Vì sao mina twice lại đi giày trong twiceland

Đối với các định nghĩa khác, xem Twice (định hướng).

Twice (tiếng Hàn: 트와이스; Romaja: Teuwaiseu; tiếng Nhật: トゥワイス, Hepburn: To~uwaisu; thường được viết cách điệu là TWICE) là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc được thành lập bởi JYP Entertainment. Nhóm bao gồm 9 thành viên: Nayeon, Jeongyeon, Momo, Sana, Jihyo, Mina, Dahyun, Chaeyoung và Tzuyu. Twice được thành lập trong chương trình truyền hình Sixteen và chính thức ra mắt vào ngày 20 tháng 10 năm 2015, với EP The Story Begins.

Twice

Twice vào năm 2022
Từ trái sang phải: Tzuyu, Nayeon, Jihyo, Dahyun, Momo, Sana, Jeongyeon, Mina Chaeyoung

Thông tin nghệ sĩNguyên quánSeoul, Hàn QuốcDòng nhạc

  • K-pop
  • J-pop
  • bubblegum pop
  • dance pop
  • EDM

Năm hoạt động2015 (2015)–nayHãng đĩa

  • JYP
  • Warner Japan
  • Republic

Hợp tác vớiJYP NationWebsitetwice.jype.comThành viên

  • Nayeon
  • Jeongyeon
  • Momo
  • Sana
  • Jihyo
  • Mina
  • Dahyun
  • Chaeyoung
  • Tzuyu

Tên tiếng Triều TiênHangul

트와이스

Romaja quốc ngữTeuwaiseuMcCune–ReischauerT'ŭwaisŭ

Twice trở nên nổi tiếng trong nước vào năm 2016 với đĩa đơn "Cheer Up", đứng ở vị trí số một trên Gaon Digital Chart, trở thành đĩa đơn có thành tích tốt nhất trong năm và giành giải "Bài hát của năm" tại Melon Music Awards và Mnet Asian Music Awards. Đĩa đơn tiếp theo của họ, "TT", trích từ EP thứ ba Twicecoaster: Lane 1, đứng đầu bảng xếp hạng Gaon trong bốn tuần liên tiếp. EP này là album của một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc bán chạy nhất năm 2016. Trong vòng 19 tháng sau khi ra mắt, Twice đã bán được hơn 1,2 triệu bản trong số 4 EP và album của họ. Tính đến cuối năm 2021, Twice đã bán được hơn 7,29 triệu bản album tại Hàn Quốc vào năm 2019. Tính đến tháng 12 năm 2020, nhóm đã bán được hơn 10 triệu bản album tại Hàn Quốc và Nhật Bản.

Nhóm ra mắt tại Nhật Bản vào ngày 28 tháng 6 năm 2017 dưới sự quản lý của Warner Music Japan, với việc phát hành một album tổng hợp mang tên #Twice. Album đứng ở vị trí thứ 2 trên Oricon Albums Chart với lượng bán album trong tuần đầu tiên cao nhất của một nghệ sĩ K-pop ở Nhật Bản trong hai năm. Tiếp theo là phát hành đĩa đơn gốc tiếng Nhật đầu tiên của Twice mang tên "One More Time" vào tháng 10. Twice trở thành nhóm nhạc nữ Hàn Quốc đầu tiên được chứng nhận Bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ) cho cả album và đĩa đơn CD trong cùng năm. Twice đứng thứ ba trong hạng mục Nghệ sĩ hàng đầu của Billboard Japan vào năm 2017 và năm 2019, họ trở thành nhóm nhạc nữ Hàn Quốc đầu tiên thực hiện chuyến lưu diễn tại Nhật Bản.

Twice đã gặt hái được nhiều thành công trên thị trường quốc tế, khi trở thành nghệ sĩ nữ Hàn Quốc đầu tiên đứng đầu cả bảng xếp hạng Billboard World Albums và World Digital Song Sales khi phát hành album phòng thu đầu tiên Twicetagram và đĩa đơn chủ đạo "Likey" vào năm 2017. Với việc phát hành đĩa đơn "Feel Special" vào năm 2019, Twice đã trở thành nghệ sĩ nữ Hàn Quốc thứ ba lọt vào bảng xếp hạng Canadian Hot 100. Sau khi ký hợp đồng với Republic Records cho các hoạt động quảng bá tại Mỹ trong khuôn khổ hợp tác với JYP Entertainment, nhóm đã lọt vào bảng xếp hạng Billboard 200 với More & More và Eyes Wide Open vào năm 2020, Taste of Love và Formula of Love: O+T=<3 vào năm 2021. Đĩa đơn tiếng Anh đầu tiên của Twice, "The Feels", đã trở thành bài hát đầu tiên của họ lọt vào Billboard Hot 100 và UK Singles Chart, lần lượt đạt vị trí thứ 83 và 80 trên các bảng xếp hạng này. Họ được mệnh danh là "Nhóm nhạc nữ quốc dân" tiếp theo, vũ đạo trong các bài hát của nhóm—bao gồm "Cheer Up" (2016), "TT" (2016), "Signal" (2017) và "What Is Love?" (2018)—nhanh chóng trở thành cơn sốt vũ đạo và các meme lan truyền được nhiều người nổi tiếng bắt chước.

Xem thêm: Sixteen (chương trình truyền hình)

 

Nhà sáng lập JYP J. Y. Park là người có công gây dựng nên tên tuổi của nhóm

Ngày 19 tháng 12 năm 2013, JYP Entertainment thông báo sẽ cho ra mắt một nhóm nhạc nữ mới trong nửa đầu năm 2014; đây sẽ là nhóm nhạc nữ tiếp theo do công ty tạo ra sau khi họ đã ra mắt Miss A vào năm 2010.[1] Ngày 27 tháng 2 năm 2014, hai thực tập sinh JYP là Lena và Cecilia đã được xác nhận là thành viên của nhóm, trong khi đó có tin đồn cho rằng các thành viên khác sẽ là những thực tập sinh của JYP như Nayeon, Jeongyeon, Jisoo (sau này cô đổi tên thành Jihyo) và Minyoung.[2][3] Dù vậy kế hoạch ra mắt nhóm sau đó đến cuối cùng đã bị hủy bỏ do sự rời đi của hai thực tập sinh Lena và Cecilia.[4]

 

Twice trình diễn "Like Ooh-Ahh" vào năm 2015

Vào ngày 11 tháng 2 năm 2015, Park Jin-young đã thông báo rằng sắp tới sẽ ra mắt một nhóm nhạc nữ 7 thành viên và sẽ được quyết định thông qua Sixteen, một chương trình cạnh tranh sống còn được phát sóng trên kênh Mnet vào cuối năm.[5] Chương trình bắt đầu vào ngày 5 tháng 5 và kết thúc với đội hình 7 thành viên ban đầu gồm: Nayeon, Jeongyeon, Sana, Jihyo, Mina, Dahyun và Chaeyoung. Tuy nhiên, JYP cho rằng nhóm sẽ hoàn hảo hơn nếu tăng thành viên từ 7 lên 9 và quyết định chọn thêm Tzuyu theo ý kiến của khán giả vì cô là thí sinh nổi tiếng nhất trước khi chương trình kết thúc và Momo theo ý kiến của Park Jin Young vì ông nghĩ nhóm cần thêm một nhân tố có khả năng vũ đạo xuất sắc như Momo. Quyết định này gây tranh cãi vào lúc đó vì nhiều người phàn nàn về việc thí sinh đã bị loại lại có thể vào nhóm.[6][7][8]

Ngày 7 tháng 10, JYP Entertainment ra mắt trang web chính thức của nhóm và thông báo qua các trang mạng xã hội nhóm sẽ ra mắt với EP The Story Begins và bài hát chủ đề "Like Ooh-Ahh". Ca khúc được mô tả mang âm hưởng color pop dance với các yếu tố như hip-hop, rock và R&B.[9][10] Trong đội ngũ sáng tác có cả Black Eyed Pilseung, nổi tiếng nhờ cho ra những ca khúc thành công tiêu biểu như "Only You" của Miss A.[11][12] Album và video âm nhạc của bài hát được phát hành vào ngày 20 tháng 10. Nhóm còn tổ chức một showcase trực tiếp trong cùng một ngày, nơi họ biểu diễn tất cả các ca khúc trong EP.[13][14][15] The Story Begins gia nhập bảng xếp hạng Gaon Album Chart hàng tuần ở vị trí thứ tư và leo lên vị trí thứ ba hai tuần sau đó trong khi ca khúc chủ đề ra mắt ở vị trí thứ 22 trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart và leo lên vị trí thứ 10 sau ba tháng ra mắt.[16][17][18][19] Bài hát cũng lọt vào Billboard World Digital Song Sales ở vị trí thứ sáu.[20] Video âm nhạc ra mắt của nhóm đạt 50 triệu lượt xem trong vòng 5 tháng ra mắt, đã trở thành một trong những video âm nhạc ra mắt của các nhóm nhạc Kpop có lượt xem nhiều nhất trên YouTube.[21][22][23] Ngày 12 tháng 2, Twice nhận được đề cử và giải thưởng lần đầu tiên trong sự nghiệp tại Mnet Asian Music Awards 2015 với giải Nữ nghệ sĩ mới xuất sắc nhất.[24][25][26] Ngày 27 tháng 12, nhóm biểu diễn một phiên bản remix của ca khúc "Like Ooh-Ahh" trên SBS Gayo Daejeon, đây là lần đầu tiên Twice tham gia vào một chương trình âm nhạc cuối năm.[27][28]

2016–2017: Sự nổi tiếng, chuyến lưu diễn đầu tiên, ra mắt tại Nhật Bản

 

Twice biểu diễn tại Trường Cao đẳng Nghệ thuật Seoul vào tháng 2 năm 2016

Ngày 11 tháng 4 năm 2016, JYP Entertainment đã thông báo trên Facebook và các trang mạng xã hội của Twice rằng nhóm sẽ phát hành mini album thứ hai mang tên Page Two và ca khúc chủ đề "Cheer up".[29] Ngày 25 tháng 4, Twice phát hành EP thứ hai Page Two bao gồm ca khúc chủ đề "Cheer Up", là phiên bản remake của bản hit năm 1998 "Precious Love" của Park Ji-yoon và "I'm Gonna Be A Star" được xem như ca khúc chủ đề của chương trình Sixteen.[30][31] "Cheer Up" ngay khi ra mắt đã nhanh chóng leo lên vị trí số một trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart và vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Billboard World Digital Song Sales chỉ trong tuần đầu ra mắt.[32][33][34] Bài hát đạt thành công thương mại lớn khi xếp vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart năm 2016 vào cuối năm.[35] Page Two cũng lần lượt leo lên vị trí á quân và vị trí thứ sáu trên các bảng xếp hạng Gaon Album Chart và Billboard World Albums.[36][37] Ngày 5 tháng 5, Twice chính thức giành được chiếc cúp chiến thắng chương trình âm nhạc đầu tiên đầu tiên trên M! Countdown trong đợt quảng bá ca khúc "Cheer Up", tròn một năm kể từ ngày Sixteen lên sóng.[38] Sau đó, họ liên tục giành chiến thắng trên Music Bank và Inkigayo.[39] Đến tháng 8, EP thứ hai Page Two của Twice đã bán được hơn 150.000 bản giúp Twice trở thành nhóm nhạc nữ đầu tiên đạt kỷ lục bán hơn 100.000 bản trong năm ấy.[40]

Trong lễ kỷ niệm tròn một năm Twice chính thức ra mắt vào ngày 20 tháng 10, nhóm đã công bố bài hát mới "One in a Million" từ EP thứ ba sắp tới, Twicecoaster: Lane 1, thông qua một chương trình phát sóng trực tiếp trên V Live.[41] Ngày 24 tháng 10, Twicecoaster: Lane 1 và video âm nhạc của bài hát chủ đề "TT" thuộc thể loại dance pop dịu êm và vui tươi được phát hành trực tuyến.[42][43] Sau khi ra mắt, "TT" đã giữ vững vị trí quán quân trong bốn tuần liên tiếp trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart cũng như đạt được vị trí á quân trên Billboard World Digital Song Sales.[44][45] Ca khúc sau này đã đứng ở vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng Billboard Japan Hot 100 năm 2017 và là bài hát tiếng Hàn duy nhất góp mặt trong bảng xếp hạng.[46] Twicecoaster: Lane 1 cũng góp mặt vào Gaon Album Chart ở vị trí quán quân và gia nhập Billboard World Album ở vị trí thứ ba.[47][48] Album sau đó đạt doanh số 350.852 bản bán ra tại Hàn Quốc vào cuối năm 2016, trở thành album của nhóm nhạc nữ K-pop bán chạy nhất năm đó.[49][50] "TT" sau đó trở thành video âm nhạc đầu tiên của một nữ nghệ sĩ K-pop vượt mốc 200 triệu lượt xem vào ngày 25 tháng 5 năm 2017.[51]

 

Twice biểu diễn tại Dream Concert vào ngày 15 tháng 10 năm 2016

Vào ngày 11 tháng 11, video âm nhạc "Like Ooh-Ahh" của nhóm đạt 100 triệu lượt xem trên YouTube đã đưa Twice trở thành nhóm nhạc nữ thứ tư của K-pop đạt được 100 triệu lượt xem và cũng là video âm nhạc đầu tay của nhóm nhạc K-pop đạt được cột mốc này.[52] Sáu ngày sau, video âm nhạc "Cheer Up" của Twice cũng đạt được thành tích tương tự.[53] Ngày 19 tháng 11, "Cheer Up" của Twice đã giành được giải Bài hát của năm tại Lễ trao giải Melon Music Awards lần thứ 8. Tiếp sau đó là giải thưởng Bài hát của năm tại Lễ trao giải Mnet Asian Music Awards lần thứ 18 vào ngày 2 tháng 12.[54][55] Cùng năm đó, "TT" cũng trở thành video đầu tiên của nữ nghệ sĩ Kpop vượt qua 200 triệu lượt xem và đạt 300 triệu lượt xem vào cuối năm.[56][57]

Ngày 10 tháng 1, JYP Entertainment đã thông báo đến người hâm mộ về tour diễn đầu tiên trong sự nghiệp của Twice chỉ sau một năm bốn tháng ra mắt. Tour lưu diễn của Twice mang tên: "Twice 1st Tour: Twiceland – The Opening" tổ chức trong 3 ngày từ 17 đến 19 tháng 2 tại sân vận động SK Olympic Handball Gymnasium đã bán sạch vé. Tour diễn được tổ chức đi qua Bangkok, Thái Lan vào ngày 8 tháng 4 và Singapore vào ngày 29 tháng 4 sau điểm dừng đầu tiên là Seoul.[58][59][60][61] Sau chuyến lưu diễn, Twice phát hành một album đặc biệt vào ngày 20 tháng 2 với tên gọi Twicecoaster: Lane 2 cùng với ca khúc chủ đề "Knock Knock". Đây là album tái phát hành của Twicecoaster: Lane 1.[62][63]

Twice ra mắt trang web và các kênh truyền thông xã hội khác bằng tiếng Nhật vào đầu tháng 2.[64][65] Vào ngày 24 tháng 2, nhóm chính thức công bố rằng họ sẽ ra mắt tại Nhật với album tổng hợp mang tên #Twice phát hành vào ngày 28 tháng 6 năm 2017.[66][67] Ngày 15 tháng 5, Twice phát hành EP thứ tư Signal với ca khúc chủ đề cùng tên do Park Jin-young sản xuất. Điều này đánh dấu sự hợp tác đầu tiên của nhóm với Park Jin-young. EP bao gồm 6 ca khúc, trong đó "Eye Eye Eyes" được thành viên Jihyo và Chaeyoung đồng viết lời, và "Only You" do cựu thành viên Ha:tfelt của Wonder Girls sáng tác.[68][69]

 

Twice biểu diễn vào năm 2017

Ngày 14 tháng 6, Twice phát hành bản nhạc số "Signal (Japanese ver.)" cùng với video âm nhạc phiên bản ngắn, được xem là bản preview để đếm ngược đến thời điểm phát hành album tiếng Nhật đầu tay của họ. Một tuần sau, nhóm phát hành video âm nhạc đầy đủ của "TT" phiên bản tiếng Nhật.[70][71] Nhóm chính thức ra mắt tại Nhật Bản với việc phát hành #Twice vào ngày 28 tháng 6. Nó có 10 bài hát, bao gồm cả phiên bản tiếng Hàn và tiếng Nhật của năm đĩa đơn đầu tiên của nhóm.[72] Vào ngày 2 tháng 7, Twice đã tổ chức showcase ra mắt mang tên "Touchdown in Japan" tại Tokyo Metropolitan Gymnasium với sự tham dự của tổng cộng 15.000 người.[73][74][75] #Twice ra mắt ở vị trí thứ 2 trên Oricon Albums Chart với 136.157 bản được bán trong vòng bảy ngày kể từ khi phát hành.[76] Ngày 18 tháng 10, nhóm phát hành đĩa đơn tiếng Nhật đầu tiên "One More Time".[77][78][79] Đĩa đơn đạt được doanh số bán hàng lớn nhất trong ngày đầu tiên và là đĩa đơn bán chạy nhất của bất kỳ nhóm nhạc nữ Hàn Quốc tại Nhật Bản nào tính đến thời điểm đó.[80][81] Cả #Twice và "One More Time" đều được chứng nhận Bạch kim của Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ).[82] Đĩa đơn "TT (Japanese ver.)" nằm trong album tổng hợp #Twice cũng đã được RIAJ trao chứng nhận vàng đĩa đơn kỹ thuật số khi nhận được 100.000 bản tải về.[83] Sau đó, cả #Twice và "TT (Japanese ver.)" đều thắng giải Album của năm và Bài hát thuộc khu vực châu Á của năm tính theo lượt tải về tại lễ trao giải Japan Gold Disc Award lần thứ 32.[84][85]

 

Twice tại MelOn Music Awards vào ngày 2 tháng 12 năm 2017

Vào ngày 30 tháng 10, Twice phát hành album phòng thu tiếng Hàn đầu tiên của nhóm, Twicetagram với ca khúc chủ đề "Likey". Video âm nhạc đã được quay ở Canada vào đầu tháng 9.[86][87] "Likey" được sáng tác bởi Black Eyed Pilseung và Jeon Gun. Đây là lần hợp tác thứ tư của nhóm với Black Eyed Pilseung. Tham gia sáng tác vào album này còn bao gồm các thành viên Hàn Quốc của Twice với vai trò phổ lời và cựu thành viên Hyerim của Wonder Girls, là người đồng sáng tác ca khúc thứ tám "Look at Me".[88][89] Album và bài hát chủ đề này lần lượt đứng đầu hai bảng xếp hạng của Billboard World Albums và World Digital Song Sales, là vị trí quán quân đầu tiên của nhóm, đưa Twice trở thành nữ nghệ sĩ K-pop đầu tiên dẫn đầu cả hai bảng xếp hạng này. Nhóm cũng xuất hiện trong bảng xếp hạng Heatseekers Albums với album ra mắt ở vị trí thứ 10, cao hơn một bậc so với thứ hạng cao nhất của Signal ở vị trí thứ 11.[90] Ngày 11 tháng 12, album tái phát hành của Twicetagram phiên bản Giáng sinh mang tên Merry & Happy với ca khúc chủ đề "Heart Shaker" được phát hành.[91][92]

Ngày 16 tháng 11, một thông báo chính thức được công bố qua cuộc họp báo ở Tokyo rằng nhóm sẽ tham dự chương trình Kōhaku Uta Gassen lần thứ 68, một lễ hội âm nhạc cuối năm có tỉ suất xem cao tại Nhật do NHK tổ chức.[93] Lễ hội diễn ra trực tiếp tại NHK Hall ngày 31 tháng 12, với màn trình diễn "TT (Japanese ver.)" của Twice. Twice là nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên tham gia sự kiện này trong sáu năm qua và là nhóm nhạc Kpop thứ tư sau TVXQ, Kara và Girls' Generation.[94][95][96]

2018–2019: Duy trì độ nổi tiếng và các chuyến lưu diễn

Đĩa đơn tiếng Nhật thứ hai của Twice "Candy Pop" được phát hành trước vào ngày 12 tháng 1 năm 2018 và CD đĩa đơn được ra mắt vào ngày 7 tháng 2. Nhóm cũng đã tổ chức chuyến lưu diễn đầu tiên của họ tại Nhật Bản mang tên Twice Showcase Live Tour 2018 "Candy Pop", bắt đầu từ ngày 19 tháng 1 tại tỉnh Aichi.[97][98] Ngày 9 tháng 4, Twice phát hành EP thứ 5 mang tựa đề What Is Love? cùng với ca khúc chủ đề cùng tên được sáng tác bởi Park Jin Young.[99] Album bán ra 335.235 bản trong tháng đầu tiên phát hành và giúp Twice trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên đồng thời là nghệ sĩ thứ năm đạt được chứng nhận Bạch kim của Hiệp hội Công nghiệp Nội dung Âm nhạc Hàn Quốc (KMCA) khi bán ra được hơn 250.000 bản.[100][101] Ngày 16 tháng 5, nhóm phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ ba mang tên "Wake Me Up" và đạt được chứng nhận bạch kim kép của RIAJ.[82][102] Chuyến lưu diễn thứ hai của nhóm: Twiceland Zone 2 – Fantasy Park đã bắt đầu khởi động tại Seoul vào ba ngày từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 5[103][104] thu hút hơn 90.000 người hâm mộ ở 6 thành phố khắp châu Á.[105]

Twice đã tái hiện lại bản cover "I Want You Back" của The Jackson 5 làm nhạc phim chính cho bộ phim Nhật Bản Sensei Kunshu. Ngày 15 tháng 6, bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn kĩ thuật số cùng với video âm nhạc.[106][107] Ngày 26 tháng 6, phiên bản video âm nhạc khác có sự kết hợp với dàn diễn viên bộ phim được phát hành.[108] Vào tháng 7, album tái phát hành của What Is Love? mang tên Summer Nights được phát hành cùng với ca khúc chủ đề "Dance the Night Away" do Wheesung viết lời.[109] Đĩa đơn cũng đạt được hơn 100 triệu lượt nghe trực tuyến và 2.500.000 lượt tải về trên Bảng xếp hạng Âm nhạc Gaon, mang về cho nhóm hai chứng nhận Bạch kim lần lượt dựa trên lượng người nghe trực tuyến và lượt tải về, giúp Twice trở thành nghệ sĩ thứ hai đạt được các chứng nhận Bạch kim của KMCA tính theo lượng nghe trực tuyến, lượt tải về và doanh số album kể từ khi hệ thống chứng nhận đi vào hoạt động từ tháng 4 năm 2018.[101][110][111]

