Trâu lặn được bao lâu

Yết Kiêu (1242-1301) tên thật Phạm Hữu Thế. Cha làm nghề đánh cá, mất khi ông 8 tuổi. Nhà nghèo nên từ nhỏ Phạm Hữu Thế phải lăn lộn sông nước kiếm sống.

Yết Kiêu là một trong những danh tướng của Trần Hưng Đạo, người có nhiều công lao trong các cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên. Ông nổi danh trong lịch sử dân tộc nhờ tài bơi lội. Theo những giai thoại còn lưu truyền đến nay, Yết Kiêu có thể lặn liên tục 7 ngày 7 đêm. Dù chỉ là giai thoại, nó phần nào cho thấy người dân khâm phục tài năng của vị tướng tài ba này.

Năm 15 tuổi, Yết Kiêu ra sông gánh nước, ông thấy hai con trâu trắng húc nhau cho nên liền dùng đòn ống đánh đuổi, can ngăn và đột nhiên hai con trâu biến mất. Sau đó, ông thấy hai chiếc lông dính vào đòn ống nên đặt chúng xuống nước và bất ngờ nước rẽ ra làm đôi. Cho đây là lông trâu thần, ông liền nuốt vào bụng. Từ đó, ông có thân thể cường tráng, bơi lội tài giỏi, đi trong nước như trên đất bằng.

Trâu lặn được bao lâu
Theo những giai thoại còn lưu truyền đến nay, Yết Kiêu có thể lặn liên tục 7 ngày 7 đêm

Năm 1285, khi quân Nguyên ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta lần thứ hai, chàng thanh niên Phạm Hữu Thế lập tức lên đường tòng quân bảo vệ đất nước. Trải qua nhiều cuộc thi tuyển chon, Yết Kiêu được Trần Hưng Đạo mời làm gia nô và trở thành danh tướng thủy quân.

Dưới trướng của Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu phát huy được tài năng bơi lội thần kỳ của mình. Ông có nhiều đóng góp trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên.

Theo một số tài liệu, mỗi khi đêm xuống, Yết Kiêu dẫn quân lặn ở khu vực thuyền giặc neo đậu, nhẹ nhàng khoan đáy thuyền, lấy giẻ nút lỗ rồi dùng dây nối các nút với nhau. Chờ quân giặc ngủ say, Yết Kiêu ra lệnh giật dây nút lỗ, thuyền chìm dần. Mỗi đêm, ông đục thủng khoảng 30 chiến thuyền của địch.

Có lần, ông không may bị địch bắt. Bằng trí thông minh và tài bơi lội, Yết Kiêu dụ địch thả ông ra rồi nhảy xuống nước trốn thoát. Sau khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên kết thúc, Yết Kiêu tiếp tục có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Với những đóng góp to lớn đó, Yết Kiêu trở thành một trong những danh tiếng lẫy lừng bậc nhất xuyên suốt lịch sử dân tộc, trở thành biểu tượng của thủy quân nước ta và là niềm tự hào to lớn của quê hương, nơi ông được suy tôn là thành hoàng làng.

[Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Theo UBND xã Minh Châu – Ba Vì – Hà Nội, xác định lợi thế về đất đai, khí hậu nên những năm qua đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó xã tập trung đến phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. […]

Theo vòng quay thời gian, năm nay đến lượt năm con trâu. Trong 12 con giáp, có lẽ trâu là con vật gần gũi, dễ thương nhất vì nó là biểu tượng của tính cần cù, chịu khó. Với người Việt Nam, con trâu gắn bó mật thiết đến đời sống, song hành với người nông dân và cánh đồng. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, tốc độ cơ giới hóa nông nghiệp đã đẩy bật con trâu ra khỏi đồng ruộng. Và, biết đâu, sau một thời gian nữa, con trâu sẽ trở thành chuyện... cổ tích?

Chia tay ngậm ngùi

Trâu lặn được bao lâu

Chăn trâu. Ảnh: C.T.V.

Mấy năm gần đây, khắp các tỉnh, thành miền Tây như Cà Mau, An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ… rộ lên nhiều quán đặc sản “trâu luộc mẻ”. Món ngon làm khoái lòng nhiều người, nhất là giới ăn nhậu. 

 Tầm cuối giờ chiều, hàng quán đông đặc thực khách hồn nhiên thưởng thức thịt trâu. Trong số đó, chắc ít ai nghĩ rằng chính mình là người góp phần sau cùng trong cuộc biệt ly giữa con trâu với người nông dân; giữa con trâu với cánh đồng - hai đối tượng vốn từng gắn bó, nặng tình nợ nghĩa. 

 Chú Hai Tấn, chủ một quán nhậu ở Cần Thơ cho biết, ông bán thịt trâu đã 5 –7 năm nay, nguồn lấy từ các lò mổ. Dân nhậu thì tấm tắc khen thịt trâu ngon, bổ, rẻ. Nước cơm mẻ nấu lẩu sôi sùng sục, lòng trâu, thịt trâu, rau cù nèo, chuối chát thả vào… đúng là tuyệt vời! Nhưng nhiều quán “trâu luộc mẻ” mọc lên bao nhiêu thì đàn trâu giảm đi bấy nhiêu. 
 
Năm 1995, đàn trâu ở ĐBSCL còn khoảng 130.000 con, chiếm 4,2% đàn trâu của cả nước, nhưng hiện giờ, đàn trâu chỉ còn khoảng 50.000 con, rải rác ở Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu… Quả thật, khó có thể nhìn thấy sự sụt giảm nào diễn ra nhanh đến vậy. Cách nay vài năm, cứ men ra đến bờ ruộng là bắt gặp con trâu. Còn bây giờ, chạy suốt một cánh đồng rộng lớn như... Đồng Tháp Mười, chưa chắc đã nhìn thấy hình ảnh quen thuộc đó.

