Vì sao lưu thông không tạo ra giá trị thặng dư

Họ và tên: Đỗ văn Hùng
Lớp: K12CĐ-KT2

Câu 1: Làm rõ luận điểm: "Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông"
Trả lời:
a. Tiền tệ :
Tiền là một hình thái giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa. Trong giai đoạn đầu, hàng hóa làm ra được trao đổi dưới hình thái giản đơn ngẫu nhiên ( thí dụ 1 hàng hóa A = 2 hàng hóa B). Hình thái này là mầm mống phôi thai của hình thái tiền. Hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá, là hình thái phôi thai của tiền tệ. Lực lượng sản xuất và phân công lao động XH phát triển hơn tạo ra sản phẩm thặng dư nhiều hơn, giá trị của một hàng hóa được biểu hiện ở giá trị sử dụng của nhiều hàng hóa khác nhau có tác dụng làm vật ngang giá. Ví dụ: 1 hàng hóa A = 2 hàng hóa C = 5 hàng hóa E = 1 thỏi bạc = 0,01 gram vàng. LLSX và phân công lao động XH tiếp tục phát triển cao hơn, trao đổi hàng hóa trở nên thường xuyên hơn và mở rộng hơn. Bấy giờ một hàng hóa được mọi người thừa nhận là đại biểu cho giá trị có thể dùng để đổi lấy mọi hàng hóa khác. Ví dụ: 0,01 gram vàng có thể đổi 20 hàng hóa, hoặc 10 hàng hóa B, hoặc 1 hàng hóa C. Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một hàng hóa độc tôn và phổ biến thì hình thái tiền tệ của giá trị xuất hiện. Vật ngang giá chung trở thành tiền tệ. Tiền tệ xuất hiện là kết quả của sự giải quyết liên tục những mâu thuẫn trong quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và sản xuất hàng hóa. Vậy: Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra, làm vật ngang giá chung cho tất cả hàng hóa, nó thể hiện lao động XH và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa". b. Tư bản.
Tiền là sản phẩm của lưu thông hàng hóa, đồng thời cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Trên thị trường, tư bản được biểu hiện trước hết bằng một lượng tiền nhất định, mặc dù không phải lúc nào tiền cũng là tư bản. + Trong lưu thông hàng hóa giản đơn, tiền vận động theo công thức:
H T H
+ Với tính cách là tư bản, tiền vận động theo công thức: T H T.
Hai công thức lưu thông này đều cấu thành bởi hai nhân tố hàng (H) và tiền (T); đều chứa đựng hai hành vi đối lập nhau là mua và bán, nhưng chúng lại có những điểm khác nhau về chất. Lưu thông hàng hóa giản đơn có điểm xuất phát và điểm kết thúc là hàng hóa, tiền (T) chỉ đóng vai trò trung gian. Lưu thông của tiền (T) với tư cách là tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T-H) và kết thúc bằng hành vi bán (H-T). Tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc của quá trình, còn hàng hóa đóng vai trò trung gian. Công thức vận động của tiền là T H - T, trong đó T = T + t.
. t là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, gọi là giá trị thặng dư: T-HT (T=T+m).
Mục đích của lưu thông tư bản là sự lớn lên không ngừng của giá trị và giá trị thặng dư. Số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra. Như vậy, tiền là phương tiện lưu thông. Tư bản nhằm tạo ra giá trị thặng dư, tích lũy tư bản. Tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ trở thành tư bản khi được sử dụng để bóc lột lao động của người khác. c. Từ công thức chung của tư bản: T-H-T làm cho người ta lầm tưởng rằng cả sản xuất lẫn lưu thông đều tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Thật ra, lưu thông có tạo ra giá trị và làm tăng thêm giá trị không? Hay nói cách khác ý kiến Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện từ bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông là đúng hay sai? Lưu thông là quá trình trong đó diễn ra các hành vi mua và bán.