Vào ngày 12 tháng 9, Twice phát hành album phòng thu tiếng Nhật đầu tiên BDZ. Đĩa đơn cùng tên đã được phát hành trước dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số vào ngày 17 tháng 8.[112][113] Theo sau đó là chuyến lưu diễn của nhóm mang tên Twice 1st Arena Tour 2018 "BDZ", bắt đầu tại Chiba vào ngày 29 tháng 9.[114] Album đã nhận chứng nhận bạch kim RIAJ, là chứng nhận bạch kim thứ năm liên tiếp của nhóm tại Nhật bản.[115] Ngày 5 tháng 11, Twice trở lại với EP thứ 6 Yes or Yes cùng với ca khúc chủ đề cùng tên.[116][117] Video âm nhạc của ca khúc chủ đề thu được 31,4 triệu lượt xem trên YouTube trong ngày đầu ra mắt, trở thành video âm nhạc có lượt xem trong ngày đầu cao thứ bảy trên nền tảng này tính tại thời điểm đó.[118][119][120]

Twice phát hành album đặc biệt mang tên The Year of "Yes" vào ngày 12 tháng 12 năm 2018, cùng với đĩa đơn dẫn đường "The Best Thing I Ever Did". Đây là phiên bản album tái phát hành của Yes or Yes.[121] Nhóm cũng ra mắt album tái phát hành BDZ với một ca khúc bổ sung có tựa đề "Stay by My Side", là bài hát chủ đề của loạt phim truyền hình Nhật Bản Shinya no Dame Koi Zukan vào ngày 26 tháng 12. "Stay by My Side" được phát hành dưới định dạng đĩa đơn kỹ thuật số trước đó vào ngày 22 tháng 10 kèm với một video âm nhạc quay lại cảnh các thành viên đang thu âm cho bài hát.[122] Ngày 6 tháng 3 năm 2019, nhóm phát hành album tổng hợp tiếng Nhật thứ hai #Twice2.[123]

Twice trở thành nghệ sĩ K-pop đầu tiên trong lịch sử tổ chức Dome tour (chuyến lưu diễn tại các sân vận động có mái vòm lớn) tại Nhật Bản với chuyến lưu diễn Twice Dome Tour 2019 "#Dreamday". Chuyến lưu diễn thu về 220.000 lượt người đến theo dõi với năm buổi trình diễn ở Osaka, Tokyo và Nagoya được tổ chức từ tháng 3 đến tháng 4 năm 2019. Tất cả 220.000 vé đã được bán hết chỉ sau khi phòng vé mở cửa một phút.[124][125][126] Ngày 22 tháng 4, nhóm phát hành EP thứ bảy của họ Fancy You.[127][128] Video âm nhạc của ca khúc chủ đề cùng tên đạt được 42,1 triệu lượt xem trên nền tảng YouTube chỉ trong vỏn vẹn một ngày, đứng ở vị trí thứ bảy trong số các video âm nhạc có lượt xem cao nhất trong ngày đầu ra mắt.[129] Với việc phát hành Fancy You, Twice đã trở thành nhóm nhạc nữ Hàn Quốc tẩu tán được nhiều album nhất mọi thời đại khi bán ra tổng cộng 3.750.000 bản với 12 album phát hành tại quê nhà, vượt qua kỉ lục đã tồn tại suốt 20 năm của nhóm nhạc nữ S.E.S.[130] Twice cũng đã bán ra xấp xỉ 6 triệu bản album trên toàn cầu.[131]

Ngày 12 tháng 6 năm 2019, Twice phát hành hai đĩa đơn tiếng Nhật "Happy Happy" và "Breakthrough" mang các sắc thái âm nhạc khác nhau ở định dạng kỹ thuật số.[132] Ngày 17 tháng 7, JYP Entertainment thông báo mở thêm các buổi lưu diễn tại Nhật Bản sau khi các buổi hòa nhạc thuộc khuôn khổ chuyến lưu diễn Twicelights Tour đã thu hút được mười nghìn người hâm mộ tham gia tại thị trường Bắc Mỹ và Đông Nam Á.[133][134][135] Nhóm sẽ mở thêm mười hai buổi lưu diễn trải dài trên bảy thành phố ở Nhật Bản bắt đầu từ tháng 10 năm 2019 đến tháng 2 năm 2020.[136] Cùng ngày, định dạng đĩa cứng của "Happy Happy" được nhóm phát hành và "Breakthrough" cũng được phát hành một tuần sau đó.[132] Cả hai đĩa đơn đều giành được chứng nhận Bạch kim của RIAJ.[82][137]

Ngày 23 tháng 9 năm 2019, Twice phát hành EP thứ tám Feel Special cùng với video âm nhạc cho đĩa đơn mở đường cùng tên do Park Jin-young sáng tác.[138][139] Đĩa đơn này đã giúp nhóm có được vị trí quán quân thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard World Digital Song Sales sau thành tích từng đạt được trước đó với "Likey". "Feel Special" cũng giúp mở rộng sự tiếp cận của nhóm đối với thị trường Bắc Mỹ khi ra mắt tuần đầu ở vị trí thứ 82 trên Canadian Hot 100 — và là đĩa đơn đầu tiên của nhóm lọt vào bảng xếp hạng này, giúp Twice trở thành nhóm nhạc nữ K-pop thứ ba và là nghệ sĩ K-pop thứ 9 gia nhập vào bảng xếp hạng.[140] Ngày 30 tháng 9 năm 2019, Twice phá kỉ lục doanh số bán ra trong tuần đầu của nhóm với Feel Special, với doanh số cao nhất trước đó thuộc về Fancy You.[141][142] Twice công bố phát hành album phòng thu tiếng Nhật thứ hai &Twice vào ngày 20 tháng 11 năm 2019. Đĩa đơn dẫn đường cho album "Fake & True" được phát hành trước dưới dạng kỹ thuật số vào ngày 18 tháng 10 năm 2019.[143][144][145]

Chỉ tính trong năm 2019, Twice đã đạt doanh số bán ra hơn một triệu bản trên bảng xếp hạng Gaon, đồng thời giữ vững thành tích này trong ba năm liên tiếp.[146][147] Tại Nhật Bản, Twice đã vượt mốc doanh thu kỷ lục 5 tỷ yên trong năm 2019.[148] Nhóm cũng là nghệ sĩ nước ngoài bán chạy nhất và xếp thứ tư chung cuộc hạng mục "Nghệ sĩ bán chạy" (Artist Sales) dựa theo Bảng xếp hạng hằng năm của Oricon lần thứ 52.[148] Theo Billboard Japan, Twice xếp vị trí thứ năm hạng mục "Nghệ sĩ xuất sắc" (Top Artist) trên bảng xếp hạng cuối năm 2019.[149] Nhóm đã đạt thứ hạng này trong ba năm liên tiếp.[150][151] Twice cũng là nghệ sĩ có lượng nghe trực tuyến trên Spotify nhiều thứ năm tại quốc gia này.[152][153]

2020: Quảng bá tại Hoa Kỳ, Twice: Seize the Light, More & More và Eyes Wide Open

Vào tháng 3 năm 2020, nhóm tiếp tục thực hiện chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới "Twicelights" tại Tokyo Dome.[154][155][156] Buổi biểu diễn khép lại do chuyến lưu diễn mang tên World Tour Twicelights Finale ban đầu được dự định tổ chức tại Seoul vào ngày 7 và 8 tháng 3 năm 2020 tại KSPO Dome,[157] nhưng sau đó đã bị hủy do đại dịch COVID-19.[158] Vào ngày 24 tháng 2, có thông báo rằng nhóm đã ký hợp đồng với Republic Records nhằm quảng bá tại Hoa Kỳ, là một phần trong mối quan hệ đối tác của JYP Entertainment với hãng đĩa này.[159]

Trong cùng tháng, loạt phim tài liệu Twice: Seize the Light được công chiếu lần đầu tiên vào ngày 29 tháng 4 thông qua YouTube Originals, gồm chín tập theo chân các thành viên trong nhóm trong suốt quá trình thực hiện chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới đầu tiên "Twicelights".[160] Vào ngày 20 tháng 4, có thông tin rằng nhóm đang chuẩn bị phát hành một album tiếng Hàn vào tháng 6. Mini album tiếng Hàn thứ 9 của nhóm More & More được phát hành vào ngày 1 tháng 6 với đĩa đơn cùng tên.[161] Album được Gaon ghi nhận đã bán ra 550.000 bản, là album bán chạy nhất của Twice cho đến hiện tại mà đồng thời cũng là album nhóm nhạc nữ bán chạy nhất ở Hàn Quốc trong 20 năm qua.[162] Album đạt vị trí 200 trên bảng xếp hạng Billboard 200 trong tuần đầu ra mắt, đưa Twice trở thành nhóm nhạc nữ Hàn Quốc thứ tư lọt vào bảng xếp hạng sau Girls' Generation, 2NE1 và Blackpink. Nhóm cũng lần đầu gia nhập bảng xếp hạng Billboard Artist 100 khi ra mắt tại vị trí 96.[163]

Vào ngày 9 tháng 8, Twice đã tổ chức buổi hòa nhạc trực tuyến đầu tiên mang tên "TWICE: World In A Day" nhằm thay thế "Twicelights World Tour Finale" đã bị hủy bỏ vào đầu năm. Nhóm đã làm việc với nền tảng Beyond LIVE do SM Entertainment và Naver phát triển cho buổi hòa nhạc, trở thành nghệ sĩ đầu tiên ngoài SM Entertainment tổ chức một buổi hòa nhạc trực tuyến bằng nền tảng này.[164]

Có thông tin cho rằng vào cuối tháng 9 nhóm sẽ chuẩn bị ra mắt một album phòng thu mới, nhóm đã phát hành album phòng thu tiếng Hàn thứ hai, Eyes Wide Open, vào ngày 26 tháng 10 với đĩa đơn chủ đạo mang tên "I Can't Stop Me".[165][166] Hai tháng sau khi phát hành Eyes Wide Open, album đã ra mắt ở vị trí thứ 72 trên Billboard 200 của Mỹ, đánh dấu vị trí cao nhất của nhóm trên bảng xếp hạng vượt qua More & More, đồng thời đưa Twice trở thành nhóm nhạc nữ K-pop thứ ba lọt vào top 100 của bảng xếp hạng này, sau 2NE1 và Blackpink.[167]

Sau đó, Twice hợp tác với nhóm nhạc nữ ảo K/DA, các thành viên Nayeon, Sana, Jihyo và Chaeyoung sẽ góp mặt trong bài hát "I'll Show You" như một phần của EP đầu tiên của K/DA All Out được phát hành vào ngày 6 tháng 11. Cả bốn thành viên của nhóm cũng đã biểu diễn bài hát này cùng với ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Bekuh Boom và Annika Wells.[168][169]

Sau đó, Twice đã phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ bảy của họ có tựa đề "Better" vào ngày 11 tháng 11 ở định dạng tải xuống và phát trực tuyến kỹ thuật số, trong đó có "Scorpion" với tư cách là B-side, sau đó được phát hành vật lý vào ngày 18 tháng 11.[170] Đĩa đơn ra mắt ở vị trí thứ 3 trên Billboard Japan Hot 100 với doanh số 93.548 bản từ ngày 16 đến 22 tháng 11.[171] Sau đó, nhóm đã có màn ra mắt trên truyền hình Hoa Kỳ với sự xuất hiện của họ trên loạt chương trình "#PlayAtHome" của The Late Show With Stephen Colbert vào ngày 30 tháng 11, biểu diễn ca khúc "I Can't Stop Me".[172]

Vào ngày 1 tháng 12, có thông tin cho rằng Twice đã đạt doanh số bán đĩa tổng cộng hơn 5,81 triệu album trên Gaon. Tính đến doanh số bán hàng của nhóm tại Nhật Bản, Twice đã vượt quá 10 triệu bản album được bán ở cả hai quốc gia.[173] Trong lần xuất hiện tại lễ trao giải Mnet Asian Music Awards 2020 vào ngày 6 tháng 12, Twice đã bất ngờ trình diễn ca khúc chưa phát hành mang tên "Cry For Me", được nhóm mô tả như một món quà dành cho người hâm mộ, bài hát chính thức được phát hành dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số vào ngày 18 tháng 12.[174] Bài hát đã đứng đầu bảng xếp hạng Billboard World Digital Song Sales Chart vào ngày 2 tháng 1 năm 2021, và cũng trở thành bài hát thứ ba của nhóm có mặt trên Billboard Global Excluding US Chart khi ra mắt ở vị trí thứ 122.[175][176]

2021–nay: Các hoạt động hiện tại và mở rộng ra thị trường quốc tế

 

Twice trong một cuộc phỏng vấn với Wired vào tháng 6 năm 2021

Vào ngày 28 tháng 1, Twice góp mặt trong chuỗi sự kiện Time 100 Talks do tạp chí Time tổ chức thông qua hình thức phát sóng trực tiếp, tại đây nhóm đã có buổi biểu diễn đặc biệt ca khúc "Depend On You" nằm trong album Eyes Wide Open.[177]

Vào ngày 6 tháng 3, nhóm đã tổ chức buổi hòa nhạc trực tuyến thứ hai mang tên "Twice in Wonderland", được công bố lần đầu tiên vào ngày 14 tháng 1. Buổi hòa nhạc có sự hợp tác với NTT Docomo và được phát sóng bằng nhiều công nghệ khác nhau bao gồm AR (thực tế tăng cường) và MR (thực tế hỗn hợp). Vào cuối buổi hòa nhạc trực tuyến, Twice đã thông báo về việc phát hành đĩa đơn tiếng Nhật sắp tới "Kura Kura" vào ngày 12 tháng 5.[178][179] "Kura Kura" đã được phát hành trước trên các nền tảng phát nhạc trực tuyến vào ngày 20 tháng 4. Video âm nhạc của nó cũng được phát hành cùng ngày.[180]

Vào ngày 19 tháng 4, JYP Entertainment đã thông báo về mini-album sắp tới của nhóm dự kiến phát hành vào tháng 6 năm 2021.[180] Vào ngày 28 tháng 4, Twice xuất hiện trên The Kelly Clarkson Show với màn trình diễn đĩa đơn "Cry For Me" của họ.[181] EP tiếng Hàn thứ mười của nhóm, Taste of Love, phát hành vào ngày 11 tháng 6. "Alcohol-Free", đĩa đơn chủ đạo của EP, đã được phát hành trước vào ngày 9 tháng 6, cùng với video âm nhạc của nó.[182] Sau khi phát hành video âm nhạc, tổng số lượt xem trên YouTube đã vượt mốc 20 triệu chỉ sau 24 giờ đầu tiên.[183] Trong tuần cuối cùng vào ngày 17 tháng 6, Taste of Love ra mắt ở vị trí thứ 6 trên Billboard 200, trở thành album đầu tiên của Twice lọt vào top 10 tại Hoa Kỳ với 46.000 đơn vị tương đương. Trong số đó, EP đã bán được 43.000 bản vật lý, trở thành album bán chạy nhất tuần ở Mỹ. Với điều này, Twice trở thành nghệ sĩ nữ Hàn Quốc đầu tiên có EP lọt vào top 10 của Billboard 200 và là nghệ sĩ nữ Hàn Quốc thứ hai có album lọt vào top 10 của bảng xếp hạng này.[184]

Album phòng thu tiếng Nhật thứ ba của nhóm, Perfect World, phát hành vào ngày 28 tháng 7. Nó bao gồm 10 bài hát, bao gồm đĩa đơn chủ đạo "Perfect World" và ba đĩa đơn trước đó, "Fanfare", "Better" và "Kura Kura".[185]

 

Twice biểu diễn tại The Forum ở Inglewood, California vào ngày 15 tháng 2 năm 2022

Nhóm đã phát hành đĩa đơn tiếng Anh đầu tiên của họ, "The Feels", vào ngày 1 tháng 10.[186] Ở cuối video âm nhạc cho đĩa đơn, cũng được phát hành vào ngày 1 tháng 10, album phòng thu tiếng Hàn thứ ba (tổng thể thứ sáu) và chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới thứ tư của họ đã được hé lộ.[187] Vào ngày 11 tháng 10, "The Feels" ra mắt ở vị trí thứ 83 trên Billboard Hot 100, đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của nhóm trên bảng xếp hạng này.[188] Bài hát còn lọt vào UK Singles Chart, nơi nó đạt vị trí thứ 80.[189] Album phòng thu tiếng Hàn thứ ba của nhóm, Formula of Love: O+T=<3, phát hành vào ngày 12 tháng 11 với ca khúc chủ đề, "Scientist".[190] Album đạt vị trí thứ 3 trên Billboard 200, phá vỡ kỷ lục trước đó của Taste of Love.[191]

Vào ngày 15 tháng 11, nhóm đã công bố năm buổi diễn đầu tiên ở Bắc Mỹ trong chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới thứ tư của họ, "III".[192] Họ bắt đầu chuyến lưu diễn với một buổi hòa nhạc kéo dài hai ngày tại Seoul vào ngày 25–26 tháng 12.[193] Vào ngày 3 tháng 12, Twice đã phát hành trước đĩa đơn tiếng Nhật thứ chín của họ, "Doughnut", cùng với một video âm nhạc đi kèm. Nó được phát hành vào ngày 15 tháng 12 tại Nhật Bản.[194] Với việc hoàn thành bảy đêm diễn tại Hoa Kỳ trong chuyến lưu diễn “III” kết thúc vào ngày 27 tháng 2 năm 2022, Twice đã trở thành nghệ sĩ nữ K-pop đầu tiên tổ chức hai arena tour (biểu diễn tại nhà thi đấu lớn) riêng biệt ở thị trường âm nhạc lớn nhất thế giới, thu hút số lượng khán giả khoảng 100.000 người. Ban đầu, chỉ có một buổi diễn ở LA và NY được công bố, nhưng buổi biểu diễn thứ hai đã nhanh chóng được mở thêm ở cả hai nơi này do nhu cầu cao sau khi cháy vé.[195] Sau thành công của tour diễn tại Mỹ, Twice đã công bố một buổi hòa nhạc encore tại Sân vận động Banc of California ở Los Angeles, đưa họ trở thành nhóm nhạc nữ K-pop đầu tiên có một buổi hòa nhạc tại sân vận động ở Hoa Kỳ. Ban đầu nhóm thông báo chỉ có một đêm diễn duy nhất vào ngày 14 tháng 5, họ đã quyết định tổ chức thêm một buổi diễn nữa vào ngày 15 tháng 5 do nhu cầu cao.[196][197] Ngoài ra, nhóm dự kiến tổ chức buổi hòa nhạc tại Tokyo Dome ở Nhật Bản trong hai ngày 23 và 24 tháng 4, nhưng do vé đã được bán hết trong thời gian ngắn nên họ đã bổ sung thêm một suất diễn vào ngày 25. Với ba buổi diễn cháy vé tại Tokyo Dome, Twice trở thành nhóm nhạc nữ Kpop đầu tiên và là nhóm nhạc nữ thứ hai (sau AKB48) tổ chức một buổi hòa nhạc kéo dài ba ngày tại địa điểm nói trên.[198][199]

Vào ngày 12/7/2022, đại diện của JYP Entertainment cho biết tất cả 9 thành viên đã gia hạn hợp đồng với công ty quản lý.[200] Sau đó 1 ngày, nhóm thông báo sẽ quay trở lại ngay trong tháng 8 với mini album thứ 11 mang tên BETWEEN 1&2.[201]

"TT"

"TT" là một bài hát electropop và dance-pop được đặt ở nhịp deep house ổn định.[202][203]

Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn.

