Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long-Hà Nội có nhiều tên gọi khác nhau được ghi chép trong sử sách Nhà nước Việt Nam và chia thành hai loại: chính thức và không chính thức, theo thứ tự thời gian.
Thăng Long-Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long-Hà Nội có nhiều tên gọi khác nhau được ghi chép trong sử sách Nhà nước Việt Nam và chia thành hai loại: chính thức và không chính thức, theo thứ tự thời gian.
Bạn đang xem: Vì sao thủ đô hà nội gọi là hà nội
Những tên gọi chính thức củaThăng Long-Hà Nội qua chiều dài lịch sử
Một góc phố cổ Hà Nội khi lên đèn. (Ảnh: Thanh Tùng/TTXVN) |
Tên chính thức là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:
Thăng Long(Rồng bay lên). Đây là cái tên có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết lý do hình thành tên gọi này như sau: "Mùa Thu, năm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thànhĐại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long" (Sách “Toàn thư”, Tập 1, Hà Nội 1993, tr 241).
Đông Đô: Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" viết: "Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Hồ Hán Thương coi phủ đô hộ là Đông Đô" (Sách “Toàn thư”, Tập I, Hà Nội 1993, tr 192). Hồ Quý Ly lên ngôi đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hóa), Thăng Long là Đông Đô.
Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục chú thích: "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô" (Sách “Cương mục”, Tập 2, Hà Nội 1998, tr 700).
Đông Quan: Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là "cửa quan phía Đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan.
Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý (1408), Giản Định đế bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Đông Quan thì chắc phá được chúng" (Sách “Toàn thư”, Tập 2, Hà Nội 1993, tr 224).
Đông Kinh:Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" viết về sự ra đời của tên “Đông Kinh” như sau: "Mùa Hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15, vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh" (Sách “Toàn thư”, Tập 2, Hà Nội 1993, tr 293).
Bắc Thành:“Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ-Quang Trung 1787-1802) vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (Huế) nên gọi Thăng Long là Bắc thành. Đầu đời Gia Long đặt “Tổng trấn Bắc Thành," đem phủ Phụng Thiên lệ vào” (Nguyễn Vinh Phúc-Trần Huy Bá, Đường phố Hà Nội, Hà Nội 1979, tr12).
Thăng Long(Thịnh vượng lên): Sách "Lịch sử Thủ đô Hà Nội" viết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (Huế), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyến làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là Rồng thành chữ "Long" là Thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "Rồng" .
Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại quá lớn rộng.
Hà Nội:Sách Lịch sử Thủ đô Hà Nội viết: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội" .
Những cái tên trong văn học của Thăng Long-Hà Nội
Trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ...,thành Thăng Long-Hà Nội được gắn với nhiều tên gọi khác nhau.
Trường An:Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán (206 trước công nguyên-III sau công nguyên) và Đường (618-907). Do đó, Tràng An được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô, từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.
Thí dụ: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhàiDẫu không thanh lịch cũng người Tràng An."
Rõ ràng chữ Tràng An ở đây là để chỉ kinh đô Thăng Long.
Phượng Thành (Phụng Thành): Vào đầu thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh (người Bắc Ninh) có bài phú nôm rất nổi tiếng: “Phượng Thành xuân sắc phú” (Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng).
Xem thêm: Hệ Sinh, Cơ Sở Và Tổ Hợp Tuyến Tính Là Gì, Span Tuyến Tính
Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng Thành hay Phượng Thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ thành Thăng Long.
Long Biên:Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều (thế kỷ III, IV, V và VI) ở Giao Châu (tên nước Việt Nam thời đó) đóng trị sở. Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long-Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838-1877); ghi lại bài thơ của vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:
“Long Biên tài hướng Phượng thành hồi
Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi!”
Dịch nghĩa:
“Nhớ người vừa từ thành Long Biên về tới Phượng Thành.
Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi về triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay."
Thành Long Biên ở đây, vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Đức triệu ông về kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.Biểu trưng chào mừng 1.010 năm Thăng Long-Hà Nội. (Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN) |
Long Thành:Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc.
Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa-Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long thành).
Hà Thành:Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu vọng...
Hoàng Diệu:Ngay sau Cách mạng Tháng Tám-1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.
Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long-Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ-Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ); Thượng Kinh, tên này để nói đất kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài. Chẳng thanh lịch cũng thể người Thượng Kinh). Kinh Kỳ, tên này nói đất có kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến).
Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "Ăn Bắc, mặc Kinh." Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ kinh đô Thăng Long.
Loại tên "không chính quy" của Thăng Long-Hà Nội còn được sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao...
Ý nghĩa tên gọi Hà Nội
Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long đã đổi phủ Phụng Thiên (vốn là đất đai của kinh thành Thăng Long cũ) thành phủ Hoài Đức và vẫn coi là một đơn vị trực thuộc ngang với trấn tức trực thuộc trung ương mà đại diện là Tổng trấn Bắc Thành.
Đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đã tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn, xóa bỏ Bắc Thành (gồm 11 trấn và 1 phủ trực thuộc) ở miền Bắc, chia cả nước ra làm 29 tỉnh, trong đó có 15 tỉnh trực thuộc trung ương.
Lúc đó, Hoài Đức trở thành một trong bốn phủ họp thành tỉnh Hà Nội. Danh từ Hà Nội bắt đầu có từ bấy giờ. Hà Nội có nghĩa là phía trong sông. Vì trong thực tế, tỉnh mới này nằm trên trong 3 con sông Hông, sông Nhuệ và sông Đáy. Tỉnh Hà Nội có 4 phủ là:
- Phủ Hoài Đức gồm 3 huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm
- Phủ Thường Tín gồm 3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên
- Phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện: Sơn Minh (nay là Ứng Hòa), Hoài An (nay là phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ Đức), Chương Đức (nay là Chương Mỹ-Thanh Oai)
- Phủ Lý Nhân gồm 5 huyện: Nam Xang (nay là Lý Nhân), Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục.
Tên gọi Hà Nội bắt đầu có từ năm 1831. Như vậy, tỉnh Hà Nội so với nay gồm thành phố Hà Nội, nửa phía đông tỉnh Hà Tây (chính là tỉnh Hà Đông thời Pháp thuộc) và toàn bộ tỉnh Hà Nam, rõ ràng nằm kẹp giữa sông Hồng, sông Đáy và sông Nhuệ.Khu vực tượng đài Lý Thái Tổ chào mừng 1.010 năm Thăng Long-Hà Nội. (Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN) |
Cũng từ đó, thành Hà Nội cũng được coi là thành tỉnh, và con đường đi từ Hàng Bông qua Mang Cá (công trình phòng thủ hình tam giác xây trước cửa thành) đi vào Cửa Đông của toà thành được gọi là phố "Cửa Đông Cổng tỉnh" nay là phố Đường Thành.
Có người cho rằng chữ Hà Nội là lấy từ câu trong sách Mạnh Tử (Thiên Lương Huệ Vương): "Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ túc ư Hà Nội" (nghĩa là: Hà Nội bị tai họa thì đưa dân về Hà Đông, đưa thóc từ Hà Đông về Hà Nội). Nhưng đó là trường hợp năm 1904 khi muốn đổi tên tỉnh Cầu Đơ cho khỏi nôm na, "tiểu ban đặt tên" mới lấy câu sách Mạnh Tử nói trên để đổi tỉnh Cầu Đơ ra tỉnh Hà Đôn
Dưới đây là một cuộc thảo luận nhỏ về sự tích Hà Nội
Trước hết xin nhìn lại đôi dòng lịch sử, để bạn đọc nào chưa hề theo dõi vấn đề này, sẽ có chút khái niệm tổng quát:
Vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) trên chuyến du hành từ kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) về quê ông ở Bắc Ninh, đi ngang thành Đại La. “Khi thuyền tạm đỗ dưới thành, thấy có rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự rồi bay lên trời, vì thế mà gọi là Thăng Long.” Và vua quyết định rời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long năm 1010.Tám trăm năm sau, 1802, vua Gia Long thống nhất đất nước, lập kinh đô triều Nguyễn ở Huế, nhưng cũng vẫn duy trì hai chữ Thăng Long, chỉ đổi chữ “long” là “con rồng” thành chữ “long” là “hưng thịnh”, nghĩa là đồng âm nhưng khác nghĩa (năm 1805).Điều đáng nhắc lại là nhà Lý chọn Thăng Long làm kinh đô cũng như nhà Nguyễn chọn kinh đô Huế đều có dựa một phần vào yếu tố phong thủy. Trong chiếu rời đô, vua Lý Thái Tổ viết:
