Thực tiễn ưu đãi đầu tư vào khu công nghệ cao

Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, sau khi Luật Công nghệ cao ra đời năm 2008 và có hiệu lực, nhiều khái niệm, quy định liên quan đến công nghệ cao, khu công nghệ cao đã được luật hóa. Đồng thời, các pháp luật chuyên ngành về quy hoạch, đầu tư, xây dựng, đất đai, thuế… đều đã được xây dựng, cập nhật, sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, quy chế khu công nghệ cao chưa được xây dựng mới và ban hành để thay thế quy chế theo Nghị định số 99/2003/NĐ-CP.

Ở thời điểm hiện tại, quy chế khu công nghệ cao theo Nghị định số 99/2003/NĐ-CP cũng như các văn bản được xây dựng, ban hành để hướng dẫn Nghị định đã lỗi thời, có nhiều điểm không còn phù hợp và không theo kịp với thực tiễn phát triển của các khu công nghệ cao trong cả nước.

Ví dụ như về thu hút đầu tư vào khu công nghệ cao, hoạt động thu hút đầu tư gặp những hạn chế nhất định do thiếu tiêu chí thu hút đầy đủ đối với từng loại hình dự án được phép đầu tư vào khu công nghệ cao. Hiện nay, các ban quản lý khu công nghệ cao đang phải vận dụng lồng ghép các tiêu chí khác nhau quy định với các loại hình dự án có sự tương đồng.

Các quy định về cơ chế, chính sách ưu đãi đối với khu công nghệ cao từ trước đây không còn phù hợp, đặc biệt sau khi một số luật chuyên ngành ra đời và/hoặc được sửa đổi, bổ sung, cập nhật thì các ưu đãi được thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành…

Như vậy, qua một thời gian dài thực hiện Nghị định số 99/2003/NĐ-CP, đặc biệt là sau khi Luật công nghệ cao ra đời, đã nảy sinh rất nhiều vấn đề bất cập từ thực tiễn triển khai cũng như phát sinh những đòi hỏi mới từ chính thực tiễn. Do đó, việc xây dựng, trình cấp có thẩm quyền xem xét, ban hành Nghị định mới quy định về khu công nghệ cao nhằm tạo khung pháp lý cho hoạt động của khu công nghệ cao là cần thiết và rất cấp thiết.

Dự thảo Nghị định nêu rõ, nhà nước khuyến khích, hỗ trợ nhà đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật công nghệ cao. Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, nhiệm vụ phát triển công nghệ cao trong từng giai đoạn nhất định, nhà nước tập trung đầu tư xây dựng một số khu công nghệ cao.

Bên cạnh đó, dự thảo Nghị định cũng nêu rõ những ưu đãi đầu tư đối với khu công nghệ cao. Cụ thể, khu công nghệ cao là địa bàn ưu đãi đầu tư và thuộc danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn theo pháp luật về đầu tư. Hình thức và đối tượng áp dụng ưu đãi đầu tư, thủ tục áp dụng ưu đãi đối với các dự án đầu tư trong khu công nghệ cao thực hiện theo quy định pháp luật về đầu tư.

Thực tiễn ưu đãi đầu tư vào khu công nghệ cao
Bộ KH&CN đề xuất cơ chế ưu đãi đầu tư cho khu công nghệ cao. Ảnh minh họa

Ưu đãi về đất đai, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu-thuế nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp của dự án đầu tư vào khu công nghệ cao thực hiện theo quy định hiện hành của pháp luật về đầu tư, pháp luật về đất đai, pháp luật về thuế.

Ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt được áp dụng để khuyến khích phát triển một số dự án đầu tư có tác động lớn đến phát triển kinh tế-xã hội. Đối tượng áp dụng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt thực hiện theo quy định hiện hành của pháp luật về đầu tư. Mức ưu đãi và thời hạn áp dụng ưu đãi, hỗ trợ đặc biệt thực hiện theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật về đất đai.

Tổ chức, cá nhân có dự án đầu tư vào khu công nghệ cao được cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ thực hiện các thủ tục hành chính về đầu tư, doanh nghiệp, đất đai, xây dựng, môi trường, lao động, thương mại theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” và các vấn đề liên quan khác trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Doanh nghiệp khu công nghệ cao có đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ của nhà đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật khác có liên quan.

Liên quan tới vấn đề trên, trước đó, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 10/2021/QĐ-TTg quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp công nghệ cao. Theo đó, doanh nghiệp công nghệ cao phải đáp ứng các tiêu chí quy định tại điểm a và b khoản 1 Điều 18 Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12 được sửa đổi, bổ sung tại Điều 75 của Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 và khoản 3 Điều 76 của Luật Đầu tư số 61/2020/QH14.

