Trong trường hợp khẩn cấp có thể tìm vi khuẩn tả bằng cách

Bệnh tả là bệnh nhiễm trùng đường ruột cấp tính ở người gây ra do nhiễm Vibrrio cholerae (V.cholerae). Bệnh có khả năng gây dịch lớn, biểu hiện lâm sàng thay đổi từ những thể tiêu chảy nhẹ đến những thể tiêu chảy ồ ạt, nhanh chóng đưa đến tình trạng sốc do mất nước và điện giải nặng, có thể gây tử vong trong vài giờ nếu người bệnh không được điều trị khẩn cấp và kịp thời.

Trong trường hợp khẩn cấp có thể tìm vi khuẩn tả bằng cách

Dịch tễ bệnh tả

Nguồn bệnh là người mắc bệnh tả hay người lành mang mầm bệnh tả trong phân. Trong phân người bệnh ngay ở trong thời kỳ ủ bệnh đã có phảy khuẩn tả nhưng nhiều nhất là trong thời kỳ toàn phát khi có tiêu chảy và nôn. Người lành mang phảy khuẩn tả không có triệu chứng lâm sàng, người mắc bệnh đã khỏi nhưng trong phân còn chứa phảy khuẩn tả cũng là một nguồn lây.

Đường lây truyền của bệnh tả

Bệnh tả lây theo đường tiêu hoá. Nước là nguồn lây quan trọng trong dịch tả. Nước có thể bị nhiễm phảy khuẩn tả do chất thải của người bệnh (phân, chất nôn), giặt chăn màn, quần áo của người bệnh. Thức ăn cũng là nguyên nhân gây dịch khi bị ô nhiễm nguồn bệnh. Lây trực tiếp từ người bệnh sang người lành khi tiếp xúc với người bệnh, thiếu vệ sinh cá nhân, qua tay nhiễm bẩn.

Các yếu tố thuận lợi cho bệnh tả phát triển

Dịch tả dễ bùng phát và lan rộng tại những vùng dân cư có mức sinh hoạt thấp, điều kiện vệ sinh kém, môi trường sống bị ô nhiễm. Bệnh thường xảy ra vào mùa hè.

Tác nhân gây bệnh tả

V.cholerae là trực khuẩn Gram âm, hình hơi cong như dấu phảy, di động nhanh nhờ lông ở 1 cực, không tạo nha bào. Nhóm huyết thanh O1 của V.cholerae hay gây bệnh nhất, có 2 týp huyết thanh cổ điển và Eltor. Ngoài ra V.cholerae O139 được phát hiện vào năm 1993 ở Ấn Độ và đã gây ra nhiều vụ dịch tả ở Bangladet, Campuchia trong những năm gần đây. Phảy khuẩn tả tiết ra độc tố đường ruột gây bệnh còn được gọi là choleragen.

Trong nước phảy khuẩn tả chỉ sống được trong 24 giờ nhưng trong nước sông hay bùn ở gần bờ có thể sống được vài tháng. Trong phân người phảy khuẩn tả có thể tồn tại được vài tuần nếu như khí hậu không quá nóng, không bị ánh nắng và phơi khô.

Triệu chứng lâm sàng bệnh tả

Bệnh tả có nhiều triệu chứng lâm sàng khác nhau tùy theo từng giai đoạn của bệnh. Các giai đoạn từ ủ bệnh, khởi phát bệnh, toàn phát bệnh có những dấu hiệu đặc trưng cần lưu ý.

Thời kỳ ủ bệnh của bệnh tả

Từ 6 – 48 giờ và có thể kéo dài 5 ngày. Theo Tổ chức Y tế Thế giới thời gian ủ bệnh 5 ngày. Đây là giai đoạn không có triệu chứng lâm sàng nhưng có tính chất dịch tễ giúp để kiểm dịch những người từ vùng dịch ra vùng khác

Khởi phát bệnh tả

Bệnh khởi phát đột ngột với các triệu chứng, đầy bụng và sôi bụng, không sốt, tiêu chảy lúc đầu có phân sau đó toàn nước và mệt lả nhanh chóng.