Twice gây chú ý nhờ việc theo đuổi hình tượng "dễ thương", bên cạnh dòng nhạc bubblegum pop nổi bật của nhóm, được coi là sự phá bỏ phong cách âm nhạc cổ điển thường thấy ở các nhóm nhạc nữ tiền bối cùng công ty như Wonder Girls hay Miss A. Nhóm đã phát triển một phong cách âm nhạc "color pop" đặc trưng với sự kết hợp giữa rock, R&B và hip hop cùng những đoạn hook bắt tai trong các sản phẩm âm nhạc của họ.[204] Nền tảng âm nhạc "vui vẻ" được thể hiện cùng với phong cách thời trang đầy màu sắc của các thành viên và việc nhấn mạnh vào hình ảnh trẻ trung của nhóm, Twice đã chuyển đổi sang phong cách trưởng thành hơn khi phát hành "Fancy" và "Breakthrough" chứng kiến nhóm thực hiện vũ đạo gợi cảm và sử dụng âm nhạc electropop mạnh mẽ hơn so với trước.[205] Kể từ đó, họ đã thử nghiệm các yếu tố EDM, synth-pop và retro soul trong EP thứ tám Feel Special; tropical house, latin pop và new jack swing trong EP thành công nhất More & More; retro-synth, dance-pop, city pop và R&B đương đại trong album phòng thu tiếng Hàn thứ hai Eyes Wide Open.[206][207][208]

Nhóm còn được biết đến với việc kết hợp văn hóa trực tuyến hiện đại vào các ca khúc và video âm nhạc của họ. Ví dụ, đĩa đơn năm 2016 "TT" đặt theo tên biểu tượng cảm xúc đang khóc được mô phỏng trong vũ đạo điểm nhấn của nhóm, trong khi ca khúc năm 2017 "Likey" ám chỉ văn hóa Instagram và những cuộc đấu tranh để duy trì một bức ảnh đẹp trên mạng xã hội.[205][209] Trong video âm nhạc cho đĩa đơn năm 2018 "What Is Love?", nhóm đã tham khảo một số bộ phim bao gồm The Princess Diaries, Ghost, La Boum, Pulp Fiction, Romeo + Juliet, Love Letter, La La Land và Leon: The Professional.[210]

Với mức độ nổi tiếng trong công chúng và cộng đồng người hâm mộ lớn, Twice có nhiều ca khúc hit liên tiếp. Chính vì những thành công trên, Twice được gán với những tên gọi như "Nhóm nhạc nữ xu hướng hàng đầu".[211] Nhóm cũng nhận được nhiều lời ca ngợi vì khả năng làm việc theo nhóm của họ cùng với vẻ thu hút độc đáo và riêng biệt của các thành viên.[212][213][214][215] Nghệ sĩ nam giới thường chiếm ưu thế về doanh số bán đĩa do cộng đồng người hâm mộ rất lớn, nhưng Twice đã vượt qua ranh giới giới tính và tuổi nghề khi EP thứ hai của họ trở thành album bán chạy nhất của một nhóm nhạc nữ K-pop và là album bán chạy thứ năm trong năm 2016.[216][217] Twice đứng đầu danh sách video âm nhạc phổ biến nhất trên YouTube Hàn Quốc trong hai năm liên tiếp với "Cheer Up" (2016) và "Knock Knock" (2017).[218]

Twice xếp thứ hai trong top 10 nghệ sĩ của cuộc khảo sát Gallup Hàn Quốc trong hai năm liên tiếp.[219][220][221] Năm 2016, Twice được nhắc đến trong danh sách "Những người có sức ảnh hưởng lớn đến giới trẻ năm 2016" của tạp chí Variety, danh sách hàng năm này thường gồm những diễn viên, nhà sáng tạo nội dung kĩ thuật số, nhạc sĩ và các nghệ sĩ trẻ khác, những người đã có ảnh hưởng đến showbiz trong năm vừa qua. Nhóm đứng ở vị trí 54, cũng là nhóm nhạc K-pop duy nhất trong danh sách. Năm 2017, Twice góp mặt trong Forbes Korea Power Celebrity, đứng thứ ba chung cuộc và đứng ở vị trí dẫn đầu trong số các nghệ sĩ thu âm. Họ cũng xuất hiện ở vị trí thứ 18 và là nghệ sĩ châu Á duy nhất trong bảng xếp hạng 21 Under 21 2017: Music's Next Generation của Billboard, là bảng xếp hạng hàng năm chỉ ra một số giọng hát trẻ nội lực nhất trên thế giới qua các thể loại âm nhạc khác nhau, có tính đến sự nổi tiếng, sự sáng tạo và ảnh hưởng của truyền thông xã hội.[222][223]

Trong cuộc bầu cử Tổng thống Hàn Quốc năm 2017, ứng cử viên và hiện là tổng thống Moon Jae-in từ đảng Dân chủ và ứng cử viên Yoo Seong-min từ đảng Bareun đã sử dụng bài "Cheer Up" của Twice với lời bài hát được sửa đổi cho phù hợp trong chiến dịch tranh cử của họ.[224][225]

Tại Nhật Bản, bất chấp sự vắng bóng của làn sóng Hàn Quốc từ năm 2013, Twice ra mắt thành công vào tháng 6 năm 2017, bằng chứng là doanh số bán hàng rất lớn và đông đảo khán giả cho các sự kiện như KCON, showcase debut và Hi-Touch. Theo các chương trình và cuộc phỏng vấn địa phương, nhóm đã trở nên phổ biến ngay cả trước khi họ ra mắt chính thức, đặc biệt bởi sự có mặt của các thành viên Nhật Bản (Momo, Sana và Mina) như câu nói "các fan có thể liên hệ và cảm thấy gần gũi với họ". NHK News chỉ ra nét đặc trưng của nhóm, là cầu nối quan hệ giữa hai nước Nhật Bản và Hàn Quốc.[226][227][228][229][230] Twice nhận được sự chú ý khi xuất hiện trên nhật báo lớn nhất nước Nhật, Yomiuri Shimbun, và được miêu tả là "nhân vật chủ chốt mới trong sự thống trị thị trường làn sóng Hàn Quốc tại Nhật", trong khi báo chí Hàn Quốc cũng nhận xét rằng nhóm "đang khơi dậy lại sức nóng của K-pop ở Nhật Bản".[231][232][233] Vào tháng 11, Twice xếp vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Breakout Artists 2017 (Những nghệ sĩ đột phá) của Oricon. Họ cũng trở thành nữ nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên đứng đầu cả ba mục xếp hạng dành cho tân binh trong bảng xếp hạng Oricon Ranking hàng năm lần thứ 50. Twice đạt được vị trí số 1 với tổng doanh số của một nghệ sĩ tân binh năm 2017, đạt 1,54 tỷ yen, cũng như những vị trí số 1 lần lượt trong số những album và đĩa đơn bán ra với #Twice và "One More Time".[234][235]

Đồng thời có thông tin cho rằng Twice góp phần cho sự tăng trưởng cổ phần của JYP Entertainment khi cổ phần của JYP gấp 7 lần so với 3 năm trước. Tính từ khi nhóm ra mắt vào năm 2015, cổ phần đã có sự tăng trưởng từ 4,500 won lên 31,400 won vào năm 2018.[236]

 

Twice trong một sự kiện của Pocari Sweat vào tháng 5 năm 2017

Ngay trước khi Twice ra mắt chính thức, cả chín thành viên đều đã ký kết hợp đồng làm người mẫu độc quyền cho thương hiệu đồng phục trường học Skoolooks cùng với J. Y. Park. Đến tháng 12 năm 2015, Twice đã ký kết 10 hợp đồng CF với tổng thu nhập 1,8 tỷ KRW.[237][238] Vào tháng 2 năm sau, họ là một trong những nhóm nhạc làm đại sứ thương hiệu có tỷ suất phát triển nhanh nhất trong ngành công nghiệp quảng cáo, đạt được 200 triệu won trong 6 tháng và 300 triệu won trong một năm.[239]

Twice là một trong những người nổi tiếng đại diện cho Lotte Duty Free. Họ cũng hợp tác với công ty giày Spris và tạo ra thương hiệu giày của chính mình mang tên "Twice by Spris".[240][241] Vào đầu năm 2017, Twice được hãng sản xuất nước giải khát Donga Otsuka lựa chọn để quảng bá cho sản phẩm đồ uống thể thao hàng đầu của hãng là Pocari Sweat nhân kỷ niệm 30 năm thành lập. Họ trở thành nhóm nhạc thần tượng đầu tiên làm gương mặt đại diện cho sản phẩm này. Pocari Sweat ghi nhận doanh thu 100 tỷ won trong nửa đầu năm này, tăng 10% so với năm 2016.[242][243]

Tính đến năm 2017, Twice đã đại diện cho khoảng 30 thương hiệu khác nhau bao gồm mỹ phẩm, quần áo, trò chơi điện tử trực tuyến, điện thoại di động, thực phẩm và đồ uống, thẻ tín dụng, túi xách và nhiều mặt hàng khác.[244] Quảng cáo thương mại trên truyền hình đầu tiên của Twice tại Nhật Bản là cho Ymobile đã được phát sóng trên toàn quốc từ ngày 2 tháng 2 năm 2018, quảng cáo có sự kết hợp giữa phần cải biên của ca khúc "Y.M.C.A." và kiểu tạo dáng "TT pose" của Twice.[245][246] Năm 2019, Twice trở thành đại sứ thương hiệu Hàn Quốc cho Estée Lauder.[247] Nhóm cũng trở thành "Global Benchsetters" cho hãng quần áo Bench của Philippine.[248][249] Vào tháng 3 năm 2021, Kyungnam Pharmaceuticals thông báo rằng họ đã chọn Twice làm người đại diện cho nhãn hiệu vitamin hàng đầu Lemona.[250] Cuối năm đó, Nintendo Hàn Quốc đã giới thiệu một đoạn video cho thấy Twice chơi tựa game Mitopia trên Nintendo Switch.[251] Vào tháng 8 năm 2021, nhóm được chọn để biểu diễn trong chương trình truyền hình đặc biệt Ngày siêu mua sắm 9.9 của Shopee Philippines tổ chức vào ngày 9 tháng 9.[252] Vào ngày 16 tháng 10 năm 2021, Scarlett Whitening, một thương hiệu làm đẹp nổi tiếng của Indonesia với các sản phẩm làm trắng da, đã giới thiệu Twice với tư cách là đại sứ thương hiệu của họ. Tuy nhiên, nó đã bị người hâm mộ chỉ trích, kêu gọi JYP Entertainment rút lại thỏa thuận này vì việc Twice quảng cáo cho một thương hiệu với các sản phẩm làm trắng da là "trái đạo đức", do "biết rằng họ có những người hâm mộ sở hữu nước da ngăm đen".[253][254]

  • Chú thích: In đậm là trưởng nhóm.
Danh sách thành viên của Twice
Nghệ danh Tên khai sinh Ngày sinh Nơi sinh Quốc tịch
Latinh Hangul Kana Latinh Hangul Kana Hanja Hán-Việt
Nayeon 나연 ナヨン Im Na-yeon 임나연 イム・ナヨン 林娜璉 Lâm Na Liễn 22 tháng 9, 1995 (26 tuổi)   Gangdong-gu, Seoul, Hàn Quốc Hàn Quốc
Jeongyeon 정연 ジョンヨン Yoo Jeong-yeon 유정연 ユ・ジョンヨン 兪定延 Du Định Duyên 1 tháng 11, 1996 (25 tuổi)   Suwon, Gyeonggi, Hàn Quốc
Momo 모모 もも Hirai Momo 히라이 모모 ひらい もも 平井桃 Bình Tỉnh Đào 9 tháng 11, 1996 (25 tuổi)   Kyoto, Nhật Bản Nhật Bản
Sana 사나 さな Minatozaki Sana 미나토자키 사나 みなとざき さな 湊崎 紗夏 Thấu Kì Sa Hạ 29 tháng 12, 1996 (25 tuổi)   Osaka, Nhật Bản
Jihyo 지효 ジヒョ Park Ji-hyo 박지효 パク・ジヒョ 朴志孝 Phác Chí Hiếu 1 tháng 2, 1997 (25 tuổi)   Guri, Gyeonggi, Hàn Quốc Hàn Quốc
Mina 미나 みな Myoui Mina 묘이 미나 みょうい みな / シャロン 妙い 名井 南 Danh Tỉnh Nam 24 tháng 3, 1997 (25 tuổi)   San Antonio, Texas, Hoa Kỳ Nhật Bản
Hoa Kỳ
Dahyun 다현 ダヒョン Kim Da-hyun 김다현 キム・ダヒョン 金多賢 Kim Đa Hiền 28 tháng 5, 1998 (24 tuổi)   Seongnam, Gyeonggi, Hàn Quốc Hàn Quốc
Chaeyoung 채영 チェヨン Son Chae-young 손채영 ソン・チェヨン 孫彩瑛 Tôn Thái Anh 23 tháng 4, 1999 (23 tuổi)   Gangdong-gu, Seoul, Hàn Quốc
Tzuyu 쯔위 ツウィ Chou Tzu-yu 조쯔위 チョウ・ツウィ 周子瑜 Chu Tử Du 14 tháng 6, 1999 (23 tuổi)   Quận Đông, Đài Nam, Đài Loan Đài Loan

Vào tháng 7 năm 2019, Mina tạm ngưng các hoạt động nghệ thuật do đột ngột lo lắng và bất an khi biểu diễn trên sân khấu. Cô trở lại vào tháng 2 năm 2020.[255][256][257]

Vào tháng 10 năm 2020, Jeongyeon tạm ngưng mọi hoạt động do chứng rối loạn lo âu.[258] Cô trở lại vào ngày 31 tháng 1 năm 2021, tại lễ trao giải thưởng Âm nhạc Seoul lần thứ 30.[259] Vào tháng 8–tháng 11 năm 2021, Jeongyeon lại tiếp tục tạm ngưng hoạt động do chứng hoảng sợ và rối loạn lo âu.[260][261]

Bài chi tiết: Danh sách đĩa nhạc của Twice và Danh sách bài hát thu âm bởi Twice

Album tiếng Hàn
  • Twicetagram (2017)
  • Eyes Wide Open (2020)
  • Formula of Love: O+T=<3 (2021)
Album tiếng Nhật
  • BDZ (2018)
  • &Twice (2019)
  • Perfect World (2021)

Bài chi tiết: Các hoạt động bên lề của Twice

Năm Tựa đề Vai diễn Ghi chú
2018 Twiceland Chính mình Định dạng ScreenX[a][262]
Năm Tựa đề Kênh Ghi chú
2015 Sixteen Mnet Chương trình truyền hình chọn ra các thành viên của Twice. Chương trình bắt đầu phát sóng vào ngày 5 tháng 5 năm 2015 (gồm 10 tập).
Twice TV Naver TV Cast, V Live Mùa đầu của chương trình chủ yếu xoay quanh các thành viên. Phát sóng tập đầu vào ngày 10 tháng 7 năm 2015 và tập cuối vào ngày 8 tháng 8 năm 2015 (gồm 5 tập).
Twice TV2 Phát sóng tập đầu vào ngày 23 tháng 10 năm 2015 và tập cuối vào ngày 25 tháng 12 năm 2015 (gồm 10 tập).
2016 Twice's Private Life Mnet Bắt đầu phát sóng vào ngày 1 tháng 3 năm 2016 (gồm 8 tập).
Twice TV Begins V Live Tổng hợp các tập đặc biệt xoay quanh các thành viên trong thời gian quảng bá ca khúc "Like Ooh-Ahh". Phát sóng tập đầu vào ngày 29 tháng 6 năm 2016 và tập cuối vào ngày 20 tháng 8 năm 2016 (gồm 8 tập).
Twice TV School Meal Club's Great Adventure School Meal Adventure là mùa đặc biệt với Dahyun, Chaeyoung và Tzuyu (gồm 2 tập).
Twice TV3 Naver TV Cast, V Live Các thành viên của Twice đi du lịch đến đảo Jeju trong kì nghỉ của họ. Phát sóng tập đầu vào ngày 29 tháng 4 năm 2016 và tập cuối vào ngày 17 tháng 6 năm 2016 (gồm 8 tập).
Twice TV4 Phát sóng tập đầu vào ngày 31 tháng 10 năm 2016 và tập cuối vào ngày 19 tháng 12 năm 2016 (gồm 8 tập).
Twice TV Special Tổng hợp các tập đặc biệt xoay quanh các thành viên trong thời gian quảng bá ca khúc "Knock Knock" và trong chuyến đi đến Australia (gồm 6 tập).
2017 Twice – Lost: Time JTBC, V Live Phát sóng tập đầu vào ngày 16 tháng 1 năm 2017 (gồm 21 tập).
Twice TV5: Twice in Switzerland V Live, MBC Every 1, MBC Music[263] Các thành viên Twice (ngoại trừ Jihyo) du lịch đến Thụy Sĩ trong kì nghỉ. Phát sóng tập đầu vào ngày 22 tháng 5 năm 2017 và tập cuối vào ngày 22 tháng 9 năm 2017 (gồm 24 tập).
Twice TV6 Naver TV Cast, V Live Các thành viên Twice du lịch đến Singapore trong kì nghỉ. Phát sóng tập đầu vào ngày 8 tháng 11 năm 2017 và tập cuối vào ngày 16 tháng 12 năm 2017 (gồm 12 tập).
2018 Twice TV 2018 Naver TV Cast, V Live, YouTube Tổng hợp các tập đặc biệt xoay quanh các thành viên trong năm 2018. Phát sóng tập đầu vào ngày 13 tháng 1 năm 2018 (gồm 12 tập).
Twice TV: What Is Love Tổng hợp các tập đặc biệt xoay quanh các thành viên trong thời gian quảng bá ca khúc "What Is Love?". Phát sóng tập đầu vào ngày 18 tháng 4 năm 2018 và tập cuối vào ngày 19 tháng 5 năm 2018 (gồm 10 tập).
Twice TV: Dance The Night Away Phát sóng tập đầu vào ngày 9 tháng 7 năm 2018 (gồm 5 tập).
Twice TV: Yes or Yes Phát sóng tập đầu vào ngày 12 tháng 11 năm 2018 (gồm 9 tập, 3 tập đặc biệt).
Twice TV: The Best Thing I Ever Did Phát sóng tập đầu vào ngày 21 tháng 12 năm 2018 (gồm 2 tập).
2019 Twice TV: Fancy Phát sóng tập đầu vào ngày 9 tháng 4 năm 2019 (gồm 15 tập).
Twice in Hawaii AbemaTV Phát sóng tập đầu vào ngày 19 tháng 7 năm 2019 (gồm 3 tập).
Twice TV: Feel Special Naver TV Cast, V Live, YouTube Phát sóng tập đầu tiên vào ngày 29 tháng 9 năm 2019.
2020 TWICE: Seize the Light YouTube Phát sóng vào 29 tháng 4 năm 2019 (gồm 8 tập). Sau này, tập 9 (tập đặc biệt) được phát sóng ngày 24 tháng 6 năm 2020.
TIME TO TWICE YouTube, V LIVE, Naver TV Cát
  • Page Two Monograph[264][265]
  • 2017 Season's Greetings[266]
  • Twicecoaster: Lane 1 Monograph[267]
  • Twice 1st Photo Book "One in a Million"[268]
  • Twice Super Event[269]
  • Twice Debut Showcase "Touchdown in Japan"[270]
  • Twicezine: Jeju Island Edition[271]
  • Signal Monograph[272]
  • 2018 Season's Greetings "First Love"[273]
  • Twiceland – The Opening[274]
  • Twicetagram Monograph[275]
  • Merry & Happy Monograph[276]
  • Twiceland – The Opening (Encore)[277]
  • Once Begins Twice Fanmeeting[278]
  • 2019 Japan Season's Greetings "Twice Airlines"[279]
  • 2019 Season's Greetings "The Roses"[280]
  • Twiceland Zone 2: Fantasy Park[281]

 

Twice biểu diễn tại KCON LA vào tháng 7 năm 2016

Bài chi tiết: Danh sách chuyến lưu diễn hòa nhạc của Twice

Chuyến lưu diễn hòa nhạc
  • Twice 1st Tour: Twiceland – The Opening (2017)
  • Twice Debut Showcase "Touchdown in Japan" (2017)
  • Twice Showcase Live Tour 2018 "Candy Pop" (2018)
  • Twice 2nd Tour: Twiceland Zone 2 – Fantasy Park (2018)
  • Twice 1st Arena Tour 2018 "BDZ" (2018)
  • Twice Dome Tour 2019 "#Dreamday" (2019)
  • Twice World Tour 2019 "Twicelights" (2019–2020)
  • Twice 4th World Tour "III" (2021–2022)
Buổi hòa nhạc trực tuyến
  • Twice: World in a Day (2020)
  • Twice in Wonderland (2021)

Bài chi tiết: Danh sách giải thưởng và đề cử của Twice

Năm 2016, Twice đã giành cúp chương trình âm nhạc đầu tiên với "Cheer Up" vào tập 472 phát sóng ngày 5 tháng 5 của M Countdown.[282] Một năm sau, với tổng cộng 36 chiếc cúp chương trình âm nhạc trong năm 2017, Twice đạt kỷ lục có nhiều cúp chiến thắng nhất trong vòng một năm.[283] Tính đến tháng 5 năm 2018, Twice trở thành nghệ sĩ đầu tiên giành được 7 chiến thắng Triple Crown (chiến thắng vào ba tuần) trên chương trình Inkigayo.[284]

Ở các lễ trao giải thưởng lớn, Twice cũng giành được nhiều giải thưởng lớn và danh giá như Bài hát của năm với "Cheer Up" trong hai giải thưởng âm nhạc lớn là Melon Music Awards và Mnet Asian Music Awards vào năm 2016. Năm 2017, "Signal" trong EP thứ tư cùng tên của Twice đã giành được giải thưởng Bài hát của năm lần thứ hai tại Mnet Asian Music Awards 2017.[285] Twice đã chiến thắng giải thưởng Bài hát của năm lần thứ ba liên tiếp tại Mnet Asian Music Awards 2018 với bài hát "What Is Love?" từ album cùng tên, giúp nhóm trở thành nhóm nhạc nữ duy nhất dành chiến thắng giải thưởng này trong 3 năm liên tiếp.[286]

Ngày 3 tháng 11 năm 2017, Twice nhận được Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tại Korean Popular Culture and Arts Awards,[287] là giải thưởng được tổ chức từ năm 2010 "nhằm vinh danh những đối tượng có đóng góp với văn hoá nhạc pop đương đại và nghệ thuật nói chung, bao gồm các diễn viên, ca sĩ, diễn viên hài, người mẫu".[288] Ngày 19 tháng 8 năm 2019, Twice được thông báo sẽ nhận giải thưởng "Hallyu Culture Grand Prize", còn được gọi là giải thưởng của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc tại Triển lãm Văn hóa Hallyu Newsis 2019 vào ngày 23 tháng 8.[289][290][291]

  1. ^ ScreenX là một hệ thống chiếu phim đa chiều cung cấp trải nghiệm xem phim toàn cảnh 270 độ tại rạp.

