Tại sao sản xuất nông nghiệp ngày càng tập trung

Nước Mỹ có ngành nông nghiệp tân tiến, hiện đại nhất thế giới. Lao động  nông nghiệp chiếm khoảng 1% trong tổng dân số 322 triệu người. Nếu tính dưới góc độ lực lượng lao động thì lao động ngành nông nghiệp của Mỹ chỉ chiếm 0,7% tổng số lực lượng lao động của toàn nước Mỹ tính đến thời điểm năm 2014 (với 155.421.000 người).

Diện tích nước Mỹ là 9,161,923 km2, trong đó diện tích đất  có thể canh tác được chiếm 18,1%. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Mỹ, tháng 02/2014, Mỹ có 2,109,363 tổng số nông trại, trung bình mỗi trại có diện tích 174 héc ta. Năm 2012, tổng  giá trị sản phẩm nông nghiệp đạt 394.6 tỷ đô la Mỹ, tăng 33% so với năm 2007, trong đó giá trị các sản phẩm trồng trọt là 219.6 tỷ đô la, giá trị sản phẩm chăn nuôi đạt 171.7 tỷ đô la. Xuất nhập khẩu nông sản, Mỹ là nước dẫn đầu thế giới, ước tính chiếm 18% thị phần thương mại nông sản của toàn cầu.Từ năm 1960 đến năm 2014, Mỹ luôn thặng dư về thương mai các sản phẩm nông nghiệp, ví dụ như xuất khẩu nông sản năm năm 2014 ước tính đạt 149.5 tỷ đô la, chiếm hơn 10% tổng số kim ngạch xuất khẩu tất cả các mặt hàng và thặng dư mậu dịch nông nghiệp lên đến hơn 38.5 tỷ đô la Mỹ. Dưới đây là một số lý do giải thích vì sao nước Mỹ có một tỷ lệ nông dân rất nhỏ so với tổng lực lượng lao động, mà lại có một nền nông nghiệp lớn mạnh như vậy.

1- Chính sách hỗ trợ nông nghiệp của chính phủ

Các chính sách ủng hộ việc phát triển nông nghiệp của chính phủ Mỹ đã làm nên sự thành công của ngành nông nghiệp Mỹ. Ngay từ thời kỳ đầu, Chính phủ đã ban hành luật đất đai vào năm 1862 quy định phát không đất đai cho những người đến sống và làm việc trên các mảnh đất trống tại miền Tây nước Mỹ, tạo điều kiện cho một số nông dân được định cư, lập nghiệp dễ dàng. Vào năm 1914, Quốc hội Mỹ đã lập ra cơ quan Dịch vụ phát triển nông nghiệp, cơ quan này tuyển dụng đội ngũ cán bộ để cố vấn cho các hộ nông dân từ bước sử dụng phân bón cho đến các khâu sau của quy trình sản xuất nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp đảm nhiệm tiến hành các nghiên cứu mới, cho ra đời những loại phân bón làm tăng sản lượng hạt, các loại giống lai cho cây trồng khoẻ hơn, các phương pháp chữa trị nhằm bảo vệ và cứu chữa cây trồng vật nuôi chống được bệnh tật, và nhiều phương pháp khác kiểm soát các loài vật gây hại. Vào năm 1929, tổng thống Herbert Hoover thành lập ban nông nghiệp liên bang nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế cho nông dân. Năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt cho phép thực hiện một hệ thống trợ giá cho nông dân một mức giá gần bằng giá lúc thị trường ở điều kiện ổn định bình thường. Đồng thời, trong khoảng thời gian từ 1933 đến 1996, chính phủ cho nông dân vay tiền canh tác, nông dân có quyền trả nợ theo giá quy định trong hợp đồng. Cụ thể là vào những thời điểm sản xuất dư thừa, nông dân bán sản phẩm cho chính phủ, còn vào lúc giá nông phẩm cao, nông dân có quyền bán sản phẩm cho các công ty kinh doanh lương thực để tăng lợi tức.