Toàn phát bệnh tả

Giai đoạn toàn phát với các dấu hiệu lâm sàng tiêu chảy, nôn, mất nước và điện giải.

Tiêu chảy trong bệnh tả là tiêu chảy nhiều, liên tục, đi không tự kiềm chế được, số lần 20 – 50 lần hoặc không đếm được số lần, không mót rặn, không đau quặn.

Phân của bệnh nhân tả có đặc điểm:

Toàn nước, có thể lờ lờ như nước vo gạo, trong đó có lợn cợn những vẩy màu trắng. Phân tả mùi tanh, không thối, không có nhầy máu, không có thức ăn.

Nôn dữ dội, không kìm được, liên tục, nôn có thể xuất hiện đồng thời hoặc sau tiêu chảy 1 – 2 lần. Nhưng cũng có trường hợp không nôn hoặc nôn trước khi tiêu chảy. Nôn lúc đầu ra thức ăn sau chỉ toàn nước trong hoặc vàng nhạt.

Chính do bệnh nhân tiêu chảy nhiều lần và nôn gây nên tình trạng mất nước và điện giải với các biểu hiện mặt hốc hác, lờ đờ, mắt trũng sâu, da khô nhăn nheo, ngón tay nhăn như bị ngâm nước lâu, chuột rút. Trong trường hợp nặng người bệnh có thể xuất hiện sốc, tiểu ít hay hạ nhiệt độ.

Nếu người bệnh được bồi phụ nước và điện giải sớm, nhanh chóng và thích hợp thì da, niêm mạc trở lại ấm áp, hồng hào, mạch chậm và đều rõ, thân nhiệt trở lại bình thường. Người bệnh đi tiểu trở lại. Nếu điều trị không đúng hoặc không được điều trị, tử vong có thể xảy ra đến 50% số trường hợp bệnh trong bệnh cảnh sốc mất nước, toan máu không hồi phục hoặc suy thận cấp

Bên cạnh thể điển hình bệnh tả có thể tối cấp, tả ở trẻ em hay phụ nữ có thai

Triệu chứng xét nghiệm bệnh tả

Xét nghiệm đặc hiệu để chẩn đoán bệnh tả là xét nghiệm cấy phân, giúp cho chẩn đoán xác định chủng loại gây bệnh và làm xét nghiệm kháng thuốc.

Xét nghiệm phát hiện những biến đổi sinh học như tình trạng cô đặc máu: Số lượng hồng cầu, bạch cầu có thể tăng cao, Hematocrite tăng, protein máu tăng và tỷ trọng huyết tương tăng hay các rối loạn điện giả.

Chẩn đoán bệnh tả

Chẩn đoán bệnh tả dựa vào các triệu chứng lâm sàng đặc biệt là tiêu chảy và các cận lâm sàng nhất là cấy phân tìm phảy khuẩn tả giúp chẩn đoán xác định.

Điều trị bệnh tả

Để điều trị bệnh tả hiệu quả, ngoài việc điều trị bệnh tả bằng thuốc, cần lưu ý điều trị triệu chứng và chống lây nhiễm bệnh ra cộng đồng.

Bù nước điện giải cho người bệnh tả

Trong bệnh tả bù nước điện giải đóng vai trò cực kỳ quan trọng bao gồm lượng nước mất trước khi đến bệnh viện và lượng nước mất trong thời gian điều trị, cần phải bù thật sớm, nhanh chóng, đầy đủ với sự theo dõi liên tục, chặt chẽ. Trước khi bù nước và điện giải các thầy thuốc cần phải đánh giá mức độ mất nước của người bệnh, chia làm 3 mức độ mất nước là độ I, II và III.