  1. ^ Yun, Seong-yeol. “[단독] JYP, 역대급미모 新걸그룹 출격..'내년 상반기·6인조'”. StarNews (bằng tiếng Triều Tiên). StarNews. Truy cập Ngày 7 tháng 7 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  2. ^ Yoon, Seong-yeol. “[단독]'선미 피처링' 리나, JYP新걸그룹 데뷔..미모·실력 겸비”. Naver (bằng tiếng Hàn). Star News. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2015.
  3. ^ Kim, Jae-heun. “K-pop mogul wants severe competition for girl band”. The Korea Times. The Korea Times. Truy cập Ngày 7 tháng 7 năm 2015.
  4. ^ “10 Must-Know Facts About K-pop Darlings TWICE”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2017.
  5. ^ Yoo, Ji-hye. “[단독] Mnet-JYP 손잡았다...걸그룹 제작 프로 론칭”. Naver (bằng tiếng Hàn). MBN. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2015.
  6. ^ Yoon, Hyo-jin. “'식스틴 논란' JYP 측 "모모 추가합격, 완성도 높은 트와이스를 위해 결정" (공식입장)”. Naver (bằng tiếng Hàn). The Financial news. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2017.
  7. ^ Kim, Min-gi. “JYP측 "트와이스 모모 합류 이유있어…내정설, 사실 아니다"”. Naver (bằng tiếng Hàn). Money Today. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2017.
  8. ^ Kang, Seo-jeong. “JYP 측 "논란 겸허히 받아들인다..서툰 점 양해해달라"[공식입장 전문]”. Naver (bằng tiếng Hàn). OSEN. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2017.
  9. ^ “TWICE 2015.10.20 THE STORY BEGINS”. Twitter. JYP Entertainment. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2017.
  10. ^ “The Story Begins”. JYP Entertainment. JYP Entertainment. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2017.
  11. ^ “Twice′s Tzuyu and Mina Talk About Adjusting to Life in Korea”. Mwave. Newsen. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2015. |archive-url= bị hỏng: đường dẫn (trợ giúp)
  12. ^ Hong, Se-yeong. “JYP 측 "신인 걸그룹 트와이스 오는 20일 전격 데뷔" [공식입장]”. Sports Donga (bằng tiếng Hàn). Sports Donga. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2015.
  13. ^ Kim, Myeong-seon. “트와이스, 평균나이 19세·최강 비주얼 그룹의 탄생”. TV Report (bằng tiếng Hàn). TV Report. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2015.
  14. ^ Won, Ho-jung. “Twice's 'Story Begins'”. K-pop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2015.
  15. ^ Lee, Sang-eun. “트와이스, 데뷔곡 '우아하게' 공개에 눈물바다 "초심 잃지 않겠다"”. Kyeongin Ilbo (bằng tiếng Hàn). Kyeongin Ilbo. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2015.
  16. ^ “2015년 44주차 Album Chart” [Week 44 of 2016 Album Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Truy cập Ngày 13 tháng 5 năm 2016.
  17. ^ “2015년 46주차 Album Chart”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Truy cập Ngày 13 tháng 5 năm 2016.
  18. ^ “2015년 44주차 Digital Chart”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập Ngày 15 tháng 8 năm 2017.
  19. ^ “2016년 04주차 Digital Chart”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập Ngày 15 tháng 8 năm 2017.
  20. ^ “World Digital Song Sales – The week of ngày 2 tháng 1 năm 2016”. Billboard. Truy cập Ngày 15 tháng 8 năm 2017.
  21. ^ Ahn, Sung-mi. “Twice to return on April 25”. K-pop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  22. ^ Kim, Gyeong-min. “트와이스 '우아하게', 데뷔곡 단일 MV 유튜브 최다 조회수 기록”. Xports News (bằng tiếng Hàn). Xports Media. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2016.
  23. ^ “TWICE's music video hits 50 million”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2016.
  24. ^ “Best New Female Artist”. Mnet Asian Music Awards. CJ E&M Corp. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2017.
  25. ^ Lee, Nancy. “[2015 MAMA] iKON and Twice Win Best New Artist Awards”. Mwave. CJ Digital Music. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2017.
  26. ^ Lee, Ji-hyeon. “'골든디스크' 세븐틴-트와이스, JTBC2 신인상 수상 '글로벌 인기'”. Nate (bằng tiếng Hàn). Sports Chosun. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2017.
  27. ^ '가요대전' 트와이스 쯔위, 레드 체크 의상으로 성탄절 분위기 물씬~”. Nate (bằng tiếng Hàn). Herald Corporation. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2015.
  28. ^ “[2015 가요대전] 트와이스 'OOH-AHH하게' 참을 수 없는 상큼함”. Nate (bằng tiếng Hàn). Sports Donga. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2015.
  29. ^ Lee Han-soo (Ngày 24 tháng 4 năm 2016). “TWICE returns with new album”. The Korea Times. Truy cập Ngày 24 tháng 4 năm 2016.
  30. ^ Jung, Eun-jin. “Twice to move on to 'Page Two'”. The Korea Herald. Truy cập Ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  31. ^ Lee, Han-soo (ngày 24 tháng 4 năm 2016). “TWICE returns with new album”. Korea Times (bằng tiếng Anh). The Korea Times. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2019.
  32. ^ Park, Sae-jin (ngày 26 tháng 4 năm 2016). “TWICE hits million mark with 'Cheer Up' on YouTube in less than a day”. Aju Daily (bằng tiếng Anh). Aju Business Daily. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2019.
  33. ^ “BNTNews- TWICE to Sweep the Music Chart”. BNT News UK. International BNT News. Ngày 25 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2019.
  34. ^ “국내 대표 음악 차트 가온차트!”. Gaon Chart. Gaon Music Chart. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2019.
  35. ^ “2016년 Digital Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập Ngày 22 tháng 5 năm 2017.
  36. ^ “2016년 18주차 Album Chart” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Ngày 5 tháng 5 năm 2016. Truy cập Ngày 4 tháng 5 năm 2016.
  37. ^ “World Music: Top World Albums Chart”. Billboard. Truy cập Ngày 3 tháng 5 năm 2016.
  38. ^ Yoon, Jun-pil. “'엠카운트다운' 트와이스, 1위 수상 "'식스틴' 첫 방송 1주년…1위 주셔서 감사"”. TenAsia (bằng tiếng Triều Tiên). Korea Entertainment Media. Truy cập Ngày 5 tháng 5 năm 2016.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  39. ^ Yoon, Jun-pil. “인기가요' 트와이스, '치어 업'으로 1위…지상파 2연속 1위”. TenAsia (bằng tiếng Triều Tiên). Korea Entertainment Media. Truy cập Ngày 8 tháng 5 năm 2016.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  40. ^ “TWICE Sells 150,000 Records”. bntnew. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
  41. ^ Jeon, Won. “트와이스 사나, 1주년 기념 파티서 눈물 "옛날 생각나"”. Naver (bằng tiếng Hàn). My Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2016.
  42. ^ “TWICE reveals highlights of its new EP 'TWICEcoaster: Lane 1'”. Yonhap. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2016. Truy cập Ngày 24 tháng 10 năm 2016.
  43. ^ “TWICE's new EP bets on cheerful vibe”. Yonhap. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2018. Truy cập Ngày 24 tháng 10 năm 2016.
  44. ^ "TT" trên Gaon Digital Chart:
    • “2016년 44주차 Digital Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
    • “2016년 45주차 Digital Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
    • “2016년 46주차 Digital Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
    • “2016년 47주차 Digital Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
  45. ^ “World Digital Song Sales”. Billboard. ngày 12 tháng 11 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2016.
  46. ^ “2017 Year-End Rankings”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Ngày 8 tháng 12 năm 2017. Truy cập Ngày 8 tháng 12 năm 2017.
  47. ^ “2016년 44주차 Album Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2019.
  48. ^ “World Albums”. Billboard. Ngày 12 tháng 11 năm 2016. Truy cập Ngày 31 tháng 10 năm 2016.
  49. ^ “트와이스… 새로운 '넘사벽' 그룹의 출현”. Naver TV Cast (bằng tiếng Hàn). Naver. ngày 22 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2019.
  50. ^ “2016년 Album Chart”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2019.
  51. ^ “Twice's 'TT' music video tops 200 mln YouTube views”. Yonhap News Agency. Yonhap News. 26 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2017.
  52. ^ “Twice's music video hits 100 million views'”. Yonhap News Agency. Yonhap News. 10 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2016.
  53. ^ “TWICE's music video hits 100 million views'”. Yonhap. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2016.
  54. ^ Lee, Sang-won. “Winners from the 2016 MelOn Music Awards”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập Ngày 8 tháng 3 năm 2017.
  55. ^ Lee, Bora. “[2016 MAMA] Twice Wins the HotelsCombined Song of the Year Award”. Mwave. CJ E&M enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2017.
  56. ^ “TWICE's 'TT' music video tops 200 mln YouTube views”. Yonhap News Agency. Ngày 26 tháng 5 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2017. Truy cập Ngày 23 tháng 6 năm 2017.
  57. ^ Jun, R. “TWICE's 'TT' music video tops 300 mln YouTube views”. Yonhap News Agency. Yonhap News. Truy cập Ngày 22 tháng 12 năm 2017.
  58. ^ Min, Susan. “Twice to Hold First Solo Concert Since Debut”. Mwave. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2017.
  59. ^ Min, Susan. “Twice Sells Out of Tickets for First Solo Concert”. Mwave. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2017.
  60. ^ Han, Ah-reum. “'첫 단콘' 트와이스, 5000개 야광봉과 함께 빛나다(종합)”. Star News (bằng tiếng Hàn). Star News. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2017.
  61. ^ Yoon, Min-sik. “(Photo) Twice wraps up encore Seoul concert”. The Korea Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
  62. ^ “Girl group TWICE to release special album”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2017.
  63. ^ Yoon, Min-sik. “Twice reveals new teaser image for upcoming album”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2017.
  64. ^ “TWICE to debut in Japan in June”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2017.
  65. ^ “女子中高生に人気の"TTポーズ"を生んだ、ピコ太郎超えの韓国グループとは?”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). Oricon ME Inc. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2017.
  66. ^ “2017年6月28日にデビューにしてベストアルバム「#TWICE」リリースで日本上陸!!”. Twice Japanese website (bằng tiếng Nhật). Warner Music Japan. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2017.
  67. ^ Yoon, Min-sik. “Twice to debut in Japan”. K-pop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2017.
  68. ^ Jie, Ye-eun. “Twice confirms new album release in May”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2017.
  69. ^ Hong, Dam-young. “Twice sends 'Signal' with fourth EP”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2017.
  70. ^ “SIGNAL -Japanese ver.- TWICE” (bằng tiếng Nhật). Recochoku. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2017.
  71. ^ “[JYP ENT] TWICE 'TT' MV (Japanese Ver.)”. Facebook. BSPictures Co., Ltd. ngày 21 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2017.
  72. ^ “Twice Japan Debut Best Album #Twice”. Twice Japanese website (bằng tiếng Nhật). Warner Music Japan. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
  73. ^ Lee, Seung-rok. “[MD재팬] 트와이스, 7월 도쿄서 日 첫 단독 쇼케이스…본격 진출”. Naver (bằng tiếng Hàn). My Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  74. ^ “7月2日(日)TWICE DEBUT SHOWCASE "Touchdown in JAPAN"開場・開演時間発表!”. Twice Japanese Website (bằng tiếng Nhật). Warner Music Japan. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2017.
  75. ^ “TWICE、日本初ワンマンに1万5000人熱狂!日本人メンバーも笑顔で凱旋<ライブレポ・セットリスト>”. Model Press (bằng tiếng Nhật). ngày 2 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2018.
  76. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên #Twice on Oricon
  77. ^ “TWICE to drop new song 'One More Time' in Japan”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
  78. ^ Kelley, Caitlin. “TWICE to Release 'One More Time,' First Japanese Single, in October”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2017.
  79. ^ Kelley, Caitlin. “K-Pop Girl Group Twice Share Cartoonish 'One More Time' Video”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  80. ^ Lee, Eun-jeong. “"일본서 K팝 열기 재점화"…트와이스 싱글 오리콘차트 1위”. Naver (bằng tiếng Hàn). Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
  81. ^ “TWICE's new Japanese single sells over 130,000 copies”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
  82. ^ a b c ゴールドディスク認定 一般社団法人 日本レコード協会 (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2017. Ghi chú: Để truy xuất các chứng nhận, 1) Nhập TWICE vào khung "アーティスト", 2) nhấp 検索
  83. '^ “ゴールドディスク認定 一般社団法人 日本レコード協会” (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. Truy cập Ngày 20 tháng 3 năm 2018. Ghi chú: Để truy xuất các chứng nhận, 1) Nhập TWICE vào khung "アーティスト", 2) nhấp 検索
  84. ^ “第32回 日本ゴールドディスク大賞・受賞作品/アーティスト”. Japan Gold Disc Award (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. Truy cập Ngày 26 tháng 2 năm 2018.
  85. ^ “第32回 日本ゴールドディスク大賞・受賞作品/アーティスト”. Japan Gold Disc Award (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. Truy cập Ngày 26 tháng 2 năm 2018.
  86. ^ Jeong, Joon-hwa. “[단독] 트와이스, 캐나다에서 신곡 M/V 촬영..컴백 임박”. Naver (bằng tiếng Hàn). Sports Chosun. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2017.
  87. ^ Baek, Ah-young. “트와이스, 9인 9색 하트가 터지는 타이틀곡 'Likey'로 30일 정규 1집 'Twicetagram' 컴백!”. Naver News (bằng tiếng Hàn). iMBC. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2017.
  88. ^ Jeong, Ji-won. “"트와이스 위한 히든트랙"…블아필, 1년만 'Likey' 지원사격”. Naver (bằng tiếng Hàn). Osen. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2017.
  89. ^ “(LEAD) TWICE thrilled to release first full-length album 'Twicetagram'”. Yonhap. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2016.
  90. ^ Benjamin, Jeff. “TWICE Earn First No. 1s on Both World Albums & World Digital Song Sales Charts”. Billboard. Billboard Music. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2017.
  91. ^ “TWICE to drop repackaged edition of 'Twicetagram' next month”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2017.
  92. ^ “Merry & Happy”. Naver Music (bằng tiếng Hàn). Naver. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2017.
  93. ^ Smith, Alyssa. “Twice and Daichi Miura among 10 debuts at this year's 'Kohaku'”. The Japan Times. The Japan Times LTD. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2017.
  94. ^ “<速報>「第68回 NHK紅白歌合戦」出場歌手発表”. Model Press (bằng tiếng Nhật). Model Press. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2017.
  95. ^ “韓国グループから6年ぶり紅白・TWICE、選考理由は?NHKも"TTポーズ"ブーム評価<第68回NHK紅白歌合戦>”. Model Press (bằng tiếng Nhật). Model Press. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2017.
  96. ^ “6年ぶりの韓流"復活" ひふみんのTTポーズに「かわいい!」”. Sankei (bằng tiếng Nhật). Sankei Shimbun. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2017.
  97. ^ “TWICE to drop new Japanese single album”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2018.
  98. ^ “JAPAN 2nd SINGLE「Candy Pop」の先行配信スタート!”. Twice Official Japanese website (bằng tiếng Nhật). Warner Music Japan. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2018.
  99. ^ Herman, Tamar (ngày 9 tháng 4 năm 2018). “TWICE Ask 'What Is Love?' in Cinematically Inspired New Music Video”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2018.
  100. ^ “2018년 04월 Album Chart” [April 2018 Album Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập Ngày 15 tháng 5 năm 2018.
  101. ^ a b “ALBUM 가온 인증” [Album Gaon Certification]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2018.
  102. ^ Min-suk, Yoon (ngày 22 tháng 5 năm 2018). “Twice marks a hit in Japan for 3rd straight time”. www.koreaherald.com (bằng tiếng Anh). The Korea Herald. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  103. ^ Hong Dam-young (ngày 25 tháng 3 năm 2018). “Twice to release album on April 9”. The Korea Herald. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2018.
  104. ^ “TWICE、日本3rdシングル「Wake Me Up」を5月にリリース!ABC-MART新TVCM出演も決定”. M-On! Music (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2018.
  105. ^ Yim, Hyun-su. “Twice ends 2nd Asia tour, wowing thousands of fans”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2018.
  106. ^ “竹内涼真×浜辺美波「センセイ君主」TWICE歌う主題歌MV公開”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2018.
  107. ^ Park, Sae-jin. “Girl band TWICE to sing remake of Jacksons 'I Want You Back'”. Aju Business Daily. Ajunews Corporation. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2018.
  108. ^ “竹内涼真や浜辺美波がTWICEとダンス!「センセイ君主」コラボMV完成”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2018.
  109. ^ Herman, Tamar. “TWICE Get Ready to 'Dance the Night Away' in Tropical New Video: Watch”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2018.
  110. ^ “STREAMING 가온 인증” [Streaming Gaon Certification]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2019.
  111. ^ “DOWNLOAD 가온 인증” [Download Gaon Certification]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2019.
  112. ^ “TWICE to release first full-length album in Japan”. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018.
  113. ^ Herman, Tamar. “TWICE Save Happiness in Music Video for Japanese Single 'BDZ': Watch”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018.
  114. ^ “TWICE、今秋アルバム発売&アリーナツアー開催を発表”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018.
  115. ^ Jeong, Ji-won (Ngày 10 tháng 10 năm 2018). “'전무후무' 트와이스, 日 5연속 플래티넘 인증 획득 [공식입장]”. OSEN (bằng tiếng Hàn). Truy cập Ngày 20 tháng 10 năm 2018 – qua Naver.
  116. ^ Choi, Ji-won. “Twice to release third album of the year Nov. 5”. The Korea Herald. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2018.
  117. ^ Yim, Hyun-su. “Twice signals winter hit with new single 'Yes or Yes'”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2018.
  118. ^ “트와이스 'YES or YES' 음원 차트 1위…포브스 "뮤직비디오 세계 7위 기록"”. Hankyung. Korea Economic Daily. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2019.
  119. ^ Kelley, Caitlin (Ngày 8 tháng 11 năm 2018). “TWICE's 'Yes or Yes' Becomes The Seventh-Biggest 24-Hour YouTube Debut Of All Time”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc Ngày 8 tháng 11 năm 2018. Truy cập Ngày 14 tháng 11 năm 2018.
  120. ^ Benjamin, Jeff (Ngày 15 tháng 11 năm 2018). “TWICE Hit New Peak on YouTube Songs Chart With 'Yes or Yes'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc Ngày 1 tháng 12 năm 2018. Truy cập Ngày 1 tháng 12 năm 2018.
  121. ^ Herman, Tamar (ngày 12 tháng 12 năm 2018). “TWICE Get Reflective in Sweet New Video For 'The Best Thing I Ever Did': Watch”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2018.
  122. ^ “TWICEの日本1stアルバム「BDZ」、"セツナUPテンポ"な新曲入りでリパッケージ”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. ngày 22 tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2018.
  123. ^ “TWICE 2nd BEST ALBUM「#TWICE2」”. Twice Official Japanese Website (bằng tiếng Nhật). Warner Music Japan. Truy cập Ngày 28 tháng 4 năm 2019.
  124. ^ “TWICE、22万人を動員した初のドームツアーを完走 7月に2週連続シングル発表で第二章の幕開け 8日から出演CMもオンエア開始”. Excite News (bằng tiếng Nhật). Ngày 7 tháng 4 năm 2019. Truy cập Ngày 7 tháng 4 năm 2019.
  125. ^ Herman, Tamar (Ngày 22 tháng 3 năm 2019). “TWICE Make History as First K-Pop Girl Group to Hold Japanese Dome Tour”. Billboard. Truy cập Ngày 22 tháng 3 năm 2019.
  126. ^ Yoon, Min-sik (Ngày 7 tháng 4 năm 2019). “Twice wraps up dome tour in Japan, amassing 220,000 fans”. The Korea Herald. Herald Corporation. Truy cập Ngày 21 tháng 8 năm 2019.
  127. ^ Herman, Tamar. “TWICE Announce 'Fancy You' Album and 2019 World Tour Dates”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2019.
  128. ^ Herman, Tamar (Ngày 22 tháng 4 năm 2019). “Twice Get Bold in Video For 'Fancy': Watch”. Billboard. Billboard. Truy cập Ngày 24 tháng 4 năm 2019.
  129. ^ Kelley, Caitlin (Ngày 30 tháng 4 năm 2019). “TWICE's 'Fancy' Becomes YouTube's Seventh-Biggest Debut In 24 Hours”. Forbes. Truy cập Ngày 10 tháng 5 năm 2019.
  130. ^ “트와이스, 국내 음반 판매량 누적 375만장 돌파…韓日 누적 600만장”. Naver (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2019.
  131. ^ Kelley, Caitlin. “K-pop Girl Group TWICE Has Sold Over 6 Million Albums Worldwide”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2019.
  132. ^ a b “트와이스, 일본 데뷔 2주년 기념 '이례적 앨범 프로모션'”. Sports Donga (bằng tiếng Hàn). The Dong-a Ilbo. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  133. ^ Woobin (Ngày 15 tháng 7 năm 2019). “트와이스, 아시아 투어 마치고 북미 투어 돌입···17일 LA서 공연”. Naver (bằng tiếng Hàn). Ten Asia. Truy cập Ngày 26 tháng 7 năm 2019.
  134. ^ Seon, Mi-gyeong (Ngày 26 tháng 7 năm 2019). “트와이스, 첫 미주투어 4만 1천여팬 동원 대성공..'K팝 대표 걸그룹' 위상 증명”. Naver (bằng tiếng Hàn). OSEN. Truy cập Ngày 26 tháng 7 năm 2019.
  135. ^ Benjamin, Jeff (Ngày 19 tháng 8 năm 2019). “TWICE to Give Intimate Look at North American Tour in YouTube Original Series: Exclusive”. Billboard. Truy cập Ngày 25 tháng 8 năm 2019.
  136. ^ “TWICE announces Japanese leg of ongoing world tour”. Yonhap (bằng tiếng Anh). Yonhap News Agency. ngày 17 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  137. ^ Min-suk, Yoon (ngày 14 tháng 8 năm 2019). “[Anniversary Special] 21 years after 'Japanese invasion,' Korean pop culture stronger than ever”. Korea Herald (bằng tiếng Anh). The Korea Herald. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  138. ^ Herman, Tamar (ngày 23 tháng 9 năm 2019). “Twice 'Feel Special' On Inspiring New Single and EP: Listen”. Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2019.
  139. ^ Tan, Pakkee (ngày 23 tháng 9 năm 2019). “TWICE Is Back With A Sparkling Single To Make You 'Feel Special': Watch”. E! Online. E! Entertaiment Television. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2019.
  140. ^ Benjamin, Jeff (Ngày 4 tháng 10 năm 2019). “TWICE's 'Feel Special' Hits No. 1 on World Digital Song Sales & Enters Canadian Hot 100”. Billboard. Billboard. Truy cập Ngày 6 tháng 10 năm 2019.
  141. ^ “TWICE surpasses their previous 'First Week Album Sales' record with 'Feel Special'”. KoogleTV. ngày 30 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2019. Truy cập Ngày 15 tháng 11 năm 2019.
  142. ^ “트와이스, 신보 Feel Special' 통해 걸그룹 초동 신기록경신…FANCY 기록 넘는 15만4000장 달성”. 전사신문/etnews. Ngày 30 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2019.
  143. ^ Lee, Chang-kyu (Ngày 17 tháng 10 năm 2019). “트와이스(TWICE) 일본 정규 2집 타이틀곡 'Fake & True' 두 번째 티저 공개…처음에 등장한 미나 후반부에 등장않는 이유는?”. Topstarnews (bằng tiếng Hàn). Topstarnews. Truy cập Ngày 18 tháng 10 năm 2019.
  144. ^ Herman, Tamar (Ngày 18 tháng 10 năm 2019). “Twice Offer Up Words Of Wisdom With New Japanese Single 'Fake & True': Watch”. Billboard. Billboard. Truy cập Ngày 19 tháng 10 năm 2019.
  145. ^ Editor (Ngày 18 tháng 10 năm 2019). “'Fake & True' 뮤비 속 트와이스 F/W 헤어&메이크업”. E-Graphy (bằng tiếng Hàn). Graphy Magazine. Truy cập Ngày 18 tháng 10 năm 2019.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  146. ^ Kim, Jin-woo (Ngày 23 tháng 12 năm 2019). “2019 앨범 판매량 리뷰”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập Ngày 23 tháng 12 năm 2019.
  147. ^ Lee, Min-ji (Ngày 19 tháng 12 năm 2019). “트와이스, 3년 연속 음반 판매량 100만장 돌파…역시 K팝 대표 걸그룹”. Naver (bằng tiếng Hàn). Newsen. Truy cập Ngày 19 tháng 12 năm 2019.
  148. ^ a b “【オリコン年間ランキング 2019】年間アーティストトータルセールスランキング 1位~5位”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). Oricon ME Inc. Truy cập Ngày 23 tháng 12 năm 2019.
  149. ^ “ビルボードジャパン 年間ランキング2019発表~【Hot 100】は日米初の2年連続米津玄師「Lemon」、【Hot Albums】は嵐『5×20 All the BEST!! 1999-2019』”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập Ngày 23 tháng 12 năm 2019.
  150. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên billboardjp2017
  151. ^ “ビルボードジャパン 2018年 年間ランキング発表~【HOT 100】は米津玄師「Lemon」、【Hot Albums】は安室奈美恵『Finally』が首位”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập Ngày 25 tháng 12 năm 2018.
  152. ^ “Spotifyが2019年の日本・世界の音楽シーンを振り返るランキングを発表”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập Ngày 24 tháng 12 năm 2019.
  153. ^ Park, Soo-in (Ngày 24 tháng 12 năm 2019). “트와이스, 日 오리콘 연간 콘텐츠 판매액 차트 4위 'K팝가수 올해 최고 기록'”. Naver (bằng tiếng Hàn). Newsen. Truy cập Ngày 24 tháng 12 năm 2019.
  154. ^ “TWICE WORLD TOUR 2019 'TWICELIGHTS' IN JAPAN 東京ドーム追加公演決定!”. Twice Official Japanese Website (bằng tiếng Nhật). Warner Music Japan. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập Ngày 27 tháng 10 năm 2019.
  155. ^ “TWICE announces Tokyo Dome edition of world tour”. Yonhap News Agency. ngày 28 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2019.
  156. ^ Kim, Young-rok (ngày 28 tháng 10 năm 2019). “[공식]트와이스, 2년 연속 도쿄돔 선다…월드투어 추가 공연 발표”. Naver (bằng tiếng Hàn). Sports Chosun. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2019.
  157. ^ Ahn, Jin-young (ngày 2 tháng 12 năm 2019). “트와이스, 2019 월드투어 서울에서 피날레 공연 개최”. Naver (bằng tiếng Hàn). Sports Chosun. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019.
  158. ^ “TWICELIGHTS in Seoul 'FINALE' 취소 관련”. JYP Entertainment. ngày 24 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2020.
