, các phương tiện truyền thông,… với các mục đề như: Quỹ thu nhập cá nhân tăng 4%, ngân hàng và biến động kinh tế vĩ mô, giá vàng b ất ng ờ tăng mạnh,… hầu như không ngày nào là xuất hiện trên báo chí. 4
  5. Biến số kinh tế vĩ mô đánh giá được cuộc sống của người dân qua từng thời kỳ. Các số liệu thống kê các chỉ số kinh t ế ảnh h ưởng tr ực ti ếp đến người dân, các doanh nghiệp các nhà kinh doanh,… Ví dụ: Trong lạm phát, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là người dân và doanh nghiệp nhỏ và vừa, do công nghệ lạc hậu, năng lực tài chính hạn chế. Do vậy, doanh nghiệp cần cơ cấu lại sản xuất, tập trung vào những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mình có lợi thế cạnh tranh, thâm dụng lao động (lạm phát tăng, tỷ lệ thất nghiệp sẽ diễn ra, cần sử dụng lực lượng lao động giá rẻ, có tay nghề để giải quy ết bài toán an sinh). Đ ể cân bằng cán cân tiền - hàng, giải quyết lạm phát phải có l ộ trình c ụ th ể. Song, cũng phải chấp nhận lạm phát, nhưng ở mức chịu đựng được của nền kinh tế để kích thích sản xuất phát triển. 2.2. Biến số kinh tế vĩ mô và chính sách phát tri ển kinh t ế c ủa chính phủ: Các chính sách kinh tế vĩ mô là biến số kinh tế vĩ mô chịu s ự chi ph ối trực tiếp hay gián tiếp của chính phủ. Thay đổi các chính sách này sẽ có tác động đến một hay nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô của nhà nước. Đó là các mục tiêu sau: • Mục tiêu sản lượng. • Mục tiêu công ăn việc làm. • Mục tiêu ổn định giá cả. • Mục tiêu kinh tế đối ngoại. • Mục tiêu phân phối công bằng 5
  6. Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, nhà nước có thể sử dụng nhiều chính sách khác nhau. Dưới đây là một số chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu: • Chính sách tài khóa. • Chính sách tiền tệ. • Chính sách thu nhập. • Chính sách kinh tế đối ngoại. Các chính sách của chính phủ thông qua các kế hoạch đ ầu t ư phát triển, các nghị quyết của chính phủ,… những chính sách đó là công c ụ đ ể Nhà nước quản lý và phát triển nền kinh tế. Ví dụ: Ngày 24/2/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó, sẽ mạnh tay thắt chặt đầu tư công, không rót vốn đầu tư đối với dự án mới chưa bức thiết. Biến số kinh tế vĩ mô cũng phản ánh rõ nét và trung th ực nh ất v ề hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế của nhà nước được triển khai qua từng thời kỳ (năm). Những chính sách kinh tế của nhà nước có hiệu quả hay không đều ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của ng ười dân với những bất ổn trong nền kinh tế hiện nay như: lạm phát tăng nhanh, chỉ số giá tiêu dùng ( CPI) tăng cao, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, đồng tiền mất giá, … đã khiến cuộc sống của người dân trở nên khó khăn, đặc biệt là đối với những người thu nhập thấp, những người sống dựa chủ yếu vào trợ cấp của chính phủ ( người già neo đơn, người tàn tật,…). Sự yếu kém của nhà nước trong các chính sách kinh tế không chỉ làm hao tổn nguồn 6
  7. lực quốc gia rất lớn mà còn làm suy giảm niềm tin c ủa ng ười dân đ ối v ới các môi trường chính sách vào năng lực quản trị vĩ mô. Ví dụ: Chỉ số CPI và GDP của Việt Nam qua 3 giai đoạn phát triển kinh tế ( Đơn vị: %) CPI GDP 1996 – 2000 3,4 6,96 2001 – 2005 5,1 7,51 2006 – 2010 11,4 7,2 Như vậy, trong vòng 5 năm, tính cộng dồn đơn giản, lạm phát đã tăng gần 60% trong khi tổng tăng trưởng GDP chỉ đạt 35,1%. Ch ưa tính đ ến việc phân bổ lợi ích tăng trưởng có xu hướng tập trung cho nhóm người giàu và đầu cơ, chỉ hai con số nêu trên đã đủ chứng tỏ thu nh ập thực tế và mức sống thực của người dân, nhất là tầng lớp nghèo, bị gi ảm sút r ất mạnh. Năm 2010, kinh tế việt nam có sự phục hồi nhanh chóng sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II 6,4%, quý III tăng lên 7,14%, quý IV là 7,41%. Đến năm 2010, tổng mức đ ầu t ư toàn xã hội lên tới 41% GDP thì tốc độ tăng trưởng ch ỉ đạt 6,7%, ch ỉ s ố ICOR đã tăng tới mức quá cao trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Khi kinh tế thế giới bị suy trầm thì đà sa sút của Việt Nam lại không quá n ặng vì kinh tế vẫn tăng trưởng hơn 5% vào năm 2009, là năm mà lợi tức bình quân một đầu người đã vượt cái ngưỡng tâm lý là 1.000 Mỹ kim một năm. Tuy nhiên, nguồn đầu tư quá lớn trong khi hiệu quả đầu tư không cao; sự y ếu kém trong môi tường đầu tư; nhập siêu quá lớn trong khi xuất khẩu không 7
  8. tăng, nhập khẩu thì vẫn quá nhiều để duy trì nhịp độ sản xuất khiến giữ trữ ngoại tệ trong nước bị bào mỏng – chỉ còn 14 tỷ đô la giữ trữ. Đó là bất trắc về cơ cấu kinh tế vĩ mô, thứ nhất là sự thiếu quân bình, thứ hai là khả đối yếu của quyền. năng phó quá chính Vì vậy, sự quản lý của nhà nước thông qua các chính sách vĩ mô đã tác động trực tiếp lên các hoạt động kinh tế và đời sống của người dân. Nền kinh tế phát triển đi lên hay đi xuống đều do s ự qu ản lý c ủa nhà nước và hiệu quả của các chính sách kinh tế vĩ mô mang lại. 3. kinh tế học vĩ mô là một bộ môn khoa học chưa hoàn thiện: Kinh tế học vĩ mô là một ngành khoa học non trẻ và ch ưa hoàn ch ỉnh. Khả năng dự báo của các kinh tế vĩ mô về đường h ướng phát triển tương lai của các sự kiện kinh tế chưa thể nắm vững hoàn toàn. Song, nh ư các bạn sẽ thấy, chúng ta biết khá nhiều về ph ương th ức hoạt đ ộng c ủa n ền kinh tế. Mục tiêu của chúng ta trong việc nghiên cứu kinh tế vĩ mô không phải chỉ dừng lại ở phạm vi lí giải các biến cố kinh tế, mà còn nh ằm c ải thiện chất lượng của chính sách kinh tế. Các công cụ tài chính và tiền tệ của chính phủ có thể tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế - bao gồm cả mặt tích cực và tiêu cực – và khoa kinh tế vĩ mô giúp cho các nhà hoạch định chính sách đánh giá những chính sách khác nhau. Nhà kinh tế vĩ mô phải nghiên cứu nền kinh tế như nó đang tồn tại và suy ng ẫm xem chúng ta nên làm gì để cải thiện nó. KẾT LUẬN Qua bài tiểu luận trên, có thể nói rằng kinh tế h ọc vĩ mô tác đ ộng r ất lớn đến cuộc sống của chúng ta. 8
  9. Nghiên cứu kinh tế học vĩ mô, xây dựng các chính sách phát tri ển kinh tế hoàn thiện đưa nền kinh tế phát triển bền vững là mục tiêu của các quốc gia hiện nay. Mặc dù bộ môn khoa học kinh tế học vĩ mô còn non trẻ và ch ưa hoàn thiện. Nghiên cứu kinh tế học vĩ mô là công việc vô cùng quan tr ọng, c ần thiết để hoàn chỉnh bộ môn và nắm vững hơn các ph ương thức hoạt động kinh tế. 9