Đồng thời, doanh nghiệp công nghệ cao cũng cần đáp ứng các tiêu chí như doanh thu từ sản phẩm công nghệ cao phải đạt ít nhất 70% trong tổng doanh thu thuần hằng năm của doanh nghiệp.

Tỷ lệ tổng chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp (bao gồm khấu hao đầu tư cơ sở hạ tầng, tài sản cố định, chi thường xuyên hàng năm cho hoạt động nghiên cứu và phát triển; chi hoạt động đào tạo, hỗ trợ đào tạo cho lao động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp, các tổ chức khoa học và công nghệ, cơ sở đào tạo tại Việt Nam; phí bản quyền, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp phục vụ hoạt động nghiên cứu và phát triển; phí đăng ký công nhận hoặc bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích tại Việt Nam) trên giá trị của tổng doanh thu thuần trừ đi giá trị đầu vào (bao gồm giá trị nguyên vật liệu, linh kiện phục vụ sản xuất nhập khẩu và mua nội địa) hằng năm.

Đối với doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ 6.000 tỷ đồng và tổng số lao động từ 3.000 người trở lên thì tỷ lệ phải đạt ít nhất 0,5%; Đối với doanh nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2, có tổng nguồn vốn từ 100 tỷ đồng và tổng số lao động từ 200 người trở lên phải đạt ít nhất 1%; Đối với doanh nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 phải đạt ít nhất 2%.

Tỷ lệ lao động trực tiếp thực hiện nghiên cứu và phát triển có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên của doanh nghiệp (là số lao động đã ký hợp đồng lao động có thời hạn từ 01 năm trở lên hoặc hợp đồng không xác định thời hạn, trong đó lao động có trình độ cao đẳng không vượt quá 30%) trên tổng số lao động:

Trong đó, đối với doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ 6.000 tỷ đồng và tổng số lao động từ 3.000 người trở lên phải đạt ít nhất 1%; Đối với doanh nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 có tổng nguồn vốn từ 100 tỷ đồng và tổng số lao động từ 200 người trở lên phải đạt ít nhất 2,5%; Đối với doanh nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 phải đạt ít nhất 5%.

Theo Chất lượng Việt Nam Online

Link gốc : http://vietq.vn/de-xuat-nhieu-uu-dai-dau-tu-doi-voi-khu-cong-nghe-cao-d188797.html

Ngày 04/01/2018, Chính phủ đã ban hành nghị định số 04/2018/NĐ-CP quy định về cơ chế chính sách ưu đãi đối với khu công nghệ cao Đà Nẵng. Theo đó, những đối tượng là tổ chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động tại Khu công nghệ cao sẽ được hưởng ưu đãi.

Về ưu đãi tiền thuê đất, các dự án sẽ được miễn, giảm tiền thuê đất như sau (trừ một số trường hợp được miễn toàn bộ tiền thuê đất cho cả thời hạn dụ án đầu tư thuê):

  • Miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản nhưng tối đa không quá 03 năm kể từ ngày có quyết định cho thuê đất (không bao gồm các trường hợp đầu tư xây dựng cải tạo và mở rộng cơ sở sản xuất, kinh doanh);
  • Miễn tiền thuê đất sau thời gian miễn tiền thuê đất của thời gian xây dựng cơ bản 15 năm đối với dự án đầu tư không thuộc Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư; dự án đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng Khu công nghệ cao;
  • Miễn tiền thuê đất sau thời gian miễn tiền thuê đất của thời gian xây dựng cơ bản 19 năm đối với dự án thuộc Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư;
  • Miễn tiền thuê đất trong thời gian buộc phải ngừng sản xuất, kinh doanh do bị thiên tai, hỏa hoạn hoặc tai nạn bất khả kháng.

Người sử dụng đất được miễn tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp trong toàn bộ thời gian sử dụng đất.

Đối với ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, doanh nghiệp thực hiện đầu tư dự án mới trong Khu công nghệ cao Đà Nẵng được hưởng những ưu đãi về thuế sau:

  • Thuế suất 10% trong thời hạn 15 năm áp dụng đối với thu, nhập của doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư mới trong Khu công nghệ cao.
  • Đối với các dự án đầu tư mới vào Khu công nghệ cao có quy mô vốn từ 3.000 tỷ đồng trở lên được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 30 năm.
  • Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án nhà ở xã hội để bán, cho thuê, cho thuê mua đối với người lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong Khu công nghệ cao được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% như đối tượng người lao động đang làm việc trong và ngoài khu công nghiệp theo khoản 5 Điều 49 Luật nhà ở.