Kết quả ấy là tất yếu của quá trình thay thế nhiệm vụ lịch sử trong canh tác lúa. Kể từ ngày chiếc máy cày xuất hiện trên đồng ruộng, số phận con trâu càng trở nên hẩm hiu. Từ là “đầu cơ nghiệp”, con trâu trở thành sức kéo của các phương tiện vận chuyển thô sơ để phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu ở các vùng nông thôn như: chuyên chở lúa gạo, phân bón... 

Thế nhưng, quá trình này cũng không tồn tại được bao lâu bởi sự cạnh tranh của các phương tiện giao thông hiện đại. Ông Nguyễn Văn Tư (huyện Tam Nông, Đồng Tháp) nhớ lại: “Trước đây, gia đình tôi nuôi hơn chục con trâu, tới mùa vụ là làm không kịp nghỉ, thu nhập khá lắm, sống khỏe ru. Sau đó, khi không ai thèm thuê nữa, tôi bắt trâu kéo xe nhưng rồi cũng chẳng được bao lâu, đành bán đàn trâu đi”. Hàng loạt gia đình khác ở miền Tây cũng từng nhờ trâu mà khá giả, giờ đây nhắc lại chuyện cũ ai cũng mủi lòng.

Không mủi lòng sao được khi sự gắn bó thân thiết giữa trâu và người là rất lớn. Người ta nói: Nhịn thuốc mua trâu, nhịn trầu mua đất. Đất với trâu là thước đo giá trị tài sản của nhà nông. Uy thế, địa vị của người nông dân trong làng xóm, trong cộng đồng phụ thuộc vào số lượng trâu và đất. 
 
Theo đà phát triển, cuộc sống ngày càng văn minh hiện đại, máy móc dần thay thế sức người, sức vật để làm ra nhiều của cải hơn cho xã hội. Sản xuất nông nghiệp cũng vậy, cơ giới hóa là ước ao của cả một thế hệ, nhưng cuộc chia tay với con trâu vẫn có cái gì đó quyến luyến, ngậm ngùi, không sao tả được.

Mai này có còn trâu?

Sau khi bộ phim “Mùa len trâu” của đạo diễn Việt kiều Nguyễn Võ Nghiêm Minh được khởi chiếu và thành công vang dội, chúng tôi về Cà Mau đi tìm hình ảnh này nhưng không tìm được nữa. Theo nhiều nông dân cố cựu ở Cà Mau, từ sau mùa cấy đến mùa gặt là khoảng thời gian con trâu được phép nghỉ ngơi. Chủ trâu từ tứ xứ đưa chúng đến để hưởng thụ cỏ non, để bù đắp công sức sau một mùa cày và để lấy sức cho mùa cộ lúa.

Đạo diễn Võ Đắc Danh – người từng nổi tiếng với phim tài liệu về con trâu, nhớ lại: “Ở đây có những người chăn trâu chuyên nghiệp, mỗi người có thể lãnh chăn thuê một trăm, hai trăm con trâu tùy theo sức của mình. Chẳng hiểu từ khi nào và lý do gì, người ta gọi đó là mùa len trâu”.

Khi trâu đã nhập thành bầy, những con trâu đực bắt đầu nghinh chiến, chúng đấu nhau quyết liệt để giành ngôi vị cầm bầy. Lúc bấy giờ, người chăn trâu chỉ cần quản con trâu cầm bầy là quản được tất cả. Bản thân chúng cũng tự biết bầy đàn của mình là những con trâu nào để không lẫn lộn với những bầy trâu khác.

Khi gió bấc bắt đầu rao ngọn cũng là lúc trâu nhớ nhà, nhớ chủ, chúng ngơ ngác, ngóng trông rồi tự động tách bầy để lặn lội về quê. Người chăn trâu cực nhất là lúc ấy, phải cột dây mũi chúng vào cọc để chờ ngày chủ đến đón. Trong mối quan hệ giữa chủ trâu và người chăn trâu cũng có những quy định bất thành văn. Ví dụ như trâu chết do dịch bệnh hay do bom đạn chiến tranh thì chỉ cần báo ngay cho chủ biết mà không phải bồi thường.

Công giữ mỗi con trâu trong một mùa được tính bằng lúa, nếu trâu bệnh sẽ bị trừ công và mùa sau họ giao cho người khác giữ. Có những chủ trâu tốt bụng, khi đến đón trâu về, họ tặng cho người chăn trâu áo quần và bánh mứt.

Nhưng đó là chuyện của ngày xưa. “Cứu đàn trâu đang là vấn đề cấp bách đặt ra. Hiện tại, đàn trâu không còn dùng vào việc kéo cày, kéo xe như trước, nhưng việc bảo vệ, duy trì loại gia súc này là rất cần thiết, bởi con trâu gắn liền với nông thôn Việt Nam từ bao đời nay” – ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang đề xuất.

Một trong những giải pháp căn cơ là chuyển sang nuôi trâu lấy thịt. Với điều kiện tự nhiên phong phú, các tỉnh miền Tây hoàn toàn có thể phát triển nghề nuôi trâu lấy thịt giống như nuôi bò, nuôi heo. Được vậy, vừa giữ đàn trâu, vừa cung cấp nguồn thịt trâu bổ dưỡng cho người tiêu dùng, không phải nhập khẩu từ nước ngoài. Hơn thế, với những đóng góp có tính lịch sử của con trâu vào nghề trồng lúa ở nước ta, việc gìn giữ hình ảnh của đàn trâu cho thế hệ mai sau là việc nên làm.

Trần Minh Trường