Nếu mua bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái từ tiền thành hàng hoặc hàng thành tiền. Còn tổng số giá trị cũng như phần giá trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi không thay đổi. Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, nếu hàng hóa được bán cao hơn giá trị, thì người bán được lời, còn nếu bán thấp hơn giá trị thì người mua được lời. Nhưng trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa là người bán, vừa là người mua. Không thể có người chỉ bán mà không mua hoặc ngược lại.Vì vậy, cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi mua. Trong trường hợp có những kẻ chuyên mua rẻ, bán đắt thì tổng giá trị toàn XH cũng không hề tăng lên, bởi vì số giá trị mà những người này thu được chẳng qua là sự ăn chặn, đánh cắp số giá trị của người khác mà thôi. Theo phân tích trên ta thấy:
- Lưu thông không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.
- Và ngược lại nếu không có lưu thông, tức là nếu tiền để trong tủ sắt, hàng hóa để trong kho thì cũng không thể có được giá trị thặng dư. Như vậy, giá trị thặng dư vừa sinh ra trong quá trình lưu thông, lại vừa không thể sinh ra trong quá trình lưu thông. Do đó, ý kiến nêu trên là hoàn toàn đúng đắn : Tư bản phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông". TÓM LẠI:
Công thức:
T H T với T = T + m

Được gọi là công thức chung của tư bản. Mọi tư bản đều vận động như vậy nhằm mục đích mang lại giá trị thặng dư. Như vậy, tư bản là tiền tự lớn lên hay giá trị sinh ra giá trị thặng dư.
Số tiền trội hơn (ΔT) hay giá trị thặng dư (m) sinh ra từ đâu?

Thoạt nhìn, hình như giá trị thặng dư sinh ra trong lưu thông. Vậy có phải do bản chất của sự lưu thông đã làm cho tiền tăng thêm và do đó hình thành giá trị thặng dư hay không? + Nếu mua - bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị: từ tiền thành hàng hoặc từ hàng thành tiền. Còn tổng số giá trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. + Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, hàng hóa có thể bán cao hơn hoặc thấp hơn giá trị. Nhưng, trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa là người bán, vừa là người mua. Cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi mua hoặc ngược lại. + Trong trường hợp có những kẻ chuyên mua rẻ, bán đắt thì tổng giá trị toàn xã hội cũng không hề tăng lên, bởi vì số giá trị mà những người này thu được chẳng qua chỉ là sự ăn chặn, đánh cắp số giá trị của người khác mà thôi.vậy tổng tài sản của XH cũng không tăng lên hay giảm đi Như vậy lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá trị.
+ Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông, tức là đứng ngoài lưu thông thì cũng không thể làm cho tiền của mình lớn lên được.
"Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông". Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. C.Mác là người đầu tiên phân tích và giải quyết mâu thuẫn đó bằng lý luận về hàng hóa sức lao động. Nhà tư bản vẫn có lời đó là do họ có một thứ hàng hóa đặc biệt,đó chính là HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG
Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Đó chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Đặc điểm này là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản đã trình bày ở trên. Câu 2: Tại sao nói sức lao động là hàng hóa đặc biệt và là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn công sức chung của tư bản? Trả lời:
1/ Hàng hóa sức lao động(SLĐ): Theo C.Mac: " SLĐ hay năng lực lao động là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó". SLĐ là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất. SLĐ chỉ trơt thành hàng hóa khi có 2 điều kiện sau: - Người LĐ phải là người được tự do về thân thể của mình, phải có khả năng chi phối SLĐ ấy đến mức có thể bán SLĐ đó trong một t.gian nhất định.
- Người LĐ ko còn có TLSX cần thiết để tự mình thực hiện LĐ và cũng ko còn của cải gì khác, muốn sống, chỉ còn cách bán SLĐ cho người khác sử dụng.
