Vì sao cuộc khởi nghĩa nông dân lại bùng nổ ở ấp Tây Sơn năm 1771

Khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ

Mục 2

2. Khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ

- Lãnh đạo: ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ

- Căn cứ: ban đầu ở vùng Tây Sơn thượng đạo sau mở rộng xuống Tây Sơn hạ đạo (Kiên Mĩ).

- Chủ trương: lấy của người giàu chia cho người nghèo.

- Lực lượng: Nông dân nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, thợ thủ công, thương nhân, hào mục các địa phương.

- Hoạt động: Trừng trị bọn quan tham, lấy của nhà giàu chia cho người nghèo, xóa nợ cho dân nghèo.

Vì sao cuộc khởi nghĩa nông dân lại bùng nổ ở ấp Tây Sơn năm 1771

ND chính

Khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ: lãnh đạo, căn cứ, chủ trương, lực lượng,...

Loigiaihay.com

  • Vì sao cuộc khởi nghĩa nông dân lại bùng nổ ở ấp Tây Sơn năm 1771

    Nghĩa quân Tây Sơn lật đổ chính quyền họ Nguyễn

    Tóm tắt mục 1. Nghĩa quân Tây Sơn lật đổ chính quyền họ Nguyễn

  • Vì sao cuộc khởi nghĩa nông dân lại bùng nổ ở ấp Tây Sơn năm 1771

    Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (1785)

    Tóm tắt mục 2. Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (1785). Sau nhiều lần thất bại, Nguyễn Ánh cầu cứu vua Xiêm.

  • Vì sao cuộc khởi nghĩa nông dân lại bùng nổ ở ấp Tây Sơn năm 1771

    Tây Sơn hạ thành Phú Xuân - Tiến ra Bắc Hà diệt họ Trịnh

    Tóm tắt mục 1. Tây Sơn hạ thành Phú Xuân - Tiến ra Bắc Hà diệt họ Trịnh

  • Vì sao cuộc khởi nghĩa nông dân lại bùng nổ ở ấp Tây Sơn năm 1771

    Nguyễn Hữu Chỉnh mưu phản - Nguyễn Huệ thu phục Bắc Hà

    Tóm tắt mục 2. Nguyễn Hữu Chỉnh mưu phản - Nguyễn Huệ thu phục Bắc Hà

  • Vì sao cuộc khởi nghĩa nông dân lại bùng nổ ở ấp Tây Sơn năm 1771

    Quân Thanh xâm lược nước ta

    Tóm tắt mục 1. Quân Thanh xâm lược nước ta. Lê Chiêu Thống thế cùng lực kiệt, sai người sang cầu cứu nhà Thanh.

Mục lục

  • 1 Bối cảnh lịch sử
  • 2 Phân tích
  • 3 Lật đổ chúa Nguyễn
    • 3.1 Tình hình Đàng Trong cuối thời chúa Nguyễn
    • 3.2 Tây Sơn khởi nghĩa
    • 3.3 Quân Trịnh tham chiến
    • 3.4 Tiến đánh Gia Định
      • 3.4.1 Tấn công thế lực người Hoa
  • 4 Đánh bại liên quân Xiêm – Nguyễn Ánh
    • 4.1 Trận Rạch Gầm - Xoài Mút
  • 5 Lật đổ chúa Trịnh
    • 5.1 Đánh chiếm Phú Xuân
    • 5.2 Tiến ra Thăng Long
    • 5.3 Dẹp tàn dư chúa Trịnh
  • 6 Mâu thuẫn nội bộ
    • 6.1 Nguyên nhân
    • 6.2 Hậu quả
  • 7 Đại phá quân Mãn Thanh
    • 7.1 Quân Thanh tiến vào Thăng Long
    • 7.2 Quang Trung đại phá quân Thanh
  • 8 Vua Quang Trung thống nhất nhà Tây Sơn và dựng nước
    • 8.1 Thống nhất nhà Tây Sơn
    • 8.2 Đối nội, đối ngoại
    • 8.3 Dẹp Lê Duy Chi, tấn công Vạn Tượng
    • 8.4 Dự định chinh phục Gia Định, thống nhất đất nước
  • 9 Sự sụp đổ của nhà Tây Sơn
    • 9.1 Pháp trợ giúp Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định
    • 9.2 Nội bộ bị chia rẽ
    • 9.3 Tây Sơn sụp đổ
  • 10 Về vấn đề thống nhất quốc gia cuối thế kỷ 18
  • 11 Quân đội nhà Tây Sơn
    • 11.1 Bộ binh
    • 11.2 Thủy binh
    • 11.3 Tính kỷ luật
  • 12 Các trận chiến liên quan đến nhà Tây Sơn
  • 13 Danh sách các vua nhà Tây Sơn
  • 14 Nhận định
    • 14.1 Về văn trị
    • 14.2 Về võ công
    • 14.3 Những hậu duệ cuối cùng và nghi vấn còn tồn tại
    • 14.4 Nguyên nhân thất bại
  • 15 Dư âm
  • 16 Mô tả trong sử sách nhà Nguyễn
  • 17 Nghi vấn về việc đào mộ các Chúa Nguyễn
  • 18 Các danh nhân thời Tây Sơn
    • 18.1 Tướng võ
    • 18.2 Nhân sĩ
  • 19 Chú thích
  • 20 Xem thêm
  • 21 Tham khảo
  • 22 Liên kết ngoài