  159. ^ Benjamin, Jeff (ngày 24 tháng 2 năm 2020). “JYP Entertainment & Republic Records Enter Strategic Partnership For Girl Group Twice: Exclusive”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2020.
  160. ^ “Twice's 'Seize The Light' Trailer: Watch”. Billboard. ngày 14 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2020.
  161. ^ Mendez, Michele. “Here's Everything We Know About TWICE's Next Comeback”. Elite Daily (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2020.
  162. ^ “[공식] 트와이스 'MORE&MORE', 선주문 50만장 돌파…발매전 '하프 밀리언셀러'”. n.news.naver.com (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2020.
  163. ^ “Twice”. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2020.
  164. ^ “TWICE relives memories, forges new ones with fans in 'World In A Day'”. Rappler (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2021.
  165. ^ “[단독] 'K팝 원톱 걸그룹' 트와이스, 10월 26일 컴백 확정”. Naver (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2020.
  166. ^ “트와이스, 정규 2집 트랙리스트 오픈..박진영∙헤이즈→두아 리파∙심은지 참여 [공식]”. Naver (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2020.
  167. ^ McIntyre, Hugh. “Korean Superstars TWICE Make History On The Billboard 200 With Their Latest Album”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
  168. ^ Lee, Julia (ngày 16 tháng 10 năm 2020). “K-pop girl group Twice joins the League of Legends K/DA roster”. Polygon (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2020.
  169. ^ “K/DA Unleash Debut EP 'All Out' With Twice and Kim Petras: Stream it Now”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2020.
  170. ^ “Twice JAPAN 7th SINGLE「BETTER」”. Twice OFFICIAL SITE (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2020.
  171. ^ “【ビルボード】LiSA「炎」が総合首位返咲きV5達成 優里「ドライフラワー」総合8位に急伸 | Daily News”. Billboard JAPAN (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2020.
  172. ^ Belmis, Victoria (ngày 24 tháng 11 năm 2020). “Twice Is Set To Perform 'I CAN'T STOP ME' On 'The Late Show with Stephen Colbert'”. Korea Portal. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2020.
  173. ^ Jeong, Ha-eun (ngày 1 tháng 12 năm 2020). “트와이스, 한일 음반 판매량 누적 1000만장 돌파[공식]”. entertain.naver.com (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2020.
  174. ^ Benjamin, Jeff (ngày 18 tháng 12 năm 2020). “Twice Close Major 2020 With 'Cry For Me' That Combines Pop & K-Pop Hitmakers: Listen”. Forbes. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2020.
  175. ^ “Cry For Me - World Digital Song Sales”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2020.
  176. ^ “Cry For Me - Global Excluding US Chart”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2020.
  177. ^ Kat Moon (28 tháng 1 năm 2021). “Twice Delivers Uplifting Performance of 'Depend on You' at Time100 Talks”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2021.
  178. ^ “Twice、生配信ライヴ「新体感ライブ Connect Special Live 『Twice in Wonderland』」3月6日に開催決定”. Tower Records (bằng tiếng Nhật). 14 tháng 1 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2021.
  179. ^ “Twice、日本8thシングルは「Kura Kura」。生配信ライブでリリース発表”. Barks (bằng tiếng Nhật). 7 tháng 3 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021.
  180. ^ a b Gladys Yeo (19 tháng 4 năm 2021). “Twice to release new music in June, JYP confirms”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2021.
  181. ^ “Twice Share Energized Performance on 'Cry For Me' on 'Kelly Clarkson Show': Watch”. Billboard. 27 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2021.
  182. ^ Ahn Byung-gil (11 tháng 5 năm 2021). “트와이스, 새 노래 내달 9일 선공개 [공식]”. Sports Kyunghyang (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
  183. ^ Lee, Jae-hoon (11 tháng 6 năm 2021). “Twice's new song "Alcohol-Free" hits 20 million views in just one day”. newsis (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2021.
  184. ^ “Polo G Lands First No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'Hall of Fame'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2021.
  185. ^ “Twice、Japan 3rdアルバム『Perfect World』7月リリース 様々な愛のカタチを集めた作品”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). 19 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
  186. ^ Yeo, Gladys (6 tháng 8 năm 2021). “Twice announce new English-language single, out in September”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
  187. ^ Ziwei, Puah (1 tháng 10 năm 2021). “TWICE unveil highly anticipated 'The Feels' music video”. NME. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2021.
  188. ^ Hwang, Hye-jin (12 tháng 10 năm 2021). “트와이스 美빌보드 핫100 입성, 데뷔 7년차 기특한 커리어하이[뮤직와치]” [TWICE entered the Billboard Hot 100! 7 years since their debut. [Music Watch]]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2021.
  189. ^ Suacillo, Angela Patricia (12 tháng 10 năm 2021). “TWICE reach new milestones on Billboard charts with 'The Feels'”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2021.
  190. ^ Park Seo-yeon (8 tháng 10 năm 2021). “트와이스, 11월 12일 컴백..정규 3집 'Formula of Love: O+T=<3' 발매[공식]”. Herald Pop (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2021.
  191. ^ Caulfield, Keith (21 tháng 11 năm 2021). “Taylor Swift Scores 10th No. 1 Album on Billboard 200 with 'Red (Taylor's Version)'”. Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021.
  192. ^ Kaufman, Gil (15 tháng 11 năm 2021). “TWICE Announce Initial North American Dates On 2022 World Tour”. Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2021.
  193. ^ Lee, Soo-jin (15 tháng 11 năm 2021). “트와이스, 네번째 월드투어...크리스마스에 서울공연”. Newsis (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2021.
  194. ^ “12/15(水)発売TWICE JAPAN 9th SINGLE『Doughnut』ご購入者対象オンラインイベント開催決定!”. TWICE Japan Official Site (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
  195. ^ Benjamin, Jeff. “TWICE Sets New Record For Female K-Pop Acts Upon Closing 2nd U.S. Arena Tour”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2022.
  196. ^ 권미정 (7 tháng 4 năm 2022). “다들 놀라지 마세요, 데뷔 8년 차 트와이스가 어마어마한 소식을 전했습니다”. 위키트리 | 세상을 깨우는 재미진 목소리 (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2022.
  197. ^ Benjamin, Jeff. “TWICE Set Another Touring Milestone For Female K-Pop Acts With U.S. Stadium Show Reveal”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2022.
  198. ^ 김지호. “트와이스, 日 도쿄돔 3회 솔드아웃…"초고속 매진, 서버 다운됐다"”. entertain.naver.com (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2022.
  199. ^ 이태수. “트와이스, K팝 걸그룹 최초 일본 도쿄돔서 3회 공연” [Twice, the first K-pop girl group to perform 3 times at Tokyo Dome, Japan]. n.news.naver.com (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2022.
  200. ^ Hà Linh (12 tháng 7 năm 2022). “Tất cả thành viên TWICE đều tái ký hợp đồng với JYP Entertainment”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2022.
  201. ^ VTV, BAO DIEN TU (13 tháng 7 năm 2022). “TWICE ra mắt mini album hậu tái ký hợp đồng với JYP”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2022.
  202. ^ “TWICE Talks TT Video, Sings Chorus Acapella”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2016.
  203. ^ “TWICEcoaster: LANE 1”. Twice official website (bằng tiếng Hàn). JYP Entertainment. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
  204. ^ “How 9 girls from Twice dominated K-pop”. kpopherald.koreaherald.com. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
  205. ^ a b “Everything to Know About K-Pop Group Twice”. Time. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
  206. ^ “TWICE's 'Feel Special' EP review: K-pop girl group mix EDM, hip hop and 90s vibes and make it work”. Young Post. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
  207. ^ “트와이스,댄스팝→라틴팝 꽉 채운 정규 음반에 기대감↑” [Twice, Dance Pop → Latin Pop Full of expectations for a full album]. Newsen. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
  208. ^ Staff, MTV News. “Twice's Eyes Wide Open Is A Journey Through Time And Space”. MTV News (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
  209. ^ “K-pop group Twice releases music video "Likey" starring...Vancouver”. The Georgia Straight (bằng tiếng Anh). ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
  210. ^ “Breaking Down the Movie References in TWICE's 'What Is Love?' Video”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
  211. ^ "Nhóm nhạc nữ xu hướng hàng đầu":
    • “[TV톡] 키워드로 본 올해의 가요-수치, 대세, 컴백, 국민Pick, 이별, oo병 #2017총결산(17)”. Naver (bằng tiếng Hàn). iMBC. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2017.
    • Lee, Jeong-ho. “소시·원걸→트와이스·레드벨벳..2017 걸그룹 세대교체③”. Naver (bằng tiếng Hàn). Star News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2017.
    • Kim, Hyun-sik. “'대세' 넘어 '국민 걸그룹'…트와이스, 6연타 홈런 도전(종합)”. Naver (bằng tiếng Hàn). No Cut News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2017.
    • Lee, Jae-hoon. “트와이스, 일본 첫 싱글로 플래티넘…K팝 걸그룹 최초”. Naver (bằng tiếng Hàn). Newsis. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2017.
  212. ^ Jo, Hyun-joo. “소녀시대 닮아가는 '막강 화력' 트와이스”. Naver (bằng tiếng Hàn). Hankyung. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
  213. ^ Moon, Wan-sik. “"샤샤샤~"부터 'TT'까지..지금은 트와이스 시대!”. Naver (bằng tiếng Hàn). Star News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
  214. ^ Jeong, Jun-hwa. “[Oh!쎈 초점] '샤샤샤~'부터 'TT춤'까지..트와이스, 마성의 킬러”. Naver (bằng tiếng Hàn). Osen. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
  215. ^ Kim, Mi-ji. “[트와이스 컴백①] "찌릿 찌릿"…트와이스 '시그널', 'TT' 넘는 열풍 만들까”. Naver (bằng tiếng Hàn). Xports News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
  216. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Gaon 2016
  217. ^ Herman, Tamar. “10 Must-Know Facts About K-pop Darlings TWICE”. Billboard. Billboard Music. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
  218. ^ Kim, So-yeon. “Twice's 'Knock Knock' tops most popular music video on YouTube”. The Korea Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2017.
  219. ^ “한국갤럽 Gallup Report 2016/12/20n” (PDF) (bằng tiếng Hàn). Gallup Korea. ngày 20 tháng 12 năm 2016.
  220. ^ “2017년 올해를 빛낸 가수와 가요 - 최근 11년간 추이, 아이돌 선호도 포함” (bằng tiếng Hàn). Gallup Korea. ngày 19 tháng 12 năm 2017.
  221. ^ “2018년 올해를 빛낸 가수와 가요 - 최근 12년간 추이 포함” (bằng tiếng Hàn). Gallup Korea. ngày 30 tháng 11 năm 2018.
  222. ^ Cho, Deuk-jin. “엑소 위에 박보검·송중기, 아이돌 천하 깬 드라마 스타”. Naver News (bằng tiếng Hàn). Joongang Ilbo. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
  223. ^ Billboard Staff (ngày 28 tháng 9 năm 2017). “21 Under 21 2017: Music's Next Generation”. Billboard. Billboard Music. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2017.
  224. ^ “Politics of campaign jingles”. The Dong-A Ilbo. Dong-A Ilbo. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2017.
  225. ^ Kim, Ji-young. “문재인도, 유승민도 선거송 'Cheer up'”. Naver News (bằng tiếng Hàn). Sedaily. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2017.
  226. ^ St. Michel, Patrick. “Twice shows just how resilient K-pop can be”. The Japan Times. The Japan Times LTD. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
  227. ^ Kim, Ye-na. “日 여학생 80% "데뷔 앞둔 트와이스 이미 알고 있다"”. Nate (bằng tiếng Hàn). TV Report. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
  228. ^ "예쁘고, 귀엽고, 친근하고"…日, 트와이스 현지 인기 분석”. Dispatch (bằng tiếng Hàn). Dispatch. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
  229. ^ Lee, Mi-hyun. “[초점IS] 소녀시대·카라와 다른 트와이스의 日 '신공략'”. Joins (bằng tiếng Hàn). Ilgan Sports. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
  230. ^ “[터치! 코리아] 트와이스가 놓은 韓日 가교도 허무나”. Chosun (bằng tiếng Hàn). Chosun. Ngày 11 tháng 5 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  231. ^ Nam, Sang-hyun; Kim, Ah-young; Ryu, Seol-li; Seo, Mi-rae. “Global Hallyu Issue Report (April 2017)”. Korea Foundation for International Culture Exchange (KOFICE). Deok-joong Kim (KOFICE Secretary General). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2017.
  232. ^ “트와이스, 일본 요미우리 신문 집중 조명... "일본 한류 콘텐츠 시장 석권의 새주인공"”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2017.
  233. ^ Twice trên Naver News:
    • Kim, Eun-ae. “[공식입장] 트와이스, 10월 18일 첫 日 싱글 'One More Time' 발매”. Naver (bằng tiếng Hàn). Osen. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2017.
    • Jo, Hye-won. “트와이스, 'One More Time'으로 日 음원 사이트 실시간 차트 정상!”. Naver News (bằng tiếng Hàn). iMBC. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2017.
    • Kim, Hyun-rok. “트와이스, 내년 1월 日쇼케이스 투어 확정..열풍 재점화”. Naver (bằng tiếng Hàn). Star News. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2017.
    • Hwang, Ji-young. “트와이스, 韓걸그룹 발매 당일 최다 판매고 "초동 30만장 육박"”. Naver (bằng tiếng Hàn). Ilgan Sports. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2017.
  234. ^ “2017ブレイクアーティストランキング”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). Oricon ME Inc. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2017.
  235. ^ “【オリコン年間】TWICE、新人部門3冠達成 海外女性アーティスト初”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). Oricon ME Inc. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2017.
  236. ^ Kim, Da-woon. “[분석] JYP 주가 7배 끌어올린 '트와이스 효과' 어디까지?”. Naver News (bằng tiếng Hàn). iNews24. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2018.
  237. ^ Hong, Dong-hee. “스쿨룩스 측 "박진영 교복 광고 포스터 전량 수거"”. Herald Pop (bằng tiếng Hàn). Herald Corporation. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
  238. ^ Lee, Jeong-hyeok. “트와이스, '돈 벼락' 맞았다? 데뷔 한 달 만에 CF 10개 계약해 18억원 벌어”. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). Sports Chosun. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
  239. ^ Uhm, Dong-jin. “[피플is] 트와이스 대세론, 모델료로 말한다 '3억'”. JoongAng Ilbo (bằng tiếng Hàn). Ilgan Sports. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
  240. ^ “Model”. Lotte Duty Free (bằng tiếng Hàn). Lotte Hotel. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
  241. ^ Lee, Do-yeon. “스프리스, 걸그룹 '트와이스' 브랜드로 세계 시장 진출”. Yonhap News (bằng tiếng Hàn). Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
  242. ^ “TWICE wins endorsement deal for Pocari Sweat”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
  243. ^ Choi, Won-hyuk. “동아오츠카, 포카리스웨트 2년 연속 최고매출 경신 전망”. Herald Pop (bằng tiếng Hàn). Herald Corporation. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
  244. ^ Twice quảng cáo thương hiệu:
    • Kim, Jin-woo. “LG생활건강, '투마루' 모델로 트와이스 발탁”. Naver News (bằng tiếng Hàn). E Daily. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
    • Jeong, Ji-won. “갓세븐·트와이스, 의류모델 동반 발탁 '대세돌 입증'”. Naver (bằng tiếng Hàn). Xports News. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
    • Shin, Yeon-jae. “엘소드, 걸그룹 '트와이스'와 손잡고 신규 캐릭터 '로제' 홍보”. Osen (bằng tiếng Hàn). Osen. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
    • Lee, Hoon. “가마로강정, 트와이스 모델 발탁”. Nate (bằng tiếng Hàn). Kuki News. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
    • Lee, Seon-young. “KB국민카드, 'KB국민 나라사랑카드' 출시”. Asia Today (bằng tiếng Hàn). Asia Today. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
    • Jo, Hye-jin. “트와이스(TWICE), "겹치는 캐릭터 없이 다양한 색 가진 그룹"…'그래서 우아하구나'”. Nate (bằng tiếng Hàn). Top Star News. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
  245. ^ “TWICEがついに日本初CM出演!制服姿でキュートなダンスを披露… ワイモバイル 「転校生」篇が本日より放映”. Kstyle (bằng tiếng Nhật). LINE Corporation. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2018.
  246. ^ “TWICEが日本で初のCM出演、ワイモバ学園で"Yポーズ"”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2018.
  247. ^ Hwang, Jee-young. “"예쁨+시크" 트와이스, 에스티 로더 한국 앰버서더 선정”. Naver (bằng tiếng Hàn). Ilgan Sports. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2019.
  248. ^ “K-pop group Twice is newest Bench endorser”. ABS CBN News. ABS-CBN Corporation. Ngày 6 tháng 12 năm 2019. Truy cập Ngày 7 tháng 12 năm 2019.
  249. ^ Cara Emmeline Garcia (Ngày 6 tháng 12 năm 2019). “JUST IN: K-Pop group Twice becomes latest endorser of local clothing brand”. GMA Entertaiment. GMA Network Inc. Truy cập Ngày 7 tháng 12 năm 2019.
  250. ^ Lee Se-hyun (9 tháng 3 năm 2021). “트와이스, 레모나 모델 발탁”. Sports Kyunghyang (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2021.
  251. ^ “한국닌텐도, 트와이스가 출연한 『미토피아』 특별편 영상 공개!”. Nintendo Korea (bằng tiếng Hàn). 18 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2021.
  252. ^ “TWICE to perform during Shopee's live 9.9 show”. Rappler. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2021.
  253. ^ Sng, Suzanne (18 tháng 10 năm 2021). “Fans object to K-pop girl group Twice endorsing whitening products”. The Straits Times. ISSN 0585-3923. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  254. ^ “Fans object to K-pop's Twice endorsing whitening products from Indonesia”. The Star (Malaysia). 19 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
  255. ^ “Twice: K-Pop star Mina pulls out of tour due to 'extreme anxiety'”. BBC. 11 tháng 7 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2019.
  256. ^ Dong, Sun-hwa (12 tháng 7 năm 2019). “Extreme anxiety forces TWICE's Mina from world tour”. The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2019.
  257. ^ Ko, Dong-hwan (24 tháng 7 năm 2019). “Fans believe Twice member Mina was forced out of world tour by Anti-Japan bullies”. South China Morning Post. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2019.
  258. ^ Oh Bo-ram (17 tháng 10 năm 2020). “트와이스 정연, 활동 잠정 중단 ... "컴백 준비 중 불안감 겪어"” [TWICE's Jeongyeon to temporarily suspend activities ... "I experienced anxiety while preparing for a comeback"] (bằng tiếng Hàn). Yonhap News Agency. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021 – qua Naver.
  259. ^ Park Se-yeon (31 tháng 1 năm 2021). “트와이스 정연, 활동중단 딛고 모처럼 무대 나들이[서울가요대상]” [Twice's Jeongyeon, after a long hiatus, goes out on stage [Seoul Music Awards]] (bằng tiếng Hàn). Maeil Economic Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021 – qua Naver.
  260. ^ Han Hae-seon (18 tháng 8 năm 2021). “트와이스 정연, 활동 중단.."공황·심리적 불안 장애"[전문]” [Twice Jeongyeon, suspending activities.."Picnic and psychological anxiety disorder"[Full text]] (bằng tiếng Hàn). MT Star News. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2021 – qua Naver.
  261. ^ Yeon, Hwi-seon (12 tháng 11 năm 2021). “'뮤직뱅크' 더보이즈 1위, 트와이스→라붐 걸그룹 선후배 나란히 컴백 [종합]”. OSEN (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2021.
  262. ^ “TWICE's world tour to screen in 270 degree ScreenX format”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2018.
  263. ^ “TWICE TV5 -TWICE in SWITZERLAND-”. Twitter. JYP Entertainment. 24 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2017.
  264. ^ “TWICE PAGE TWO”. Twitter (bằng tiếng Anh). JYPStore. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2016.
  265. ^ “TWICE PAGE TWO MONOGRAPH”. Twitter (bằng tiếng Hàn). TWICE. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2016.
  266. ^ “TWICE 2017 SEASON'S GREETINGS”. Twitter (bằng tiếng Anh). JYPStore. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2016. line feed character trong |title= tại ký tự số 7 (trợ giúp)
  267. ^ “<TWICEcoaster: LANE1> MONOGRAPH”. Twitter (bằng tiếng Anh). JYPStore. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2017. line feed character trong |title= tại ký tự số 22 (trợ giúp)
  268. ^ Twice 1st Photo Book "One in a Million":
    • “TWICE 1st PHOTOBOOK ONE IN A MILLION 2017.07.10”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017. line feed character trong |title= tại ký tự số 20 (trợ giúp)
    • “TWICE 1st PHOTOBOOK ONE IN A MILLION 2017.07.10”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017. line feed character trong |title= tại ký tự số 20 (trợ giúp)
    • “TWICE 1st PHOTOBOOK ONE IN A MILLION 2017.07.10”. Twitter (bằng tiếng Anh). JYPStore. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2017. line feed character trong |title= tại ký tự số 20 (trợ giúp)
  269. ^ “TWICE SUPER EVENT DVD”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2017.
  270. ^ “LIVE DVD & Blu-ray『TWICE DEBUT SHOWCASE "Touchdown in JAPAN"』”. Twitter (bằng tiếng Nhật). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2017.
  271. ^ "Twicezine: Jeju Island Edition":
    • “TWICEZINE JEJU ISLAND EDITION”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2017.
    • “TWICEZINE JEJU ISLAND EDITION EP.01”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2017.
    • “TWICEZINE JEJU ISLAND EDITION EP.02”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2017.
  272. ^ “TWICE SIGNAL MONOGRAPH PRE-ORDER STARTS 2017.09.18(MON)”. Twitter (bằng tiếng Anh). JYPStore. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2017.
  273. ^ “TWICE SEASON'S GREETINS 2018 FIRST LOVE COMING SOON”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2017.
  274. ^ “TWICELAND -THE OPENING- DVD & BLU-RAY COMING SOON”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2017.
  275. ^ “TWICE twicetagram MONOGRAPH PRE-ORDER STARTS 2018.02.12 MON”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2018.
  276. ^ “TWICE Merry & Happy MONOGRAPH PRE-ORDER STARTS 2018.03.12 MON”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2018.
  277. ^ "Twiceland – The Opening (Encore)":
    • “TWICELAND -THE OPENING [ENCORE] DVD & BLU-RAY PRE-ORDER STARTS 2018.06.04. MON”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2018.
    • “TWICELAND -THE OPENING [ENCORE] DVD & BLU-RAY PREVIEW”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2018.
  278. ^ "Once Begins Twice Fanmeeting":
    • “TWICE FANMEETING ONCE BEGINS DVD & BLU-RAY PRE-ORDER STARTS 2018.09.17 MON”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2018.
    • “TWICE FANMEETING ONCE BEGINS DVD & BLU-RAY PREVIEW”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2018.
  279. ^ "2019 Japan Season's Greetings "Twice Airlines"":
    • “TWICE JAPAN SEASON'S GREETINGS 2019 "TWICE AIRLINES" PRE-ORDER”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2018. line feed character trong |title= tại ký tự số 53 (trợ giúp)
    • “TWICE JAPAN SEASON'S GREETINGS 2019 "TWICE AIRLINES" ONCE JAPAN & WARNER MUSIC DIRECT”. Twitter (bằng tiếng Nhật). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2018. line feed character trong |title= tại ký tự số 53 (trợ giúp)
    • “TWICE JAPAN SEASON'S GREETINGS 2019 "TWICE AIRLINES" Teaser”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
    • “TWICE JAPAN SEASON'S GREETINGS 2019 "TWICE AIRLINES" Teaser 2”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2018.
    • “TWICE JAPAN SEASON'S GREETINGS 2019 "TWICE AIRLINES"”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2018.
  280. ^ “TWICE 2019 SEASON'S GREETINGS THE ROSES PRE-ORDER STARTS 2018.11.26”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2018.
  281. ^ “TWICELAND ZONE 2: Fantasy Park DVD & BLU-RAY”. Twitter. Twitter. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2019.
  282. ^ Lee, Ah-young. “트와이스, '식스틴' 1주년에 '엠카' 1위 차지 "더욱 성장하겠다"”. Naver (bằng tiếng Hàn). Xports News. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2017.
  283. ^ Lee Jung-ho. “트와이스, 음방 36관왕 역대 최다기록으로 2017년 마무리”. Naver (bằng tiếng Hàn). Star News. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2018.
  284. ^ Jeong Ji-won. “트와이스, 7연속 '인가' 트리플크라운…또 신기록 수립” [TWICE, seven consecutive 'Inkigayo' Triple Crowns... Established another new record]. OSEN (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2018.
  285. ^ “Twice wins Song of Year Award at 2017 MAMA with 'Signal'”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2017.
  286. ^ “Winning big at Mnet Asian Music Awards brings tears to eyes of BTS”. The Korea Times. ngày 15 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2018.
  287. ^ Ji, Mi-kyung. “엑소·박보검·지성·윤여정 등 28人 2017 대중문화예술상 수상”. Naver (bằng tiếng Hàn). Osen. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập Ngày 30 tháng 10 năm 2017.
  288. ^ Lee, Sang-won (ngày 25 tháng 10 năm 2016). “Korean Popular Culture and Arts Awards announces winners”. K-Pop Herald. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  289. ^ “트와이스, 한류문화대상 영예···23일 '뉴시스 한류 엑스포'”. Newsis (bằng tiếng Hàn). Newsis. Ngày 19 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  290. ^ “뉴시스 '한류 엑스포' 23일 롯데호텔 개최”. Daum (bằng tiếng Hàn). Daum. ngày 19 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  291. ^ “방탄소년단·김준수·트와이스, 한류문화대상···뉴시스 한류엑스포(종합)”. Naver TV Cast (bằng tiếng Hàn). Naver. ngày 22 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2019.