Tương tự như vậy, vua Minh Mạng khiêm tốn nói:
“Trẫm không dám mong dòng họ Nguyễn Phước của trẫm sẽ ngự trên ngai vàng hơn 700 năm như nhà Chu bên Trung Hoa. Trẫm chỉ hy vọng kéo dài 500 năm là được rồi!”Ngoài niềm tin phong thủy trên sông Hương, “lấy cồn Hến và cồn Dã Viên làm Thanh Long, Bạch Hổ cùng chầu về hoàng đô”, vua Minh Mạng còn cẩn thận xóa bỏ hẳn cái tên Thăng Long, đổi thành Hà Nội. Ông bỏ tên Thăng Long vì Rồng (long) là biểu tượng độc quyền của vua mà vua không còn ở đó nữa thì chẳng có lý do gì vùng đất ấy được giữ tên Rồng! Hơn thế nữa, vua Minh Mạng muốn xóa cái tên ấy hầu muốn dân đừng nhớ tới kinh đô của các triều đại trước, nhất là vua vừa lên ngôi được một hai năm, giặc giã đã nổi lên khá nhiều ở miền Bắc.Đó là vài nét tổng quát về sự đổi thay từ địa danh Thăng Long biến thành Hà Nội.
Về địa danh Hà Nội, có hai cách giải thích:1. Một ý kiến cho rằng sở dĩ vua Minh Mạng đặt tên Hà Nội bởi vì vùng đất này nằm ở phía trong sông Hồng.2. Ý kiến khác cho rằng Hà nội là một địa danh lấy từ bên Trung Hoa. Tôi ủng hộ ý kiến thứ hai, như bạn đọc đã biết.Bài này chủ yếu phân tích ý kiến thứ 2?Trong cuốn Hà Nội Nghìn Xưa, hai tác giả Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán viết:“Thăng Long là một cái tên độc đáo và sáng tạo vì không lấy chữ có sẵn trong sách và khối địa danh có sẵn ở phương Bắc (tức Trung Hoa) như người ta vẫn làm trước đó và sau này, như trường hợp cái tên Hà Nội.”Giáo sư Trần Quốc Vượng thì chắc chắn bất cứ ai thích đọc sử Việt đều biết đến uy tín chuyên môn rất thâm hậu của ông. Ông đã xuất bản hàng loạt sách giáo khoa hoặc nghiên cứu về lịch sử và địa lý Việt Nam. Tác giả Vũ Tuấn Sán cũng vậy. Ông là nhân viên kỳ cựu của Viện Bảo Tàng Hà Nội. Hai ông đều cho rằng Hà Nội là cái tên có sẵn bên Tàu và vua Minh Mạng lấy tên đó mang sang nước ta.Nhưng ngay cả trước khi đọc cuốn Hà Nội Nghìn Xưa của Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán, tôi cũng vẫn đã cho rằng Hà Nội là một cái tên có sẵn từ bên Tàu. Chuyện vay mượn của Trung Hoa thời xưa là điều rất bình thường khi ảnh hưởng văn hóa phương Bắc còn tràn ngập trong xã hội Việt Nam, nhất là văn chương khoa cử nước ta đều phải dùng chữ Hán. Cho nên việc lấy tên Hà Nội từ Trung Hoa đem vào nước ta không phải là một cái gì mới mẻ. Ở Chiết Giang có núi Thiên Thai. Đây là quê hương cũ của dòng Bách Việt chúng ta. Núi Thiên Thai là nơi xuất phát chuyện Lưu Nguyễn đi hái thuốc rồi lạc vào động tiên. Có thể vì thấy chuyện hấp dẫn cho nên bên Việt Nam cũng lấy tên Thiên Thai để đặt cho một ngọn núi ở Bắc Ninh và một núi nữa ở Thừa Thiên. Tên Hà Đông cũng vậy, từ Trung Hoa đưa sang nước ta. Chúng ta không ngạc nhiên vì ngay cả lề lối thi cử, cách tổ chức triều đình và quan lại, nước ta còn phỏng theo Trung Hoa, huống hồ là bắt chước một cái tên!nguồn: //culturemagazin.com/vi/truy-nguon-goc-ten-ha-noi/
- Đăng bởi trần trân
- nhắn tin
- 25/12/2014
- hà nội xưa