2/ Cũng giống như hàng hóa khác, hàng hóa SLĐ có 2 thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
- Giá trị của hàng hóa SLĐ cũng bằng lượng LĐ XH cần thiết để sx và tái sx ra nó. Nhưng việc sx và tái sx ra SLĐ phải đc thực hiện bằng cách tiêu dùng cho cá nhân. Vì vậy, lượng hàng hóa SLĐ bằng lượng giá trị những tư liệu cần thiết về vật chất và tinh thần để nuôi sống người công nhân và gia đình của họ cùng với chi phí đào tạo công nhân theo yêu cầu của sx. Giá trị hàng hóa SLĐ phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. - Giá trị sử dụng của hàng hóa SLĐ là công dụng của nó để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng SLĐ của nhà TB.Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa SLĐ khi đc sử dụng sẽ tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó chính là nguồn gốc giá trị thặng dư. 3/ Hàng hóa sức lao động là điều kiện để chuyển hóa tiền tệ thành TB. Đây cũng chính là chìa khóa để giải quyết mâu thẫn chung của nhà TB. Như vậy, tiền chỉ trở thành TB khi nó đc sử dụng làm phương tiện để mang lại giá trị thặng dư cho người có tiền. Điều đó chỉ thực hiện đc khi người có tiền tìm được một loại hàng hóa đặc biệt là hàng hóa SLĐ. 4/ Hàng hóa SLĐ là loại hàng hóa đặc biệt. Tính chất đặc biệt của nó thể hiện ở 2 thuộc tính: - Giá trị hàng hóa SLĐ mang tính chất tinh thần và lịch sử. - Giá trị sử dụng của hàng hóa SLĐ khi tiêu dùng nó lại thu đc một lượng giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó Câu 3: So sánh các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư? Trả lời: -Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài sức lao động, do người công nhân làm thuê tạo ra.và bị nhà TB chiếm đoạt Giá trị thặng dư phản ánh được bản chất của QHSX TBCN- quan hệ bóc lột của nhà TB đối với lao động làm thuê. Mục đích của các nhà TB là sản xuất giá trị thặng dư tối đa, vì vậy các nhà TB dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát lại có hai phương pháp chủ yếu để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. -Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt khỏi giới hạn thời gian lao động cần thiết. Ngày lao động kéo dài trong khi thời gian lao động cần thiết không thay đổi, do đó thời gian lao động thặng dư tăng lên.Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của chế độ TBCN. Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong giai đoạn đầu của CNTB, khi lao động còn ở trình độ thủ công và năng suất lao động còn thấp.Với lòngtham vô hạn, nhà TB tìm mọi thủ đoạn để kéo dài ngày lao động, nâng cao trình độ bóc lột lao động làm thuê. Nhưng một mặt do giới hạn tự nhiên của sức lực con người, mặt khác do đấu tranh quyết liệt của giai cấp công nhân đòi rút ngắn ngày lao động, cho nên ngày lao động không thể kéo dài vô hạn. Tuy nhiên ngày lao động không thể rút ngắn đến mức chỉ bằng thời gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường độ lao động. Vì tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày, trong khi thời gian lao động tất yếu không thay đổi. -Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu và tăng tương ứng với thời gian lao động thặng dư với độ dài ngày lao động không thay đổi, dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động XH. Việc tăng năng suất lao động xã hội, trứơc hết ở các ngành sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng, sẽ làm cho giá trị lao động giảm xuống do đó làm giảm thời gian lao động cần thiết.Khi độ dài ngày lao động không thay đổi,thời gian lao động cần thiết giảm sẽ làm tăng thời gian lao động thặng dư- thời gian để sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối cho nhà TB để giành ưu thế trong cạnh tranh, để thu được nhiều giá trị thặng dư, các nhà TB đã áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, cải tiến tổ chức sản xuất, hoàn thiện phương pháp quản lý kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Kết quả là giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị XH.Nhà TB nào thực hiện điều đó thì khi bán hàng hoá của mình sẽ thu được 1 số giá trị thặng dư trội hơn so với các nhà TB khác. -Phần giá trị thặng dư thu được trội hơn giá trị thặng dư bình thường của XH được gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch. Xét từng đơn vị sản xuất TBCN, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, cục