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Twice.
  • Twice trên Facebook
  • Twice trên Instagram
  • Twice trên Twitter (tiếng Hàn)
  • Twice trên Twitter (tiếng Nhật)
  • Kênh Twice trên YouTube (tiếng Hàn)
  • Kênh Twice trên YouTube (tiếng Nhật)
  • Twice trên V Live
  • Twice trên TikTok
  • Twice trên Dailymotion
  Twice” là một bài viết tốt của Wikipedia tiếng Việt.
Mời bạn xem phiên bản đã được bình chọn vào ngày 15 tháng 7 năm 2019 và so sánh sự khác biệt với phiên bản hiện tại.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Twice&oldid=68989418”

Page 2

2NE1 (tiếng Triều Tiên: 투애니원) là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc được thành lập bởi YG Entertainment vào năm 2009. Nhóm bao gồm 4 thành viên: Bom, CL, Dara, và Minzy. Sau khi xuất hiện cùng nhóm nhạc nam Big Bang trong đĩa đơn quảng cáo "Lollipop", nhóm đã trở nên nổi tiếng với việc phát hành mini album cùng tên 2NE1 (2009) và 2NE1 (2011) và các album phòng thu, To Anyone (2010) và Crush (2014); tất cả đều đạt vị trí cao nhất trên ở hai vị trí hàng đầu trên Gaon Album Chart. Nhóm cũng đã tích lũy 9 đĩa đơn quán quân trên Gaon Digital Chart, bao gồm "Go Away", "Lonely", "I Am the Best", "I Love You" và "Come Back Home".

2NE1

2NE1 vào năm 2013.
Từ trái sang phải: Dara, Bom, Minzy và CL

Thông tin nghệ sĩNguyên quánSeoul, Hàn QuốcDòng nhạc

  • K-pop
  • hip hop
  • R&B
  • dance-pop
  • electropop

Năm hoạt động2009 (2009)–2016 (2016)[1]Hãng đĩa

  • YG
  • Avex Group
  • Warner Music
  • Capitol
  • School Boy

Hợp tác với

  • Teddy
  • Big Bang
  • YG Family

Cựu thành viên
  • Bom
  • Dara
  • CL
  • Minzy

Bài hát chủ đề trong mini album đầu tay của nhóm, "Fire" và "I Don't Care", ngay lập tức đưa nhóm đến với sự chú ý trên toàn quốc, cả hai đĩa đơn đều đạt được nhiều thành công ở Hàn Quốc và các khu vực khác của châu Á. "I Don't Care" nhận được giải Bài hát của năm tại Mnet Asian Music Awards năm 2009, đưa nhóm trở thành nhóm nhạc đầu tiên giành được Daesang trong cùng năm ra mắt. Nhóm tiếp tục thành công với album phòng thu đầu tiên To Anyone và mini album thứ hai năm 2011, sản phẩm thứ hai trong số đó đã tạo ra 4 đĩa đơn quán quân trên bảng xếp hạng, "Don't Cry", "Lonely", "I Am the Best" và "Ugly". Sau đĩa đơn "I Love You" năm 2012, nhóm bắt đầu chuyến lưu diễn New Evolution Global Tour, đã dừng chân tại 11 thành phố ở 7 quốc gia của châu Á và Bắc Mỹ, đồng thời đặt một cột mốc quan trọng trong ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc khi trở thành chuyến lưu diễn thế giới đầu tiên của một nhóm nhạc nữ K-pop.[2] Album phòng thu cuối cùng Crush của nhóm vào năm 2014 đã trở thành album K-pop có vị trí cao nhất trên Billboard 200 trong hơn 2 năm, đạt vị trí số 61.[3]

Bộ tứ cũng tiến hành sự nghiệp song song ở Nhật Bản, lần đầu tiên phát hành phiên bản tiếng Nhật của mini album thứ hai Nolza (2011), tiếp theo là album phòng thu Collection (2012) và phiên bản tiếng Nhật của Crush (2014). Sau một thời gian dài gián đoạn, Minzy rời nhóm vào tháng 4 năm 2016,[4] trong khi nhóm tan rã cùng với các thành viên còn lại vào tháng 11 năm đó.[1] Đĩa đơn cuối cùng "Goodbye" của nhóm được phát hành vào ngày 21 tháng 1 năm 2017.[5]

Được biết đến với phong cách thời trang độc đáo, khả năng xuất hiện trên sân khấu và thần thái, 2NE1 được coi là một trong những nhóm nhạc nữ Hàn Quốc thành công và nổi tiếng nhất trong suốt sự nghiệp của nhóm.[6][7][8] Theo báo cáo, nhóm đã bán được 66,5 triệu bản đĩa, giúp 2NE1 trở thành một trong những nhóm nhạc nữ bán chạy nhất mọi thời đại.[9][10] Tạp chí Billboard đã xếp hạng 2NE1 là một trong những nhóm nhạc nữ K-pop xuất sắc nhất thập kỷ qua,[7] trong khi The New York Times bình chọn chuyến lưu diễn thế giới New Evolution Global Tour của 2NE1 dừng chân tại Prudential Center ở New Jersey là một trong những "Buổi hòa nhạc xuất sắc nhất năm 2012".[11]

 

2NE1 tại Asia Song Festival lần thứ 6 vào năm 2009.

Đầu năm 2009, YG Entertainment thông báo rằng một nhóm nhạc nữ bao gồm 4 thành viên sẽ ra mắt vào tháng 5 năm đó.[12] Công ty tuyên bố rằng nhóm đã được đào tạo trong 4 năm và album đầu tay của họ sẽ có các bài hát do cựu trưởng nhóm Teddy Park của 1TYM sản xuất.[12][13][14] Tên của nhóm ban đầu được công bố là "21" nhưng do phát hiện ra một ca sĩ trùng tên, nhóm nhanh chóng được đổi tên thành "2NE1".[15] Tên "2NE1" của nhóm là từ viết tắt của "New Evolution of The 21 Century" và có cách phát âm trong tiếng Hàn gần giống với cụm từ tiếng Anh là "To Anyone" hoặc "Twenty One".[16] Vào năm 2015, có thông tin tiết lộ rằng trước khi thành lập nhóm, Bohyung của Spica và Linzy của Fiestar từng được đào tạo để trở thành những thành viên của nhóm, nhưng đã bị loại khỏi đội hình trước khi ra mắt.[17]

Mini album đầu tiên 2NE1 (2009) của 2NE1 có 2 đĩa đơn đã được phát hành trước đó, trong đó đĩa đơn đầu tiên, "Lollipop", được thu âm với nhóm nhạc nam cùng công ty Big Bang và phát hành vào ngày 27 tháng 3 năm 2009, để quảng cáo cho điện thoại LG Cyon.[18] Mặc dù đã ghi hình một video âm nhạc,[19] "Lollipop" đã không được quảng bá và điều này đã gây ra vấn đề với tính đủ điều kiện của bảng xếp hạng.[20] Đĩa đơn thứ hai, "Fire", được viết và sản xuất bởi Teddy Park của 1TYM.[21] Nó được phát hành vào tháng 5 và bao gồm các yếu tố của hip hop và reggae.[22] Hai phiên bản cho video âm nhạc của "Fire" đã được sản xuất — một phiên bản "space" và một phiên bản "street".[23] Trong vòng 24 giờ đầu tiên phát hành, cả hai video đã đạt được hơn 1 triệu lượt xem.[24] Bài hát "Fire" và "2NE1" cũng đã trở thành cụm từ tìm kiếm trực tuyến phổ biến.[25] Đĩa đơn cuối cùng, "I Don't Care", được phát hành cùng với mini album cùng tên đầu tiên của nhóm vào tháng 7.[26] Các hoạt động quảng bá đã nhanh chóng được diễn ra ngay sau đó để thể hiện hình ảnh mềm mại, nữ tính hơn của nhóm, đối lập với hình ảnh sắc sảo được miêu tả trước đó trong "Fire".[26][27] "I Don't Care" đã trở thành bài hát được tải xuống nhiều nhất trong tháng đó, sau đó giành giải Bài hát của năm tại Mnet Asian Music Awards năm 2019.[28][29]

 

2NE1 ghi hình cho video âm nhạc của "Can't Nobody" vào năm 2010.

Mặc dù các thành viên trong nhóm đã thu âm và phát hành sản phẩm solo của riêng họ vào tháng 8, nhưng 2NE1 đã trình diễn phiên bản reggae của "I Don't Care" trên Inkigayo vào tháng 9;[30] phiên bản reggae trở nên phổ biến và nó được phát hành vào ngày 3 tháng 9 dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số.[30] Được thúc đẩy bởi sự thành công của các đĩa đơn của nhóm, doanh số của 2NE1 đã đạt 100,000 bản vào cuối năm.[31] 2NE1 sau đó đã biểu diễn tại Asia Song Festival, lần thứ 6, đại diện cho Hàn Quốc cùng với ba nhóm nhạc khác và giành được giải thưởng Tân binh châu Á xuất sắc nhất.[32]

Vào tháng 2 năm 2010, 2NE1 phát hành "Try to Follow Me" dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số để quảng cáo cho điện thoại di động Samsung Corby với không thông báo trước hoặc quảng bá.[33] Bài hát đạt vị trí số 1 trên Gaon Digital Chart.[34] Vào giữa năm 2010, 2NE1 đã đến Los Angeles và London để thu âm các bài hát tiếng Anh cho album tiếng Anh đầu tay của nhóm với nhà sản xuất âm nhạc will.i.am của The Black Eyed Peas. Nhóm đã thu âm 10 bài hát trong những buổi thu âm đầu tiên của nhóm.[35] Vào tháng 9 năm đó, nhóm đã phát hành album phòng thu đầu tiên To Anyone, ra mắt ở vị trí số 7 trên bảng xếp hạng album thế giới của Billboard.[36] Trước khi phát hành, album đã nhận được 120,000 bản đặt trước.[37] 4 trong số 12 bài hát của To Anyone đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn; top 5 bản hit "Clap Your Hands", "Can't Nobody", "It Hurts (Slow)" và "Go Away".[38][39][40] Bài hát thứ năm có tên "Don't Stop the Music" đã được thu âm như một "món quà đặc biệt dành cho người hâm mộ Thái Lan" và cũng được sử dụng để quảng bá cho hợp đồng quảng cáo Yamaha Fiore của nhóm.[41] Tại Mnet Asian Music Awards năm 2010, 2NE1 đã giành được nhiều giải thưởng danh giá nhất trong số các nhóm nhạc tham dự lễ trao giải tối hôm đó, bao gồm "Nghệ sĩ của năm", "Video âm nhạc xuất sắc nhất" cho "Can't Nobody", "Nhóm nhạc nữ xuất sắc nhất" và giải "Album của năm".[42][43][44]

2011–2012: Ra mắt tại Nhật Bản, đột phá và chuyến lưu diễn đầu tiên

Vào ngày 19 tháng 1 năm 2011, "Can't Nobody (phiên bản tiếng Anh)" được phát hành trên nhà bán lẻ kỹ thuật số Nhật Bản Recochoku dưới dạng nhạc chuông và nhạc chờ.[45] Tháng sau, một video âm nhạc đi kèm đã có sẵn để tải xuống thông qua iTunes Nhật Bản. Đĩa đơn tiếng Nhật đầu tay "Go Away" của nhóm được phát hành dưới dạng nhạc chuông vào ngày 9 tháng 3,[46] và sau đó được sử dụng làm bài hát chủ đề cho chương trình truyền hình Nhật Bản Mezamashi TV.[47] Vào ngày 16 tháng 3, Mini album tiếng Hàn đầu tiên của 2NE1 đã có sẵn tại Nhật Bản; các hoạt động quảng bá đã bị hủy bỏ do trận động đất và sóng thần Tōhoku.[48] 2NE1 ra mắt ở vị trí thứ 24 trên bảng xếp hạng Oricon, bán được 3,860 bản trong tuần đầu tiên phát hành.[49] Kế hoạch ban đầu cho việc ra mắt chính thức tại Nhật Bản trên chương trình Music Station đã bị hoãn lại cho đến cuối năm đó do trận động đất,[50] mặc dù nhóm đã tham gia chiến dịch "Pray for Japan" của Naver cùng với những người nổi tiếng Hàn Quốc khác để gây quỹ cho các nạn nhân động đất.[51]

 

2NE1 tại một sự kiện của Nikon vào năm 2011.

Nhóm trở lại Hàn Quốc và phát hành mini album thứ hai 2NE1 (2011), mang đến những bản hit quán quân "Lonely", "I Am the Best" — đồng thời giành giải "Bài hát của năm" tại Mnet Asian Music Awards năm 2011 — và "Ugly", cũng như bản hit "Hate You".[52][53] Bản thân mini album đã là một thành công lớn, đứng đầu bảng xếp hạng Gaon và bán được hơn 108,000 bản.[54] Spin Magazine đã xếp hạng mini album là album nhạc pop xuất sắc nhất thứ sáu của năm 2011, xếp trên Coldplay, Ellie Goulding và Rihanna.[55] Sau khi kết thúc các đợt quảng bá vào tháng 8, 2NE1 đã tổ chức buổi hòa nhạc riêng đầu tiên bán cháy vé tại Olympic Hall ở Chamsil Olympic Park, Seoul, vào ngày 26, 27 và 28 tháng 8 trước khi bay về Nhật Bản.

Nhóm đã thu âm lại mini album thứ hai 2NE1 (2011) bằng tiếng Nhật; được tái phát hành với tên Nolza cùng năm, đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Oricon và bán được hơn 48,000 bản.[56] Các phiên bản tiếng Nhật của "I Am the Best", "Hate You", "Go Away" và "Lonely" đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn. Nhóm cũng bắt đầu chuyến lưu diễn Nhật Bản đầu tiên 2NE1 First Japan Tour – Nolza vào ngày 19 và 20 tháng 9 tại Yokohama Arena. That October, Tháng 10 năm đó, Iggy của MTV đã tổ chức một cuộc thi toàn cầu, trong đó 10 nhóm nhạc từ khắp nơi trên thế giới tranh tài trong một cuộc thi bình chọn cho danh hiệu "Nhóm nhạc mới xuất sắc nhất".[57] Với bài hát "I Am the Best", 2NE1 đã được trao danh hiệu này vào ngày 10 tháng 11 năm 2011, đây là giải thưởng đầu tiên của nhóm tại Hoa Kỳ.[58] 2NE1 đã biểu diễn tại Quảng trường Thời đại của thành phố New York vào tháng 12 để nhận vinh dự này. Cuối năm 2011, 2NE1 được đề cử tại Japan Record Awards cho "Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất", thua nhóm nhạc nữ Nhật Bản Fairies.[59][60]

 

2NE1 tại YouTube K-pop Awards vào tháng 11 năm 2011.