Kinh tế học là gì?

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đưa ra khái niệm chung nhất về kinh tế học là gì như sau: “ Kinh tế học là một bộ môn khoa học xã hội giúp cho con người hiểu về cách thức vận hành của nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng chủ thể tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các đơn vị kinh tế phải lựa chọn. Các Nhà Kinh tế cho rằng: Kinh tế học là ” khoa học của sự lựa chọn”. Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất của con người. Đặc biệt, kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong thế giới có nguồn lực hạn chế. Như vậy, kinh tế học quan tâm đến hành vi của toàn bộ nền kinh tế tổng thể và hành vi của các chủ thể riêng lẻ trong nền kinh tế, bao gồm các doanh nghiệp,hộ tiêu dùng, người lao động và chính phủ. Mỗi chủ thể kinh tế đều có mục tiêu để hướng tới, đó là tối đa hóa lợi ích kinh tế của họ. Mục tiêu của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, mục tiêu của các hộ tiêu dùng là tối đa hóa mức độ tiêu dùng, mục tiêu của người lao động là tối đa hóa tiền công và mục tiêu của chính phủ là tối đa hóa lợi ích xã hội. Kinh tế học có nhiệm vụ giúp các chủ thể kinh tế giải quyết bài toán tối đa hóa lợi ích kinh tế này. Kinh tế học có hai bộ phận cấu thành hữu cơ là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Các Nhà Kinh tế phân kinh tế học theo hai mức độ phân tích khác nhau: vi mô và vĩ mô”.