bộ. Nhưng xét trên phạm vi toàn XH TB, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Vì vậy giá trị thặng dư siêu ngạch là một động lực mạnh nhất thúc đảy các nhà TB ra sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. -Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Cái khác nhau là ở chỗ giá trị thặng dư tương đối thì dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động XH, còn giá trị thặng dư siêu ngạch thì dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt. Câu 4: Nội dung và tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa. Sự vận dụng quy luật này ở nước ta trước và sau đổi mới? Trả lời: 1.Nội dung quy luật giá trị Theo yêu cầu của quy luật giá trị, việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hoá không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hoá, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được. Trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá. Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng. 2.Tác động của quy luật giá trị Trong sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác động này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao. - Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lương sản xuất xã hội phát triển. Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao. - Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu người nghèo. Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn: một mặt quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội Quy luật này giống với thuyết chọn lọc tự nhiên của Đacuyn.Những biến dị có lợi sẽ được duy trì và phát triển còn những cái bất lợi thì bị đào thải đó là sự cạnh tranh sinh tồn .Hao phí lao động xã hội cần thiết là cái thuộc về khách quan còn hao phí cá biệt thuộc về chủ quan của người sản xuất và yếu tố chủ quan này có hướng ngày càng tăng để phù hợp vơi đòi hỏi khách quan ngày càng cao,cả hai yếu tố này mới tạo ra quy luật giá trị trong kinh tế hàng hóa Nước ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó những kiến thức,khái niệm, phạm trù, quy luật của kinh tế chính rị đưa ra là cực kỳ cần thiết cho việc quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư. Là một sinh viên được học tập và rèn luyện dưới mái trường Kinh tế được các thầy cô dạy bảo và truyền đạt những kiến thức cơ bản về bộ môn kinh tế chính trị. Nhưng để có cơ sở lý luận và phương pháp luận nhằm học tập tốt các môn kinh tế khoa học khác vì các môn này đều phải dựa vào các kiến thức, các phạm trù kinh tế và các quy luật mà kinh tế chính trị Mac-Lênin đưa ra thì nhất thiết phải làm tiểu luận môn kinh tế chính trị,mặt khác nó còn giúp em nhận thức sâu sắc hơn về những vấn đề kinh tế, đời sống xã hội . Quy luật giá trị là một quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát phát huy tác dụng của quy luật giá trị .Vì vậy qua tìm hiểu chung về tình hình thực tế của nền kinh tế thị trường và em quyết định lựa chọn chuyên đề: Quy luật giá trị và vai trò của nó trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta Vì nó là một quy luật giúp điều tiết và lưu thông hàng hoá, kích thích cải tiến kĩ thuật hợp lý hoá sản xuất, th hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá kẻ giàu người nghèo . Câu hỏi: Hãy xác định chất, lượng, độ , điểm nút, bước nhảy trong văn kiện Đảng IX: Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 đã dẫn đến việc tiến hành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào Xôviết Nghệ Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 1945, mặc dù cách mạgn có lúc bị dìm trong máu lửa. Chế độ thuộc địa mửa phong kiến bị xoá bỏ, một kỉ nguyên mới mở ra, kỷ nguyên độc lập gắn với chủ nghĩa xã hội. Trả lời: - Độ: Các phong trào cách mạng diễn ra trong 15 năm - Chất: Những thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 đó đưa đến việc thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. - Điểm nút: chế độ thuộc địa nửa phong kiến bị xoá bỏ, một kỷ nguyên mới được mở ra , kỷ nguyên độc lập gắn với chủ nghĩa xã hội. - Độ: sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào Xôviết Nghệ Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 1945. - Bước nhảy: cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 đã dẫn đến việc tiến hành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

Video liên quan

Chủ đề