Vào ngày 28 tháng 3 năm 2012, 2NE1 phát hành album phòng thu tiếng Nhật đầu tiên Collection cùng với đĩa đơn tiếng Nhật thứ hai "Scream". Album bao gồm các phiên bản tiếng Nhật của các bài hát tiếng Hàn của nhóm như "Love Is Ouch", "Fire" và "I Don't Care" và cover bản hit "Like A Virgin" năm 1984 của Madonna. Nhiều phiên bản của album đã được phát hành, một số phiên bản bao gồm một DVD chứa các video âm nhạc tiếng Nhật và tiếng Hàn của nhóm, theo trang web âm nhạc của Oricon. Album đạt vị trí số 5 trên bảng xếp hạng album hàng ngày của Oricon và tiếp tục bán được hơn 32,000 bản tại Nhật Bản.[56][61]

Cuối năm đó, 2NE1 và nhóm nhạc nam cùng công ty Big Bang được mời biểu diễn lần đầu tiên tại lễ hội Springroove năm 2012 ở Nhật Bản cùng với một số nghệ sĩ hip hop hàng đầu của Hoa Kỳ và Nhật Bản. 2NE1 và nhóm nhỏ GD & TOP đã được mời biểu diễn tại lễ hội vào năm trước nhưng nó đã bị hủy bỏ do thảm kịch động đất và sóng thần ở Nhật Bản.[62] 2NE1 cũng hợp tác với nhóm nhạc hip hop Nhật Bản M-Flo cho bài hát "She's So (Outta Control)", nằm trong album phòng thu thứ sáu Square One của M-Flo. "She's So (Outta Control)" được phát hành với tư cách là bài hát mở đường trong album trong hai tuần trước khi phát hành vào ngày 29 tháng 2 năm 2012.[63] "She's So (Outta Control)" đạt vị trí số 43 trên bảng xếp hạng Billboard Japan Hot 100.[64] Nhóm đã kết thúc các hoạt động quảng bá tại Nhật Bản bằng việc biểu diễn tại lễ trao giải MTV Video Music Awards Japan năm 2012, diễn ra vào ngày 23 tháng 6 tại Makuhari Messe, nơi 2NE1 đã giành được giải thưởng "Nghệ sĩ mới có video xuất sắc nhất" cho bài hát "I Am the Best".[65] Đĩa đơn ngoài album "I Love You" đã được phát hành tại quê nhà của nhóm, đứng đầu bảng xếp hạng và trở thành đĩa đơn quán quân thứ sáu của nhóm.[66] Tháng 12 năm đó, 2NE1 và Big Bang được xếp trong danh sách "Nhóm nhạc có phong cách xuất sắc nhất năm 2012" của MTV Style; hai nhóm nhạc của YG Entertainment là những nghệ sĩ châu Á duy nhất góp mặt trong danh sách xếp hạng 10 nhóm nhạc, bao gồm One Direction, The Wanted, Backstreet Boys, Spice Girls, Destiny's Child, Fun và No Doubt.[67]

2013–2014: Hợp tác, thành công toàn cầu và chuyến lưu diễn thế giới

 

Hologram của 2NE1 tại Everland vào năm 2013.

Vào ngày 14 tháng 3 năm 2013, 2NE1 phát hành đĩa đơn tiếng Anh "Take the World On", đây là sản phẩm hợp tác với ca sĩ người Mỹ will.i.am. Bài hát trước đây đã được sử dụng trong một quảng cáo cho máy tính Intel Ultrabook.[68][69] Vào ngày 21 tháng 3, trong một cuộc phỏng vấn với Elle, CL xác nhận nhóm vẫn chưa lên kế hoạch cho một album ở Hoa Kỳ nhưng muốn sản xuất thêm nhiều bài hát bằng tiếng Anh.[70] Nhóm đã hợp tác với will.i.am lần thứ hai cho đĩa đơn "Gettin' Dumb", bao gồm apl.de.ap, người bạn cùng nhóm của anh. Bài hát xuất hiện trong album thứ hai #willpower của will.i.am, được phát hành vào ngày 23 tháng 4 năm 2013.[71] Các đĩa đơn tiếp theo của 2NE1 được phát hành như đĩa đơn riêng lẻ và không gắn liền với một album, "Falling in Love" và "Missing You" trở thành đĩa đơn quán quân thứ bảy và thứ tám của nhóm. Đĩa đơn thứ ba ngoài album, "Do You Love Me", là bản hit top 3 của nhóm.[72]

"Đối với album này, chúng tôi đã tự giam mình rất nhiều trong phòng thu và cống hiến 100%. Chúng tôi cũng đã trưởng thành rất nhiều với tư cách là phụ nữ kể từ album đầu tiên và bạn sẽ có thể nghe thấy điều đó trong bản thu âm này. Ngoài ra, vì tôi đã viết rất nhiều bản nhạc, nó thậm chí còn mang tính cá nhân hơn đối với nhóm so với những bản thu âm trước đây của chúng tôi."

– CL thảo luận về âm nhạc từ album phòng thu tiếng Hàn thứ hai Crush của nhóm.[73]

Vào tháng 1 năm 2014, 2NE1 xuất hiện trong một tập của chương trình The Bachelor và sau đó xuất hiện trong đêm chung kết của America's Next Top Model, được ghi hình tại Hàn Quốc.[74][75] Tháng sau, 2NE1 phát hành album phòng thu thứ hai Crush (2014).[76][77] Đĩa đơn "Come Back Home" và "Happy" đồng thời được phát hành; "Come Back Home" đạt vị trí số 1 trên Gaon Singles Chart, trở thành bản hit quán quân thứ chín của nhóm.[78] Đĩa đơn thứ ba của nhóm trong album, "Gotta Be You", được phát hành cùng với một video âm nhạc vào ngày 20 tháng 5. Crush đã bán được 5,000 bản trong 4 ngày ở Hoa Kỳ, đạt vị trí số 1 trên Billboard 200 và lập kỷ lục mới tại Hoa Kỳ cho "Album K-pop xếp hạng cao nhất và bán chạy nhất", đánh bại Girls' Generation và Big Bang.[79] Vào ngày 26 tháng 6 năm 2014, 2NE1 phát hành phiên bản tiếng Nhật của Crush, đứng ở vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng album hàng ngày của Oricon.[61]

 

Chuyến lưu diễn thế giới All Or Nothing World Tour ở Singapore.

Sau khi phát hành Crush, nhóm đã tổ chức All Or Nothing World Tour, bao gồm các điểm dừng tại Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Philippines, Nhật Bản, Malaysia và Indonesia. Từ tháng 3 đến tháng 10, nhóm đã tổ chức 20 buổi hòa nhạc trên 16 thành phố, với tổng cộng 180,000 người tham dự.[80][81][82]

Đĩa đơn "I Am The Best" năm 2011 của 2NE1, được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 12 bởi Capitol Records. Vào ngày 18 tháng 12, MTV Iggy đã trao giải "Bài hát của năm" cho "Gotta Be You".[83] Nhóm đã nhận được sự công nhận trên toàn thế giới vào cuối năm 2014; Crush là kỷ lục duy nhất của một nghệ sĩ châu Á được vinh danh trong danh sách "40 album xuất sắc nhất năm 2014" của Fuse TV",[84] và đứng đầu trong danh sách "album K-pop xuất sắc nhất năm 2014" của tạp chí Billboard.[85] Album cũng đứng ở vị trí số 11 trên bảng xếp hạng World Album cuối năm của Billboard, trở thành lần ra mắt đầu tiên của một nhóm nhạc K-pop trong lịch sử bảng xếp hạng.[86][87]

2015–2017: Hoạt động solo, Minzy rời nhóm và tan rã

Sau khi Bom gián đoạn sự nghiệp do vụ bê bối chất cấm năm 2014, các thành viên khác của 2NE1 bắt đầu rẽ hướng sang các hoạt động cá nhân, khiến nhóm tạm ngừng hoạt động. Dara tái lập sự nghiệp diễn xuất của mình bằng cách đóng vai chính trong các bộ phim truyền hình web như Dr.Ian và We Broke Up, cũng như Missing You của KBS. Minzy đã mở nhómc viện khiêu vũ Millennium Dance Academy.[88] CL bắt đầu sự nghiệp solo tại Hoa Kỳ với việc phát hành đĩa đơn "Hello Bitches". Hoạt động duy nhất của nhóm trong năm 2015 là buổi biểu diễn bất ngờ tại Mnet Asian Music Awards năm 2015 ở Hồng Kông. Sau buổi biểu diễn solo "The Baddest Female" and "Hello Bitches" của CL, tất cả các thành viên của 2NE1 đã tái hợp để biểu diễn "Fire" và "I Am the Best".[89] Buổi biểu diễn đã trở thành buổi biểu diễn MAMA được xem nhiều nhất bởi bất kỳ nhóm nhạc nữ nào. Nó đã được hoan nghênh và kết quả là Fuse đã liệt kê nó là một trong những buổi biểu diễn xuất sắc nhất năm 2015.[90] Mặc dù không trở lại, 2NE1 là nhóm nhạc K-pop được reblog thứ 16 trên Tumblr trong năm 2015,[91] và Spotify đã đề cập đến cả 2NE1 và CL trong chiến dịch "Year in Music" của Twitter vì đạt được hơn 1 triệu người nghe. Nhóm cũng đã giành được chiến thắng tại Korea First Brand Awards năm 2016 của Trung Quốc cho "10 ngôi sao Hàn Quốc được mong đợi nhất năm 2016".[92]

Sau một năm gián đoạn, YG Entertainment xác nhận sự ra đi của Minzy vào tháng 4 năm 2016, tuyên bố nhóm sẽ tiếp tục hoạt động như một bộ ba.[4][93][94] Tuy nhiên, vào cuối tháng 11, công ty đã thông báo về sự tan rã của nhóm[95]. CL và Dara vẫn ký hợp đồng với tư cách nghệ sĩ solo trong khi Bom không gia hạn hợp đồng.[96] Đĩa đơn cuối cùng mang tên "Goodbye" được phát hành vào tháng 1 năm 2017 như một lời tạm biệt dành cho người hâm mộ của nhóm;[5] lấy cảm hứng từ một bức thư CL viết cho Minzy sau khi cô rời nhóm.[97] Bài hát đã đứng đầu bảng xếp hạng Billboard World Digital Songs.[98]

2022: Tái hợp tại Coachella 2022

Vào ngày 17 tháng 4 năm 2022, 2NE1 bất ngờ xuất hiện và trình diễn ca khúc I Am the Best sau sân khấu của CL thuộc chuỗi sân khấu của công ty 88rising tại Coachella 2022[99]. Đây là sân khấu đầu tiên của 2NE1 có đầy đủ cả 4 thành viên sau 6 năm kể từ khi nhóm tan rã vào năm 2016.

In đậm là nhóm trưởng

Nghệ danh Tên khai sinh Ngày sinh Vai trò Nơi sinh Latinh Hangul Kana Latinh Hangul Hanja Kana Hán-Việt
Bom ボム Park Bom 박봄 朴春 パク・ボム Phác Xuân 24 tháng 3, 1984 (38 tuổi) Main Vocalist   Seoul, Hàn Quốc
Dara 다라 ダラ Park Sandara 박산다라 朴山達拉 パク・サンダラ Phác Sơn Đạt Lạp 12 tháng 11, 1984 (37 tuổi) Sub Vocalist, Sub Rapper, Visual   Busan, Hàn Quốc
CL 씨엘 シーエル Lee Chae-lin 이채린 李彩麟 イ・チェリン Lý Thái Lân 26 tháng 2, 1991 (31 tuổi) Main Rapper, Lead Vocalist, Lead Dancer, Face of the Group   Seoul, Hàn Quốc
Minzy 민지 ミンジ Gong Min-ji 공민지 孔旻智 コン・ミンジ Khổng Mẫn Trí 18 tháng 1, 1994 (28 tuổi) Main Dancer, Lead Vocalist, Lead Rapper, Maknae

Dòng thời gian hoạt động

2NE1 đã thu âm nhiều bài hát R&B với phong cách kết hợp các yếu tố của urban và dance-pop.[100] Trong mini album đầu tay 2NE1 (2009) của 2NE1, nhóm được nhận xét là có phong cách đặc biệt và cá tính. Trong khi "Lollipop" được phân loại là nhạc pop, đĩa đơn đầu tay của nhóm "Fire" chủ yếu chịu ảnh hưởng của hip hop và "I Don't Care" chịu ảnh hưởng của reggae.[101] Album trở lại To Anyone của nhóm được đánh dấu bằng sự chuyển hướng sang nhạc điện tử. "Go Away", đĩa đơn thành công nhất trong album, được xếp vào thể loại nhạc dance,[102] một số bài hát, bao gồm "It Hurts (Slow)", là R&B, một phong cách khác cũng đặc trưng cho mini album đầu tiên của nhóm.[103] Các đĩa đơn "Clap Your Hands", "Go Away" và "Can't Nobody" đã được ghi nhận nhờ những ấn tượng lâu dài của nhóm.[104]

2NE1 đã nhắc đến The Spice Girls và TLC là những nguồn cảm hứng âm nhạc.[105] Mỗi thành viên của nhóm đều được nhận xét là khác biệt về chất giọng, hình ảnh và phong cách thời trang;[106] Park Bom đã nhắc đến nữ ca sĩ người Mỹ Beyoncé và Mariah Carey là những nghệ sĩ có ảnh hưởng chính đến cô vì giọng hát khỏe và biểu diễn đầy nội lực. Cô đã liệt kê hip hop và R&B là thể loại âm nhạc yêu thích của mình.[107] Minzy nhắc đến ca sĩ Michael Jackson và Rihanna,[108] trong khi trưởng nhóm CL nhắc đến nhà sản xuất Teddy Park và nghệ sĩ giải trí người Mỹ Madonna và chọn Lauryn Hill là hình mẫu của cô.[109] Dara nhắc đến nữ ca sĩ kiêm diễn viên Uhm Jung-hwa là nguồn cảm hứng của cô và cô thần tượng Regine Velasquez, một ca sĩ nổi tiếng người Philippines. Dara cũng thích phong cách và âm nhạc của Britney Spears, nhắc đến nữ ca sĩ như là một hình mẫu của những bài hát mà cô thường hát khi lớn lên.[108]

Hình tượng

 

2NE1 tại MTV Daum Music Fest vào năm 2011.

Kể từ khi ra mắt với "Fire" vào năm 2009, 2NE1 đã được biết đến với phong cách của họ, với thần thái và khả năng biểu diễn trên sân khấu.[110] Sau khi phát hành đĩa đơn đầu tay, nhóm đã được biết đến với hình tượng là "hip hop" và là phiên bản nữ của Big Bang; tuy nhiên, "I Don't Care" đã thay đổi nhận thức này thành quan niệm của những người phụ nữ mạnh mẽ và nữ tính.[26] Sau khi phát hành video âm nhạc cho "It Hurts (Slow)", các thành viên đã được chú ý với trang phục màu đen, phong cách gothic,[111] kiểu tóc quái dị và tóc giả.[112] Zack Greenburg từ tạp chí kinh doanh Forbes của Hoa Kỳ đã mô tả 2NE1 là một nhóm nhạc pop đặc trưng bởi những bộ trang phục táo bạo, tươi sáng và to lớn, điệp khúc cuốn hút được nhấn nhá bằng những câu rap và một giọng nói "vênh váo trước mặt". Anh cũng coi nhóm là "lớn hơn Psy", ca sĩ của đĩa đơn ăn khách trên toàn thế giới "Gangnam Style".[113]

Nhóm đã thu hút sự chú ý với phong cách thời trang kỳ lạ, nổi bật và được coi là những người tạo xu hướng và biểu tượng phong cách trong nước.[114] Các thành viên trong nhóm đã sử dụng hình tượng của 2NE1 trong một số quảng cáo và chương trình quảng bá. Năm 2009, nhóm ký hợp đồng làm người mẫu với Fila cho một chiến dịch thương mại mới.[115] Vào đầu tháng 5 năm 2013, trang web "2NE1Loves.com" được tung ra cùng với những video bí ẩn của các thành viên.[116] Dự án sau đó được tiết lộ là 2NE1 Loves Shinsegae, một sự chứng thực cho một cửa hàng bách hóa và thương hiệu Chrome Hearts.[117] Các bài hát của nhóm đã được sử dụng trong nhiều quảng cáo; "Lollipop" cho điện thoại LG Cyon, "Follow Me" cho Corby Folder của Samsung,[18][33] và "Don't Stop the Music" cho Yamaha Fiore. "Go Away" được sử dụng làm bài hát chủ đề cho chương trình truyền hình Mezamashi TV của Nhật Bản.[41][47] Sau hậu quả của trận động đất và sóng thần Tōhoku năm 2011, 2NE1 đã sử dụng hình tượng của nhóm cho chiến dịch "Pray for Japan" của Naver để giúp gây quỹ cho các nạn nhân.[51]

Bài chi tiết: Danh sách đĩa nhạc của 2NE1

  • To Anyone (2010)
  • Collection (2012)
  • Crush (2014)

Bài chi tiết: Danh sách chuyến lưu diễn của 2NE1

  • The Party in Philippines (2011)
  • Nolza (2011)
  • New Evolution Global Tour (2012)
  • All or Nothing World Tour (2014)
  • YG Family Concert (2010)
  • YG Family 15th Anniversary Concert (2011–2012)
  • YG Family World Tour: Power (2014)
Năm Tên Ghi chú
2009 Style Khách mời
Girlfriends
Năm Tên Kênh
2009 2NE1TV Mnet
2010 2NE1TV Season 2
2011 2NE1TV Live: Worldwide Season 3
2014 America's Next Top Model Season 21 CBS
The Bachelor Season 18 ABC
The Tim Yap Show GMA Network

Bài chi tiết: Danh sách giải thưởng và đề cử của 2NE1

Khi 2NE1 ra mắt, bài hát "Fire" của nhóm và những buổi biểu diễn trực tiếp sau đó đã được gọi là độc đáo và ấn tượng. Nhóm đã giành được nhiều giải thưởng trên các chương trình âm nhạc hàng tuần, chẳng hạn như Inkigayo và Music Bank.[115] "Fire" cũng giành được cho nhóm giải Bài hát của tháng và Tân binh của tháng vào tháng 5 năm 2009.[118] "I Don't Care" đã mang lại cho nhóm thành công và sự công nhận tương tự, đồng thời giúp 2NE1 giành giải Bài hát của năm tại Mnet Asian Music Awards năm 2009.[119] Cùng năm, nhóm đã giành chiến thắng tại Cyworld Digital Music Awards với giải Nghệ sĩ bán chạy nhất, Nhóm nhạc tân binh xuất sắc nhất, giải Bonsang và Bài hát xuất sắc nhất cho "I Don't Care".[120] Nhóm cũng đã được đề cử tại Golden Disk Awards năm 2009 cho giải thưởng Phổ biến, Tân binh và Bonsang kỹ thuật số.[121] Tại Melon Music Awards, nhóm là nghệ sĩ mới duy nhất chiến thắng trong danh sách 10 nghệ sĩ Hàn Quốc hàng đầu và giải Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất.[122] Nhóm đã giành được giải thưởng cho Sân khấu của năm, Album của năm, Bài hát của năm tại GQ Awards năm 2009.