Các loại dung dịch bồi phụ nước và điện giải có thể sử dụng đường uống, tốt nhất là sử dụng dung dịch oresol hoặc các dung dịch tự chế như nước cháo muối, cháo đường hay các dung dịch tự pha thích hợp. Truyền tĩnh mạch cũng được thực hiện khi bù bằng đường uống không hiệu quả và người bệnh đi vào bệnh cảnh sốc.

Các dung dịch có thể sử dụng để truyền tĩnh mạch là dung dịch natri clorua 0,9%, bicarbonate natri 1,4%, ringer lactate hoặc glucose 5%. Tốt nhất là dung dịch ringer lactat. Trong quá trình điều trị mà người bệnh vẫn tiếp tục tiêu chảy, nôn thì phải đo lượng dịch mất đi do tiêu chảy và nôn. Nếu lượng dịch mất đi ít thì uống oresol, nếu tiêu chảy nhiều và nặng thì phải truyền dịch với tốc độ chậm hơn so với cấp cứu ban đầu.

Kháng sinh điều trị vi khuẩn gây bệnh tả

Điều trị kháng sinh trong bệnh tả làm rút ngắn thời gian bệnh, giảm số lần tiêu chảy và làm sạch phảy khuẩn tả trong phân. Các thuốc có thể được lựa chọn tuỳ theo mức độ nhạy cảm của vi khuẩn với kháng sinh như nhóm fluoroquinolon (ciprofloxacin, ofloxacin hoặc pefloxacin), azithromycin, tetracyclin, chloramphenicol, co-trimoxazol.

Thuốc cầm tiêu chảy giảm triệu chứng bệnh tả

Thuốc không được dùng trong bệnh tả như thuốc cầm ỉa opizoic sẽ giữ phảy khuẩn tả lâu trong lòng ruột hay không dùng thuốc co mạch, không dùng corticoid

Chế độ ăn cho người bệnh tả

Bệnh nhân cần phải duy trì dinh dưỡng trong thời gian tiêu chảy đặc biệt với trẻ em như ăn cháo loãng hay thịt nạc. Nếu trẻ còn bú mẹ cần tiếp tục cho trẻ bú bình thường

Các biện pháp phòng bệnh tả

Bệnh tả lây theo đường tiêu hoá cần thực hiện các bệnh pháp sau:

  • Cải thiện vệ sinh môi trường. Cần kiểm tra nguồn nước sinh hoạt vì nhiễm bẩn nguồn nước làm bệnh tả lan truyền nhanh chóng. Cần loại trừ những nguyên nhân làm nhiễm bẩn nguồn nước.
  • Cần kiểm tra thực phẩm, nguồn cung cấp thức ăn, nhất là các loại thức ăn sống, các cửa hàng ăn, giải khát, nơi bán thực phẩm.
  • Công tác tuyên truyền giáo dục vệ sinh trong nhân dân. Vận động nhân dân thực hiện ăn chín, uống sôi, rửa tay trước khi ăn, diệt ruồi, dán, không phóng uế bừa bãi ra sông, ngòi, ao, hồ. Không dùng phân tươi để tưới rau và bón cây, xây dựng hố xí hợp vệ sinh.

CNTTCBTG – BV Bạch Mai

Bệnh tả là một bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm có thể gây tử vong cho người và tạo nên dịch bệnh. Các ca bệnh tả đã được ghi nhận khắp nơi trên thế giới từ những năm trước Công Nguyên và hiện tại vẫn còn xuất hiện rải rác nhiều nơi, cả ở Việt Nam. Tại bài viết này Docosan sẽ cung cấp một số thông tin về căn bệnh lâu đời này nhé.

Tổng quan về bệnh tả

Bệnh tả (cholerae) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, gây dịch ở đường tiêu hoá do phẩy khuẩn tả Vibrio cholerae gây ra. Trong quá khứ bệnh đã từng gây ra nhiều trận đại dịch tả, gây tử vong hàng triệu người, được liệt vào một trong những đại dịch khủng khiếp nhất trong lịch sử.