Về thuế nhập khẩu, nhà đầu tư được miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án trong Khu công nghệ cao, bao gồm:

  • Máy móc, thiết bị; linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng để lắp ráp đồng bộ hoặc sử dụng đồng bộ với máy móc, thiết bị; nguyên liệu, vật tư dùng để chế tạo máy móc, thiết bị hoặc để chế tạo linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng của máy móc, thiết bị;
  • Phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ sử dụng trực tiếp cho hoạt động sản xuất của dự án;
  • Vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được.

Ngoài ra, nhà đầu tư còn được hưởng các ưu đãi về tiền sử dụng hạ tầng, việc xuất nhập cảnh đối với chuyên gia, người lao động và thành viên gia đình.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 20 tháng 02 năm 2018.

Thực tiễn ưu đãi đầu tư vào khu công nghệ cao
Ảnh minh họa

Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, sau khi Luật CNC ra đời (năm 2008) và có hiệu lực, nhiều khái niệm, quy định liên quan đến CNC, khu CNC đã được luật hóa. Đồng thời, các pháp luật chuyên ngành về quy hoạch, đầu tư, xây dựng, đất đai, thuế… đều đã được xây dựng, cập nhật, sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, quy chế khu CNC chưa được xây dựng mới và ban hành để thay thế quy chế theo Nghị định số 99/2003/NĐ-CP.

Ở thời điểm hiện tại, quy chế khu CNC theo Nghị định số 99/2003/NĐ-CP cũng như các văn bản được xây dựng, ban hành để hướng dẫn Nghị định đã lỗi thời, có nhiều điểm không còn phù hợp và không theo kịp với thực tiễn phát triển của các khu CNC trong cả nước.

Ví dụ như về thu hút đầu tư vào khu CNC, hoạt động thu hút đầu tư gặp những hạn chế nhất định do thiếu tiêu chí thu hút đầy đủ đối với từng loại hình dự án được phép đầu tư vào khu CNC. Hiện nay, các ban quản lý khu CNC đang phải vận dụng lồng ghép các tiêu chí khác nhau quy định với các loại hình dự án có sự tương đồng.

Các quy định về cơ chế, chính sách ưu đãi đối với khu CNC từ trước đây không còn phù hợp, đặc biệt sau khi một số luật chuyên ngành ra đời và/hoặc được sửa đổi, bổ sung, cập nhật thì các ưu đãi được thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành…

Như vậy, qua một thời gian dài thực hiện Nghị định số 99/2003/NĐ-CP, đặc biệt là sau khi Luật CNC ra đời, đã nảy sinh rất nhiều vấn đề bất cập từ thực tiễn triển khai cũng như phát sinh những đòi hỏi mới từ chính thực tiễn.

Do đó, việc xây dựng, trình cấp có thẩm quyền xem xét, ban hành Nghị định mới quy định về khu CNC nhằm tạo khung pháp lý cho hoạt động của khu CNC là cần thiết và rất cấp thiết.

Ưu đãi đầu tư đối với khu CNC

Dự thảo Nghị định nêu rõ, nhà nước khuyến khích, hỗ trợ nhà đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật CNC. Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, nhiệm vụ phát triển CNC trong từng giai đoạn nhất định, nhà nước tập trung đầu tư xây dựng một số khu CNC.

Bên cạnh đó, dự thảo Nghị định cũng nêu rõ những ưu đãi đầu tư đối với khu CNC. Cụ thể, khu CNC là địa bàn ưu đãi đầu tư và thuộc danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn theo pháp luật về đầu tư.

Hình thức và đối tượng áp dụng ưu đãi đầu tư, thủ tục áp dụng ưu đãi đối với các dự án đầu tư trong khu CNC thực hiện theo quy định pháp luật về đầu tư.

Ưu đãi về đất đai, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu-thuế nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp của dự án đầu tư vào khu CNC thực hiện theo quy định hiện hành của pháp luật về đầu tư, pháp luật về đất đai, pháp luật về thuế.

Ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt được áp dụng để khuyến khích phát triển một số dự án đầu tư có tác động lớn đến phát triển kinh tế-xã hội. Đối tượng áp dụng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt thực hiện theo quy định hiện hành của pháp luật về đầu tư. Mức ưu đãi và thời hạn áp dụng ưu đãi, hỗ trợ đặc biệt thực hiện theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật về đất đai.

Tổ chức, cá nhân có dự án đầu tư vào khu CNC được cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ thực hiện các thủ tục hành chính về đầu tư, doanh nghiệp, đất đai, xây dựng, môi trường, lao động, thương mại theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” và các vấn đề liên quan khác trong quá trình triển khai thực hiện dự án.

Doanh nghiệp khu CNC có đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ của nhà đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật khác có liên quan.

Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.

Minh Đức