2NE1 đã giành được giải thưởng Nghệ sĩ của năm và Album của năm đầu tiên cho To Anyone tại Mnet Asian Music Awards năm 2010, đồng thời giành giải Nhóm nhạc nữ xuất sắc nhất và Video âm nhạc xuất sắc nhất cho "Can't Nobody".[123] Nhóm là nghệ sĩ đầu tiên giành được cả 3 giải thưởng Daesang tại Mnet Asian Music Awards.[124]

Vào ngày 29 tháng 11 năm 2011, 2NE1 đã giành được giải Nhóm nhạc có giọng ca xuất sắc nhất cho bài hát "Lonely" và lần thứ hai được trao giải Bài hát của năm cho "I Am the Best" tại Mnet Asian Music Awards năm 2011. Sau buổi lễ, 2NE1 đã được ghi nhận khi giành được nhiều giải thưởng Daesang nhất cho nghệ sĩ nữ trong lịch sử MAMA với 4 lần chiến thắng (2 giải Bài hát của năm, 1 giải Album của năm và 1 giải Nghệ sĩ của năm).[125]

  1. ^ a b Tamar Herman (ngày 26 tháng 11 năm 2016). “2NE1 Officially Disbands, YG Entertainment Renews Contracts With CL and Dara”. www.billboard.com. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2017.
  2. ^ Benjamin, Jeff (ngày 23 tháng 8 năm 2012). “2NE1 Invades America: Behind the Scenes With the K-Pop Phenomenon”. Billboard (bằng tiếng Anh).
  3. ^ “2NE1's 'Crush' Is First K-Pop Entry on Year-End World Albums Chart”. Billboard (bằng tiếng Anh).
  4. ^ a b Doo, Rumy (ngày 5 tháng 4 năm 2016). “Member Gong Minzy to leave 2NE1”. Kpop Herald. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  5. ^ a b “[공식입장] YG 측 "2NE1, 21일 '굿바이' 음원 발표"” (bằng tiếng Hàn). news.nate.com. ngày 5 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2017.
  6. ^ E&M, By Korea Times, KF and CJ (ngày 14 tháng 7 năm 2012). “2NE1 out to conquer the world”. ABS-CBN News (bằng tiếng Anh).
  7. ^ a b Herman, Tamar (ngày 12 tháng 7 năm 2017). “10 Best K-Pop Girl Groups of the Past Decade: Critic's Picks”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  8. ^ Liu, Marian (ngày 17 tháng 2 năm 2017). “K-pop's growing pains: Why Asia's biggest bands are splitting up”. CNN. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  9. ^ “2018 Winter Olympics in South Korea: A guide to all things K-pop | The Michigan Journal”. ngày 16 tháng 12 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2021.
  10. ^ Dutta, Soma (ngày 15 tháng 10 năm 2015). “16 Best Selling Girl Groups of All Time”. Insider Monkey. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2017.
  11. ^ “The Best Concerts of 2012, as Seen by Times Critics”. The New York Times. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2013. This was the year K-pop arrived — not in the form of "Gangnam Style," which was everywhere and yet completely evanescent — but in these arena shows, which were full of thousands of young, paying fans eager to see the girls of 2NE1 and the boys of BigBang, groups with zero American hits between them, but rabid American followings all the same.
  12. ^ a b Park Kyeong-eun (28 tháng 3 năm 2009). '여자빅뱅' 5월 초 데뷔, 新 여자아이돌 대 격돌 ["Female Big Bang" Debut in May, Female Idol Groups Crash (Together)]. Good Day Sports (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2016.
  13. ^ “여자 아이들그룹 '3차 대전' '애프터스쿨'·YG 3인조… '불꽃경쟁'” [Female Idol Groups, Three of Them in War: "After School" – "YG's Trio" ... Flower War]. Dong-A Ilbo (bằng tiếng Hàn). 6 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  14. ^ “여자 빅뱅, '4명은 노출 1명은 베일'…5인조로 4월 데뷔”. My Daily (bằng tiếng Hàn). 21 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009 – qua Nate.
  15. ^ “YG "원조 21에게 미안, '여자빅뱅' 이름 2NE1로 교체"” [YG "Sorry to original 21, 'Female Big Bang' name will be replaced with 2NE1"]. Asia Economy (bằng tiếng Hàn). 30 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009 – qua Nate.
  16. ^ “2NE1 Comes Out on Top at Music Bank”. The Korea Times (bằng tiếng Anh). 18 tháng 7 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  17. ^ “피에스타 린지 'YG 연습생 시절 2NE1 후보…내 길 아니였다 생각'” [Fiestar Linzy, "2NE1 candidate when I was a YG trainee… I thought it wasn't my way"]. Sports Donga. 25 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2015 – qua Naver.
  18. ^ a b Park Kyeong-eun (ngày 28 tháng 3 năm 2009). '여자빅뱅' 5월 초 데뷔, 新 여자아이돌 대 격돌 ["Female Big Bang" Debut in May, Female Idol Groups Crash (Together)]. Good Day Sports (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2016.
  19. ^ (tiếng Triều Tiên) Lee, Duna. '여자빅뱅' CF통해 모습 공개한다 ("Female Big Bang" First Shown Through Commercial). uKopia. ngày 26 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  20. ^ (tiếng Triều Tiên) Im, I-rang. 빅뱅-2NE1 '롤리팝', CM송 최초 가요프로 1위 될까? (Big Bang-2NE1 "Lollipop", First Commercial Song to Hit #1 on Network Music Shows?). MyDaily. ngày 17 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2009.
  21. ^ (tiếng Triều Tiên) 신예 여성그룹 2NE1, 첫 타이틀곡 `파이어` 발표 (New Female Group 2NE1, First Single "Fire" Released) Lưu trữ 2009-07-18 tại Wayback Machine. Korea Economic Daily. ngày 7 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2009.
  22. ^ (tiếng Triều Tiên) 양현석 "2NE1 데뷔곡은 레게풍 힙합곡" (Yang Hyeon-seok "2NE1's Debut Song is Reggae/Hip-Hop Song"). SBS News. ngày 30 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  23. ^ (tiếng Triều Tiên) 2NE1, 두 가지 버전의 `파이어` 뮤비 공개 (2NE1, 2 Version of "Fire" Video Released) Lưu trữ 2009-07-18 tại Wayback Machine. Hankyung. ngày 7 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  24. ^ (tiếng Triều Tiên) Park, Sae-yeon. 2NE1, 2009 최고신인 되나? ‘파이어’ M/V 1백만 클릭 ‘대박’ (2NE1, 2009 Best New Group? "Fire" Music Video Receives 1 Million Clicks, "Huge Success") Lưu trữ 2020-06-10 tại Wayback Machine. JoongAng Ilbo/Newsen. ngày 7 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  25. ^ (tiếng Triều Tiên) Kim, Heejung. 2NE1, 가요계에 돌풍 일으키나? (2NE1, a K-Pop Blast?) Lưu trữ 2009-08-05 tại Wayback Machine. Korea Economic Daily. ngày 1 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2009.
  26. ^ a b c (tiếng Triều Tiên) Kim, Hyeong-wu. 2NE1 아이돈케어 ‘힙합전사에서 귀여운 여인 깜짝 변신’ (2NE1's "I Don't Care" "Swift Change from Hip-Hop Warriors to Sweet Girls"). IS Plus/Newsen. ngày 1 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  27. ^ 2NE1 Comes Out on Top at Music Bank. The Korea Times. ngày 18 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  28. ^ "2009 Mnet Asian Music Awards". Awards and Winners. Truy cập 2014-12-14.
  29. ^ "2009 M.net Korean Music Festival Winners list" Lưu trữ 2013-01-27 tại Wayback Machine. MAMA. Truy cập 2014-12-14.
  30. ^ a b (tiếng Triều Tiên) Hong, Jeong-won. 2NE1 ‘아이돈케어’ 레게믹스 반응 ‘핫’..3일 음원공개 (2NE1's "I Don't Care" Reggae Remix Received Hotly, To Be Released Digitally on the 3rd) Lưu trữ 2009-09-13 tại Wayback Machine. Joins.com/Newsen. ngày 1 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  31. ^ “Comeback D-2, 2NE1's upcoming album hits monster pre-order numbers”. Allkpop.com. ngày 6 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2011.
  32. ^ Han, Sang-hee. 6th Asia Song Festival To Take Place Next Month Lưu trữ 2009-09-17 tại Wayback Machine. The Korea Times. ngày 11 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  33. ^ a b (tiếng Triều Tiên) Park, Se-yeon. 2NE1 오늘(9일) 게릴라 신곡 깜짝공개 ‘날 따라 해봐요’ (2NE1 Releases "Guerilla" Surprise Single "Please Follow Me" Today (the 9th)) Lưu trữ 2020-06-10 tại Wayback Machine. JoongAng Ilbo/Newsen. ngày 9 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010.
  34. ^ “Try to Follow Me” (bằng tiếng Hàn).
  35. ^ “Oriental whirl: American debut for 2NE1”. New Straits Times. ngày 19 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2010.
  36. ^ Herman, Tamar (ngày 26 tháng 11 năm 2016). “2NE1 Officially Disbands, YG Entertainment Renews Contracts With CL and Dara”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  37. ^ “[NEWS] 2NE1's "To Anyone" Album Pre-order Tops Hanteo Real-time Album Sales Chart!”. Daily K Pop News (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  38. ^ Gaon chart single rankings:
    • “Clap Your Hands" and "It Hurts (Slow)"” (bằng tiếng Hàn).
    • “Go Away" and "Can't Nobody” (bằng tiếng Hàn).
  39. ^ Park, Mi Yae (ngày 23 tháng 10 năm 2010). “양현석 "2NE1 후속곡..할로윈 공개" 호기심” [Yang Hyun Suk: "2NE1 follow up song on Halloween," sparks public curiosity]. SPN (bằng tiếng Hàn). eDaily. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
  40. ^ “2NE1 후속곡 아파” [2NE1 Follow Up Song It Hurts]. YG Life (bằng tiếng Hàn). YG Entertainment. ngày 30 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
  41. ^ a b “สี่สาวเปรี้ยวซ่า 2NE1 เตรียมส่งซิงเกิลพิเศษ "Don't Stop The Music" เพื่อแฟนไทยโดยเฉพาะพร้อมฟังก่อนใครในโลก!! 26 พฤศจิกายนนี้ ทุกคลื่นวิทยุทั่วประเทศ. กระแสตอบรับดี โอกาสเจอ 2NE1 ยิ่งมาก!!” [2NE1 releasing "Don't Stop the Music" as a special project for Thai fans, releasing November 26, good opportunity to meet 2NE1!]. Pingbook Entertainment (bằng tiếng Thái). Pingbook Network. ngày 25 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2010.
  42. ^ Hicap, Jonathan M. (ngày 29 tháng 11 năm 2010). “2NE1 wins MAMA Artist, Album of the Year”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2011.
  43. ^ Hicap, Jonathan M. (ngày 29 tháng 10 năm 2010). “Controversial Mnet Asian Music Awards bares nominees”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2011.
  44. ^ “MAMA "보아-女가수상, 씨엔블루-男신인상 등 추후 전달"”. tvdaily.mk.co.kr (bằng tiếng Hàn). ngày 29 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015.
  45. ^ “CAN'T NOBODY (English Version) レコチョクにて独占先行配信開始!” ["Can't Nobody (English Version)" exclusive ringtone release on Recochoku!]. 2NE1 Avex Official Website (bằng tiếng Nhật). Avex Group. ngày 19 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2011.
  46. ^ "最後の大物"2NE1、今春日本デビュー [2NE1 to debut in Japan this Spring]. Sanspo.com (bằng tiếng Nhật). Sankei Digital Inc. ngày 23 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2011.
  47. ^ a b “「GO AWAY」、フジテレビ系「めざにゅ〜」テーマソングに決定!” ["Go Away" selected to be Mezamashi TV's theme song!]. Avex Official Website – 2NE1 (bằng tiếng Nhật). Avex Group. ngày 31 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  48. ^ Gil, Hye-seong (ngày 16 tháng 3 năm 2011). “양현석 "2NE1, 日안정되면 언제든 활동OK..韓활동먼저"” [Yang Hyun Suk: "2NE1, waiting until Japanese situation is stable"]. Nate News (bằng tiếng Hàn). SK Communications. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  49. ^ アルバム 週間ランキング [Album Weekly Ranking]. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.
  50. ^ “テレビ朝日「MUSIC STATION」オンエア中止のお知らせ” [TV Asahi's Music Station appearance cancelled]. Avex Official Website – 2NE1 (bằng tiếng Nhật). Avex Group. ngày 11 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011.
  51. ^ a b “스타들의 "Pray for Japan" 릴레이가 시작되었습니다!” [Star's "Pray for Japan" relay has started!]. Naver (bằng tiếng Hàn). NHN Corp. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  52. ^ “2011 MAMA Winners”. Mnet Asian Music Awards. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2014.
  53. ^ Gaon chart single rankings:
    • “Lonely” (bằng tiếng Hàn).
    • “I Am the Best” (bằng tiếng Hàn).
    • “Hate You” (bằng tiếng Hàn).
    • “Ugly” (bằng tiếng Hàn).
  54. ^ “[인티포털] 가온 차트 역대 음반판매량 TOP100 (2010~2014)”. 인스티즈(instiz, 音思提资). ngày 13 tháng 4 năm 2018.
  55. ^ “SPIN's 20 Best Pop Albums of 2011”. Spin Magazine. ngày 22 tháng 12 năm 2011.
  56. ^ a b “オリコンランキング情報サービス「you大樹」” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2014.
  57. ^ “You chose the best, and now it's your time to celebrate”.
  58. ^ “World, Get Ready For 2NE1: MTV Iggy's Best New Band In The World!”.
  59. ^ “53rd Japan Record Award winners”. Tokyograph. ngày 20 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2012.
  60. ^ “AKB48 wins 53rd Japan Record Award”. Tokyograph. ngày 30 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2012.
  61. ^ a b 2ne1のアルバム売り上げランキング (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.
  62. ^ “Big Bang and 2NE1 added to Springroove lineup”. Asia Pacific Arts. ngày 31 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
  63. ^ “作品コード 704-3406-9 SHE'S SO(OUTTA CONTROL)” [M-Flo "She's So(Outta Control)" tie-up information]. JASRAC. 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  64. ^ “Japan Billboard Hot 100”. Billboard Japan. ngày 21 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  65. ^ Herald, The Korea (ngày 24 tháng 6 năm 2012). “2PM, 2NE1, Girls' Generation win at Japan MTV awards”. www.koreaherald.com (bằng tiếng Anh).
  66. ^ (tiếng Triều Tiên) [단독]2NE1, 1년만 전격컴백..6월 韓새앨범·7월 콘서트:: 네이버 뉴스. News.naver.com. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2012.
  67. ^ “Best Band Style Of 2012”. MTV. ngày 7 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2013.
  68. ^ “Will.i.am & 2NE1's 'Take The World On' English Collab Revealed”. Billboard. ngày 14 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  69. ^ “will.i.am and 2NE1 Take the World On with Intel Ultrabook Project”. Mwave. ngày 19 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2013.
  70. ^ Yi, David (ngày 21 tháng 3 năm 2013). “Meet Jeremy Scott's Muse: K-Pop Star CL”. Elle. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  71. ^ Benjamin, Jeff (ngày 16 tháng 4 năm 2013). “Will.i.am and 2NE1 'Gettin' Dumb': Listen to the K-Pop Collaboration”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  72. ^ Gaon chart single rankings:
    • “Falling in Love” (bằng tiếng Hàn).
    • “Do You Love Me” (bằng tiếng Hàn).
    • “Missing You” (bằng tiếng Hàn).
  73. ^ “An Interview with K-Pop Favorites 2NE1 and Their New Videos for "Happy" and "Come Back Home"”. www.vice.com (bằng tiếng Anh).
  74. ^ “2NE1 to Appear on the Final Episode of "America's Next Top Model"”. Yg Life. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2014.
  75. ^ Benjamin, Jeff (ngày 26 tháng 3 năm 2014). “'America's Next Top Model' Nabs K-Pop Groups 2NE1 and BTOB for Upcoming Season”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2014.
  76. ^ “NEWS ABOUT '2NE1'”. YG-Life. ngày 13 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2014.
  77. ^ “NEWS ABOUT '2NE1' : PART 2”. YG Life. YG Entertainment. ngày 19 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  78. ^ “Come Back Home" and "Gotta Be You” (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2015.
  79. ^ “2NE1 Sets New U.S. Record for Highest-Charting, Best-Selling K-Pop Album With 'Crush'”. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  80. ^ “2NE1 – 2014 WORLD TOUR”. YG Life. ngày 26 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  81. ^ “DARA on '2NE1's World Tour Preparation' #1] A very serious videoconference”. YG Life. YG Entertainment. ngày 15 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  82. ^ “2nd World Tour Title: 2NE1 AON (ALL OR NOTHING)”. YG Life. ngày 15 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  83. ^ “MTV IGGY”. ngày 18 tháng 12 năm 2014.
  84. ^ “40 Best Albums of 2014”. Fuse. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  85. ^ Benjamin, Jeff; Oak, Jessica (ngày 11 tháng 12 năm 2014). “The 10 Best K-Pop Albums of 2014”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  86. ^ “World Albums Artists - Year-End 2014”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  87. ^ Benjamin, Jeff (ngày 22 tháng 12 năm 2014). “2NE1's 'Crush' Is First K-Pop Entry on Year-End World Albums Chart”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  88. ^ Yg United (ngày 5 tháng 10 năm 2015). “2NE1's Minzy Successfully Opens Her 'Millennium Dance Academy'”. YG UNITED. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  89. ^ “[2015 MAMA] 2NE1 Performs as a Group for the First Time in Two Years”.
  90. ^ Nunez, Jatnna. “Beyoncé, 2NE1, Madonna & More: Amazing Performance of 2015”. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  91. ^ “Tumblr 2015: Year In Review”. Tumblr. Tumblr. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  92. ^ Yi, Yoonjung. “Chinese Elect the Top 10 Most Anticipated K-Stars of 2016”. International BNT News. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
  93. ^ Yoon Seong-yeol (ngày 5 tháng 4 năm 2016). “YG "2NE1 공민지 탈퇴..팀 3인조 체재 여름 신곡"(전문)”. Star News (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  94. ^ '2NE1'에 대한 공식 입장”. YG Entertainment. ngày 5 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  95. ^ VTV, BAO DIEN TU (25 tháng 11 năm 2016). “SỐC: 2NE1 CHÍNH THỨC tan rã!”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2022.
  96. ^ “YG "2NE1, 7년만 공식 해체…박봄 재계약 NO"(공식입장 전문)”. Naver (bằng tiếng Hàn). ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2017.
  97. ^ “2NE1 '안녕', 공민지 생각하면서 썼다…'고별송' 뒷이야기” (bằng tiếng Hàn). YG Entertainment. ngày 21 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2017.
  98. ^ “World Digital Song Sales - ngày 11 tháng 2 năm 2017”. Billboard Chart. ngày 31 tháng 1 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2017.
  99. ^ “Nhóm nhạc 2NE1 bất ngờ tái hợp trên sân khấu Coachella sau 6 năm”. VOV.VN. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2022.
  100. ^ “안녕 (Goodbye)”.
  101. ^ Moon, Wan-sik (ngày 1 tháng 7 năm 2009). “2NE1 첫 미니 타이틀 'I don't care' 1일 전격 공개” [2NE1 first mini-album titled I Don't Care, takes public by storm]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  102. ^ Park, Yeong-ung (ngày 10 tháng 9 năm 2010). “'컴백' 2NE1, 댄스 타이틀곡 '고 어웨이' 뮤비 공개” [2NE1 comeback, dance title track "Go Away" music video released]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  103. ^ Mun, Wan-sik (ngày 31 tháng 10 năm 2010). “'인기가요' 2NE1, 후속곡 '아파' 첫선 '4人4色'” [2NE1 on Inkigayo, "It Hurts" song debut: 4 people, 4 colors]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  104. ^ Park, Yeong-ung (ngày 3 tháng 10 năm 2010). “2NE1, 25일만에 1위 8번..'가요계평정' 의미는?” [2NE1, 25 days after being number one eight times, what's this mean for the music industry?]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  105. ^ Garibaldi, Christina (17 tháng 10 năm 2012). “2NE1 Bringing K-Pop 'Girl Power' Stateside With will.i.am-Assisted Debut”. MTV. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  106. ^ Sablan, Niño Mark (24 tháng 7 năm 2009). “Crazy for K-Pop”. Philippine Daily Inquirer. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2010.
  107. ^ Park, Mi-ae (ngày 22 tháng 5 năm 2009). 박봄, "가수 꿈 위해 유학도 포기했어요~" [Park Bom, "For my singing dream, I stopped my overseas studying~"]. eDaily SPN (bằng tiếng Hàn). eDaily. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2010.
  108. ^ a b Park Yeong-ung (13 tháng 10 năm 2010). “"박봄은 비욘세?"..2NE1이 밝힌 롤모델은?” ["Park Bom and Beyoncé?" Who are 2NE1's role models?]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  109. ^ Park, Mi-ae (ngày 22 tháng 5 năm 2009). “CL, "데모 테이프 들고 무작정 YG 문 노크"” [CL, "knocked on the YG Entertainment door to hand in my demo tape"]. eDaily SPN (bằng tiếng Hàn). eDaily. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2010.[liên kết hỏng]
  110. ^ “Rating the Latest Idol Group Comebacks”. KBS Global. KBS. ngày 15 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2010.
  111. ^ Park, Yeong-ung (1 tháng 11 năm 2010). “산다라박의 눈물..2NE1 '아파' 뮤비 공개” [Sandara Park's tears; 2NE1's "It Hurts" music video released]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  112. ^ Song, Yeong-won (ngày 13 tháng 11 năm 2010). “★처럼 이미지 변신하고 싶다면? '패션가발'을 활용해라!” [Do you want to have an image transformation? Use a wig!]. Nate News (bằng tiếng Hàn). SK Communications. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  113. ^ Greenburg, Zack (16 tháng 10 năm 2012). “Bigger Than Psy: 2NE1 And The Future Of K-Pop”. Forbes. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013. Known by many as the Korean version of the Spice Girls, the group has sold 27 million digital downloads to date, including the single "I Am The Best," which moved 4.5 million units
  114. ^ Kim, Ruth (2 tháng 8 năm 2017). “The Best Beauty Looks of 2NE1 & How You Can Recreate Them”. Beautytap.
  115. ^ a b (tiếng Triều Tiên) Lee, Na-Young. 2NE1, 이번에는 광고계 접수한다! '억대모델 발탁' (2NE1, This time they're taking over the advertising industry) Lưu trữ tháng 3 4, 2016 tại Wayback Machine. Today Korea. June 16, 2009. Truy cập June 16, 2009.
  116. ^ Benjamin, Jeff (8 tháng 5 năm 2013). “YG Entertainment Teases 'Who's Next?' as Mysterious '2NE1 Loves' Videos Surface”. billboard.
  117. ^ “2NE1, 하이주얼리 브랜드 '크롬하츠'와 콜라보레이션” (bằng tiếng Hàn). YG Family. 20 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2013.
  118. ^ Lee, Hye-rin (10 tháng 6 năm 2009). “2NE1, 디지털 뮤직어워드 3관왕 기염①” [2NE1, 3-time digital music award winners]. Asiae (bằng tiếng Hàn). Asiae. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2009.
  119. ^ “2009 Mnet Asian Music Awards”. Mnet Asian Music Awards (bằng tiếng Hàn). Mnet Media. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2010.
  120. ^ Hicap, Jonathan M. (2 tháng 3 năm 2010). “2NE1 wins big at Cyworld Digital Music Awards”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Bản gốc lưu trữ 6 Tháng Ba năm 2010. Truy cập 24 Tháng tư năm 2010.
  121. ^ “2009 Golden Disk Award nominees revealed”. AllKpop. 2 tháng 11 năm 2009.
  122. ^ “2009 Melon Music Awards”. Melon (bằng tiếng Hàn). Loen Entertainment. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010.
  123. ^ Hicap, Jonathan M. (ngày 29 tháng 11 năm 2010). “2NE1 wins MAMA artist, Album of the Year”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2010.
  124. ^ “2NE1 Wins Major Awards at the 2010 Mnet Asian Music Awards!”. myx.abs-cbn.com (bằng tiếng Anh). 2 tháng 12 năm 2010.
  125. ^ “K-Pop's Hottest Girl Group Has Officially Broken Up”. NextShark. ngày 29 tháng 11 năm 2016.

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về 2NE1.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=2NE1&oldid=69001866”

Video liên quan

Chủ đề