Mặc dù dịch tả đã được xóa sổ phần lớn tại các quốc gia phát triển nhưng nó vẫn là kẻ giết người thầm lặng ở những quốc gia đang phát triển do nhiều nguyên nhân như: thiếu hệ thống xử lý chất thải phù hợp, hạn chế trong việc tiếp cận nguồn nước uống sạch, hệ thống y tế còn yếu,… Ở Việt Nam bệnh tả vẫn còn xảy ra những trường hợp tản phát, thường vào mùa hè ở các tỉnh ven biển.

Phẩy khuẩn tả Vibrio cholerae 

Vibrio cholerae là vi khuẩn cong hình dấu phẩy, gram âm, di động nhanh nhờ có một lông, có khả năng tồn tại trong nước và thức ăn khoảng một tuần. Vi khuẩn có thể tồn tại nhiều năm trong các động vật thân mềm ở vùng ven biển, sống tốt trong môi trường nước, thức ăn như cá, cua; chịu được lạnh tốt. Vi khuẩn tả bị tiêu diệt ở nhiệt độ cao hoặc các chất diệt khuẩn thông thường.

Độc tố của vi khuẩn tả: vi khuẩn sinh độc tố ruột là kháng nguyên có bản chất protein. Độc tố này khi vào ruột non người gây ra phản ứng làm giảm ion Na+ và tăng tiết ion Cl- gây tiêu chảy.

Khả năng gây bệnh tả: vi khuẩn gây bệnh cho người ở điều kiện tự nhiên. 90% bệnh biểu hiện nhẹ, không cần nhập viện điều trị, 10% còn lại có những triệu chứng nguy hiểm đe doạ tính mạng.

Bệnh tả lây qua đường nào?

Bệnh tả lây theo đường tiêu hoá, qua đường nước bị nhiễm bẩn bởi phân người hoặc phân động vật và qua thực phẩm bị nhiễm các tác nhân gây bệnh trong quá trình chế biến hoặc bảo quản, bởi nước bẩn, qua bàn tay bẩn và ruồi, nhặng nhiễm phẩy khuẩn tả. Một nghiên cứu bệnh chứng của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương cho thấy các thực phẩm nguy cơ cao gây bệnh tả là: thịt chó, mắm tôm, rau sống, tiết canh.

Những người có nguy cơ cao mắc  tả là: những người tiếp xúc gần gũi với bệnh nhân tả; dân cư tại vùng sử dụng hố xí không hợp tiêu chuẩn vệ sinh (đổ thẳng ra cống, mương, kênh, sông); sử dụng nước bề mặt (ao, hồ, kênh, mương, sông,…) bị ô nhiễm; có tập quán ăn uống không hợp vệ sinh, ăn rau sống, thực hành vệ sinh chưa tốt, ăn hải sản chưa chín, dùng phân tươi trong trồng trọt; khu vực cửa sông, ven biển; vùng bị ngập lụt và sau ngập lụt.

Trong trường hợp khẩn cấp có thể tìm vi khuẩn tả bằng cách

Triệu chứng của bệnh tả

Vibrio Cholerae gây bệnh dịch tả ở người bằng cách xâm nhập qua hệ tiêu hóa. Nếu vượt qua được lớp axit dạ dày, vi khuẩn tả sẽ xuống được ruột non là nơi có môi trường pH kiềm thuận lợi cho sự sinh sôi và phát triển của chúng và sản xuất ra nhiều độc tố để gây bệnh tả.

Thời kỳ ủ bệnh: Từ vài giờ đến 5 ngày, trong thời gian này người bệnh chưa có triệu chứng gì.

Thời kỳ khởi phát: Biểu hiện bằng sôi bụng, đầy bụng, tiêu chảy vài lần.