Tại sao sản xuất nông nghiệp ngày càng tập trung

(Ảnh: Shutterstock) Ngoài ra, chính phủ còn đề ra chính sách bảo tồn, dưỡng đất dự trữ. Sự can thiệp với quy mô lớn vào ngành nông nghiệp Mỹ được kéo dài cho đến tận cuối những năm 1990. Sau đó, chính sách trợ giá nông nghiệp chỉ duy trì ở mức thấp, chính phủ tập trung vào chương trình dự trữ chiến lược, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học, để phục vụ hiệu quả cho ngành nông nghiệp Mỹ. Hiện nay, chính phủ đang chú trọng đến xuất khẩu nông sản, và đặc biệt quan tâm đến tính vững bền của lực lượng lao động nông nghiệp. Thượng viện vừa thông qua dự luật di dân nhằm mục đích bảo đảm có đủ số công nhân cần thiết cho nền nông nghiệp, đặc biệt là vào mùa gặt hái, chăn nuôi gia súc, và sản xuất nông phẩm cần thiết cho xuất khẩu. Đạo luật này cũng mở đường cho những người làm việc trong ngành nông nghiệp Mỹ mà chưa có giấy tờ hợp lệ được phép nhập cư vào Mỹ. Chính nhờ các chính sách hỗ trợ một cách hiệu quả này đã mang lại cho ngành nông nghiệp Mỹ một kết quả tốt đẹp như ngày hôm nay.

2 - Tính tự chủ và sáng kiến của nông dân 

Xét trên giác độ lịch sử, nông dân Mỹ được nhìn nhận với tính tự chủ rất cao, cần cù, sáng tạo, kiên nhẫn và đầy nhiệt huyết. Và thời kỳ đầu, những người nông dân này đến Mỹ với bàn tay trắng, tự làm việc trên những mảnh đất không có giấy tờ sở hữu. Năm 1790 nông dân Mỹ chiếm 90% dân số. Số lượng nông dân giảm liên tiếp qua thời gian, đến năm 1920, nông dân Mỹ chiếm 30.8% tổng dân số, đến năm 1960, họ chiếm 8,3% tổng dân số và đến thời điểm năm 2014, ước tính số lượng nông dân Mỹ thực sự hoạt động trên đồng ruộng chỉ chiếm khoảng 1% trong tổng số toàn dân Mỹ.   Những người nông dân này thực hiện vận hành các nông trại nhỏ và vừa được của chính gia đình họ, hay họ thành lập nên những công ty do chính họ làm chủ, chiếm tới 95% tổng diện tích đất nông nghiệp được canh tác, 5% còn lại thuộc về các tập đoàn lớn làm chủ. Nông dân Mỹ sử dụng máy móc rất thành thạo, có trình độ hiểu biết cao về nông nghiệp và kinh tế, nhiều người có bằng đại học. Họ chú trọng vào việc cải thiện kỹ thuật trồng trọt, kỹ thuật chăn nuôi gia súc dẫn đến sản lượng nông nghiệp tăng mạnh. Hình ảnh người nông dân Mỹ ngày nay là hình ảnh của người công nhân nông nghiệp. Họ hay mặc quần jean, áo carô màu, sống trong những khu vực đầy đủ tiện nghi. Thu nhập của người làm nghề nông ở Mỹ khá cao, mức lương trung bình hiện nay của một công nhân nông nghiệp Mỹ là 61.000 đô la/năm. Tính trên hộ gia đình thì thu nhập trung bình của một gia đình nông dân năm 1960 là 4.654 đô la, đến năm 2012 thì thu nhập trung bình là 108.814 đô la, tăng 23,38 lần trong thời gian 52 năm.

3 - Áp dụng phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp

Nước Mỹ đặc biệt nhấn mạnh đến việc cơ giới hóa các phương tiện canh tác, sử dụng máy móc thay thế cho sức người và sức súc vật. Chi phí máy móc chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng chi phí đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Việc cơ giới hóa máy móc không chỉ đơn thuần là tăng số lượng máy móc trên cánh đồng mà còn chú ý đến thực hiện kết hợp các tính năng để tạo ra các máy liên hoàn, kết hợp máy kéo với máy cày, máy gieo trồng, máy gặt. Hay các sáng kiến về các loại máy móc có thể canh tác được ở những vùng đất cứng mà sức người khó có thể làm được. Hầu như mọi hoạt đông trong sản xuất nông nghiệp đều thực hiện bằng máy móc, từ làm đất, gieo trồng, bón phân, tưới tiêu đến gặt hái. Nông dân còn dùng máy bay để phun thuốc trừ sâu, dùng máy điện toán đề theo dõi kết quả thu hoạch. Ngày nay, không có gì lạ khi nhìn thấy những người nông dân lái máy kéo với các ca bin lắp điều hòa nhiệt độ, gắn kèm theo những máy cày, máy xới và máy gặt có tốc độ nhanh và rất đắt tiền. Vào đầu thế kỷ 20,  phải có 4 nông dân mới sản xuất nông phẩm đủ nuôi cho 10 người, ngày nay, một nông dân Mỹ có thể cung cấp đủ lương thực nuôi 100 người Mỹ và 32 người đang  sống tại các nước trên thế giới. Với diện tích đất canh tác rộng lớn nên việc áp dụng các phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp đã khiến cho năng suất lao động tăng mạnh. Bên cạnh đó, mặc dù có những đợt lũ lụt và hạn hán nhưng nhìn chung lượng nước mưa tương đối đấy đủ, nước sông và nước ngầm cho phép tưới tiêu tại các tiểu bang thiếu nước. Vùng đất phía Tây thuộc miền Trung nước Mỹ có đất đai canh tác màu mỡ. Chính vì vậy khi đến Mỹ, người ta thường thấy những cánh đồng ngô, đậu nành, lúa mì, cam, cánh đồng cỏ, rộng mênh mông, xanh tươi, bát ngát.