Bối cảnh lịch sử

Loạt bài
LịchsửViệtNam

Thời tiền sử

Hồng Bàng

An Dương Vương

Bắc thuộc lần I (207 TCN – 40)
Nhà Triệu (207 – 111 TCN)
Hai Bà Trưng (40 – 43)
Bắc thuộc lần II (43 – 541)
Khởi nghĩa Bà Triệu
Nhà Tiền LýTriệu Việt Vương (541 – 602)
Bắc thuộc lần III (602 – 905)
Mai Hắc Đế
Phùng Hưng
Tự chủ (905 – 938)
Họ Khúc
Dương Đình Nghệ
Kiều Công Tiễn
Nhà Ngô (938 – 967)
Loạn 12 sứ quân
Nhà Đinh (968 – 980)
Nhà Tiền Lê (980 – 1009)
Nhà Lý (1009 – 1225)
Nhà Trần (1225 – 1400)
Nhà Hồ (1400 – 1407)
Bắc thuộc lần IV (1407 – 1427)
Nhà Hậu Trần
Khởi nghĩa Lam Sơn
Nhà Hậu Lê
Nhà Lê sơ (1428 – 1527)

trung
hưng
(1533 – 1789)
Nhà Mạc (1527 – 1592)
Trịnh–Nguyễn
phân tranh
Nhà Tây Sơn (1778 – 1802)
Nhà Nguyễn (1802 – 1945)
Pháp thuộc (1887 – 1945)
Đế quốc Việt Nam (1945)
Chiến tranh Đông Dương (1945 – 1975)
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Quốc gia Việt Nam
Việt Nam Cộng hòa
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976)

Xem thêm

  • Vua Việt Nam
  • Nguyên thủ Việt Nam
  • Các vương quốc cổ
  • Niên biểu lịch sử Việt Nam
sửa

Trong thế kỷ 18, nước Đại Việt nằm dưới quyền cai trị tượng trưng của vua Lê, có danh mà không có quyền hành chính trị. Quyền lực thực sự nằm trong tay hai gia đình phong kiến, các chúa Trịnh ở phía Bắc, kiểm soát nhà vua và điều khiển triều đình ở Thăng Long và các chúa Nguyễn ở phía Nam, đóng đô tại thành Phú Xuân. Hai bên từng đánh lẫn nhau để giành quyền kiểm soát toàn bộ đất nước trong suốt 45 năm và đều tuyên bố trung thành với nhà Lê để củng cố quyền lực cho mình.

Cuộc chiến Trịnh Nguyễn phân tranh kết thúc năm 1672 và cuộc sống của những người nông dân ở phía Bắc của các chúa Trịnh khá yên bình. Trong khi đó ở phía Nam, các chúa Nguyễn dần dần sáp nhập vương quốc Chiêm Thành và ảnh hưởng chính trị, quân sự lên vương quốc Chân Lạp. Các chúa Nguyễn thường hỗ trợ quân sự cho Chân Lạp để Chân Lạp đánh lại một nước mạnh kế cạnh là Xiêm. Từ đó, các Chúa Nguyễn nhận các vùng đất từ Chân Lạp như món quà đền ơn, mở mang thêm lãnh thổ Đàng Trong về phía Nam.

Từ giữa thế kỷ 18, người nông dân bị bần cùng và họ đã đứng lên khởi nghĩa cả ở Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong. So với Đàng Trong, phong trào nông dân Đàng Ngoài mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa quận He (Nguyễn Hữu Cầu), quận Hẻo (Nguyễn Danh Phương), chàng Lía, Hoàng Công Chất... ở Đàng Ngoài và Đàng Trong nhìn chung đều chưa đủ quy mô, sức mạnh và sự liên kết cần thiết để đánh đổ chính quyền cai trị. Mặt khác, những người cầm quyền lúc đó như Trịnh Doanh ở Đàng Ngoài và Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong có đủ tài năng, uy tín để huy động lực lượng trấn áp các cuộc khởi nghĩa.

Cuối đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, ông trở nên lười nhác, ham hưởng lạc mà bỏ bê triều chính. Các quan lại cấp dưới cũng học theo thói xa xỉ đó, nạn tham ô, hối lộ cũng vì thế mà ngày càng nghiêm trọng. Lê Quý Đôn xứ Đàng Ngoài trong Phủ biên tạp lục có nhận xét về thời kỳ cuối chúa Nguyễn là:

"… từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ, tường xây bằng gạch đá, trướng vóc màn the, đồ dùng toàn bằng đồng, bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đàn, gỗ trắc, ấm chén bằng sứ, yên ngựa – dây cương đều nạm vàng, nạm bạc, quần áo là lược, nệm hoa, chiếu mây, lấy phú quý phong lưu để khoe khoang lẫn nhau… Họ coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, hoang phí vô cùng…" [3]

Triều đình ngày càng suy yếu, lòng dân chán ghét, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra báo hiệu sự cai trị của chúa Nguyễn đã sắp đến hồi kết.