Thời kỳ toàn phát:

  • Tiêu chảy liên tục rất nhiều lần với khối lượng lớn, có khi hàng chục lít một ngày. Phân đặc trưng của bệnh tả: toàn nước, màu trắng lờ đục như nước vo gạo, không có nhầy máu. Một số người gọi bệnh tả lị là chưa chính xác vì khuẩn tả không gây đi cầu ra máu.
  • Nôn dễ và nhiều, lúc đầu nôn ra thức ăn, sau chỉ toàn nước trong hoặc vàng nhạt
  • Không sốt, ít khi đau bụng.
  • Tình trạng mất nước và điện giải gây mệt lả, chuột rút,… Người bệnh chết thường vì mất nước nặng.

Thời kỳ hồi phục: Bệnh nhân khoẻ lại từ 1-3 ngày nếu được bù đủ nước và điều trị kháng sinh.

Chẩn đoán xác định khi phân lập được phẩy khuẩn tả V. cholerae nhóm huyết thanh O1 hoặc O139 từ mẫu phân hoặc chất nôn của bệnh nhân tiêu chảy.

Trong trường hợp khẩn cấp có thể tìm vi khuẩn tả bằng cách

Phòng ngừa bệnh tả

Phòng ngừa bệnh tả không để bệnh phát triển thành dịch là trách nhiệm của người dân và nước.

  • Tuyên truyền giáo dục cộng đồng trên các phương tiện thông tin đại chúng các kiến thức về bệnh tả và tiêu chảy cấp, các biện pháp thực hành vệ sinh cá nhân (rửa tay bằng xà phòng thường xuyên trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh), vệ sinh môi trường (sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, không vứt rác xuống các ao, hồ gây ô nhiễm nguồn nước, diệt ruồi); an toàn vệ sinh thực phẩm (ăn chín, uống chín); bảo vệ nguồn nước và dùng nước sạch.
  • Khi có người bị tiêu chảy cấp, nhanh chóng báo cáo cho cơ sở y tế gần nhất để được hướng dẫn và điều trị kịp thời.
  • Tăng cường cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường.
    Tăng cường việc thanh kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, đặc biệt là tại các cơ sở chế biến thực phẩm, chợ, nhà hàng, bếp ăn tập thể, trường học, thức ăn đường phố,…
  • Duy trì thường xuyên việc giám sát các trường hợp tiêu chảy cấp, đặc biệt chú ý các vùng trọng điểm và vào mùa dịch, kịp thời phát hiện các ca bệnh đầu tiên.
    Luôn sẵn sàng có đội cơ động phòng chống dịch ở từng tuyến. Chuẩn bị các cơ số dự trữ cho chống dịch tả.
  • Gây miễn dịch chủ động bằng vắc xin những khu vực khẩn cấp, có dịch.
Trong trường hợp khẩn cấp có thể tìm vi khuẩn tả bằng cách

Cảm ơn bạn đã tìm đọc bài viết “Bệnh tả là bệnh gì? Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị”. Ngày nay bệnh tả không còn là vấn đề nghiêm trọng ở Việt Nam do chúng ta đã thực hiện tốt khá y tế công cộng, tuy nhiên ở một số nơi trên thế giới và một vài địa phương vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ mắc bệnh tả. Do đó trang bị kiến thức về bệnh để bảo vệ bản thân và người chung quanh là vô cùng cần thiết.

Bài viết được tham khảo từ bác sĩ và các nguồn tư liệu đáng tin cậy trong và ngoài nước. Tuy nhiên, Docosan Team khuyến khích bệnh nhân hãy tìm và đặt lịch hẹn với bác sĩ có chuyên môn để điều trị. Để được tư vấn trực tiếp, bạn đọc vui lòng liên hệ hotline 1900 638 082 hoặc CHAT để được hướng dẫn đặt hẹn.

Nguồn tham khảo: CDC