Tại sao sản xuất nông nghiệp ngày càng tập trung

(Shutterstock) Với những lý do trên, ngành nông nghiệp Mỹ đã đạt được những thành tựu to lớn, thực sự đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Mỹ, với các loại thực phẩm dồi dào với giá rẻ, tạo thêm công ăn, việc làm cho các ngành chế biến, sản xuất máy móc, và đặc biệt dịch vụ xuất khẩu nông phẩm đi khắp các nước trên thế giới.

Bài học cho chúng ta

Nhìn lại ngành nông nghiệp Việt Nam, cho đến thời điểm này, năng suất lao động trong ngành nông nghiệp của Việt Nam luôn thấp nhất trong nhóm các nước có mức thu nhập trung bình thấp và không thể bắt kịp được năng suất lao động của các nước này kể từ năm 2005. Trong khi đó, năng suất lao động của ngành nông nghiệp lại đang có xu hướng chững lại, hiện chỉ bằng 1/3 so với năng suất chung của cả nước. Theo thông tin từ Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD), giá trị gia tăng nông nghiệp trên mỗi lao động của Việt Nam năm 2011 đạt chưa tới 400 USD/người, thấp hơn cả Lào và Campuchia. Mặc dù nông nghiệp cũng là lĩnh vực duy nhất của Việt Nam luôn có xuất siêu trong nền kinh tế. Trong vòng gần 3 thập niên, nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng đều đặn, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới với các sản phẩm như gạo, tiêu, điều, sắn, chè, cao su. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là tăng trưởng nông nghiệp và năng suất có xu hướng chững lại, tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) của nông nghiệp giảm dần từ mức bình quân 4,5% giai đoạn 1995-2000 xuống 3,8% giai đoạn 2000-2005 và chỉ còn 3,4% giai đoạn 2006-2012. Chính vì vậy, để có được những bước đột phá cho ngành nông nghiệp Việt Nam, có lẽ cần có những chính sách sát hữu hiệu giúp đỡ người nông dân một cách toàn diện hơn nữa. Có như vậy ngành nông nghiệp Việt Nam mới có thể phát triển bền vững.

Nhật Hạ tổng hợp

Để thưc đẩy phát triển kinh tế hiện nay vấn đề hình thành một số vùng sản xuất tập trung đang được quan tâm và phát triển ở trên khắp cả nước với các vùng tiêu biểu với các loại khác nhau như trong nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, mục đích để phát triển thành một khu vực có quy mô phù hợp với từng loại hình sản xuất. Vậy để hiểu thêm về Vùng sản xuất tập trung là gì? Một số vùng sản xuất tập trung? Hãy theo dõi ngay dưới đây nhé.

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài trực tuyến 24/7: 1900.6568

1. Vùng sản xuất tập trung là gì?

Vùng sản xuất tập trung là vùng sản xuất tập trung một hay một nhóm sản phẩm nông nghiệp cùng loại có quy mô phù hợp với từng loại hình sản xuất và điều kiện của mỗi địa phương, tuân thủ các quy định của Nhà nước về an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, bảo vệ môi trường, có liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Phát triển vùng sản xuất nông nghiệp (NN) tập trung là một trong các định hướng quan trọng cho mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh trong giai đoạn mới. Mục đích là xây dựng nền NN hiện đại, hiệu quả cao, đồng thời khắc phục hạn chế trong sản xuất NN của tỉnh thời gian qua.

Vùng sản xuất tập trung tiếng Anh là “Concentrated production area”.

2. Một số vùng sản xuất tập trung:

Theo quy định tại Nghị định số 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm NN thì “Vùng sản xuất NN hàng hóa tập trung một hay một nhóm sản phẩm NN cùng loại, có quy mô phù hợp với từng loại hình sản xuất và điều kiện của mỗi địa phương, tuân thủ các quy định của nhà nước về an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, bảo vệ môi trường, có liên kết gắn với tiêu thụ sản phẩm NN”.