Tựu chung lại có thể thấy kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu cách thức các xã hội lựa chọn phương án tối ưu nhằm thỏa mãn nhu cầu vô hạn của con người trong điều kiện nguồn lực khan hiếm. Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học quan tâm đến hành vi của toàn bộ nền kinh tế tổng thể và hành vi của các chủ thể kinh tế riêng lẻ trong nền kinh tế, bao gồm các doanh nghiệp, các hộ tiêu dùng, người lao động và chính phủ.

Tại sao phải nghiên cứu kinh tế học

CÁC KHÁI NIỆM KINH TẾ HỌC

Kinh tế học là môn khoa học ra đời cách đây hơn hai thế kỷ. Từ đó đến nay kinh tế học đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, do đó cũng đã xuất hiện khá nhiều các định nghĩa về kinh tế học

Nguyên nghĩa của khái niệm này là "kinh bang tế thế" là các công việc mà một vị vua phải đảm nhiệm: chăm lo đời sống vật chất của bề tôi, chăm lo đời sốngtinh thầncủa cộng đồng. KINH trong KINH BANG (trị nước) và TẾ trong TẾ THẾ (giúp đời) (chữ này là do vua Minh Trị của Nhật đã yêu cầu dịch ra từ tiếng Latinh, nhờ chữ này mà Minh Hoàng lôi kéo được tầng lớp tri thức Nho giáo đi kinh doanh, buôn bán và làm giàu).

Nghĩa hẹp của từ này chỉ "hoạt động sản xuất và làm ăn của cá nhân hay hộgia đình".

Nghĩa rộng của từ này chỉ "toàn bộ các hoạt độngsản xuất,trao đổi,phân phối,lưu thông" của cả một cộng đồng dân cư, mộtquốc giatrong một khoảng thời gian.

Khái niệm kinh tế đề cập đến các hoạt động của con người có liên quan đến sản xuất, phân phối, trao đổi, và tiêu thụhàng hóadịch vụ. Tuy nhiên định nghĩa về kinh tế đã thay đổi theo lịch sử các hoạt động kinh tế.

Kinh tế học là môn học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hoá cần thiết và phân phối cho các thành viên trong xã hội.

Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu hoạt động của con người trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.

Kinh tếlà tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn.

Kinh tếlà tổng thể các yếu tốsản xuất, các điều kiện sống củacon người, các mỗi quan hệ trong quá trình sản xuất vàtái sản xuấtxã hội.

Kinh tế là vấn đềsở hữulợi ích.

Kinh tế có nghĩa là:" Dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có và hạn hẹp, con người tìm cách trả lời 3 câu hỏi:" Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? và Sản xuất cho ai?"

Kinh tế học là một môn khoa học về cách quyết định làm thế nào, với sự giới hạn của nguồn lực mà có thể thỏa mãn được ước muốn vô hạn của mình.

Kinh tế là cách phân bổ các nguồn lực có hạn một cách tối ưu nhất

Kinh tế học được mô tả là một môn khoa học nghiên cứu về các xã hội sử dụng các nguồn lực khan hiếm ra sao để sản xuất các hàng hóa hữu ích và phân phối chúng giữa những nhóm người khác nhau.

Kinh tế là một môn khoa học xã hội, tập trung nghiên cứuhành vi ứng xử hợp lýcủa các cá nhân và doanh nghiệp khi chúng quan hệ với nhau thông quatrao đổi trên thị trường

Thật ra, đây chỉ là các cách thức diễn đạt khác nhau về đối tượng nghiên cứu của kinh tế học. Có sự thừa nhận chung là:

Thứ nhất, kinh tế học là một môn khoa học xã hội, vì nó tập trung nghiên cứu và phân tích về hành vi con người. Nói đến các cách thức xã hội sử dụng các nguồn lực kinh tế, thật ra vẫn phải quy về việc phân tích hành vi của các cá nhân sản xuất và tiêu dùng có liên quan đến việc sử dụng những nguồn lực trên.