Trong giai đoạn phát triển mới, để hình thành vùng sản xuất NN tập trung, tỉnh tập trung bứt phá, nhằm nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp, tổ hợp tác và hợp tác xã để xây dựng theo hướng hữu cơ, an toàn, có truy xuất nguồn gốc sản phẩm NN theo mục tiêu xây dựng và hoàn thiện chuỗi giá trị các sản phẩm NN chủ lực, chuyển đổi mạnh theo hướng hiện đại hóa và thương mại hóa, theo phương châm tăng giá trị, tăng nhiều sản phẩm trong một chuỗi, giảm chi phí đầu vào, hình thành các chuỗi giá trị trong nền kinh tế NN.

Phát triển chuỗi giá trị các sản phẩm NN chủ lực đảm bảo có vùng nguyên liệu tập trung, ổn định lâu dài, kết hợp phát triển du lịch, gắn với thị trường trong và ngoài nước. Đồng thời, gắn với ứng dụng công nghệ cao và chế biến sâu các sản phẩm NN để tiếp tục hoàn thiện chuỗi giá trị sản phẩm NN theo hướng hiện đại, bền vững, với 6 nhóm sản phẩm NN chủ lực của tỉnh là: dừa, cây ăn trái, cây giống và hoa kiểng, con heo, con bò, con tôm. Cụ thể như:

Việc xây dựng, hình thành các vùng sản xuất tập trung góp phần đẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn. Điển hình, vùng Điện Biên Đông tập trung chăn nuôi trâu, bò mang lại hiệu quả tích cực. Ông Nguyễn Trọng Huế, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Điện Biên Đông cho biết: Trên cơ sở định hướng vùng sản xuất nông nghiệp, thời gian qua huyện xác định phát triển chăn nuôi gia súc (chủ yếu trâu, bò) trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, theo hướng sản xuất hàng hóa. Vì vậy, huyện tích cực vận động, khuyến khích người dân phát triển chăn nuôi tập trung theo mô hình trang trại, gia trại. Đồng thời, triển khai nhiều chương trình dự án hỗ trợ phát triển chăn nuôi như: Hỗ trợ trồng cỏ, con giống, làm chuồng trại, tiêm vắc xin, phun phòng dịch bệnh… Do vậy, trong những năm qua ngành chăn nuôi của Điện Biên Đông đã đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế huyện. Đàn gia súc tăng cả số lượng và chất lượng; tốc độ tăng trưởng ổn định. Trong 5 năm qua, tổng đàn gia súc trên địa bàn huyện phát triển đạt gần 128%; tỷ lệ tăng trưởng hàng năm đạt khoảng 4%/năm. Hiện nay, tổng đàn trâu trên địa bàn huyện gần 111 nghìn con; đàn bò gần 34 nghìn con. Nhiều xã, hộ dân trên địa bàn huyện là điển hình trong xóa đói giảm nghèo từ việc chăn nuôi gia súc.

Huyện Mường Ảng ngoài việc phát triển cà phê còn được xác định là vùng chuyên canh cây ăn quả có giá trị cao. Những năm qua, huyện đã tập trung đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, trong đó, hướng tới tập trung phát triển một số loại cây ăn quả có giá trị kinh tế như: Bưởi da xanh, xoài Đài Loan, cam và chanh leo… với diện tích trên 205ha. Dự kiến đến hết năm 2020, toàn huyện có 350ha – 400ha cây ăn quả. Bên cạnh đó, hiện đã có một số doanh nghiệp tiến hành đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp như: Doanh nghiệp Tư nhân Xây dựng Quang Hà với quy mô đầu tư phát triển trồng cây ăn quả bằng công nghệ cao trên 200ha; Công ty TNHH Xây dựng Bùi Gia Phát đang khảo sát, tích tụ đất để xây dựng dự án kết hợp trồng rừng, trồng cây ăn quả và các loại cây kinh tế khác. Dự kiến tiến hành thực hiện 1.000ha – 1.500ha các loại cây ăn quả.

Xem thêm: Bồi thường cây trồng lâu năm khi nhà nước thu hồi đất

Hay tại Thanh Hóa để đẩy mạnh xây dựng và phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, chuyên canh, ngành Nông nghiệp tỉnh, chính quyền các địa phương cần tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp và người dân tích tụ, tập trung đất đai, đầu tư sản xuất. Đồng thời, thực hiện rà soát các cơ chế, chính sách; xây dựng, bổ sung, hoàn thiện chính sách cho vùng sản xuất nông nghiệp tập trung.

Thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, huyện Thiệu Hóa đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển sản xuất các cây trồng có giá trị kinh tế cao theo hướng tập trung, quy mô lớn gắn với các cơ sở chế biến và bao tiêu sản phẩm. Đồng thời, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, hệ thống canh tác, cơ giới hóa, quản lý dịch bệnh, tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và bảo vệ môi trường. Theo đó, trên địa bàn huyện đã hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, như: Vùng thâm canh lúa năng suất, chất lượng, hiệu quả cao với tổng diện tích 6.500 ha/năm; 10 vùng chuyên canh sản xuất rau màu hơn 30 ha; vùng chuyên canh sản xuất cây dược liệu gần 2 ha; vùng chuyên canh trồng dâu tằm gần 127 ha… Thông qua việc hình thành những vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn nhiều sản phẩm đặc trưng đã được người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh biết đến, như: Rau an toàn (thị trấn Thiệu Hóa); dưa chuột an toàn (thị trấn Thiệu Hóa, xã Thiệu Toán); nấm, mộc nhĩ, măng tây (xã Tân Châu); thanh long ruột đỏ (xã Thiệu Vũ); cá giống (xã Minh Tâm)… Theo đánh giá của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND huyện Thiệu Hóa: Sản xuất quy mô lớn sẽ thuận lợi hơn trong việc ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ và áp dụng khoa học – kỹ thuật. Bên cạnh đó, năng suất cao hơn từ 20 – 25% trở lên, hiệu quả kinh tế cao hơn bình quân từ 1,2-1,5 lần trở lên so với sản xuất truyền thống. Trong đó, vùng sản xuất rau, quả an toàn tập trung doanh thu 450-500 triệu đồng/ha/năm, cao hơn từ 5-8 lần so với sản xuất truyền thống.

Để nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp, trên địa bàn huyện Quảng Xương đã hình thành các vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn, áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác đồng bộ. Như: Vùng nguyên liệu sản xuất tập trung lúa chất lượng cao khoảng 3.500 ha ở các xã Quảng Văn, Quảng Hòa, Quảng Hợp,… vùng sản xuất rau an toàn tập trung theo hướng VietGAP trên 30 ha ở các xã Quảng Lưu, Quảng Yên… Từ thành công bước đầu trong việc tích tụ, tập trung đất đai đã tạo bước đột phá nhằm phát triển nền nông nghiệp theo hướng hiện đại; từng bước thay đổi tư duy, tập quán canh tác truyền thống sang sản xuất tập trung có quy mô lớn, dần hình thành các chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm, sản xuất theo hướng công nghệ cao. Thực tế, trên địa bàn huyện đã xây dựng được nhiều trang trại tổng hợp mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm cho người dân. Thời gian tới, huyện định hướng phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, như: Vùng sản xuất lúa áp dụng cơ giới hóa đồng bộ, vùng sản xuất rau an toàn áp dụng quy trình quản lý cây trồng tổng hợp, vùng sản xuất hoa cao cấp trong nhà lưới, vùng chăn nuôi lợn (lợn ngoại hướng nạc), vùng chăn nuôi bò lai…

Một loạt các giải pháp được các cấp, các ngành của tỉnh đưa ra nghiên cứu, phân tích trong thời gian qua nhằm đạt được mục đích cụ thể cho việc xây dựng các vùng sản xuất tập trung đó là: cần phải khảo sát kỹ lưỡng đặc thù của từng địa phương, vùng, miền, từ đó hình thành nên vùng sản xuất tập trung phù hợp với từng sản phẩm, quy hoạch chung của mỗi địa phương và của tỉnh; đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo hệ thống giao thông nội đồng, hệ thống thủy lợi cung cấp nước tưới và tiêu thoát nước thuận tiện, thường xuyên và kịp thời; vận động người dân dồn điền, đổi thửa; thảo luận dân chủ để có tính đồng thuận cao giữa các hộ nông dân trong vùng được lựa chọn đưa vào sản xuất tập trung về định hướng, phương thức tổ chức sản xuất, quyền lợi và nghĩa vụ của nông dân khi tham gia; xây dựng quy trình sản xuất thống nhất có sự thẩm định của của cơ quan chuyên môn có thẩm quyền; thực hiện các khâu dịch vụ chung có tính tập thể, đồng thời cử cán bộ kỹ thuật từ các phòng nông nghiệp tại các địa phương và các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư để “3 cùng” với nông dân.