Thứ hai, khác với các khoa học xã hội khác (như Tâm lý học, Chính trị học v.v…) cũng quan tâm đến hành vi của con người, kinh tế học chỉ tập trung nghiên cứu về hành vikinh tếcủa con người. Đó là những hành vi lựa chọn trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Như ta đã biết, các vấn đề kinh tế chỉ nảy sinh khi có sự khan hiếm. Vì vậy, hành vi kinh tế của các cá nhân luôn luôn gắn chặt với tình trạng khan hiếm của các nguồn lực.

Thứ ba, khi các nguồn lực là khan hiếm, lựa chọn kinh tế của các cá nhân hay xã hội có thể quy về những lựa chọn cơ bản nhất mà mọi cộng đồng người đều phải đối diện: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai.

Thứ tư, theo nghĩa rộng, kinh tế học có thể nghiên cứu cách thức xã hội quản lý các nguồn lực khan hiếm cả trong các hệ thống kinh tế thị trường (có tính đến sự can thiệp của nhà nước) lẫn các hệ thống kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên, như trên chúng ta đã đề cập, trong điều kiện của thế giới đương đại, mô hình kinh tế hỗn hợp hay kinh tế thị trường là mô hình phổ biến. Vì thế, kinh tế học thị trường vẫn là nội dung chính của kinh tế học.

Tóm lại, bỏ qua những khác biệt trong các cách “nhấn” khác nhau của phương thức diễn đạt, có thể định nghĩa:Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu về cách thức lựa chọn của các cá nhân và xã hội trong việc sử dụng các nguồn lực khan hiếm để sản xuất các sản phẩm đầu ra (hữu hình và vô hình) và phân phối chúng cho các thành viên khác nhau của xã hội.

Theo một khái niệm chung nhất, kinh tế học là một bộ môn khoa học giúp cho con người hiểu về cách thức vận hành của nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng tác nhân tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các đơn vị kinh tế phải giải quyết đối với sự lựa chọn.

Các Nhà Kinh tế cho rằng: Kinh tế học là "khoa học của sự lựa chọn". Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất của con người. Đặc biệt, kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối, và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ trong thế giới nguồn lực hạn chế.

Như vậy, kinh tế học quan tâm đến hành vi của toàn bộ nền kinh tế tổng thể và hành vi của các chủ thể kinh tế riêng lẻ trong nền kinh tế, bao gồm các doanh nghiệp, các hộ tiêu dùng, người lao động và chính phủ. Mỗi chủ thể kinh tế đều có mục tiêu tối cao để hướng tới, đó là mục tiêu tối đa hóa các lợi ích kinh tế của họ. Mục tiêu của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, mục tiêu của các hộ tiêu dùng là tối đa hóa ích lợi khi tiêu dùng và mục tiêu của chính phủ là tối đa hóa phúc lợi xã hội. Kinh tế học có nhiệm vụ giúp các chủ thể kinh tế giải quyết các bài toán tối đa hóa lợi ích kinh tế này.

NGUỒN SƯU TẦM INTERNET

Kinh tế học là gì?

Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế học. Định nghĩa sau đây được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận xem như là sự mô tả tương đối đầy đủ phạm vi và đối tượng nghiên cứu của kinh tế học:

Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu cách thức mà con người và xã hội sử dụng những nguồn tài nguyên khan hiếm (nguồn lực) vào việc sản xuất các hàng hóa, dịch vụ cần thiết và phân phối chúng giữa các thành viên của xã hội.

Như vậy, đối tượng của kinh tế học là nghiên cứu các hành vi kinh tế trong sản xuất và phân phối của cải xã hội. Phạm vi mà kinh tế học đề cập liên quan tới các cá nhân và toàn xã hội. Kinh tế học có đối tượng nghiên cứu rộng lớn và có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều bộ môn khoa học xã hội khác như triết học, xã hội học, lịch sử, kinh tế chính trị, tâm lý học… là những môn học nghiên cứu về con người và quan hệ xã hội.

Nó cho biết xã hội giải quyết vấn đề khan hiếm như thế nào. Chúng ta không thể có tất cả những gì mình muốn, cho dù đó là kỳ nghỉ kéo dài hoặc không khí hoàn toàn trong sạch. Chúng ta phải thực hiện sự lựa chọn. Kinh tế học là sự nghiên cứu cách thức xã hội đưa ra các lựa chọn. Kinh tế học không chỉ nghiên cứu về thu nhập, giá cả và tiền tệ. Đôi khi việc sử dụng thị trường là hợp lý, đôi khi chúng ta cần những cách giải quyết khác. Phương pháp phân tích kinh tế giúp chúng ta quyết định khi nào nên để việc lựa chọn cho thị trường giải quyết, khi nào bỏ qua thị trường.